Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Luan van nghiên cứu đặc điểm sinh thái và phân bố của thực vật hạt trần ở khu bảo tồn rừng đặc dụng côpia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.27 MB, 78 trang )

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Các loài cây thuộc ngành Hạt trần (Gymnospermae) là tài nguyên quan
trọng của thế giới thực vật. Số lượng 603 loài hạt trần (Farjon A, 2001)[22] (so
với 250000 loài cây thuộc ngành Hạt kín) rõ ràng không phải là lớn, song
chúng đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với môi trường và kinh tế - xã hội ở
nhiều nước trên thế giới. Ở nhiều nước Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Á cũng như
Ôxtrâylia và Newzeland các loài hạt trần tự nhiên và gây trồng đóng vai trò rất
quan trọng về cảnh quan cũng như kinh tế.
Tại Việt Nam, với tổng số khoảng 50 loài cây thuộc ngành Hạt trần
trong đó có khoảng 33 loài bản địa. Chúng thường phân bố trên các vùng có độ
cao lớn, như các loài thông ba lá, hồng tùng, bách xanh, pơ mu ở Đà Lạt (độ
cao 1500m so với mực nước biển ); hồng tùng, bạch tùng, thông tre ở núi Chúa
(Khánh Hoà), Bà Nà (Đà Nẵng), Bạch Mã (Thừa Thiên Huế) và một số các
loài lá kim khác ở Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Cạn, Sơn La, Hoà Bình,
…Số ít loài khác được trồng tại các đai thấp hơn như thông đuôi ngựa, thông
nhựa. Với số lượng loài không nhiều lại chỉ phân bố tại các khu vực nhất định.
Các loài cây thuộc Hạt trần có rất nhiều giá trị khác nhau phục vụ cho cuộc sống
con người như: các giá trị về sinh thái, kinh tế, thương mại, bảo tồn cũng như văn
hoá xã hội sâu sắc. Chúng là một nguồn cung cấp một lượng lớn gỗ, củi phục vụ
cho nhu cầu của con người. Một số loài có giá trị sử dụng rất cao trong xây dựng,
xuất nhập khẩu như pơ mu, hoàng đàn…Ngoài ra một số loài trong ngành Hạt
trần được coi là các hoá thạch sống của các loài thực vật cổ trên trái đất (thuỷ
tùng, thông nước…), là các loài đặc hữu của Việt Nam (thông Đà Lạt, vân sam
Phan Si Pan… ). Mặt khác các loài thuộc ngành Hạt trần còn là biểu trưng của tín
ngưỡng văn hoá, xã hội của con người. Các loài tùng, bách được trồng trong các
đền chùa biểu tượng cho sự trường tồn và thần diệu phản ánh sự thiêng liêng cao
quý trong các nền văn hoá.
1



Khu bảo tồn rừng đặc dụng Copia là một trong những vùng phân bố
chính của một số loài thuộc ngành Hạt trần ở nước ta. Tại đây có nhiều loài Hạt
trần như pơ mu, thông tre, thông đỏ… Như vậy với sự đa dạng của các loài
thực vật thuộc Hạt trần, là nơi còn sót lại của một số loài đặc hữu quí hiếm
được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam cũng như Sách Đỏ thế giới. Trong thời gian
gần đây với nhiều các nguyên nhân khác nhau mà các nguồn tài nguyên thực
vật tại đây bị khai thác rất mạnh trong đó có thực vật Hạt trần, điều này đã làm
suy giảm nghiêm trọng số lượng, cũng như nơi sống của các loài. Vì vậy vấn
đề nghiên cứu bảo tồn thực vật Hạt trần ở đây là rất cần thiết và mang ý nghĩa
khoa học sâu sắc cũng như ý nghĩa thực tiễn lớn lao. Đó cũng là lý do tôi chọn
đề tài nghiên cứu là:
"Nghiên cứu đặc điểm sinh thái và phân bố của thực vật hạt trần ở khu bảo
tồn rừng đặc dụng Côpia, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La"
Chúng tôi hi vọng với kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp một phần nhỏ
của mình để làm giàu thêm tư liệu nghiên cứu, cùng một số đề xuất để giúp cho
việc nắm rõ tình hình phân bố các loài để có biện pháp quản lý, bảo vệ tốt nguồn
tài nguyên thực vật Hạt trần tại Khu bảo tồn rừng đặc dụng Côpia.

2


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1.1. Nghiên cứu về thực vật Hạt trần trên thế giới
Thế giới thực vật thật phong phú và đa dạng với khoảng 250.000 loài
thực vật bậc cao, trong đó thực vật ngành Hạt trần chỉ chiếm có trên 600 loài,
một con số đáng khiêm tốn (Nguyễn Tiến Hiệp, Phan Kế Lộc và các cộng sự,
2005)[9], (Nguyễn Nghĩa Thìn, 2004)[18].
Robert Brown (1773 - 1858) là tác giả đầu tiên nghiên cứu và phân chia
thực vật có hạt thành 2 ngành Thực vật Hạt trần và Hạt kín (Nguyễn Tiến Hiệp,
Phan Kế Lộc và các cộng sự, 2005)[9].

A.L.Takhtajan đã hoàn thiện dần hệ thống phân loại thực vật ngành hạt
kín và hạt trần qua các tài liệu đã công bố từ 1950, 1954, 1966, 1980, 1983,
1987, 1997. Ông phân ngành hạt trần thành 6 lớp và các phân lớp, 10 họ. Hệ
thống phân loại của ông thể hiện việc vận dụng một cách tổng hợp các tài liệu
thuộc các lĩnh vực chuyên sâu về hình thái, giải phẫu, phấn hoa, hóa sinh, cổ
sinh và tế bào thực vật... phản ảnh tương đối khách quan quá trình phát triển
tiến hóa của thực vật nên đã và đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới
(Nguyễn Tiến Hiệp, Phan Kế Lộc và các cộng sự, 2005)[9], (Lê Mộng Chân,
Lê Thi Huyên, 2000)[4], (A.L.Takhtajan, 2009)[20].
Ngoài ra còn có Kubitzkii (1990) đã công bố hệ thống phân loại ngành
Hạt trần mới, hệ thống phân loại này chia ngành Hạt trần thành 4 lớp gồm 7 họ
(Nguyễn Nghĩa Thìn, 2004)[18], (Kubitzkii and ctv, 1990)[24].
Cây thuộc ngành Hạt trần là những loài cây có nguồn gốc cổ xưa nhất,
khoảng trên 300 triệu năm. Các vùng rừng cây ngành Hạt trần tự nhiên nổi
tiếng thường được nhắc tới ở Châu Âu với các loài vân sam (Picea), thông
(Pinus); Bắc Mỹ với các loài thông (Pinus), cù tùng (Sequoia,
Sequoiadendron) và thiết sam (Pseudotsuga); Đông Á như Trung Quốc và
Nhật Bản với các loài tùng bách (Cupressus, Juniperus) và liễu sam
(Cryptomeria). Các loài cây thuộc ngành Hạt trần đã đóng góp một phần không
3


nhỏ vào nền kinh tế của một số nước như Thụy Điển, Na Uy, Phần Lan, New
Zealand... Lịch sử lâu dài của Trung Quốc cũng đã ghi lại nguồn gốc các cây
ngành Hạt trần cổ thụ hiện còn tồn tại đến ngày nay mà có thể dựa vào nó để
đoán tuổi của chúng. Chẳng hạn trên núi Thái Sơn (Sơn Đông) có cây tùng ngũ
đại phu do Tần Thủy Hoàng phong tặng tên; cây bách Hán tướng quân ở thư
viện Tùng Dương (Hà Nam), cây bạch quả đời Hán trên núi Thanh Thành (Tứ
Xuyên); cây bách nước Liêu (còn gọi là Liêu bách) trong công viên Trung Sơn
(Bắc Kinh)... Đồng thời, nhiều nơi khác trên thế giới cũng có một số cây cổ thụ

nổi tiếng như cây cù tùng (Sequoia) có tên “cụ già thế giới” ở California (Mỹ)
đã trên 3.000 năm tuổi, cây tuyết tùng (Cedrus deodata) trên đảo Ryukyu (Nhật
Bản) qua máy đo đã 7.200 năm tuổi. Tại Li Băng hiện còn một đám rừng gồm
400 cây bách Libăng (Cedrus) nổi tiếng từ thời tiền sử, trong đó có 13 cây cổ
địa có hàng nghìn năm tuổi (Nguyễn Đức Tố Lưu, Philip Ian Thomas, 2004)
[15].
Cây trong ngành Hạt trần là một trong những nhóm cây quan trọng nhất trên
thế giới. Các khu rừng cây ngành Hạt trần rộng lớn của Bắc bán cầu là nơi lọc khí
cacbon, giúp làm điều hòa khí hậu thế giới. Rất nhiều dãy núi trên thế giới gồm
rừng các loài cây ngành Hạt trần chiếm ưu thế đóng một vai trò quyết định đối với
việc điều hòa nước cho các hệ thống sông ngòi chính. Những trận lụt lội khủng
khiếp gần đây ở các vùng thấp như ở các nước Trung Quốc và Ấn Độ có quan hệ
trực tiếp tới việc khai thác quá mức rừng cây ngành Hạt trần phòng hộ đầu nguồn.
Rất nhiều loài thực vật, động vật và nấm phụ thuộc vào cây ngành Hạt trần để tồn
tại, do đó không có cây ngành Hạt trần thì những loài này sẽ bị tuyệt chủng. Ngành
Hạt trần cung cấp một phần chính gỗ cho xây dựng, ván ép, bột và các sản phẩm
giấy của thế giới. Nhiều loài còn cho gỗ quí với những công dụng đặc biệt như
dùng đóng tàu hay làm đồ mỹ nghệ. Phần lớn cây thuộc ngành Hạt trần có gỗ dễ gia
công, bền. Ở Chi Lê, cây Fitzroya cupressoides là một loài cây ngành Hạt trần rừng
ôn đới có chiều cao đạt tới trên 50m và tuổi trên 3.600 năm. Thân cây này được tìm
4


thấy từ các đầm lầy nơi chúng đã bị chôn vùi từ trên 5.000 năm trước nhưng gỗ vẫn
có giá trị sử dụng tốt. Loài cây được dùng trồng rừng nhiều nhất trên thế giới là
Thông Pinus radiata, là nguyên liệu cơ bản cho công nghiệp rừng của châu Úc,
Nam Mỹ và Nam Phi, với tổng diện tích lớn hơn cả diện tích Việt Nam. Tại sinh
cảnh nguyên sản của cây ở California loài chỉ có ở 5 đám nhỏ còn sót lại và đang bị
đe dọa nghiêm trọng. Cây thuộc ngành Hạt trần còn là nguồn cung cấp nhựa quan
trọng trên toàn thế giới. Hạt của nhiều loài còn là nguồn thức ăn quan trọng cho dân

địa phương ở các vùng xa như ở Chi Lê, Mexico, Úc và Trung Quốc. Phần lớn các
cây thuộc ngành Hạt trần có chứa các hoạt chất sinh hoá mà đang ngày càng được
sử dụng làm thuốc chữa các căn bệnh thế kỷ như ung thư. Cây thuộc ngành Hạt
trần còn có vai trò quan trọng trong các nền văn hoá cả ở phương Đông và phương
Tây. Các dân tộc Xen-tơ và Bắc Âu ở châu Âu thờ cây thông đỏ Taxus baccata như
một biểu tượng của cuộc sống vĩnh hằng. Người Anh Điêng ở Pehuenche, Chi Lê
tin rằng các cây đực và cây cái loài bách tán (Araucaria araucana) mang các linh
hồn tạo nên thế giới của họ (Nguyễn Tiến Hiệp, Phan Kế Lộc và các cộng sự,
2005)[9], (Nguyễn Đức Tố Lưu, Philip Ian Thomas, 2004)[15].
Hiện tại có trên 200 loài cây thuộc ngành Hạt trần được coi là bị đe dọa
tuyệt chủng ở mức toàn thế giới (Nguyễn Đức Tố Lưu, Philip Ian Thomas,
2004)[15]. Rất nhiều loài khác bị đe dọa trong một phần phân bố tự nhiên của
loài. Những đe dọa hay gặp nhất là việc khai thác quá mức lấy gỗ hay các sản
phẩm khác, phá rừng làm bãi chăn thả gia súc, trồng trọt và làm nơi sinh sống
cho con người cùng với sự gia tăng tần suất của các đám cháy rừng. Tầm quan
trọng đối với thế giới của cây thuộc ngành Hạt trần làm cho việc bảo tồn chúng
trở nên có ý nghĩa đặc biệt. Sự phức tạp trong các yếu tố đe dọa gặp phải đòi hỏi
cần có một loạt các chiến lược được thực hành để bảo tồn và sử dụng bền vững
các loài cây này. Bảo tồn tại chỗ thông qua các cơ chế như hình thành các Vườn
quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên là một giải pháp tốt, có hiệu quả đối với
những khu vực lớn còn rừng nguyên sinh. Công tác bảo tồn đòi hỏi sự cộng tác
5


của mọi người từ các ngành nghề và tổ chức khác nhau. Những người làm công
tác này đều phụ thuộc vào việc định danh chính xác loài cây mục tiêu hay các
sinh vật khác có liên quan và vào các thông tin cập nhật ở các mức độ địa
phương, khu vực, quốc gia và quốc tế.
1.2. Nghiên cứu tại Việt Nam
Hiện tại có khoảng 29 loài cây thuộc ngành Hạt trần ở Việt Nam. Mặc

dù chỉ dưới 5% số loài cây trong ngành Hạt trần đã biết trên thế giới được tìm
thấy ở Việt Nam nhưng ngành Hạt trần Việt Nam lại chiếm đến 27% số các chi
và 5 trong số 8 họ đã biết (Nguyễn Đức Tố Lưu, Philip Ian Thomas, 2004)[15]
(xem bảng 1.1).
Bảng 1.1. Cây thuộc ngành Hạt trần ở Việt Nam so với thế giới
Số các chi /
Họ
Bách tán (Araucariaceae)
Đỉnh tùng
(Cephalotaxaceae)
Hoàng đàn (Cupressaceae)
Phyllocladaceaae
Thông (Pinaceae)
Kim giao (Podocarpaceae)
Sciadopityaceae
Thông đỏ (Taxaceae)
Tổng số

Số chi ở

Số loài / loài đặc

Việt Nam

hữu ở Việt Nam

0

0/0


1/5-11

1

1/0

30/135
¼
11/225
18/190
1/1
5/23
70/635

7
0
5
4
0
2
19

7/2
0/0
10/1-2*
6/1-3**
0/0
6/2
29-30/5


loài trên thế
giới
3/ 41

6


* một loài hạt trần mới vừa mới phát hiện ở Việt Nam và có thể là loài
đặc hữu;
** số lượng các loài thông tre ở miền Bắc Việt Nam chưa được xác định
chắc chắn – có thể có 2-3 loài chưa được mô tả và những loài này có thể là
loài đặc hữu.
Tất cả các loài cây ngành Hạt trần ở Việt Nam đều có ý nghĩa lớn. Hai chi
đơn loài Bách vàng (Xanthocyparis) và Thuỷ tùng (Glyptostrobus) cũng là các chi
đặc hữu của Việt Nam. Chi Bách vàng mới chỉ được phát hiện vào năm 1999 trong
khi chi Thuỷ tùng chỉ còn 2 quần thể nhỏ với tổng số cây ít hơn 250 cây thuộc tỉnh
Đắk Lắk. Loài này là đại diện cuối cùng cho một dòng giống các loài cây cổ. Hoá
thạch của những cây này đã được tìm thấy ở những nơi cách rất xa như ở nước
Anh. Năm 2001 một quần thể nhỏ gồm hơn 100 cây của chi đơn loài Bách tán Đài
Loan (Taiwania cryptomerioides) được tìm thấy ở tỉnh Lào Cai. Trước đây chi này
chỉ được biết có ở Đài Loan, Vân Nam và Đông Bắc Myanma. Những quần thể lớn
loài sa mộc dầu Cunninghamia konishii, một chi cổ khác chỉ gồm 2 loài, vừa được
tìm thấy ở Nghệ An và các vùng phụ cận của Lào. Bốn trong số 6 loài dẻ tùng
(Amentotaxus) được biết (họ Thông đỏ - Taxaceae) đã thấy có ở Việt Nam. Hai loài
trong số đó là cây đặc hữu (dẻ tùng pô lan A. poilanei và dẻ tùng sọc nâu A.
hatuyenensis) và những quần thể chính của hai loài khác cũng nằm ở Việt Nam (dẻ
tùng sọc trắng A. argotaenia và dẻ tùng Vân Nam A. yunnanensis). Thậm chí
những loài cây không phải là đặc hữu của Việt Nam nhưng vẫn có ý nghĩa lớn.
Thông ba lá (Pinus kesiya) gặp từ Đông Bắc Ấn Độ qua Philippin nhưng các xuất
xứ ở Việt Nam lại cho thấy có năng suất cao nhất trong các khảo nghiệm ở châu Phi

và châu Úc. Những thực tế này thể hiện tầm quan trọng của các loài thuộc ngành
Hạt trần Việt Nam đối với thế giới (Trần Ngọc Hải, Phạm Thanh Hà, 2006)[7],
(Nguyễn Tiến Hiệp, Phan Kế Lộc và các cộng sự, 2005)[9], (Nguyễn Đức Tố
Lưu, Philip Ian Thomas, 2004)[15].

7


Tầm quan trọng của ngành Hạt trần Việt Nam được xác định bởi tính ổn định tương
đối về địa chất và khí hậu của Việt Nam trong vòng hàng triệu năm, kết hợp với địa
mạo đa dạng hiện tại của đất nước và nhiều kiểu dạng sinh cảnh kèm theo. Nhìn
chung, khí hậu trái đất đã trở nên khô và lạnh hơn, nhiều loài cây trong ngành Hạt
trần vốn thích nghi với điều kiện ấm và ẩm bị tuyệt chủng. Tuy vậy, một số loài đã
di cư được đến các vùng thích hợp hơn như ở Tây Nam Trung Quốc và miền Bắc
Việt Nam. Sa mộc (Cunninghamia), bách tán Đài Loan (Taiwania) và dẻ tùng
(Amentotaxus) là những ví dụ của những chi trước đây có phân bố rất rộng trên thế
giới. Phạm vi vĩ độ của Việt Nam (8 o - 24o) gồm các nơi từ gần xích đạo cho đến
vùng cận nhiệt đới cùng với phạm vi độ cao của các hệ núi chính có nghĩa là các
sinh cảnh thích hợp vẫn còn tồn tại và các loài như vậy có khả năng sống sót. Các
thay đổi khí hậu trên Bắc bán cầu có ảnh hưởng đến các nhóm cây ngành Hạt trần
rất khác nhau. Một số bị tuyệt chủng hay phải di cư tới các vùng mà còn có khí hậu
thích hợp, trong khi đó một số loài khác tiến hoá và đã có thể sống được ở những
sinh cảnh đã thay đổi trong điều kiện khí hậu mới. Các loài thông ở Việt Nam là ví
dụ cho cả hai hình thức này. Loài thông lá dẹt (Pinus krempfii) được coi là một loài
cây cổ tàn dư còn lại mà không có loài nào có quan hệ gần gũi còn sống sót, trong
khi đó thông ba lá (P. kesiya) là loài mới tiến hóa gần đây. Sự gần gũi của Việt Nam
về địa lý với vùng nhiệt đới còn có nghĩa là những loài phát tán hạt nhờ chim chóc
của một số họ trong ngành Hạt trần ở Nam bán cầu như họ Kim giao
(Podocarpaceae) đã có khả năng di cư lên phía Bắc. Hệ thực vật ngành Hạt trần
Việt Nam do đó chứa đựng một sự pha trộn kỳ lạ giữa các loài cây thuộc ngành

Hạt trần cả Bắc và Nam bán cầu.

8


Ngành Hạt trần Việt Nam gặp ở 4 vùng chính sau:
Hình 1.1: Các vùng phân bố
2

chính của Hạt trần ở Việt
1

Nam
1: Đông Bắc
2: Hoàng Liên Sơn

3

3: Tây Bắc và Bắc Trung bộ

4

4: Tây Nguyên

(Nguồn: Cây lá kim Việt Nam)( Nguyễn Đức Tố Lưu, Philip Ian Thomas,
2004)[15]
Hầu như tất cả các loài thông tự nhiên của Việt Nam đều bị đe doạ ở
những mức độ nhất định. Phần lớn các loài này cho gỗ quí rất thích hợp cho sử
dụng làm đồ mỹ nghệ (pơ mu Fokienia, bách vàng Xanthocyparis) hay cho xây
dựng (phần lớn các loài thông Pinus, du sam Keteleeria, pơ mu Fokienia, sa

mộc dầu Cunninghamia), trong khi đó các loài khác lại có giá trị làm hương
liệu quí (hoàng đàn Cupressus, pơ mu Fokienia, bách xanh Calocedrus) hoặc
được dùng làm thuốc cả trong y học truyền thống (kim giao Nageia) hay y học
hiện đại (thông đỏ Taxus). Một số loài chỉ được sử dụng tại địa phương nhưng
thường đây là những loài có phân bố hạn chế (ví dụ như bách vàng
Xanthocyparis). Đe dọa do khai thác trực tiếp còn kèm theo việc biến đổi
những diện tích rừng lớn thành đất nông nghiệp, đặc biệt ở các vùng núi có độ
cao khoảng 800 đến 1.500m nơi mà các loài cây trong ngành Hạt trần như du
sam (Keteleeria) và bách xanh (Calocedrus) thường sinh sống. Việc chia cắt
rời rạc các cánh rừng là một vấn đề có liên quan khác. Các đám rừng nhỏ còn
9


sót lại dễ bị cháy hơn và dễ bị ảnh hưởng do tính di truyền suy giảm, các loài
có các quần thể tự nhiên nhỏ đặc biệt rất nhạy cảm với những đe dọa này.
Những loài có các quần thể phân bố rộng (ví dụ như phần lớn các loài thuộc họ
Kim giao (Podocarpaceae), trong một số trường hợp còn phân bố cả ở nước
khác (như du sam Keteleeria), có thể tạo ra cảm tưởng rằng loài ít bị đe dọa
hơn so với thực tế vì việc khai thác quá mức và nạn phá rừng là những vấn đề
của tất cả các nước ở Đông Nam Á (Triệu Văn Hùng, 2007)[10].
Loài cây trong ngành Hạt trần bị đe dọa nhất ở Việt Nam có lẽ là hoàng
đàn (Cupressus funebris) ở vùng Đông Bắc. Hiện tại trong vòng 5 năm qua
mới chỉ tìm thấy được 1 cây còn lại trong tự nhiên. Các cây khác đều đã bị chặt
lấy gỗ và bị đào rễ làm hương. Thuỷ tùng (Glyptostrobus pensilis) là loài chỉ
được biết ở hai khu bảo tồn nhỏ của tỉnh Đắk Lắk. Phần lớn những cây còn lại
(số này ít hơn 250 cây) đều đã bị ảnh hưởng của lửa rừng. Hầu như toàn bộ
sinh cảnh của loài trên đầm lầy đã bị chuyển thành vườn cà phê và không thấy
có cây tái sinh, hai loài này đang đứng trước sự tuyệt chủng. Tình trạng của
một loạt các loài khác (bách tán Đài Loan Taiwania cryptomerioides và bách
vàng Xanthocyparis vietnamensis) có thể sẽ trở nên ở mức tương tự nếu không có

những hành động bảo tồn toàn diện được tiến hành.
Trong vòng 15 năm qua có nhiều vườn quốc gia và khu bảo tồn đã được
thiết lập ở Việt Nam. Một số nơi này có các quần thể cây trong ngành Hạt trần
bị đe dọa. Bên ngoài các khu vực này các qui định pháp luật được ban hành
nhằm ngăn chặn việc khai thác trái phép. Mặc dù vậy, việc khai thác tại địa
phương, cả hợp pháp và trái phép vẫn còn là vấn đề nan giải. Các loài có giá trị
kinh tế cao hay có công dụng đặc biệt thường là những loài có nguy cơ lớn. Vì
vậy, bảo tồn tại chỗ cần được bổ sung bởi bảo tồn chuyển vị và các chương
trình lâm sinh chung. Những chương trình này cần gồm cả kế hoạch về giáo
dục cũng như thu hái và bảo quản hạt giống, trồng phục hồi và làm giàu rừng

10


trong và xung quanh các khu bảo tồn. Các loài cây dẫn nhập có thể có vai trò
trong việc hỗ trợ cho bảo tồn tại chỗ.
Như vậy đã có 2 loài cây trong ngành Hạt trần đang trên bờ vực tuyệt
chủng và việc ngăn chặn những loài cây khác tiếp tục nhập vào danh sách này
là mối quan tâm của tất cả mọi người.
Nhiều loài Hạt trần có ý nghĩa kinh tế và khoa học đã được nghiên cứu
phục vụ công tác bảo tồn và trồng rừng. Trong số 30 loài thông được biết ở
Việt Nam đã có hơn một nửa số loài được thử nghiệm nhân giống bằng giâm
hom. Hai tác giả Nguyễn Hoàng Nghĩa, Trần Văn Tiến cho thấy tại Lâm Đồng
đã tiến hành thử nghiệm nhân giống bằng hom cho các loài bách xanh
(Calocedrus macrolepis), pơ mu (Fokienia hodginsii) và thông đỏ (Taxus
wallichiana) với vật liệu hom bách xanh thu hái từ cây 2 tuổi và 7-8 tuổi, pơ mu
cây non 1 tuổi và thông đỏ từ cây lớn tuổi trong rừng tự nhiên và các hom được xử
lý với nhiều loại chất điều hòa sinh trưởng với các nồng độ khác nhau (Nguyễn
Hoàng Nghĩa, Trần Văn Tiến, 2002)[17].
Huỳnh Văn Kéo, Lương Viết Hùng, Trương Văn Lung đã nghiên cứu

giâm hom loài hoàng đàn giả (Dacrydium elatum) đã sử dụng chất kích thíc
sinh trưởng với các nồng độ khác nhau làm chất điều hòa sinh trưởng cho thấy
với loài hoàng đàn giả có khả năng nhân giống bằng hom và tỷ lệ ra rễ của hom
thu hái từ cây trưởng thành thấp hơn cây non (Huỳnh Văn Kéo, Lương Viết
Hùng, Trương Văn Lung, 1999)[12].
Đã có nhiều nghiên cứu về thực vật ngành Hạt trần tại Việt Nam như:
Bộ thực vật chí Đông Dương do H. Lecomte chủ biên (1907-1952) các
tác giả người Pháp đã thu mẫu và định tên, lập khoá mô tả các loài thực vật có
mạch trên toàn lãnh thổ Đông Dương trong đó các loài ngành Hạt trần đã được
giới thiệu và mô tả khá rõ tại đây (Võ Văn Chi, 2007)[5].
Trên cơ sở bộ thực vật chí Đông Dương, gần đây bộ thực vật chí
Campuchia, Lào và Việt Nam do Aubréville khởi xướng và chủ biên (196011


1997) cùng với nhiều tác giả khác đã công bố rất nhiều các loài cây có mạch.
Trong đó các loài ngành Hạt trần đã được giới thiệu.
Trong thời gian gần đây, hệ thực vật Việt Nam đã được thống kê lại bởi
các nhà thực vật Liên Xô và Việt Nam trong kỳ yếu cây có mạch của thực vật
Việt Nam – Vassular Plants Synopiss of Vietnamese Flora tập 1-2 (1996) và
tạp chí Sinh học số 4 chuyên đề (1994 và 1995).
Đáng chú ý nhất là phải kể đến bộ Cây cỏ Việt Nam của Phạm Hoàng
Hộ (1991-1993) xuất bản tại Canada và được tái bản có bổ xung tại Việt Nam
trong 2 năm (1999-2000). Đây là bộ sách khá đầy đủ và dễ sử dụng góp phần
đáng kể cho khoa học thực vật ngành Hạt trần Việt Nam (Phạm Hoàng Hộ,
1999)[1].
Gần đây nhất là cuốn sách: Cây lá kim Việt Nam của Nguyễn Hoàng
Nghĩa (2004), hay cuốn Thông Việt Nam - Nghiên cứu hiện trạng bảo tồn, Nguyễn
Tiến Hiệp cùng các cộng sự (2005). Đây chính là các cuốn sách nghiên cứu, mô tả
sâu sắc tỉ mỉ một số loài cây lá kim, cũng như đưa ra được hiện trạng và công tác
bảo tồn một số loài cây thuộc ngành Hạt trần tại Việt Nam.

Những phát hiện mới đây đã bổ sung một số loài hạt trần có giá trị cho
hệ thực vật Việt Nam: thông Pà Cò Pinus kwangtungensis(Phan Kế Lộc, 1984)
[13], dẻ tùng sọc nâu rộng Amentotaxus hatuyenensis (Nguyen Tien Hiep &
Vidal, 1996)[23], thiết sam giả Pseudotsuga sinensis và thiết sam núi đá Tsuga
chinensis (Nguyễn Tiến Hiệp và cộng sự, 2000)[8], du sam núi đá Keteleeria
davidiana (Phan Kế Lộc và cộng sự, 2002)[14], bách xanh đá Calocedrus
rupestris (Averyanov et al., 2004)[21].
1.3. Nghiên cứu về thực vật Hạt trần tại Côpia
Những nghiên cứu về thực vật Hạt trần tại Côpia phải kể đến là:
- PGS.TSKH. Lê Xuân Huệ – Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật
(2008 – 2009), đã tiến hành điều tra đánh giá đa dạng sinh học của khu rừng

12


đặc rụng Côpia (Sơn La) và đề xuất các giải pháp để quản lý bảo tồn ( PGS.TS
Lê Xuân Huệ, 2008 – 2009)[19].
Đề tài được tiến hành nhằm mục đích điều tra nghiên cứu khu hệ động,
thực vật ở khu bảo tồn thiên nhiên Côpia (nay chuyển thành rừng đặc dụng
Côpia) gồm các nhóm sinh vật chính (thực vật, chim thú, lưỡng cư, bò sát, côn
trùng). Đánh giá, giá trị tài nguyên bao gồm các nguồn gen động, thực vật quý
hiếm và bản đồ phân bố của chúng. Trên cở sở đó đề xuất các biện pháp bảo
tồn đa dạng sinh học ở khu bảo tồn thiên nhiên Côpia (nay là rừng đặc dụng
Côpia).
Trong hai năm thực hiện đề tài, chủ nhiệm đề tài đã tiến hành nghiên cứu
khảo sát thảm thực vật và xây dựng bản đồ thảm thực vật, nghiên cứu đa dạng
loài, sự phân bố và giá trị các đối tượng (thực vật bậc cao có mạch, thú, chim,
lưỡng cư, bò sát, côn trùng). Bên cạnh đó, chủ nhiệm đề tài còn nghiên cứu các
nguyên nhân suy thoái và đề xuất các giải pháp quản lí bảo tồn.
Dựa vào nhưng kết quả đạt được, đề tài đã đưa ra một số kết luận:

+ Thảm thực vật khu rừng đặc dụng Côpia gồm 5 kiểu rừng: rừng kín
hỗn giao cây lá rộng, lá kim, ẩm á nhiệt đới núi thấp đã bị khai thác (phân bố ở
độ cao từ 1700 – 1821m); rừng kín lá rộng thường xanh mưa mùa á nhiệt đới
núi thấp đã bị khai thác (phân bố ở độ cao 800 – 1700m); rừng thứ sinh; trảng
cỏ cây bụi cao và rừng trồng thông.
+ Đã xác định được 609 loài thực vật bậc cao thuộc 406 chi của 149 họ
trong 5 ngành thực vật. Trong đó có 21 loài quý hiếm có trong Sách đỏ Việt
Nam 2007 (cấp EN có 5 loài, cấp VU có 16 loài). Tài nguyên thực vật ở khu
rừng đặc dụng Côpia rất phong phú gồm: nhóm cho vật liệu xây dựng (238
loài), nhóm cho tinh dầu (15 loài), nhóm cây cho nhuộm màu (9 loài), nhóm
cây cho lương thực (10 loài), rau ăn (43 loài), lấy quả (37 loài), cây làm thuốc
(337 loài).

13


+ Đã xác lập bản đồ thảm thực vật ở khu rừng đặc dụng Côpia, bản đồ
phân bố thực vật quý hiếm và đã xác định được các nguyên nhân làm suy giảm
đa dạng sinh học ở khu rừng đặc dụng Côpia và đề xuất 4 giải pháp bảo tồn và
phát triển đa dạng sinh học ở Côpia.
- Thạc sỹ Nguyễn Văn Huy, Kỹ sư Nguyễn Văn Bơ (trường Đại học
Lâm nghiệp), cán bộ kiểm lâm huyện Thuận Châu, Trung tâm nghiên cứu thực
nghiệm và chuyển giao công nghệ trường Đại học Lâm nghiệp (2002), đã điều
tra nhanh tài nguyên thực vật trong khu vực quanh núi Côpia (Nguyễn Văn
Huy, 2002)[11].
Trong quá trình điều tra, nhóm đề tài đã tập trung vào việc thống kê các
loài thực vật bậc cao, xác định tên, công dụng của cây và xắp xếp các loài cây
đó vào các nhóm công dụng. Xác định các loài cây quý hiếm có tên trong sách
đỏ Việt Nam và cả khu vực. Xắp xếp các loài cây vào các đơn vị phân loại:
Loài, Chi, Họ và lập danh lục thực vật cho khu vực.

Sau thời gian ngắn điều tra nhanh tài nguyên thực vật bằng phương pháp
tuyến, mặc dù đã cố gắng song còn nhiều loài thực vật chưa được phát hiện và
không thể không còn những nhầm lẫm trong giám định tên cây nhưng từ những
kết quả đạt được có một số kết luận sau:
+ Khu nghiên cứu có 3 kiểu thảm thực vật với nhiều trạng thái rừng khác
nhau, có kết cấu tổ thành đặc trưng cho cả rừng nhiệt đới, á nhiệt đới ở Bắc
Việt Nam nên có giá trị cao cho công tác nghiên cứu nguồn gốc phát sinh và sự
phát triển của của thảm thực vật Việt nam.
+ Khu hệ thực vật khu nghiên cứu có 639 loài cây thuộc 424 chi của 156
họ thực vật khẳng định đây là khu hệ có đa dạng về loài cây, đa dạng về các chi
thực vật, đa dạng về các họ thực vật. Trong khu hệ khá phong phú về thành
phần các loài có giá trị cao về bảo tồn nguồn gen, bảo tồn loài quý hiếm, bảo
tồn các loài cây thuốc quý.

14


+ Tổng số loài thực vật quý hiếm là 59 loài đang chịu những tác động
bất lợi, cây quí hiếm cần có sự bảo vệ đặc biệt để làm tăng giá trị bảo tồn của
hệ thực vật rừng ở đây.
+ Thực vật khu ngiên cứu đa dạng về công dụng, có giá trị kinh tế khoa học và
môi trường cao cần được bảo vệ đặc biệt là không để bị chặt đốt làm nương
rãy.

15


CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Các loài cây thuộc ngành Hạt trần tại khu vực rừng đặc dụng Côpia,

huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La.
2.2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá đa dạng thành phần loài thực vật hạt trần, sự phân bố, trữ
lượng của nhóm thực vật này trong khu bảo tồn rừng đặc dụng Copia làm cơ sở
khoa học cho việc bảo tồn đa dạng sinh học.
2.3. Nội dung nghiên cứu
* Nghiên cứu về thành phần loài thực vật thuộc ngành Hạt trần ở Copia
* Đặc điểm tự nhiên khu vực có thực vật Hạt trần phân bố:
- Thành phần loài cây mọc xen kẽ các cây hạt trần
- Tổ thành loài
- Cấu trúc rừng
- Số lượng loài thực vật thuộc ngành Hạt trần, số cây, trữ lượng
- Tầm quan trọng (kinh tế, tự nhiên) của các loài thực vật thuộc ngành
Hạt trần ở Copia
* Lập bản đồ phân bố của loài thực vật thuộc ngành Hạt trần tại Copia
* Những hoạt động của con người ảnh hưởng đến đa dạng thực vật nói chung
và đa dạng loài thực vật thuộc ngành Hạt trần nói riêng
* Đề xuất các biện pháp bảo vệ, bảo tồn loài thực vật thuộc ngành Hạt trần
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp chung
Xuất phát từ nội dung của đề tài và đặc điểm tự nhiên của khu vực
nghiên cứu tiến hành điều tra theo tuyến, lập ô tiêu chuẩn 600m 2 (30m x 20m)
và các ô tròn có bán kính 10m điều tra quan hệ cạnh tranh của các loài hạt trần
với các loài cây gỗ khác, các ô điều tra được xác định qua kết quả điều tra sơ

16


thám ngoài thực địa. Ô điều tra được lập theo các trạng thái rừng và theo các
độ cao khác nhau.

2.4.2. Phương pháp cụ thể
a. Ngoài thực địa
* Lập tuyến điều tra
Số lượng tuyến điều tra 10 tuyến
+ Tuyến 1: Từ km 24 (tà li dương) theo đường mòn đi lấy gỗ của người
dân đi sâu vào trong rừng.
+ Tuyến 2: Từ Km 27+3( bên tà li dương) theo đường mòn vào trong rừng.
+ Tuyến 3: Từ Km 6+3 theo đường đi lẫy củi của người dân.
+ Tuyến 4:Từ đầu bản Hua Ty đi sâu vào trong cửa rừng.
+ Tuyến số 5: Từ cửa gió Chiềng Bôm đến giáp gianh Chiềng Bôm,
Nậm Lầu.
+ Tuyến 6: Từ Km 18+7 lên (tà li dương) đi đến hệ thống núi chính.
+ Tuyến 7: Từ Km 13 theo đường lẫy gỗ của người dân đến đầu suối Nhộp.
+ Tuyến 8: Tử Km 38+3 theo đường đi làm nương của người dân đi sâu
vào trong rừng.
+ Tuyến 9 : km 28( tà li âm) theo đường lấy củi của người dân đi vào
trong rừng.
+ Tuyến 10: Từ Km 25 theo dông núi chính đi xuống sâu trong rừng.
Tuyến điều tra phải đại diện cho các dạng sinh cảnh kiểu trạng thái rừng.
Kết quả ghi vào mấu biểu 01, biểu điều tra các loài theo tuyến.
Mẫu biểu 2.1: Biểu điều tra các cây theo tuyến.
Tên
TT

loài

Chiều cao
Hvn Hdc

Đường kính 1.3

ĐT NB TB

Đường kính tán
ĐT NB TB

Sinh

Ghi

trưởn

chú

Trong đó: Hvn: Chiều cao vút ngọn; Hdc: Chiều cao dưới cành;
* Lập ô tiêu chuẩn:

17


Dựa trên kết quả điều tra theo tuyến xác định vị trí lập ô tiêu chuẩn
600m2 (30 x 20m ), ô tiêu chuẩn lập dựa trên nguyên tắc: ô tiêu chuẩn phải
được đặt ở những vị trí mang tính chất đại diện cao nhất.
- Điều tra tầng cây cao
Sau khi lập xong tiến hành điều tra các chỉ tiêu theo mẫu biểu 02 và 03
Mẫu biểu 2.2: Biểu thông tin ô điều tra
Loại ô diều tra: …………………..ÔTC số:…….Kích thước:…………………
GPS:…………………………………………………………………………….
Địa điểm:……………………………………………………………………….
Vị trí:………………………….Hướng dốc:……………Độ dốc:……………...
Độ cao:…………………….Độ tàn che:……………..Độ che phủ:……………

Kiểu rừng:………………………………………………………………………
Đặc điểm thực vật:……………………………………………………………...
Đặc điểm đất và địa hình:………………………………………………………
Ngày điều tra:………………..Người điều tra:…………………………………
Ảnh số:…………………………………………………………………………
Các thông tin khác:……………………………………………………………..
………………………………………………………………………………….

18


Mẫu biểu 2.3: Điều tra tổng hợp tầng cây gỗ
Ô tiêu chuẩn số:…………….Ngày điều tra:…………………….Tờ số………
TT

Tên cây

1
2
...

D1.3

Hvn

Hdc

(cm)

(m)


(m)

DT(m)
ST
Đ-T N-B

Ghi
chú

Trong đó: Hvn: Chiều cao vút ngọn; Hdc: Chiều cao dưới cành; DT:
Đường kính tán;
Để minh hoạ cho nơi có Hạt trần phân bố, chúng tôi đã chọn một dải
rừng đặc trưng cho trạng thái đó và vẽ phẫu đồ rừng. Trong dải rừng đã được
chọn chúng tôi đánh dấu cây theo thứ tự từ 1 đến hết và tiến hành đo đếm các
chỉ tiêu, kết quả ghi vào mẫu biểu mẫu sau:
Mẫu biểu 2.4: Cấu trúc rừng có hạt trần phân bố
TT

Tên loài

Toạ độ
X

DT (m)
Y

Đ-T

Hdc


Ghi

(m)

chú

N-B

1
2

Trong đó: Hdc: Chiều cao dưới cành; DT: Đường kính tán
Sau khi đo đếm về nhà tiến hành vẽ biểu đồ rừng. Biểu đồ rừng được bố
trí trên giấy kẻ milimét (30 x 40cm), trên đó tôi tiến hành vẽ hình chiếu đứng
và hình chiếu bằng của dải rừng được chọn lên giấy theo một tỉ lệ nhất định.
- Điều tra cây tái sinh.
Trong mỗi ô tiêu chuẩn tiến hành lập các ô dạng bản có diện tích 25m2 (5m x
5m ) tại 4 góc của ÔTC. Nội dung được hoàn thành theo mẫu biểu 04
Mẫu biểu 2.5: điều tra cây tái sinh
Ô tiêu chuẩn số:……… Ngày điều tra:…………………. Tờ số:……………..

19


TT

TT

Tên


ÔDB cây

cây

Sinh

Chiều cao
< 50 50-100 > 100

trưởng
K TB Y

Nguồn gốc
Hạt

Ghi
chú

Chồi

1
2

- Điều tra cây bụi thảm tươi.
Trong các ô dạng bản điều tra cây tái sinh chúng tôi tiến điều tra cây bụi
thảm tươi trong đó. Kết quả được ghi vào mẫu biểu 05
Mẫu biểu 2.6: Biểu điều tra cây bụi thảm tươi
Ô tiêu chuẩn:…………...Ngày điều tra:……………………..Tờ số:………….
TT


TT

Tên

Chiều cao (cm)

ÔDB cây

cây

<50

50-100

Sinh trưởng Nguồn gốc

>100 T

T

X

Hạt

Chồi

1
2


* Thu mấu, phân tích thành phần loài:
- Phương pháp thu mẫu
- Phương pháp cố định mẫu sơ bộ
b. Phương pháp phân tích mẫu trong phòng thí nghiệm
* Phương pháp định loại, phân loại loài thực vật thuộc ngành Hạt trần
* Phương pháp xác định tổ thành loài cây:

20


Tổ thành loài cây tái sinh được đánh giá thông qua trị số IV (%) - trị số
quan trọng của mỗi loài được tính bằng công thức:
IV ( % ) =

( F % + D% )
2

Trong đó: F(%) là độ thường xuyên tương đối; D(%) là mật độ tương đối
(Crutis & Mc. Intosh, 1951).
* Phương pháp xác định phân bố và cấu trúc theo chiều cao:
Đề tài chia chiều cao theo 4 cấp: Cấp I (H < 1m); Cấp II (1,0- 2,0m); Cấp
III (2,0-3,0m); Cấp IV (>3m). Số cây từng cấp chiều cao được tính như sau:
30

N (cây / ha ) =

∑n

i


1

120

x10 4

Trong đó: ni là số cây từng cấp trong ô tiêu chuẩn
c. Phương pháp phỏng vấn, điều tra điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội ở địa phương
2.4.3. Phân bố của các loài
Vẽ bản đồ phân bố: dựa vào bản đồ gốc của rừng đặc dụng Côpia, số liệu điều
tra trên GPS và phần mềm MapInfor để tiến hành xử lý và vẽ lại các tuyến điều
tra và phân bố của các loài trên bản đồ.

21


CHƯƠNG 3. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN KINH TẾ XÃ HỘI KHU VỰC
NGHIÊN CỨU
3.1 Điều kiện tự nhiên rừng đặc dụng Côpia.
3.1.1 Ranh giới hành chính
+ Toạ độ địa lý: Khu nghiên cứu có toạ độ địa lý:
Từ 210 17’ 30’’ đến 210 23’ 30’’ vĩ độ bắc
Từ 1030 32’ 00’’ đến 1030 40’ 00’’ kinh độ đông
+ Ranh giới:
Khu vực nghiên cứu nằm trọn trong địa phận 3 xã : Chiềng Bôm, Cò
Mạ, Long Hẹ và dọc theo 2 bên đường ô tô từ thị trấn huyện đi Cò Mạ, Long
Hẹ của huyện Thuận Châu tỉnh Sơn La, Phần lớn diện tích rừng của khu
nghiên cứu thuộc địa phận xã Cò Mạ, Đỉnh Côpia nằm trong khu vực trung tâm
của khu nghiên cứu.
3.1.2. Địa hình

Khu điều tra tài nguyên thực vật được thực hiện chủ yếu ở phần lớn địa
hình đồi núi có độ cao trên 1000m so với mặt biển. Đỉnh Pu Sam Sao cao
1821m là đỉnh cao nhất của khu vực, Đỉnh Côpia nổi tiếng cao 1816m nằm trên
danh giới xã Cò Mạ với xã Nậm Lầu – Chiềng Bôm là đỉnh cao thứ hai. Độ cao
thấp hơn 800 m của khu nghiên cứu có diện tích nhỏ nằm cạnh đường ô tô phía
đông bắc đỉnh Côpia thuộc xã Chiềng Bôm, huyện Thuận Châu.
Địa hình trong khu nghiên cứu bị chia cắt mạnh do các dông núi phụ, các
khe suối chạy từ trên các đỉnh cao xuống và còn do trong khu nghiên cứu có
xen kẽ một số đỉnh núi cao đơn lẻ, khá hiểm trở. Do độ chênh cao lớn nên khu
nghiên cứu có độ dốc trung bình 25-35 o , nhiều nơi có độ đốc >35o.rất khó đi
lại. Nhìn chung địa hình khu nghiên cứu thuộc loại trung địa hình vùng núi
cao, có độ chênh cao trên 1000m, càng đi về phía trung tâm khu nghiên cứu
càng cao và độ dốc càng lớn, nhiều núi cao, thung lũng sâu, sườn núi dốc.

22


3.1.3. Địa chất thổ nhưỡng
+ Đá mẹ: Trong khu nghiên cứu đá mẹ thuộc 2 nhóm chính: Đá macma
axit và đá biến chất với các loại chính như: Granit, Amphibolit, Đá Diệp
Thạch, đôi chỗ còn lẫn cả phiến thạch sét, Sa thạch.
+ Các loại đất chính trong khu vực:
* Đất mùn màu xám vàng trên núi cao, thành phần cơ giới nhẹ thường có
ở độ cao 1600-1800m. Loại đất này trong khu nghiên cứu có diện tích rất nhỏ.
* Đất Feralit mùn vàng đỏ phát triển trên đá Axit hoặc trên đá biến chất
núi cao trung bình, thành phần cơ giới Trung bình đến nhẹ thường ở độ cao
700-1700m.
* Đất Feralit màu nâu vàng phát triển trên đá Axit hoặc đá biến chất, đá
Diệp Thạch, Đá phiến lẫn Sa thạch, thành phần cơ giới trung bình ở độ cao
700-1700m

* Đất Feralit màu xám biến đổi do trồng lúa, có thành phần cơ giới trung
bình, phân bố quanh làng bản và trên các sườn núi có nguồn nước.
Nhìn chung đất trong khu vực là đất thịt tới sét nhẹ, tơi, xốp, có độ ẩm
cao nơi còn rừng, đất dể bị khô cứng nơi mất rừng, đất có thành phần cơ giới từ
nhẹ đến trung bình, kết cấu viên nhỏ và có độ mùn từ trung bình đến khá, còn
tính chất đất rừng rất thuận lợi cho quá trình phát triển và phục hồi rừng nếu
ngăn chăn được nạn lửa rừng.
(Nguồn: Phòng tài nguyên và MT huyện Thuận Châu, năm 2011)
3.1.4 Khí hậu
Khí hậu khu nghiên cứu thuộc kiểu khí hậu á nhiệt đới núi trung bình
(ôn đới cận nhiệt đới).
Khí hậu Thuận Châu (Theo trạm khí tượng Thuận Châu 12/2012) có các
đặc trưng chính sau:
+ Nhiệt độ
- Nhiệt độ bình quân năm 190C.
23


- Nhiệt độ tối cao 370C, Nhiệt độ tối cao bình quân 320C nhiệt độ tối
thấp bình quân 140C, nhiệt độ tối thấp tuyệt đối 00C
- Mùa lạnh nhất từ tháng 12 năm trước đến tháng 2 năm sau, trên các
đỉnh cao đôi khi nhiệt độ xuống tới gần 0oC.
+ Độ ẩm
Độ ẩm tương đối bình quân năm cao là 85%, Độ ẩm tương đối tối cao
bình quân năm 90%,Độ ẩm tương đối tối thấp bình quân năm 70%. Nhiều ngày
trong năm có sương mù.
+ Lượng mưa
- Lượng mưa bình quân năm 1400-1600mm
- Mùa mưa từ tháng 4-9; Mùa khô từ tháng 10-3 năm sau. Mưa tập trung
các tháng 6 đến 8 chiếm 70% tổng lượng mưa năm.

Hình 3.1: Lượng mưa và sự thay đổi về nhiệt độ bình quân theo tháng

(Nguồn: Đài Khí tượng thủy văn tỉnh Sơn La, 2012)

+ Nắng: Tổng số giờ nắng bình quân năm thấp, Tháng 4 nắng nhiều nhất
tháng 10 là tháng nắng ít nhất.
+ Sương mù: bình quân có 160ngày có sương mù trong năm.

24


+ Sương muối: bình quân 5-8 ngày có sương muối trong năm nhưng đôi
khi có đợt kéo dài 3 đến 5 ngày cao nhất tới 11 ngày và thường xuất hiện vào
các tháng 12 và 1.
+ Gió: Hướng gió thịnh hành của khu nghiên cứu là Đông Bắc, Tây
Nam, gió nhẹ 2,7m/s, Hàng năm vào các tháng 3,4,5 đôi khi có gió tây khô
nóng xuất hiện.
Trong các tháng 4,5 đôi khi có mưa đá.
Nhìn chung khí hậu Khu nghiên cứu là mát vào mùa hè, lạnh về mùa
đông, riêng mùa đông có nhiệt độ thấp, lại có sương mù sương muối nên ít
nhiều gây cản trở tới các hoạt động sản xuất lâm nghiệp đặc biệt là khâu gieo
ươm cây con.
+ Thuỷ văn: Trong khu nghiên cứu không có sông. Đáng chú ý có các
suối: Suối Đen, Suối Đá, Hua Nhứ, Suối Nhôp., Nậm Cang, Nậm Ty, Suối
Liệp có nước quanh năm. Các suối chính trên, lưu lượng nước chảy mạnh về
mùa hè, còn mùa đông nước rất cạn. Ngoài những con suối chính kể trên, trong
khu nghiên cứu còn một số con suối nhỏ có nhiều nước trong những ngày mưa
to còn ít ngày sau mưa là nước cạn chỉ còn là những rãnh nước nhỏ. Mật độ
suối cao 3.12Km/1000Ha nhưng thường gây ra lũ quét, lũ ống nhưng khan
hiếm nước vào mùa khô vì các suối có độ dốc cao.

3.1.5. Tài nguyên rừng và đất rừng
Kết quả điều tra gần đây nhất của rừng đặc dụng Côpia cho biết, tài
nguyên đất rừng và rừng của có tổng diện tích là 19.467,7ha và qua kết quả
khảo sát, điều tra thảm thực vật rừng ở Khu Copia bước đầu có thể phân loại
được các kiểu thảm thực vật như sau:
* Thảm thực vật rừng kín thường xanh á nhiệt đới núi thấp:
Phân bố chủ yếu ở độ cao trên 1500 m so với mặt nước biển, nằm trọn
trong khu bảo tồn nguyên vẹn (nghiêm ngặt) thuộc địa bàn hành chính xã Co
Mạ, kiểu thảm này ít bị tác động còn nhiều giá trị của rừng nguyên sinh, ngoài
25


×