Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.48 KB, 15 trang )

A.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Hiện nay, với nguyên tắc coi bị can, bị cáo là những người chưa có tội nên
pháp luật tố tụng hình sự đã dành cho họ nhiều quyền trong suốt các giai đoạn tố
tụng. Mục đích của những quy định này không phải thiên về lợi ích của những
người bị nghi là có tội hay làm suy yếu đi cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm
của các cơ quan chức năng, mà chính là đòi hỏi các cơ quan đó và những người
tiến hành tố tụng trong mọi hoạt động tố tụng phải thận trọng, vô tư và đề cao tinh
thần trách nhiệm làm rõ các chứng cứ buộc tội cũng như gỡ tội, làm sáng tỏ sự thật
khách quan của vụ án, tránh làm oan người vô tội và bỏ lọt người phạm tội. Để làm
sáng tỏ vấn đề nêu trên, em xin chọn đề “Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự về quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo.”
NỘI DUNG
Quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự.
Khái niệm bị can, bị cáo.
B.

I.
1.

Khoản 1 Điều 49 Bộ luật tố tụng hình sự quy định “bị can là người đã bị
khởi tố về hình sự”. Khi một người bị khởi tố về hình sự thì họ sẽ trở thành đối
tượng bị buộc tội trong vụ án, tuy nhiên điều đó không có nghĩa xác định họ là
người có tội. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc vì theo Điều 9 BLTTHS 2003:
Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật. Theo đó, bị can là người bị khởi tố về hình sự và tham
gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can. Bị can sẽ tham gia vào các giai đoạn
điều tra, truy tố và một phần giai đoạn xét xử sơ thẩm. Tư cách tố tụng của bị can
sẽ chấm dứt khi cơ quan điều tra đình chỉ điều tra, viện kiểm sát đình chỉ vụ án,


Tòa án đình chỉ vụ án (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử) đối với bị can hoặc Tòa án
ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

1


Theo quy định tại khoản 1 Điều 50 BLTTHS 2003 thì “Bị cáo là người đã bị Tòa
án quyết định đưa ra xét xử”. Bị cáo tham gia tố tụng kể từ khi có quyết định đưa
vụ án ra xét xử đến khi bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Và khái niệm bị cáo không đồng nghĩa với khái niệm chủ thể của tội phạm. Bị cáo
không phải là người có tội. Họ chỉ trở thành có tội nếu sau khi xét xử họ bị Tòa án
ra bản án kết tội và bản án đã có hiệu lực pháp luật.
2. Nội dung quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong
2.1.
Các quyền và nghĩa vụ chung của bị can, bị cáo.
2.1.1. Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ

tố tụng hình sự.

Pháp luật đã quy định trách nhiệm của người tiến hành tố tụng khi áp dụng
biện pháp ngăn chặn bắt người, tạm giữ và tạm giam đều phải giải thích cho đối
tượng bị áp dụng các quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ. Trong các văn bản áp dụng
pháp luật tố tụng hình sự (các lệnh bắt, luyết định tạm giữ hay lệnh tạm giam) đều
phải đọc, giải thích rõ cho đối tượng; trong quyết định khởi tố bị can phải ghi rõ tội
danh, điều khoản luật được áp dụng đối với bị can; trong phiên tòa, chủ tọa phiên
tòa phải giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị cáo trong thủ tục bắt đầu phiên tòa.
Việc đảm bảo quyền này của bị can, bị cáo có ý nghĩa rất lớn trong việc đảm bảo
quyền con người của bị can, bị cáo; giúp họ hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình
cũng như cũng như góp phần nhanh chóng kịp thời giải quyết vụ án, xác minh sự
thật vụ án.

2.1.2.

Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu
Theo quy định tại BLTTHS năm 1988 thì bị can, bị cáo có quyền đưa ra

“chứng cứ và những yêu cầu”. còn theo quy định mới của BLTTHS 2003 thì bị
can, bị cáo có quyền đưa ra “ tài liệu, đồ vật, yêu cầu”. Như vậy đã có sự thay đổi
trong quy định của pháp luật từ việc bị can, bị cáo có quyền đưa ra chứng cứ thì
nay chuyển thành những tài liệu, đồ vật. Sự thay đổi này trong quy định của pháp
2


luật là hoàn toàn hợp lý, góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật nước ta. Bởi
vì khi bị can, bị cáo cung cấp cho Cơ quan điều tra những tài liệu, đồ vật thì không
phải mọi tài liệu đồ vật đó đều là chứng cứ trong vụ án. Khi Cơ quan điều tra nhận
được các tài liệu, đồ vật đó thì họ phải tiến hành kiểm tra, đánh giá khách quan để
xác định các tài liệu đồ vật đó có phải là chứng cứ trong vụ án hay không. Và chỉ
khi các tài liệu đồ vật đó đáp ứng được các yêu cầu theo quy định của pháp luật thì
chúng mới trở thành chứng cứ trong vụ án.
2.1.3.

Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người
phiên dịch theo yêu cầu của Bộ luật này (BLTTHS)
Bị can, bị cáo có quyền đề nghị thay đổi những người tiến hành tố tụng,

người giám định, người phiên dịch nếu có căn cứ rõ ràng để cho rằng họ không thể
vô tư trong khi làm nhiệm vụ và việc họ tiến hành tố tụng hoặc tham gia tố tụng có
thể làm cho vụ án được giải quyết theo hướng không có lợi cho bị can, bị cáo. Khi
các Cơ quan tiến hành tố tụng nhận được yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng,
người giám định, người phiên dịch của bị can thì cần phải xem xét, giải quyết yêu

cầu đó nếu thấy yêu cầu là có căn cứ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự
(quy định cụ thể tại Điều 42 BLTTHS về những trường hợp phải từ chối hoặc thay
đổi người tiến hành tố tụng). Đây là sự thể hiện nguyên tắc cơ bản trong hoạt động
TTHS: “bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng” (Điều 14 BLTTHS).
2.1.4.

Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa

Quyền bào chữa là một tổng thể các quyền và những biện pháp tố tụng cần
thiết đảm bảo cho bị can, bị cáo tích cực tham gia TTHS; có khả năng thực tế để
bày tỏ thái độ của mình đối với việc buộc tội; lưu ý các cơ quan tiến hành tố tụng
về những tình tiết này hay tình tiết khác của vụ án; khả năng nêu ra những tình tiết
minh oan hoặc giảm nhẹ tội cho bị can, bị cáo. Quyền bào chữa được hiến pháp
3


quy định và là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS. Theo quy định của
BLTTHS, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình. Tuy nhiên, do hạn chế về kiến thức pháp luật, kỹ năng bào chữa và có
thể đang bị giam giữ nên họ không thể thực hiện được việc tự bào chữa có hiệu
quả. Họ cần có người khác có khả năng để bào chữa, do đó, bên cạnh quyền tự bào
chữa, pháp luật đã quy định họ có quyền nhờ luật sư, trợ giúp viên pháp lý, bào
chữa viên nhân dân bào chữa cho mình. Những người này sẽ tham gia TTHS để
nhằm bác bỏ toàn bộ hoặc một phần sự buộc tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho
họ. Tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa là quyền của bị can và bị cáo, không
phải là nghĩa vụ của họ. Do vậy, bên cạnh việc quy định các cơ quan tiến hành tố
tụng yêu cầu Đoàn luật sư phân công luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị can, bị cáo thì
cũng quy định quyền của những người này và người đại diện hợp pháp của họ
được yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa (khoản 2 Điều 57 BLTTHS)
2.1.5.


Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng

Không phải trong mọi trường hợp mọi quyết định và hành vi tố tụng của cơ
quan, người tiến hành tố tụng đều đúng theo quy định của pháp luật. Do vậy, để
đảm bảo thực hiện tốt các quy định của pháp luật cũng như đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của bị can, bị cáo thì pháp luật đã cho phép bị can, bị cáo có quyền
khiếu nại các quyết định và hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng lên các chủ thể có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp
luật. Các chủ thể có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải xem xét và giải quyết
khiếu nại theo đúng quy định và thời hạn pháp luật quy định. Kết quả xem xét, giải
quyết khiếu nại phải được thông báo bằng văn bản cho bị can, bị cáo biết. Nghĩa vụ
có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát: đây là nghĩa vụ cơ
bản của bị can, bị cáo. Khi có giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát mà
4


bị can, bị cáo vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải, còn nếu bỏ
trốn thì bị truy nã. Đây là một trong các biện pháp ngăn chặn được pháp luật áp
dụng nhằm đảm bảo tiến trình tố tụng và ngăn chặn tội phạm.
2.2.
Các quyền, nghĩa vụ riêng của bị can.
2.2.1. Các quyền của bị can
a. Quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì

Bị can cần phải biết tội danh họ bị khởi tố để họ có thể tự bào chữa để gỡ tội
cho mình. Nếu không biết mình bị khởi tố về tội gì thì họ khó có thể đưa ra các
chứng cứ gỡ tội cho mình cùng những lời bào chữa, vì mục đích của việc tiến hành
các trình tự tố tụng là nhằm xác định một người có phạm tội hay không và nếu

phạm tội thì phải chịu hình phạt như thế nào. Bị can phải được giao nhận quyết
định khởi tố bị can , trong trường hợp có sự thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị
can cũng phải thông báo cho bị can biết. Quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì
của bị can thể hiện sự công bằng, bình đẳng và tiến bộ của pháp luật Việt Nam nói
chung và pháp luật xã hội chủ nghĩa nói riêng.
b.

Quyền được trình bày lời khai
Là một quy định mới của BLTTHS 2003 về các quyền và nghĩa vụ của bị

can trong tố tụng hình sự. Theo quy định này thì bị can có quyền trình bày lời khai
về những vấn đề liên quan đến vụ án mà họ bị khởi yoos. Đây là quyền chứ
khoogn phải nghĩa vụ của bị can. Do vậy nhiều khi bị can đã sử dụng quyền này
của mình để khai báo những tình tiết có lợi cho mình nhằm chứng minh mình vô
tội hoặc là phạm tội ở mức độ nhẹ hơn tội đã bị khởi tố hay đưa ra những tình tiết,
lí do để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình. Cũng có trường hợp bị can từ chối
không khai báo về hành vi của mình. Tuy nhiên trong trường hợp mà họ từ chối
khai báo hay khai báo gian dối thì họ cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự về

5


hành vi đó. Và ngược lại nếu bị can có thái độ khai báo thành khẩn thì đó lại được
coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
c.

Quyền được nhận quyết định khởi tố; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy
bỏ biện pháp ngăn chặn; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm
đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng,
quyết định truy tố; các quyết định tố tụng khác theo quy định của bộ luật

này.

Bị can có quyền được nhận các quyết định tố tụng có liên quan đến quyền lợi và
nghĩa vụ của mình. Quyết định này tạo điều kiện cho bi can có thể thực hiện tốt
quyền bào chữa cũng như các quyền và nghĩa vụ tố tụng khác của mình.
2.2.2.

Các nghĩa vụ tố tụng của bị can

Bên cạnh có các quyền tố tụng thì bị can cũng phải thực hiện các nghĩa vụ
nhất định. Khoản 3 Điều 49 BLTTHS 2003 quy định: “bị can phải có một đơn giấy
triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; trong trường hợp vắng mặt không có
lí do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã”. Như vậy, trong
trường hợp bị can được tại ngoại, khi cần sự có mặt của bị can để tiến hành các
hoạt động điều tra hoặc các hoạt động điều tra, các hoạt động tố tụng khác thì các
cơ quan tiến hành tố tụng phải triệu tập bị can. Bị can có nghĩa vụ phải có mặt theo
giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát. Việc triệu tập bị can phải tuân
thủ theo đúng quy định tại điều 129 BLTTHS 2003. Giaays triệu tập bị can phải
ghi rõ họ tên, chỗ ở của bị can, thời gian, địa điểm bị can phải có mặt, gặp ai và
trách nhiệm về việc vắng mặt không có lí do chính đáng. Giấy triệu tập bị can này
sẽ được gửi cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can cư trú hoặc cho cơ
quan, tổ chức nơi bị can làm việc. Cơ quan, tổ chức nhận được giấy triệu tập phải
có trách nhiệm chuyển ngay giấy triệu tập cho bị can. Khi nhận giấy triệu tập, bị
6


can phải kí nhận và ghi rõ ngày giờ được nhận. Người chuyển giấy triệu tập cho bị
can còn có nghĩa vụ chuyển phần giấy triệu tập đã có kí nhận của bị can cho cơ
quan đã triệu tập bị can. Nếu trong trường hợp bị can đã nhận được giấy triệu tập
nhưng không kí nhận thì người chuyển giấy phải lập biên bản về việc đó và gửi

cho cơ quan triệu tập bị can. Nếu bị can vắng mặt thì có thể giao giấy triệu tập cho
một người đã thành niên trong gia đình để kí xác nhận và chuyển cho bị can. Trong
trường hợp bị can vắng mặt không có lí do chính đáng thì có thể bị áp giải. Việc áp
giải bị can cũng phải tuân thủ theo đúng quy định tại Điều 130 BLTTHS. Trong
trường hợp bị can bị tạm giam thì việc triệu tập bị can của cơ quan tiến hành tố
tụng sẽ không được thông qua ban giám thị trại tạm giam. Trong quá trình chuẩn bị
xét xử, Tòa án có thể triệu tập bị can để giải quyết vấn đề dân sự hoặc cam đoan
trước khi quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn như cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt
tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm bị can sẽ có mặt được triệu tập giúp cho quá
trình xét xử được thuận lợi. Trong trường hợp Tòa án cần triệu tập bị can mà bị can
lợi dụng sơ hở pháp luật, không có mặt theo giấy triệu tập sẽ làm ảnh hưởng đến
việc giải quyết vụ án của Tòa án.
2.3.
Các quyền và nghĩa vụ riêng của bị cáo
2.3.1. Các quyền của bị cáo
a. Quyền được nhận quyết định đưa vụ án ra xét

xử.

Đây là một quyền quan trọng của bị cáo. Dựa vào nội dung của quyết định
đưa vụ án ra xét xử, bị cáo biết được tội danh họ bị đưa ra xét xử, thời gian, địa
điểm mở phiên tòa, tên của người tham gia tiến hành tố tụng, vật chứng cần xem
xét tại tòa… Trên cơ sở đó họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Ngoài ra,
bị cáo cũng có quyền nhận các quyết định khác có liên quan đến quyền và nghĩa vụ
của mình như: Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn;
quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án, các quyết định tố tụng
7


khác theo quy định của bộ luật này. Các quyết định này là căn cứ pháp lí để bị cáo

thực hiện các quyền và nghãi vụ liên quan đến quyết định đó.
b.

Quyền được tham gia phiên tòa.
Tại phiên tòa, quyền bình đẳng giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và những

người tham gia tố tụng được thể hiện rõ nhất. Quyền tham gia phiên tòa của bị cáo
và quyền bình đẳng trước phiên tòa trong việc đưa ra các chứng cứ, yêu cầu tranh
luận giữa kiểm sát viên với những người tham gia tố tụng, trong đó có bị cáo là hai
mặt của một vấn đề. Nếu không thực hiện đúng quy định bình đẳng này thì việc
thực hiện quyền tham gia phiên tòa của bị cáo cũng chỉ mang tính hình thức.
c.

Quyền trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa.
Đây là quyền mang tính dân chủ, công bằng của pháp luật TTHS.Theo đó bị

cáo có quyền thể hiện quan điểm của mình trước phiên tòa, đưa ra các ý kiến,
những lập luận của mình và đối đáp với những ý kiến không thống nhất của các
chủ thể khác nhằm làm sáng tỏ vấn đề, từ đó việc xét xử trở nên khách quan,
thuyết phục và đạt được mục đích xét xử.
d.

Quyền nói lời sau cùng trước khi nghị án.
Sau khi Hội đồng xét xử kết thúc tranh hỏi và tranh luận, bị cáo được quyền

nói lời sau cùng trước khi nghị án. Pháp luật quy định quyền này là để tạo điều
kiện cho bị cáo có cơ hội bày tỏ thái độ và nguyện vọng của mình trước khi Hội
đồng xét xử đưa ra những quyết định đối với vụ án. Để đảm bảo cho bị cáo thực
hiện quyền này, BLTTHS có quy định tại điều 220, theo đó Hội đồng xét xử
(HĐXX) không được đặt câu hỏi với họ, nếu họ trình bày thêm tình tiết mới có ý

nghĩa quan trọng đối với vụ án, HĐXX phải quyết định trở lại phần xét hỏi.
e.

Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án.
8


Kháng cáo là quyền chống lại bản án và quyết định của Tòa án, yêu cầu
được xét xử lại. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án và các quyết định đình chỉ và
tạm đình chỉ vụ án chưa có hiều lực pháp luật của Tòa án. Khi kháng cáo của bị
cáo là hợp lệ, Tòa án cấp phúc thẩm phải xem xét và giải quyết quyền kháng cáo
của bị cáo. Nhằm giúp bị cáo yên tâm thực hiện quyền kháng cáo mà không có
kháng cáo, kháng nghị theo hướng tăng nặng nào khác thì Tòa án phúc thẩm không
có quyền sửa án theo hướng bất lợi hơn cho bị cáo.
2.3.2.

Nghĩa vụ của bị cáo

Theo quy định tại Khoản 3 Điều 50 BLTTHS, bị cáo phải có mặt theo giấy
triệu tập của Tòa án, trong trường hợp vắng mặt không có lí do chính đáng thì có
thể bị áp giải, nếu bỏ trốn thì bị truy nã.
II.

Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyền và

1.

nghĩa vụ của bị can, bị cáo
Đánh giá việc thực hiện quy định của Bộ luật TTHS về bảo đảm quyền
của bị can, bị cáo trong TTHS

Đầu tiên là trong việc thực hiện quyền đưa ra chứng cứ và yêu cầu của bị

can, bị cáo. Do chưa thấy hết tầm quan trọng của việc bảo đảm thực hiện đúng
quyền này dẫn đến việc vi phạm một cách nghiêm trọng một số lỗi như không
kiểm tra, xem xét thật khách quan những chứng cứ hay yêu cầu mà bị can, bị cáo
đưa ra, vội vàng bác bỏ khi thấy không phù hợp với hướng điều tra của mình.
Những sai phạm đó có thể thấy ngay trong cách đặt câu hỏi với bị can. Những câu
hỏi chỉ có dạng trả lời “có” hay “không” đã không gợi mở và tạo cho bị can cơ hội
được đưa ra những chứng cứ và yêu cầu của mình. Thậm chí, sự không tôn trọng
quyền của bị can có thể dẫn đến việc mớm cung, bức cung và dùng nhục hình.
Không ít cán bộ điều tra đã muốn rằng những lời khai của bị can phải phù hợp với
9


chứng cứ mà họ thu thập được mà không phải là những lời khai phản ánh đúng sự
thật vụ án. Nếu chứng cứ mà bị can đưa ra mâu thuẫn với những chứng cứ mà cơ
quan điều tra thu thập được sẽ khiến cho cơ quan điều tra có thể quy kết bị can
quanh co, chối tội gây khó khăn kéo dài vụ án.
Thứ hai, về cơ chế bảo đảm thực hiện quyền bào chữa. Mặc dù pháp luật
TTHS đã quy định về quyền bào chữa và cơ chế bảo đảm quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhưng thực tiễn áp dụng đã gặp nhiều khó khăn,
vướng mắc. Với phạm vi đối tượng người bào chữa khác nhau như đã đề cập trên,
dẫn đến hệ quả là chưa chắc đã đảm bảo chất lượng, tính chuyên nghiệp và khả
năng thực tế để họ thực hiện việc bào chữa. Xu hướng người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo và người đại diện hợp pháp của họ đến với các Văn phòng luật sư ngày một
nhiều, nhưng số lượng luật sư của Việt Nam còn hạn chế. Cả nước ta hiện nay có
hơn 4.000 luật sư nhưng tập trung chủ yếu tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh
với gần 3.000 luật sư. Số còn lại ở 62 tỉnh, thành phố chỉ có khoảng hơn 1.000 luật
sư.
Về người bào chữa theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng: trường hợp bị

can, bị cáo bị khởi tố về tội theo khung hình phạt cao nhất là tử hình hoặc họ là
người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần /thể chất thì ngay cả khi
họ không lựa chọn người bào chữa thì các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải cử
người bào chữa cho họ. Nếu họ từ chối bào chữa thì Hội đồng xét xử có trách
nhiệm giải thích cho họ biết người bào chữa sẽ giúp gì cho họ và chi phí cho người
bào chữa sẽ do Toà án thanh toán. Và nếu họ vẫn kiên quyết từ chối việc bào chữa
thì sẽ ghi vào biên bản phiên toà và vụ án vẫn được xét xử theo thủ tục chung mà
không cần người tham gia bào chữa (Nghị quyết số 03/2004 ngày 02/10/2004 của
Hội đồng Thẩm phán TANDTC). Tuy nhiên, khi thực hiện quy định này đã nảy
sinh vấn đề là bị can, bị cáo hay người đại diện hợp pháp của họ đã từ chối người
10


bào chữa trong giai đoạn điều tra, sau đó đến giai đoạn xét xử, họ lại yêu cầu cơ
quan tiến hành tố tụng của người bào chữa thì yêu cầu này có được chấp nhận hay
không? Vấn đề này hiện nay chưa được quy định cụ thể.
Thứ ba, Về điều kiện để trở thành bào chữa viên nhân dân: Với những quy
định hiện hành của BLTTHS thì đã làm nảy sinh một vấn đề là phạm vi những
người là bào chữa viên nhân dân rất hạn chế bởi giới hạn 2 điều kiện: Người là
thành viên của MTTQVN hoặc tổ chức thành viên; Được cử để bào chữa cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Thực tiễn cho thấy, có rất nhiều người có trình độ
chuyên môn về pháp luật (chẳng hạn họ đã từng công tác ở các cơ quan bảo vệ
pháp luật đã chuyển ngành hoặc các nhà khoa học luật...) nhưng không được tham
gia bào chữa vì giới hạn 2 điều kiện nói trên.
2.

Những đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự về quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo
Để đảm bảo thực hiện được cơ chế bảo vệ quyền của bị can, bị cáo trong


TTHS thì cần thừa nhận nguyên tắc tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của BLTTHS
với những nội dung cơ bản: Quy định cụ thể các bên tham gia tranh tụng như Công
tố viên, người bào chữa, bị cáo, người bị hại...; Khẳng định quyền bình đẳng của
các bên tham gia tranh tụng trong việc đưa ra các chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra
các yêu cầu, xét hỏi và tranh luận dân chủ trước Toà án, đồng thời xác định trách
nhiệm của Toà án trong việc bảo đảm các bên thực hiện các quyền đó; Bản án và
quyết định của Toà án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà. Từ phương
diện bảo vệ quyền của bị can, bị cáo trong TTHS, sự ghi nhận nguyên tắc này phải
là cơ chế bảo đảm cho việc thực hiện các quyền đó trên thực tế. Chẳng hạn, với
một mô hình như quy định hiện hành đặt toàn bộ gánh nặng trách nhiệm chứng
minh vụ án lên Hội đồng xét xử, đòi hỏi ở Tòa án một vai trò quá tích cực không
11


cần thiết trong tranh tụng, dẫn đến tình trạng Tòa án “lấn sân” của các chủ thể khác
trong việc thực hiện chức năng buộc tội, bào chữa, hạn chế tính chủ động của các
chủ thể đó. Điều đó cũng hạn chế Tòa án trong việc thực hiện chức năng xét xử.
Do vậy, BLTTHS phải được sửa đổi nhiều nội dung cho phù hợp với yêu cầu của
nguyên tắc này.
Về trình tự và thủ tục xét hỏi tại phiên toà: giải pháp trước mắt là tăng cường
tính tranh tụng của phiên toà sơ thẩm và coi đây là bước đột phá theo tinh thần
Nghị quyết 49/NQ-TW, cụ thể sửa đổi thủ tục xét hỏi tại phiên toà theo hướng
tham gia vào thủ tục xét hỏi chỉ có các bên tranh tụng. Bên buộc tội là VKS và
người bị hại, nguyên đơn dân sự; Bên bào chữa là người bào chữa, bị cáo, bị đơn
dân sự. Toà án là người điều khiển các bên, điều khiển quá trình xét hỏi. Khi Toà
án đã trở về vai trò là trọng tài, điều khiển tranh tụng của các bên thì cần thay đổi
quy định Thẩm phán phải nghiên cứu hồ sơ trước khi xét xử. Thẩm phán chỉ
nghiên cứu ở khía cạnh hồ sơ có tuân thủ các thủ tục tố tụng, hồ sơ có đủ điều kiện
về thủ tục để đưa ra xét xử hay không? Còn vấn đề chứng cứ thu thập trong hồ sơ
thế nào, có đủ để chứng minh lỗi của bị cáo hay không, tội danh mà VKS truy tố bị

cáo có phù hợp với chứng cứ hay không... không phải là mối quan tâm của Thẩm
phán. Đó là trách nhiệm và mối quan tâm của bên buộc tội. Liên quan đến phần
tranh luận, Điều 217 và 218 của BLTTHS hiện hành đã thể hiện được tính dân chủ,
khách quan hơn so với quy định của BLTTHS năm 1988. Tuy nhiên, vẫn cần sửa
đổi, bổ sung theo hướng quy định rõ hơn quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham
gia tranh luận, trách nhiệm của Chủ toạ phiên toà phải đảm bảo cho việc tranh luận
diễn ra dân chủ, khách quan, tạo điều kiện cho các bên trình bày hết ý kiến, không
hạn chế thời gian tranh luận...
Mở rộng phạm vi tranh tụng: Tổ chức một phiên toà Phiên toà sơ thẩm tranh
tụng có tác động tích cực đến giai đoạn điều tra. Khi một phiên toà sơ thẩm có tính
12


tranh tụng và Toà án trở về với vai trò đích thực là trọng tài vô tư khách quan, Toà
án chỉ xét xử chứ không buộc tội thay cho VKS hay là cùng với VKS buộc tội bị
cáo. Khi đó, VKS sẽ không thể không tham gia tranh tụng tích cực, cũng có nghĩa
là việc truy tố bị cáo được cân nhắc, xem xét một cách thận trọng từ chứng cứ đến
tội danh. Trong khi đó, chứng cứ do CQĐT thu thập, nên để có thể bản lĩnh, tự tin
tranh tụng bình đẳng, thẳng thắn với bên gỡ tội, thì VKS không thể dễ dàng với
CQĐT cũng như những kết quả hoạt động của CQĐT. Bất kỳ sự dễ dàng nào của
VKS với CQĐT về việc tuân thủ các yêu cầu, trình tự, thủ tục của BLTTHS trong
quá trình điều tra thì sau này tại phiên toà sơ thẩm, sự dễ dàng đó của VKS sẽ bị
“đền đáp” bằng chính uy tín của ngành mình nói chung cũng như cá nhân KSV
thực hành quyền công tố trước Toà.
Cần có những hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục thực hiện quyền bào
chữa như về thủ tục khi người bào chữa gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
hướng dẫn về các thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa theo hướng đơn
giản hoá. Quy định cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền không bắt buộc
khai báo, quyền được gặp gỡ riêng không hạn chế về số lần và thời gian với luật sư
bào chữa, quyền được yêu cầu triệu tập người làm chứng, thậm chí quyền được

xem, sao chụp không hạn chế hồ sơ vụ án khi kết thúc điều tra (khi họ tự bào chữa
cho mình)... Như vậy mới có thể có được sự tranh tụng bình đẳng giữa các các chủ
thể, hạn chế thấp nhất tình trạng oan sai, bảo đảm quyền con người, quyền công
dân của bị can, bị cáo. Hơn nữa, pháp luật TTHS cũng cần bổ sung quy định và cơ
chế ngăn ngừa, chống tiết lộ bí mật điều tra, chống thông cung... trong hoạt động
TTHS, gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Đối với người bào chữa bổ
sung trách nhiệm giữ bí mật điều tra (không chỉ là bí mật nhà nước), không được
xúi giục người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chối tội, phản cung, không được từ chối
bào chữa nếu không có lý do chính đáng.
13


Trong TTHS, bảo đảm các quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không
chỉ đơn thuần bằng các biện pháp pháp lý. Khi đã có những quy định pháp luật,
việc thực hiện các quy định đó lại phụ thuộc vào từng con người cụ thể. Vì vậy,
còn phải chú trọng đến các biện pháp tổ chức, biện pháp giáo dục đối với các cán
bộ trong các cơ quan tiến hành tố tụng để họ thấy rõ nghĩa vụ, trách nhiệm của
mình khi tiến hành các hành vi tố tụng khác nhau. Và cuối cùng, phải động viên
tích cực quần chúng nhân dân tham gia vào nhiệm vụ đấu tranh chống tội phạm và
các vi phạm pháp luật dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó, có các hình thức
như làm người bào chữa trong tố tụng hình sự, kiểm tra giám sát các hành vi của
các cơ quan và những người tiến hành tố tụng để đảm bảo quyền như quyền bào
chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
C.

KẾT LUẬN

Nhằm phát huy hơn nữa vai trò quan trọng của hoạt động tố tụng thì một
trong số những việc quan trọng là bảo đảm việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ
của bị can, bị cáo. Điều đó đòi hỏi những người tiến hành tố tụng phải nâng cao

tinh thần trách nhiệm, làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, xử đúng người,
đúng tội, đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.

14


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình “Luật Tố tụng hình sự Việt Nam”,

2.
3.

NXB. Công an nhân dân, năm 2011;
Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, NXB. Lao động;
Nguyễn Đức Mai (1996), Chức năng và tư cách tố tụng của các chủ thể

4.

trong tranh tụng hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân;
Nguyễn Minh Đức (2008), Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của
pháp luật nhằm bảo đảm cho người bào chữa thực hiện tốt việc tranh tụng tại

5.

phiên toà, Tạp chí kiểm sát;
Các trang web:

/>ItemID=474

/>
15



×