Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Luận văn thạc sĩ báo chí học nâng cao hiệu quả tuyên truyền xóa đói giảm nghèo trên các chương trình phát thanh và truyền hình bằng tiếng khmer của các đài p

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 110 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm đổi mới , nền kinh tế thị trường từ cơ chế quan liêu
bao cấp sang kinh tế thị trường có sự quan liêu của Nhà nước, công cuộc xóa
đói giảm nghèo (XĐGN) và phát triển kinh tế ở nước ta đã và đang được đẩy
mạnh và đạt được nhiều kết quả trên quy mô toàn quốc. Đây cũng là chủ đề
lớn mang tầm quốc gia, được báo chí nói chung và đài Phát thanh và Truyền
hình (PT-TH) nói riêng đặc biệt quan tâm.
Có thể nói vấn đề xóa đói giảm nghèo là một trong những vấn đề cần
được nhận định và đánh giá xứng tầm trong công cuộc xây dựng và phát triển
đất nước. Nhưng những mục tiêu này mang kết quả trực tiếp hoặc gián tiếp
xóa đói giảm nghèo không bền vững bởi nguy cơ đói nghèo, tái đói nghèo đều
có thể xảy ra trong những biến cố của môi trường thiên nhiên, của quá trình
hội nhập và phát triển. Hiện nay, về mặt nhận thức, trong xã hội đặc biệt là
đồng bào các dân tộc thiểu số càng cho rằng xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ
của nhà nước, các doanh nghiệp tham gia với tư cách được giao nhiệm vụ
thực hiện, dân chúng hy vọng vào tài trợ của nhà nước là chính. Do đó, bản
thân người nghèo không chủ động tự khắc phục thoát nghèo, không có ý chí
vươn lên, đa số còn trong chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, cộng đồng nên
cuộc sống khó khăn tồn tại mãi suốt từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Theo số liệu tổng điều tra các hộ nghèo và cận nghèo mới nhất trên các
phương tiện truyền thông, thì không chỉ số hộ nghèo giảm ít, mà số hộ tái
nghèo vẫn còn tăng. Điều đó chứng tỏ rằng những hộ mới tạm thoát nghèo
không có ý chí vươn lên rất dễ quay trở lại nghèo.
Đồng bào Khmer Nam Bộ hiện có khoảng 1,3 triệu người (chiếm gần
7% dân số trong vùng), sống tập trung ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ (TNB),
một bộ phận sống ở các tỉnh vùng Đông Nam Bộ và thành phố Hồ Chí Minh.


2


Người Khmer sống phần lớn dựa vào việc sản xuất nông nghiệp và một số ít
đồng bào sống bằng nghề khác như: tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh dịch
vụ...
Đa số đồng bào Khmer có trình độ văn hóa thấp, đời sống còn gặp
nhiều khó khăn hơn đồng bào Kinh. Vì cuộc sống nghèo khó, không có công
việc ổn định nên bà con ít quan tâm đến việc học hành của con em. Nghèo
khổ thất học còn khiến nhiều người bị kẻ xấu lợi dụng.
Không chỉ nghèo về vật chất, đa phần bà con đồng bào Khmer còn
nghèo về kiến thức, về sự hiểu biết (do không được học hành). Nói cách khác,
đói nghèo dẫn đến thất nghiệp và thất học là một trong những căn nguyên
chính của mọi tiêu cực trong xã hội. Vì vậy mọi sự vận động thực hiện các
phong trào chung của địa phương trong đó có phong trào XĐGN còn bị hạn
chế. Bà con không tiếp thu được các mô hình tiên tiến về phát triển kinh tế để
mà học tập và làm theo.Việc tuyên truyền các Chỉ thị, Nghị quyết của chính
phủ về công tác vùng đồng bào Khmer, về sức mạnh đại đoàn kết dân tộc...;
các Nghị quyết của các Tỉnh ở Tây Nam bộ về hỗ trợ đầu tư phát triển kinh tế,
xã hội trong vùng đồng bào Khmer chưa đến được với bà con.
Trong thời gian qua chương trình PT-TH bằng tiếng Khmer ở các tỉnh
miền Tây Nam Bộ có cố gắng trong việc tuyên truyền về công tác xóa đói
giảm nghèo (XĐGN), nhưng do chỉ tuyên truyền theo hình thức phong trào,
khi phát động thì tuyên truyền, hết giai đoạn phát động thì bỏ qua. Các nội
dung tuyên truyền còn nghèo nàn, chưa đi sâu vào vấn đề, chưa khai thác hết
vai trò chức năng của mình trong việc giáo dục và định hướng cho bà con
Khmer tự vươn lên thoát nghèo cho bản thân và gia đình.
Do ở miền Tây Nam Bộ việc xuất bản báo in chữ Khmer còn nhiều hạn
chế, chỉ có một vài tỉnh có báo chữ Khmer như báo chữ Khmer Trà Vinh, Cần
Thơ, An Giang, Sóc Trăng và Cà Mau và phát hành một tuần chỉ ra một số.


3

Mặt dù có báo in bằng chữ khmer nhưng độc giả chủ yếu chỉ là các vị sư còn
bà con Khmer thì chỉ có một số ít biết chữ (là người xuất tu) nên bà con
không chú ý đến, phần lớn bà con chỉ nghe và xem đài. Vì vậy, xuất phát từ ý
nghĩa, tầm quan trọng và sự cần thiết của việc tuyên truyền về xóa đói giảm
nghèo nói chung và tuyên truyền về xóa đói giảm nghèo trong vòng đồng bào
Khmer ở miền Tây Nam bộ nói riêng, tác giả chọn vấn đề “Nâng cao hiệu
quả tuyên truyền xóa đói giảm nghèo trên các chương trình Phát thanh
và Truyền hình bằng tiếng Khmer của các đài PTTH ở Tây Nam Bộ hiện
nay” làm đề tài nghiên cứu. Đề tài lựa chọn, phân tích những ưu điểm, hạn
chế, thực trạng và đề suất nâng cao việc tuyên truyền qua khảo sát các chương
trình xóa đói giảm nghèo của các đài Phát thanh và Truyền hình các tỉnh Trà
Vinh, An Giang và Sóc Trăng trong năm 2014.
2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thời gian qua, vấn đề XĐGN đã được nhiều người quan tâm nghiên
cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau. Hiện nay có rất nhiều công trình nghiên
cứu, nhiều luận văn, luận án tốt nghiệp cũng đã từng đề cập đến vấn đề
XĐGN, trong đó có các công trình nghiên cứu như:
* Về sách có:
- Trong cuốn “Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX” Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội xuất bản năm 2001, gồm nhiều bài viết của một số tác giả về
sự phát triển các dân tộc thiểu số; chính sách dân tộc; xây dựng phát triển kinh
tế, đời sống văn hoá - xã hội, bảo vệ tổ quốc... của đồng bào các dân tộc thiểu
số. Trong đó có bài "Sự nghiệp phát triển truyền hình ở vùng dân tộc thiểu số"
của ông Hồ Anh Dũng, Nguyên Tổng Giám đốc Đài THVN. Bài viết cho thấy
sự cần thiết và dự báo khả năng đóng góp, tăng cường đầu tư cho công tác
thông tin tuyên truyền của Đài THVN đối với vùng dân tộc thiểu số trong tình
hình mới.


4

- Cuốn sách “Phản hồi của cộng đồng và các mục tiêu phát triển thiên
niên kỷ tại Việt Nam”. (ActionAid william D.Sunderlin và International).
Công trình nghiên cứu này do tổ chức phi chính phủ quốc tế ActionAid
International VN khởi xướng, với sự phối hợp của Oxfam Anh và Plan
International tại Việt Nam cùng sự hợp tác chặt chẽ của Viện Kinh tế và Viện
Khoa học Xã hội VN. Cuốn sách hỗ trợ các nghiên cứu chính sách chất lượng
cao, tạo thuận lợi cho các cuộc thảo luận và góp phần tìm ra các giải pháp phù
hợp cho Việt Nam nhằm xây dựng và thực thi các chính sách phát triển mang
tính hòa đồng hơn, cũng như các chương trình xóa đói giảm nghèo và trợ giúp
xã hội nhằm vào những người nghèo nhất (cả phụ nữ và nam giới). Cuốn sách
dày hơn 80 trang, là một bản báo cáo khá đặc biệt, các tác giả đã cố gắng
phân tích nhiều yếu tố mới tác động đến cách thực thi các mục tiêu phát triển
thiên niên kỷ (MDG) như tâm lý, tập tục của từng nhóm người được khảo
sát... Ngoài ra, nó cũng trích dẫn nhiều ý kiến “máu thịt” của người nghèo –
những người chịu tác động trực tiếp của MDG.
- Cuốn chuyên luận Nghề báo nói của tác giả Nguyễn Đình Lương do
Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin ấn hành năm 1993. Nội dung sách gồm bảy
phần, trong đó đã đề cập một cách tổng quát về đặc trưng, phương pháp, thể
tài và những vấn đề thuộc về nguyên lý, kỹ năng và quy trình nghề báo phát
thanh; phát thanh với thính giả v.v...
- Giáo trình Báo chí phát thanh do 13 tác giả ở Phân viện Báo chí và
Tuyên truyền và Đài TNVN viết (do Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin ấn
hành năm 2002) có tổng cộng 20 chương, đề cập một cách khá toàn diện về
những vấn đề của phát thanh Việt Nam hiện đại.
- Sách chuyên luận Sáng tạo tác phẩm báo chí của tác giả Đức Dũng
(do Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin ấn hành năm 2002) có chương 2 đề cập
đến vấn đề "Nói và viết cho phát thanh, truyền hình".


5

- Chuyên luận: Lý luận báo phát thanh của Đức Dũng (do Nhà xuất bản
Văn hoá - Thông tin ấn hành năm 2003) gồm 9 chương, trong đó đề cập đến
những vấn đề của đặc trưng loại hình và các thể loại báo phát thanh.
*Các luận văn, luận án có những công trình sau:
- Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Xuân An Việt về "Thông tin về dân tộc
miền núi trên VTV1- Đài Truyền hình Việt Nam" năm 2001, tại Học viện Báo
chí và Tuyên truyền, đã khảo sát chương trình về đề tài dân tộc miền núi của
Đài THVN trong 3 năm 1999 - 2001. Qua khảo sát, tác giả đưa ra các giải
pháp cụ thể nâng cao chất lượng chương trình, nhằm tăng cường hiệu quả
thông tin về vấn đề dân tộc miền núi của Đài THVN.
- Năm 2005, tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Phạm Ngọc Bách đã bảo
vệ luận văn thạc sỹ với tiêu đề "Chương trình Dân tộc và Miền núi trên sóng
VTV1- Đài Truyền hình Việt Nam". Trong luận văn này, tác giả đã khảo sát
các chương trình dân tộc và miền núi từ tháng 01-2004 đến tháng 06-2005 đồng
thời đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng chương trình.
- Luận văn thạc sĩ Truyền thông đại chúng của Lâm Thiện Khanh (thực
hiện năm 2003 tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền) có tiêu đề: Nâng cao
chất lượng các tin tức thời sự sản xuất tại Đài truyền hình Cần Thơ.
- Luận án tiến sĩ kinh tế với đề tài "Phát triển Khu kinh tế cửa khẩu với
xoá đói, giảm nghèo ở tỉnh Lào Cai" của Giàng Thị Dung (thực hiện năm
2014 tại Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương). Đề tài nghiên cứu
những vấn đề lý luận có liên quan và đánh giá thực trạng phát triển Khu kinh
tế cửa khẩu với xoá đói giảm nghèo tại tỉnh Lào Cai thời gian qua, luận án đề
xuất một số định hướng, giải pháp chủ yếu, từ đó là căn cứ lý luận, cơ sở thực
tiễn tiếp tục phát triển Khu kinh tế cửa khẩu gắn với xoá đói giảm nghèo ở
tỉnh Lào Cai.


6
- Luận văn thạc sĩ Truyền thông đại chúng của Phạm Thị Thanh

Phương (thực hiện năm 2008 tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền) có tiêu
đề: Hệ thống phát thanh, truyền hình các tỉnh miền Đông Nam Bộ.
Tất cả các công trình nghiên trên đều đề cập dưới góc độ khác nhau cả
về lý luận và thực tiễn nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề
“Nâng cao hiệu quả tuyên truyền xóa đói giảm nghèo trên các chương
trình Phát thanh và Truyền hình bằng tiếng Khmer của các đài PTTH
miền Tây Nam bộ hiện nay”. Vì vậy, đề tài mà tác giả lựa chọn để nghiên
cứu không trùng với các công trình nghiên cứu đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ:
Mục đích: Nâng cao chất lượng truyên truyền chương trình phát thanh
và truyền hình bằng tiêng Khmer ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ trong công tác
xóa đói giảm nghèo, nhằm giúp bà con Khmer tiếp thu khoa học kỹ thuật,
nâng cao ý thức tự vươn lên làm giàu bảo đảm cuộc sống bằng chính sức lao
động của mình, không trông chờ vào sự giúp đỡ của chính phủ.
Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu tất cả các chương trình Phát thanh và Truyền hình đạt
chất lượng, chưa đạt chất lượng; đánh giá nguyên nhân đạt được và chưa
được để nâng cao hiệu quả tuyên truyền của chương trình PTTH bằng tiếng
Khmer ở Tây Nam Bộ trong thời gian năm 2014.
- Để xuất các giải pháp nâng cao chất lượng tin, bài phóng sự cho phù
hợp. Kiến nghị xây dựng các chuyên mục, chuyên đề đa dạng, mang tính quần
chúng như dễ hiểu dễ nhớ… để làm thay đổi nhận thức, giúp đồng bào Khmer
nâng cao sự hiểu biết và ý chí thoát nghèo, cải thiện cuộc sống gia đình, góp
phần vào công cuộc XĐGN của địa phương.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:


7
- Đối tượng: Là người sản xuất trực tiếp các chương trình Phát thanh và
Truyền hình bằng tiếng Khmer ở các tỉnh Trà Vinh, An Giang và Sóc Trăng.

- Quan điểm của những người lãnh đạo các tỉnh miền Tây Nam bộ và
tâm lý tiếp nhận của bạn nghe và xem đài.
- Phạm vi nghiên cứu: Các chương trình, chuyên mục về XĐGN của
một số đài Phát thanh và Truyền hình bằng tiếng Khmer ở miền Tây Nam bộ
trong Năm 2014
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
* Cơ sở lý luận:
- Chỉ thị 68-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VI về
công tác vùng đồng bào dân tộc Khmer, Nghị quyết Trung ương 7 khóa IX về
sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, Nghị quyết 30ª/ 2008/ NQ-CP về hỗ trợ giảm
nghèo nhanh, chương trình Mục tiêu Quôc gia về giảm nghèo bền vững...;
- Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn
vùng đồng bào dân tộc và miền núi (còn gọi là Chương trình 135) hỗ trợ phát
triển sản xuất; phát triển cơ sở hạ tầng; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở và
cộng đồng; hỗ trợ học sinh là con của hộ nghèo; hỗ trợ hộ nghèo cải thiện vệ
sinh môi trường; hỗ trợ hoạt động văn hóa thông tin và trợ giúp pháp lý.
- Chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở, nước sinh hoạt theo
Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg, ngày 20-7-2004 của Thủ tướng Chính phủ;
chính sách hỗ trợ giải quyết đất ở, đất sản xuất và giải quyết việc làm cho
đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn vùng đồng bằng sông
Cửu Long giai đoạn 2008 - 2010 (tại Quyết định số 74/2008/QĐ-TTg ngày
09-6-2008 của Thủ tướng Chính phủ).
- Nghị quyết của Tỉnh ủy Trà Vinh như: Nghị quyết 01, Nghị quyết 03,
về hỗ trợ đầu tư phát triển kinh tế, xã hội trong vùng đồng bào khmer.


8
- Nghị quyết số 09/NQ-TU ngày 23/10/2007 của Tỉnh ủy An Giang về
phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc Khmer, Đề án số 25/ĐAUBND ngày 08/12/2008 của UBND tỉnh An Giang, thực hiện một số chính
sách hỗ trợ giải quyết đất ở, đất sản xuất và giải quyết việc làm cho đồng bào

dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn tỉnh An Giang.
- Đề án số 05/ĐA-UBND của Ủy ban Nhân Dân tỉnh Sóc Trăng về hỗ
trợ nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo và hộ nghèo ở ấp
xã, ấp, khóm đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh đến năm 2015. Kết luận số
08-KL/TU, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Sóc Trăng về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng bộ đối với công tác vùng đồng bào dân tộc Khmer và Quyết định số
201/QĐ-UBND của Chủ tịch Ủy ban Nhân Dân tỉnh Sóc Trăng về ban hành
Chương trình hành động thực hiện Chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020
tỉnh Sóc Trăng...
- Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xóa đói giảm nghèo của đồng
bào dân tộc.
- Cơ sở lý luận báo chí.
* Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu tài liệu; văn bản;
- Thăm dò ý kiến (đối tượng là người Khmer đang nghe và xem đài).
- Phương pháp quan sát.
- Khảo sát thực tế, suy luận, phỏng vấn sâu (phỏng vấn các sở, ban,
ngành và lãnh đạo các Đài).
- Phân tích tổng hợp các số liệu.
7. Đóng góp mới của luận văn :
- Góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho những người trực
tiếp sản xuất chương trình Phát thành và Truyền hình bằng tiếng Khmer có
thêm kinh nghiệm hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.


9
8. Kết cấu nghiên cứu: Gồm 3 chương
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tuyên truyền xóa đói giảm nghèo
trên đài Phát Thanh và Truyền hình bằng tiếng dân tộc.
Chương 2: Các chương trình phát thanh và Truyền hình tiếng Khmer ở

ba tỉnh Tây nam Bộ và hiệu quả tiếp nhận thông tin của đồng bào dân tộc
Khmer.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả tuyên truyền xóa đói giảm
nghèo bằng tiếng Khmer của các đài PH&TH ở Tây Nam Bộ hiện nay.
------------------------------


10

Chương I:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TUYÊN TRUYỀN XÓA ĐÓI GIẢM
NGHÈO TRÊN ĐÀI PHÁT THANH VÀ TRUYỀN HÌNH BẰNG
TIẾNG DÂN TỘC
1.1. Khái niệm phát thanh:
Phát thanh là một loại hình báo chí mà đặc trưng cơ bản của nó là dùng
âm thanh phong phú, sinh động ( lời nói, tiếng động, âm nhạc ) để truyền tải
thông điệp nhờ sử dụng sóng điện từ và hệ thống truyền thanh tác động vào
thính giác công chúng.
Ở Việt Nam, chỉ sau 5 ngày Bác Hồ đọc Tuyên ngôn khai sinh nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Đài TNVN chính thức phát chương trình đầu
tiên vào lúc 11h30’ ngày 07.9.1945. Đến nay hệ thống PTTH Việt Nam đã trở
thành một hệ thống khổng lồ được tổ chức từ Trung ương xuống địa phương,
sở hữu hệ thống kỹ thuật công nghệ hiện đại, với công suất hàng chục ngàn
kilowatt, phát sóng AM (sóng trung, sóng ngắn, cab, vệ tinh, Analog, Digital).
và FM, Tăng cường phủ sóng tại những khu vực còn lõm sóng theo quy hoạch
đã được phê duyệt bằng các phương thức AM và FM.
Chương trình phát thanh có đối tượng thính giả rộng rãi, có tính tức
thời và tỏa khắp, tính giao tiếp cá nhân, có khả năng tác động nhanh, dễ tác
động vào tình cảm, sinh động trong cách thể hiện, thuyết phục, lôi kéo bằng
lời nói tác động vào thính giác, kích thích trí tưởng tượng, buộc thính giả phải

tự hình dung, liên tưởng, công chúng có thể ngồi trong nhà mình tiếp nhận
thông tin về các sự kiện thuộc đủ các lĩnh vực và mọi nơi trên trái đất một
cách trực tiếp. [ Phê duyệt Quy hoạch phát thanh]
Phát thanh là phương tiện truyền thông hết sức thân thiết với đông
đảo công chúng nhất là người dân tộc thiểu số vì chính những đặc trưng:


11
sóng vươn tới những vùng miền xa xôi, giao thông khó khăn; người nghe
có thể vừa làm việc vừa theo dõi chương trình; chi phí đầu tư thấp và mang
tính cộng đồng cao.
1.2. Khái niệm về truyền hình:
- Nói đến truyền hình người ta có thể hiểu đơn giản đó là kỹ thuật
truyền tín hiệu bằng hình ảnh và âm thanh đến với người xem, thị giác, thính
giác của con người được tác động bởi những hình ảnh chuyển động và những
âm thanh sống động trên màn hình. Đối với truyền hình người ta không cần
phải hình dung sự kiện qua những lời miêu tả của tác giả, truyền hình có thể
cho người ta thấy những nơi diễn ra sự kiện, sự việc một cách chân thực.
Truyền hình xuất hiện vào đầu thế kỷ XX và phát triển với tốc độ như
vũ bão nhờ vào sự tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, tạo ra một kênh
thông tin quan trọng trong đời sống xã hội. Ngày nay, truyền hình là phương
tiện thiết yếu cho mỗi gia đình, mỗi Quốc Gia và mỗi dân tộc.

Ban

đầu

truyền hình chỉ được sử dụng như là công cụ giải trí, sau đó thêm chức năng
thông tin. Về sau truyền hình đã trực tiếp tham gia vào quá trình giáo dục,
định hướng dư luận xã hội, tổ chức, quản lý, giám sát và phản biện xã hội,

tổng hợp, liên kết và huy động lực lượng, quảng cáo và các dịch vụ khác.
[Quan điểm của Đảng]
Ở Việt Nam, chương trình truyền hình phát sóng đầu tiên vào ngày
7/9/1970. Từ đó đến nay, truyền hình Việt Nam đã có nhiều nổ lực vượt bậc
nhằm cải tiến, nâng cao chất lượng các chương trình truyển hình, đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của công chúng. Kể từ khi truyền hình xuất hiện vào đầu
thế kỉ thứ XX và phát triển với tốc độ như vũ bão nhờ sự tiến bộ của khoa học
kỹ thuật và công nghệ, tạo ra một kênh thông tin quan trọng trong đời sống xã
hội. [Giáo trình Báo chí truyền hình]


12
Ngày nay, truyền hình là phương tiện thiết yếu cho mỗi gia đình, mỗi
quốc gia, dân tộc. Truyền hình trở thành công cụ sắc bén trên mặt trận tư
tưởng văn hóa cũng như các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng.
[vai trò truyền hình]
Khi mới ra đời, người ta chỉ sử dụng truyền hình như là công cụ giải trí,
rồi sau đó thêm chức năng thông tin. Dần dần truyền hình đã trực tiếp tham gia
vào quá trình quản lý và giám sát xã hội, tạo lập và định hướng dư luận, giáo dục
và phổ biến kiến thức, phát triển văn hóa quảng cáo và các dịch vụ khác.
Có hai loại truyền hình: là truyền hình sóng (wireless TV) và truyền
hình cáp (CATV):
Truyền hình sóng (vô tuyến truyền hình - Wireless TV): hình ảnh và
âm thanh được mã hóa dưới dạng các tín hiệu sóng và phát vào không trung.
Các máy thu tiếp nhận các tín hiệu rồi giải mã nhằm tạo ra hình ảnh động và
âm thanh trên máy thu hình (ti vi). Còn sóng truyền hình là sóng phát thẳng.
Vì thế, ăngten thu bắt buộc phải nhìn thấy đợc ăngten máy phát và phải nằm
trong vùng phủ sóng thì mới nhận đợc tín hiệu tốt. Từ những đặc điểm kỹ
thuật trên, nên truyền hình sóng chỉ có khả năng đáp ứng nhu cầu của công
chúng bằng các chơng trình cho các đối tượng: không có khả năng đáp ứng

mọi nhu cầu hay dịch vụ cá nhân.
Truyền hình cáp (hữu tuyến CATV - viết tắt tiếng Anh là communly
Antenu Television) đáp ứng nhu cầu phục vụ tốt hơn cho công chúng.
Nguyên tắc thực hiện của truyền hình cáp là tín hiệu đợc truyền trực tiếp qua
cáp nối từ đầu máy phát đến từng máy thu hình. Từ đó, truyền hình cáp trong
cùng một lúc có thể chuyển đi nhiều chương trình khác nhau đáp ứng theo
nhu cầu của ngời sử dụng. Ngoài ra, truyền hình cáp còn phục vụ nhiều dịch
vụ khác mà truyền hình sóng không thể thực hiện được.
1.3. Mục đích của việc xóa đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước.


13
Ngay sau khi giành được chính quyền, lập nên Nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cao nhiệm vụ diệt giặc đói, cho đó là
nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, ngang tầm với nhiệm vụ diệt
giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm1. Trong thư gửi đồng bào toàn quốc Chủ tịch
Hồ Chí Minh viết: “Cuộc chống nạn đói cũng như cuộc chống ngoại xâm”2,
“Nạn đói không kém phần nguy hiểm hơn nạn chiến tranh”3, “Khi có chiến
tranh thì phải huy động và tổ chức tất cả lực lượng trong nước để chống giặc.
Muốn chống nạn đói, cũng phải huy động và tổ chức tất cả lực lượng của
toàn quốc đồng bào”4; “Công việc chống nạn đói, cũng như công việc to lớn
khác, phải kiên quyết, phải phấn đấu, phải sẵn lòng hy sinh, phải toàn dân
nhất trí”5.
Nhất quán thực hiện đường lối “diệt giặc đói” do Bác Hồ đề ra, trong
tất cả các thời kỳ lãnh đạo đất nước từ khi giành độc lập đến nay, Đảng và
Nhà nước ta đã kiên trì đề ra và thực hiện nhiều chính sách giúp người dân
phát triển kinh tế, cải thiện cuộc sống, vươn lên xóa đói, giảm nghèo. Nhất là
từ Đại hội VII (năm 1991) đến nay, xóa đói, giảm nghèo đã trở thành Chương
trình mục tiêu quốc gia. Tại Đại hội VII, Đảng ta xác định: xóa đói, giảm
nghèo là một trong những chương trình kinh tế - xã hội vừa cấp bách trước

mắt vừa cơ bản lâu dài và đề ra mục tiêu: “Đáp ứng tốt hơn các nhu cầu thiết
yếu và ngày càng đa dạng của các tầng lớp dân cư; bảo đảm vững chắc nhu
cầu lương thực, khắc phục tình trạng thiếu đói thường xuyên và nạn đói giáp
hạt ở một số vùng; nâng mức cung ứng và tiêu dùng thực phẩm, tăng thêm
dinh dưỡng bữa ăn của đông đảo nhân dân”6. Đặc biệt Nghị quyết Trung ương
1
2
3
4
5
6

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.556
Hồ Chí Minh, Sđd, tập 4, tr.109
Hồ Chí Minh, Sđd, tập 4, tr.108
Hồ Chí Minh, Sđd, tập 4, tr.108
Hồ Chí Minh, Sđd, tập 4, tr.109
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.73


14
5 (khoá VII) đã đặt ra một nhiệm vụ ưu tiên xóa đói, giảm nghèo cho các hộ
gia đình “vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng trước đây là căn
cứ cách mạng".
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ năm 1996 đến
nay, mặc dù phải tập trung nguồn lực cho phát triển công nghiệp, Đảng và
Nhà nước vẫn giành phần đầu tư thích đáng để “Thực hiện tốt chương trình
xóa đói, giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số. Xây dựng và phát triển quỹ xóa đói, giảm nghèo bằng nhiều
nguồn vốn trong và ngoài nước; quản lý chặt chẽ, đầu tư đúng đối tượng và có

hiệu quả”7.
Theo thời gian, các chủ trương, nội dung, phương thức, giải pháp thực
hiện xóa đói, giảm nghèo đã được Nhân dân, Nhà nước và Đảng ta sáng tạo,
tổng kết và đúc rút thành các bài học kinh nghiệm hữu ích. Từ những giải
pháp như tổ chức tốt đời sống xã hội trên từng địa bàn để trong điều kiện thu
nhập bình quân đầu người còn thấp, vẫn tạo được một cuộc sống khá hơn cho
người nghèo; Mở rộng diện các xã có điện, có đường, có trường học, có trạm
y tế, có nước sạch… để tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản cho người
nghèo. Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh: “…khuyến khích làm giàu hợp pháp,
đồng thời ra sức xóa đói, giảm nghèo” 8; huy động mọi nguồn lực của Nhà
nước và toàn xã hội, tăng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cho vay vốn, trợ
giúp đào tạo nghề, cung cấp thông tin, chuyển giao công nghệ, giúp đỡ tiêu
thụ sản phẩm… đối với những vùng nghèo, xã nghèo và nhóm dân cư nghèo;
Nhà nước tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích mọi người giúp đỡ người
nghèo. Thực hiện trợ cấp xã hội đối với những người có hoàn cảnh đặc biệt
không thể tự lao động, không có người bảo trợ, nuôi dưỡng9…
7

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.115
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 163
9
Sđd, tr.211-212
8


15
Đại hội X, XI tiếp tục nhấn mạnh hơn nữa chủ trương đa dạng hóa các
nguồn lực và phương thức thực hiện xóa đói, giảm nghèo theo hướng phát
huy cao độ nội lực và kết hợp sử dụng có hiệu quả sự trợ giúp của quốc tế; kết
hợp chính sách của Nhà nước với sự giúp đỡ trực tiếp và có hiệu quả của toàn

xã hội, của những người khá giả cho người nghèo, hộ nghèo, nhất là với những
vùng đặc biệt khó khăn; Nhà nước đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã
hội và trợ giúp về điều kiện sản xuất, nâng cao kiến thức để người nghèo, hộ
nghèo, vùng nghèo tự vươn lên thoát nghèo và cải thiện mức sống một cách
bền vững; Ngăn chặn tình trạng tái nghèo, tiến tới thực hiện giảm nghèo bền
vững,…”10; giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị….
Như vậy, kể từ Đại hội VII (năm 1991) đến nay, trong đường lối lãnh
đạo, Đảng ta luôn thể hiện tính nhất quán, xuyên suốt và qua mỗi kỳ Đại hội, tư
duy lý luận của Đảng về vấn đề xóa đói, giảm nghèo không ngừng được bổ
sung, phát triển, hoàn thiện cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn của từng thời kỳ.
Kể từ Đại hội VII (năm 1991) đến nay, xóa đói, giảm nghèo đã trở
thành Chương trình mục tiêu quốc gia. Tại Đại hội VII, Đảng ta xác định: xóa
đói, giảm nghèo là một trong những chương trình kinh tế - xã hội vừa cấp
bách trước mắt vừa cơ bản lâu dài và đề ra mục tiêu: “Đáp ứng tốt hơn các
nhu cầu thiết yếu và ngày càng đa dạng của các tầng lớp dân cư; bảo đảm
vững chắc nhu cầu lương thực, khắc phục tình trạng thiếu đói thường xuyên
và nạn đói giáp hạt ở một số vùng; nâng mức cung ứng và tiêu dùng thực
phẩm, tăng thêm dinh dưỡng bữa ăn của đông đảo nhân dân”6.
Các chủ trương, nội dung, phương thức, giải pháp thực hiện xóa đói,
giảm nghèo đã được Nhân dân, Nhà nước và Đảng ta sáng tạo, tổng kết và
đúc rút thành các bài học kinh nghiệm hữu ích. Từ những giải pháp như tổ
10

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.217

611

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.73



16
chức tốt đời sống xã hội trên từng địa bàn để trong điều kiện thu nhập bình
quân đầu người còn thấp, vẫn tạo được một cuộc sống khá hơn cho người
nghèo; Mở rộng diện các xã có điện, có đường, có trường học, có trạm y tế,
có nước sạch… để tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản cho người
nghèo. Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh: “…khuyến khích làm giàu hợp pháp,
đồng thời ra sức xóa đói, giảm nghèo” 8; huy động mọi nguồn lực của Nhà
nước và toàn xã hội, tăng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cho vay vốn, trợ
giúp đào tạo nghề, cung cấp thông tin, chuyển giao công nghệ, giúp đỡ tiêu
thụ sản phẩm… đối với những vùng nghèo, xã nghèo và nhóm dân cư nghèo;
Nhà nước tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích mọi người giúp đỡ người
nghèo. Thực hiện trợ cấp xã hội đối với những người có hoàn cảnh đặc biệt
không thể tự lao động, không có người bảo trợ, nuôi dưỡng9…
Tăng cường phát triển kinh tế, nỗ lực xoá đói giảm nghèo trong vùng
đồng bào Khmer cũng là để thực hiện quyền bình đẳng đối với các dân tộc,
góp phần quan trọng trong việc giải toả những nguyên nhân sâu xa có thể dẫn
đến những xung đột mang tính chất sắc tộc. tiếp tục đẩy mạnh công tác xoá đói
giảm nghèo, nhất là đối với đồng bào Khmer ở vùng Tây Nam Bộ. Cần tập trung
nghiên cứu những giải pháp, điều kiện để giúp đồng bào Khmer thoát nghèo một
cách thiết thực. Chẳng hạn, cần sớm đưa ra chính sách chuyển đổi cơ cấu kinh
tế, chính sách hỗ trợ đất sản xuất, chính sách về vay vốn, chính sách giải quyết
việc làm, chính sách đào tạo nghề… một cách hợp lý và căn bản. [ Công tác xóa
đói]
1.4. Các nội dung yêu cầu đòi hỏi công tác Phát thanh và Truyền hình
trong việc tuyên truyền về xóa đói giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc
Khmer ở miền Tây Nam bộ phải đáp ứng:

812
913


Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 163
Sđd, tr.211-212


17
1.4.1.Các chủ trương, chính sách về xóa đói giảm nghèo đối với đồng
bào Khmer ở Tây Nam Bộ.
Thời gian qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương,
chính sách “xóa đói giảm nghèo” nhằm giúp đồng bào dân tộc khmer ở vùng
Tây Nam Bộ thoát khỏi sự nghèo đói và được các địa phương tích cực triển
khai thực hiện có hiệu quả các chính sách này, bao gồm các chủ trương chính
sách dưới đây:
- Chính sách trợ giá, trợ cước các mặt hàng thiết yếu, trong đó có hỗ
trợ giống cây trồng, vật nuôi, góp phần cải thiện đời sống trước mắt cho hộ
nghèo, đồng thời giúp hộ nghèo phát triển sản xuất.
- Chính sách hỗ trợ hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn… góp phần
cải thiện đời sống của hộ nghèo.
- Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn
vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 - 2010 (còn gọi là Chương
trình 135 giai đoạn II) hỗ trợ phát triển sản xuất; phát triển cơ sở hạ tầng; đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở và cộng đồng; hỗ trợ học sinh là con của hộ
nghèo; hỗ trợ hộ nghèo cải thiện vệ sinh môi trường; hỗ trợ hoạt động văn hóa
thông tin và trợ giúp pháp lý. Chương trình 135 là chương trình hợp lòng dân,
phát huy hiệu quả tích cực, từng bước rút ngắn khoảng cách chênh lệch, góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tại các địa bàn đặc biệt khó khăn.
- Chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở, nước sinh hoạt theo
Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg, ngày 20-7-2004 của Thủ tướng Chính phủ;
chính sách hỗ trợ giải quyết đất ở, đất sản xuất và giải quyết việc làm cho
đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn vùng đồng bằng sông
Cửu Long giai đoạn 2008 - 2010 (tại Quyết định số 74/2008/QĐ-TTg ngày

09-6-2008 của Thủ tướng Chính phủ).
-

Chính sách hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo (theo Quyết định số


18
167/2008/QĐ-TTg, ngày 12-12-2008 của Thủ tướng Chính phủ.
- Chính sách hỗ trợ dầu hỏa thắp sáng và điện sinh hoạt. (theo Quyết
định số 289/QĐ-TTg ngày 18-3-2008 của Thủ tướng Chính phủ).
- Chính sách cho vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ đồng bào dân
tộc thiểu số đặc biệt khó khăn (theo Quyết định số 32/2007/QĐ-TTg ngày 53-2007 và Quyết định số 126/2008/QĐ-TTg ngày 15-9-2009 của Thủ tướng
Chính phủ). Hộ dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn, trong đó có hộ
dân tộc Khmer được vay vốn để phát triển sản xuất, mỗi hộ được vay không
quá 5.000.000đ/hộ/năm..
- Chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cư cho đồng bào
dân tộc thiểu số giai đoạn 2007 - 2010 (theo Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg
ngày 5-3-2007 của Thủ tướng Chính phủ) và Chính sách hỗ trợ định canh,
định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số du canh, du cư đến năm 2012 (theo
Quyết định số 1342/QĐ-TTg ngày 25-8-2009 của Thủ tướng Chính phủ). Đặc
điểm của chính sách là địa phương lập dự án để bố trí hộ nghèo có chỗ ở ổn định
- Chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc diện hộ nghèo ở vùng
khó khăn (tại Quyết định số 102/2009/QĐ-TTg ngày 07-8-2009 của Thủ tướng
Chính phủ). Đặc điểm của chính sách là hỗ trợ trực tiếp người nghèo, mỗi lượt
người từ 80.000 - 100.000đ/lần. Tùy địa phương, có thể hỗ trợ bằng tiền mặt,
hoặc bằng vật dụng thiết yếu, hoặc bằng giống cây trồng..
- Chính sách khám, chữa bệnh và cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người
nghèo. Đặc điểm của chính sách là Nhà nước hỗ trợ kinh phí khám, chữa
bệnh và mua thẻ bảo hiểm y tế cấp cho người nghèo. Hầu hết người nghèo
nói chung, trong đó có đồng bào Khmer nghèo đều được thụ hưởng chính

sách này. Chính sách đào tạo nhân lực y tế cho vùng khó khăn, vùng núi của
các tỉnh thuộc miền Bắc và miền Trung, vùng đồng bằng sông Cửu Long và
vùng Tây Nguyên theo chế độ cử tuyển (tại Quyết định 1544/2007/QĐ-TTg


19
ngày 14-11-2007 của Thủ tướng Chính phủ). Đây là chính sách đào tạo
nguồn nhân lực y tế mang tính chất vùng miền, trong đó con em đồng bào
dân tộc Khmer cũng được thụ hưởng, góp phần đào tạo nguồn nhân lực y tế
cho vùng dân tộc Khmer.
- Chính sách cử tuyển vào cơ sở giáo dục trình độ đại học, cao đẳng,
trung cấp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân (theo Nghị định số 134/2006/NĐCP ngày 14-11-2006 của Chính phủ). Chính sách này áp dụng tại các xã đặc
biệt khó khăn, được triển khai thực hiện từ năm 1990. Đến năm 2006, Chính
phủ tiếp tục ban hành Nghị định 134/2006/NĐ-CP để nâng cao chất lượng cử
tuyển. Chính sách này góp phần rất lớn trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho
vùng dân tộc Khmer.
- Chính sách dự bị đại học dành cho học sinh dân tộc thiểu số có điểm
thi tuyển cấp quốc gia thấp hơn điểm sàn, qua 01 năm dự bị, sẽ được bố trí
vào các trường đại học theo ngành học mà học sinh thi tuyển. Chính sách này
áp dụng từ năm 1991, đến nay đã được 24 năm. Mỗi năm, học sinh dân tộc
Khmer được tham gia các lớp dự bị đại học trung bình 1.000 học sinh, góp
phần to lớn trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho vùng dân tộc Khmer, cần
được duy trì và phát huy.
- Chính sách đối với trường phổ thông dân tộc nội trú. Đây là chính sách
chung trong vùng dân tộc thiểu số áp dụng trong phạm vi cả nước từ năm 1993,
đến nay đã được 22 năm. Chính sách này có hiệu quả thiết thực, góp phần đào
tạo nguồn cán bộ cho vùng dân tộc Khmer, cần được duy trì và phát huy.
- Chính sách phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề vùng ĐBSCL
giai đoạn 2011 - 2015 (theo Quyết định số 1033/QĐ-TTg, ngày 30-6-2011
của Thủ tướng Chính phủ). Đây là quyết định thay thế Quyết định số

20/2006/QĐ-TTg, ngày 20-01-2006 của Thủ tướng Chính phủ, tức là tiếp tục
ban hành cơ chế chính sách phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề vùng


20
ĐBSCL trong giai đoạn 2011 - 2015. Theo quyết định này, có 12 nội dung
liên quan đến giáo dục, đào tạo, dạy nghề đối với đồng bào Khmer.
Ở các tỉnh như Trà Vinh, Sóc Trăng và An Giang Tỉnh ủy, Ủy ban nhân
dân các tỉnh đã ban hành văn bản cụ thể hóa, góp phần phát triển đời sống
kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn tỉnh.
Ở Trà Vinh, Ngay từ khi vừa tái lập tỉnh, Tỉnh ủy Trà Vinh đã ban hành
Nghị quyết số 01-NQ/TU về "công tác trong vùng đồng bào dân tộc Khmer".
Đến năm 2003, trên cơ sở tổng kết Nghị quyết số 01-NQ/TU, Tỉnh ủy tiếp tục
ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TU về “phát triển toàn diện vùng đồng bào
Khmer". Trong đó, khẳng định thành tựu sau gần 10 năm thực hiện Nghị
quyết số 01-NQ/TU là: "số hộ nghèo toàn tỉnh giảm đáng kể, từ trên 40%
(năm 1992) giảm xuống còn khoảng 19% (năm 2002), trong đó đồng bào
Khmer chiếm 43% so với số hộ nghèo chung". Đến năm 2011, trước những
biến đổi của tình hình kinh tế - xã hội, Tỉnh ủy tiếp tục ban hành Nghị quyết
số 03-NQ/TU về “tiếp tục phát triển toàn diện vùng đồng bào Khmer giai
đoạn 2011 - 2015". Trong đó khẳng định: "Tiếp tục thực hiện tốt chính sách
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh trong vùng có đông
đồng bào Khmer, tập trung thực hiện kế hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất
nông - lâm - ngư nghiệp, nhân rộng các mô hình sản xuất có hiệu quả, tăng
hiệu quả sử dụng đất đai và lao động, tăng thu nhập và mức sống của đồng
bào Khmer", đặc biệt tỉnh triển khai thực hiện tốt các chính sách của Trung
ương đối với đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là chính sách đầu tư cơ sở hạ
tầng phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội.
Ở Sóc Trăng, Tỉnh uỷ Sóc Trăng tiếp tục quán triệt và đẩy mạnh thực
hiện Chỉ thị 68-CT/TW, ngày 18/4/1991 của Ban Bí thư Trung ương Đảng

(khoá VI) về công tác ở vùng đồng bào Khmer. Tiếp đó, Tỉnh uỷ đã ra Nghị
quyết số 05-NQ/TU, ngày 05/4/2002 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ
đối với công tác vùng đồng bào dân tộc Khmer; Kết luận số 08-KL/TU, của


21
Ban Thường vụ Tỉnh ủy Sóc Trăng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ
đối với công tác vùng đồng bào dân tộc Khmer và Quyết định số 201/QĐUBND của Chủ tịch Ủy ban Nhân Dân tỉnh Sóc Trăng về ban hành Chương
trình hành động thực hiện Chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020 tỉnh Sóc
Trăng. Đến khi có Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khoá IX) về công tác
dân tộc, Tỉnh uỷ đã gắn kết kiểm điểm 1 năm thực hiện Nghị quyết 05NQ/TU của Tỉnh uỷ và xây dựng Chương trình hành động thực hiện Nghị
quyết Trung ương 7 (khoá IX) về công tác dân tộc, chỉ đạo tổ chức quán triệt
cho toàn Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh. Qua quá trình thực hiện, tình hình
dân tộc và công tác vận động trong đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn tỉnh
có những chuyển biến tích cực. (ttp://web.cema.gov.vn)
Ở An Giang, Tỉnh ủy An Giang đã ra Nghị quyết số 09/NQ-TU ngày
23/10/2007 của Tỉnh ủy về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc
Khmer đến năm 2010 và định hướng đến năm 2015; Đề án số 25/ĐA-UBND
ngày 08/12/2008 của UBND tỉnh Thực hiện một số chính sách hỗ trợ giải
quyết đất ở, đất sản xuất và giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số
nghèo, đời sống khó khăn tỉnh An Giang giai đoạn 2008 - 2010; Chương trình
bảo tồn và phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp giai đoạn 2008 - 2010 và
tầm nhìn đến năm 2020, liên quan đến chính sách hỗ trợ đào tạo, truyền nghề
dệt thổ cẩm truyền thống cho đồng bào dân tộc Khmer; Quyết định số
881/QĐ-UBND ngày 23/4/2009 của UBND tỉnh về phê duyệt Đề án hỗ trợ hộ
nghèo về nhà ở tỉnh An Giang (giai đoạn 2009 - 2010).
Ngoài ra, tỉnh còn ban hành nhiều chính sách kêu gọi đầu tư đối với
các xã có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh sống, xây dựng các cơ chế,
chính sách thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy phát triển
kinh tế biên mậu gắn với phát huy lợi thế về dịch vụ, du lịch, tạo đòn bẩy

phát triển kinh tế. Hiện nay, tỉnh đã xây dựng xong Đề án phát triển kinh tế -


22
xã hội vùng đồng bào dân tộc Khmer - Chăm tỉnh An Giang giai đoạn 2011 2015 và đến năm 2020 với 07 dự án nhánh, đã phân công cho các sở, ngành
triển khai thực hiện, trong đó, đã trình Chính phủ kêu gọi tài trợ 02 dự án
nhánh.
1.4.2. Kết quả đạt được về công tác xóa đói giảm nghèo:
Đảng và Nhà nước ta luôn xem xóa đói, giảm nghèo là chủ trương lớn,
với mục đích cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người nghèo, từng
bước thu hẹp khoảng cách, trình độ phát triển giữa các vùng, địa bàn và giữa
các dân tộc, nhóm dân cư nói chung và đồng bào dân tộc Khmer ở Tây Nam
bộ nói riêng (sống chủ yếu tập trung ở các tỉnh, thành như: Sóc Trăng, Trà
Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, Hậu Giang, An Giang, Vĩnh Long,
Thành phố Cần Thơ).
Trên cơ sở sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước, nhiều năm qua
các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể các tỉnh, thành ở khu
vực này đã cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Trung ương để tích cực
thực hiện tốt các chính sách dân tộc, xóa đói giảm nghèo trong đồng bào dân
tộc Khmer, giúp đời sống của họ được cải thiện rõ rệt.
Theo Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ, trong gần 2 năm qua (2013-2014), các
bộ, ngành Trung ương và địa phương luôn quan tâm và đề ra nhiều chính sách
đặc thù áp dụng có hiệu quả là vốn hỗ trợ phát triển sản xuất, định canh, định
cư; hỗ trợ đời sống cho người nghèo với tổng số hơn 534.000 lượt người; hỗ
trợ nước hợp vệ sinh cho hộ nghèo với tổng kinh phí trên 80 tỷ đồng nhằm
tiếp tục thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, đảm
bảo an sinh xã hội cho gần 1,3 triệu người đồng bào Khmer. Tính đến hết quý
I-2014 tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc Khmer còn khoảng 25%, trung
bình mỗi năm giảm khoảng 3%.
Có thể khẳng định rằng, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà



23
nước, nhất là sự chỉ đạo, lãnh đạo sâu sát của các địa phương trong việc thực
hiện chính sách dân tộc đối với đồng bào Khmer đã và đang trở thành động
lực, tạo điều kiện, hỗ trợ đồng bào dân tộc Khmer từng bước vươn lên thoát
nghèo theo hướng bền vững; đời sống vật chất tinh thần của vùng đồng bào
dân tộc ngày càng ổn định và phát triển về vật chất, tinh thần, làm cho đồng
bào dân tộc tin tưởng, phấn khởi, hăng hái tham gia vào sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.
1.4.3. Nhiều hạn chế, vướng mắc trong công tác xóa đói giảm nghèo
cần sớm tháo gỡ:
Tuy nhiên, đánh giá trên phương diện khách quan, cụ thể của thực tiễn
đối với yêu cầu mới, thì kết quả đạt được trong công tác xóa đói, giảm nghèo
nơi đây chưa thật sự vững chắc, nó thể hiện qua sự chênh lệch giàu - nghèo
giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp, đặc biệt là ở những địa bàn
có tỷ lệ hộ nghèo cao.
Điển hình như, Sóc Trăng là tỉnh có đồng bào Khmer nhiều nhất khu
vực Tây Nam bộ với khoảng trên 400.000 người, chiếm gần 31% dân số toàn
tỉnh, với 80/109 xã, phường, thị trấn có đông đồng bào Khmer, trong đó có 39
xã đặc biệt khó khăn và 33 xã khu vực II với 98 ấp đặc biệt khó khăn, đáng
chú ý là tính đến 6 tháng đầu năm 2014 tỉ lệ hộ nghèo còn cao, lên tới 30%
theo tiêu chí mới và chủ yếu tập trung ở khu vực đồng bào dân tộc. Tại Trà
Vinh, với số dân gần 1 triệu người, trong đó có trên 30% đồng bào Khmer,
nhưng tính đến nay địa phương này còn trên 36.800 hộ nghèo, trong đó số hộ
dân tộc Khmer nghèo chiếm hơn 20.800 hộ, tức khoảng 56,5%. Tỉnh An
Giang hiện có hơn 90.000 người dân tộc Khmer, chiếm khoảng 4,2% dân số
toàn tỉnh. Đời sống của đồng bào Khmer vẫn còn nhiều khó khăn; tỷ lệ hộ
nghèo còn khá cao, tính từ năm 2007 - 2013, tỷ lệ bình quân hộ nghèo là dân
tộc thiểu số giảm 4,93%/năm, nhưng kết quả này vẫn chưa bền vững, vì nhiều



24
hộ thoát nghèo nhưng còn ở ngưỡng cận nghèo. Với 26.257 nhân khẩu đồng
bào Khmer ở tỉnh Hậu Giang sống tập trung chủ yếu ở 23 xã thuộc vùng khó
khăn, 31 ấp đặc biệt khó khăn. Trong 10 năm qua, tổng kinh phí được cấp để
thực hiện các chương trình, dự án trong đồng bào dân tộc trên địa bàn tỉnh là
trên 157 tỷ đồng đã và đang phát huy góp phần làm giảm mạnh tỷ lệ hộ nghèo
từ trên 41% (năm 2004) đến nay giảm còn 35,5% . Tỉnh Cà Mau có 45/47 xã
thuộc vùng đồng bào dân tộc Khmer đều có tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân từ
2-3%/năm, trong đó 10 xã có tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 3% trở lên; hiện nay toàn
tỉnh còn 3 xã vùng dân tộc Khmer có tỷ lệ hộ nghèo cao vượt mức 24%. [ Hạn
chế]

Tiểu kết:
Phát thanh và Truyền hình có ưu thế đặc biệt truyền thông tin nhanh,
nhạy, kịp thời có sức lôi cuốn lớn đối với khán, thính giả trong phạm vi không
gian rộng lớn và có sức lan truyền lớn. Phát thanh và Tuyền hình là kênh thông
tin quan trọng chuyển tải tâm tư, nguyện vọng của đồng bào tới Đảng và Nhà
nước. Thông tin, tuyên truyền phục vụ đồng bào dân tộc Khmer, giúp đồng bào
nắm bắt kịp thời các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Tuyên truyền những chương trình, dự án của Nhà nước hỗ trợ đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi để đồng bào thấy được sự quan tâm đầu tư từ Trung ương,
sự giúp đỡ của toàn xã hội nhằm nâng cao hơn nữa đời sống, từng bước xóa đói
giảm nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng.
Xóa đói giảm nghèo là một chiến lược của Đảng và Nhà nước ta nhằm
giải quyết vấn đề đói nghèo và phát triển kinh tế tại Việt Nam. Ðảng và Nhà
nước luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với công tác giảm nghèo và phát triển
kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng sâu, vùng xa,
vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn.



25
Nhưng hiện nay, người nghèo đang được hưởng thụ nhiều chính sách hỗ
trợ, đặc biệt là các chính sách hỗ trực tiếp (chính sách Bảo hiểm y tế, chính
sách hỗ trợ giáo dục, chính sách hỗ trợ về nhà ở,....), dẫn đến tư tưởng ỷ lại,
trông chờ vào sự hỗ trợ của nhà nước. Công tác tuyên truyền nâng cao nhận
thức của người dân, khắc phục tình trạng trông chờ, ỷ lại vào nhà nước vẫn
chưa đạt hiệu quả cao.
Chính vì vậy, xác định được nguyên nhân gây nên đói nghèo của nhân
dân, chúng ta cần phải phát huy những ưu điểm của Phát thanh và truyền
hình, đồng thời khắc phục những hạn chế tồn động để cơ quan báo chí nói
chung và ngành Phát thanh và Truyền hình Tây Nam Bộ nói riêng làm tốt hơn
nữa công tác tuyên truyền, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước
giao phó. Ngoài nhận thức đúng về nguyên nhân và thực trạng của nghèo đói,
cần nhận thức rõ vai trò của người nghèo để đẩy mạnh công tác tuyên truyền
về xóa đói giảm nghèo. Xác định rõ vai trò của nhưng người thực hiện công
việc này là việc làm cần thiết để đảm bảo công việc tuyên truyền đạt được
nhiều thành tựu hơn.


×