Tải bản đầy đủ (.doc) (131 trang)

Luận văn thạc sĩ báo chí học tổ chức sản xuất chương trình truyền hình thời sự quốc tế trên đài PTTH vĩnh long hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.06 MB, 131 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

TỔ CHỨC SẢN XUẤT CHƯƠNG TRÌNH
TRUYỀN HÌNH THỜI SỰ QUỐC TẾ
TRÊN ĐÀI PHÁT THANH VÀ TRUYỀN HÌNH
VĨNH LONG HIỆN NAY
Ngành

: Báo chí học

Mã số

: 60 32 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS.

CẦN THƠ - 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu đề tài Tổ chức
sản xuất chương trình truyền hình thời sự quốc tế trên
Đài Phát thanh và Truyền hình Vĩnh Long hiện nay là của


bản thân, chưa từng được công bố trong bất kỳ tài liệu, ấn
phẩm hay phương tiện truyền thông nào.
Tác giả luận văn


MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC SẢN XUẤT CÁC
CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH

1.1. Khái niệm tổ chức sản xuất chương trình truyền hình
1.2. Các yếu tố cấu thành tổ chức sản xuất chương trình truyền hình
1.3. Tổ chức sản xuất chương trình truyền hình thời sự quốc tế

7
7
17
24

Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC SẢN XUẤT CÁC CHƯƠNG
TRÌNH TRUYỀN HÌNH THỜI SỰ QUỐC TẾ TRÊN
ĐÀI PHÁT THANH VÀ TRUYỀN HÌNH VĨNH LONG
HIỆN NAY

33


2.1. Các chương trình truyền hình thời sự quốc tế của Đài Phát
thanh và Truyền hình Vĩnh Long
2.2. Tình hình tổ chức sản xuất các chương trình truyền hình thời sự

33

quốc tế của Đài Phát thanh và Truyền hình Vĩnh Long hiện nay
2.3. Kết quả tổ chức sản xuất các chương trình truyền hình thời sự

38

quốc tế của Đài Phát thanh và Truyền hình Vĩnh Long

54

Chương 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ, CHẤT
LƯỢNG TỔ CHỨC SẢN XUẤT CÁC CHƯƠNG TRÌNH
TRUYỀN HÌNH THỜI SỰ QUỐC TẾ TRÊN ĐÀI PHÁT

3.1. Giải pháp chung
3.2. Giải pháp cụ thể

72
72
77

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


96
97
101

THANH VÀ TRUYỀN HÌNH VĨNH LONG


DANH MỤC CÁC ẢNH, BIỂU ĐỒ
Trang
Ảnh 2.1:

Ban biên tập các chương trình nước ngoài hội ý

Ảnh 3.1:

công việc
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama tiếp đón Tổng

36

Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Phòng Bầu dục,

Biểu đồ 2.1:
Biểu đồ 2.2:
Biểu đồ 2.3:
Biểu đồ 2.4:
Biểu đồ 2.5:
Biểu đồ 2.6:
Biểu đồ 2.7:
Biểu đồ 2.8:

Biểu đồ 2.9:

Washington D.C

76

So sánh các chương trình tin tức, thời sự trên THVL1
So sánh các chương trình tin tức buổi sáng
Thị phần khán giả
So sánh các chương trình thời sự, tin tức trưa
Thị phần khán giả
So sánh các chương trình thời sự, tin tức buổi tối
Thị phần khán giả
So sánh các chương trình thời sự khuya
Thị phần khán giả

61
61
62
62
63
63
64
64
65


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Những năm gần đây, các chương trình truyền hình nói chung, các
chương trình thời sự nói riêng ngày càng tỏ rõ vai trò trong việc
mang Việt Nam đến với thế giới, mang thế giới về Việt Nam. Chính sách mở
cửa, hội nhập và đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện
thuận lợi cho việc mở rộng thông tin quốc tế, làm cho công tác thông tin quốc
tế của báo chí ngày càng phát triển. Bên cạnh đó, nhu cầu tìm hiểu thông tin
thời sự quốc tế của các tầng lớp khán giả cũng không ngừng tăng cao.
Hiện nay, tình hình quốc tế có nhiều biến động phức tạp, việc tổ chức
thông tin định hướng tư tưởng kịp thời về các sự kiện quốc tế đến cán bộ,
đảng viên và nhân dân có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ công tác tư
tưởng nói chung. Nhất là đối với những vấn đề nhạy cảm, việc thông tin hiệu
quả, nhanh chóng và kịp thời vừa giải quyết nhu cầu thông tin, vừa thực hiện
chức năng tuyên truyền để định hướng thông tin và dư luận.
Mặt khác, trong bối cảnh tình hình biển Đông trở nên căng thẳng với
nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, thu hút sự quan tâm, lo ngại của nhiều
nước trong và ngoài khu vực, tác động tới quan hệ đối ngoại của Việt Nam,
chúng ta cần tích cực triển khai nhiều hình thức tuyên truyền và biện pháp
đấu tranh dư luận để bảo vệ chủ quyền quốc gia ở biển Đông, tranh thủ sự
ủng hộ của bạn bè quốc tế; nâng cao nhận thức của nhân dân về chủ quyền
biển, đảo, tạo sự đồng thuận lớn hơn trong xã hội về vấn đề biển, đảo.
Nằm giữa đồng bằng sông Cửu Long, tỉnh Vĩnh Long có vị trí giao
thông thuận lợi, kết nối với cả đồng bằng. Cùng với cả nước, Vĩnh Long đang
đẩy mạnh xây dựng quê hương ngày một đi lên đồng thời từng bước hội nhập
khu vực và quốc tế.
Với những nỗ lực liên tục, thời gian qua Đài Phát thanh và Truyền
hình (PT&TH) Vĩnh Long đã có nhiều đóng góp đáng kể trong sự phát triển


2
của tỉnh nhà nói riêng và của khu vực nói chung. Các kênh truyền hình của

đài đã hòa vào nhiều mạng truyền hình cáp trong nước, được đưa lên vệ tinh
Vinasat và mạng internet. Nhờ đó, các chương trình của đài trong đó có chương
trình truyền hình thời sự quốc tế đã được khán giả biết đến nhiều hơn, góp phần
mang lại thông tin thiết thực cho người xem trên nhiều lĩnh vực như chính trị,
kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học...trong nước và thế giới.
Tổ chức sản xuất chương trình truyền hình là hoạt động quan trọng
trong việc thực hiện các chương trình truyền hình nói chung trong đó có
chương trình thời sự quốc tế, vì thế việc hiểu được công tác tổ chức sản xuất
là vô cùng cần thiết.
Thực tiễn đó đòi hỏi phải có những nghiên cứu kịp thời về tầm quan
trọng của việc tổ chức sản xuất các chương trình truyền hình thời sự quốc tế.
Mặt khác, đây là đề tài còn ít được nghiên cứu. Những ý kiến đóng góp, phê
bình của khán giả gần xa cho các chương trình truyền hình thời sự quốc tế
cũng là yếu tố thôi thúc đội ngũ cán bộ lãnh đạo phòng Biên dịch, Ban biên
tập các chương trình nước ngoài Đài PT&TH Vĩnh Long (trong đó có bản
thân người viết luận văn này) phải nhanh chóng có những việc làm thiết thực
để nâng cao hiệu quả, chất lượng tổ chức sản xuất các chương trình truyền
hình thời sự quốc tế của Đài. Từ những nguyên nhân đó, tác giả mạnh dạn
đưa ra nghiên cứu đề tài “Tổ chức sản xuất chương trình truyền hình thời sự
quốc tế trên Đài PT&TH Vĩnh Long hiện nay” để chỉ ra thực trạng việc tổ
chức sản xuất các chương trình truyền hình thời sự quốc tế của Đài. Từ đó, luận
văn sẽ đề xuất các giải pháp khắc phục những tồn tại trong công tác tổ chức sản
xuất nhằm giúp các chương trình truyền hình thời sự quốc tế của Đài PT&TH
Vĩnh Long ngày càng khẳng định vị thế trong lòng khán giả gần xa.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tổ chức sản xuất chương trình truyền hình không phải là một vấn đề
mới, đã có nhiều công trình nghiên cứu về đề tài này. Đối tượng khảo sát có


3

thể là công tác tổ chức sản xuất chương trình tại một đài địa phương hoặc
kênh truyền hình quốc gia.
Về đề tài tổ chức sản xuất chương trình truyền hình, theo trình tự thời
gian có thể liệt kê luận văn Thạc sỹ “Tổ chức sản xuất chương trình thời sự
truyền hình ở Đài Phát thanh - Truyền hình Đồng Tháp” của tác giả Dương
Thị Thanh Hương, thực hiện năm 2004 tại Phân viện Báo chí - Tuyên truyền
thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Nội dung của đề tài bàn về
cách thực hiện, tổ chức sản xuất một chương trình thời sự truyền hình.
Trong luận văn Thạc sỹ Truyền thông đại chúng bảo vệ tại Học viện
Báo chí và Tuyên truyền năm 2005 với đề tài: Hoạt động sản xuất chương
trình truyền hình cáp ở Việt Nam hiện nay, tác giả Nguyễn Văn Phú cũng đề
cập đến quy trình tổ chức sản xuất chương trình truyền hình tại Truyền hình
Cáp Việt Nam.
Tác giả Trịnh Thị Thanh Hoa, trong luận văn tốt nghiệp bảo vệ tại Học
viện Báo chí và Tuyên truyền năm 2008 với đề tài: Tổ chức sản xuất chương
trình Thời sự 19h Đài Truyền hình Việt Nam (khảo sát chương trình Thời sự
Đài Truyền hình Việt Nam từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2008), đã đề cập đến
các hoạt động tổ chức sản xuất chương trình tại một bản tin quan trọng của
Đài Truyền hình Việt Nam.
Hay tác giả Hoàng Thị Nga đã nêu rõ những quan niệm cơ bản về tổ
chức sản xuất chương trình truyền hình trong luận văn Thạc sỹ Báo chí học
bảo vệ năm 2012 tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền với đề tài: Tổ chức
sản xuất chương trình truyền hình tại VIT Media.
Ngoài ra, đề tài về tổ chức sản xuất các chương trình truyền hình được
đề cập trong nhiều luận văn cao học và các hội thảo báo chí. Các đề tài
nghiên cứu này đều làm rõ khái niệm tổ chức sản xuất chương trình truyền
hình, đề cập đến hoạt động tổ chức sản xuất chương trình truyền hình. Tuy
nhiên, đến nay chưa có những công trình nghiên cứu đề cập đến tổ chức sản
xuất chương trình truyền hình thời sự quốc tế nhất là tại một đài địa phương.



4
Với những đề tài nghiên cứu đi trước như trên, người viết có điều kiện
để tham khảo, học hỏi về mô hình tổ chức sản xuất chương trình truyền hình,
từ đó đi sâu nghiên cứu về việc tổ chức sản xuất chương trình truyền hình
thời sự quốc tế của Đài PT&TH Vĩnh Long.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trước hết luận văn trình bày rõ hệ tri thức gồm những quan niệm cơ
bản về tổ chức sản xuất chương trình truyền hình, hệ thống các yếu tố cấu
thành tổ chức sản xuất chương trình truyền hình. Từ đó đánh giá thực trạng tổ
chức sản xuất các chương trình truyền hình thời sự quốc tế của Đài PT&TH
Vĩnh Long. Qua phân tích thực trạng tổ chức sản xuất các chương trình
truyền hình thời sự quốc tế cùng những yêu cầu khách quan của khán giả, của
nhiệm vụ thông tin quốc tế trong tình hình mới, đề tài nghiên cứu nêu ra
những giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng tổ chức sản xuất
các chương trình truyền hình thời sự quốc tế của Đài PT&TH Vĩnh Long.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nêu trên, tác giả luận văn thực hiện một số
nhiệm vụ sau đây:
- Luận văn hệ thống hóa những vấn đề lý luận về tổ chức sản xuất các
chương trình truyền hình
- Phân tích thực trạng tổ chức sản xuất các chương trình truyền hình
thời sự quốc tế trên Đài PT&TH Vĩnh Long, những mặt được và chưa được.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng tổ
chức sản xuất các chương trình truyền hình thời sự quốc tế làm tốt nhiệm vụ
thông tin, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị và nhu cầu của khán giả.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác tổ chức sản xuất các chương trình truyền hình thời sự quốc tế



5
phát hàng ngày của Đài PT&TH Vĩnh Long.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài, tác giả sẽ khảo sát thực trạng tổ chức sản xuất
các chương trình truyền hình thời sự quốc tế của Đài PT&TH Vĩnh Long từ
tháng 01/2015 đến tháng 7/2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở nhận thức luận những vấn đề lý luận báo chí
về tổ chức sản xuất các chương trình truyền hình; đường lối, quan điểm,
chính sách của Đảng, Nhà nước ta về công tác báo chí. Từ đó, vận dụng vào
việc khảo sát thực trạng tổ chức sản xuất các chương trình truyền hình thời sự
quốc tế của Đài PT&TH Vĩnh Long.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở các phương pháp công cụ nghiên
cứu như sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: giúp cho người nghiên cứu nắm
được phương pháp của các nghiên cứu đã thực hiện trước đây; có thêm kiến
thức sâu, rộng về lĩnh vực đang nghiên cứu và làm rõ hơn đề tài nghiên cứu
của mình.
- Phương pháp điều tra xã hội học: điều tra theo bảng hỏi nhằm thu
thập, phân tích một cách có định lượng ý kiến của khán giả thuộc các tầng lớp
nhân dân.
Đề tài cũng sử dụng kết quả khảo sát chỉ số khán giả xem chương trình
truyền hình Thời sự quốc tế Đài PT&TH Vĩnh Long và một số đài khác của
Công ty Kantar Media Vietnam.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: tham khảo ý kiến của các chuyên gia,
những người am hiểu, quan tâm đến vấn đề thời sự quốc tế.

- Phương pháp thống kê: để phân tích, đánh giá hoạt động tổ chức sản


6
xuất các chương trình truyền hình thời sự quốc tế của Đài PT&TH Vĩnh Long
nhằm làm cơ sở kiến nghị cách nâng cao hiệu quả, chất lượng tổ chức sản
xuất chương trình.
6. Ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là tài liệu tham khảo thêm về mặt lý luận báo chí truyền
thông về tổ chức sản xuất các chương trình truyền hình thời sự quốc tế tại các
cơ sở đào tạo nghiên cứu truyền thông.
6.2. Giá trị thực tiễn
Luận văn có giá trị tham khảo về mặt thực tiễn tại các cơ quan báo chí
nói chung và tại Đài PT&TH Vĩnh Long nói riêng, giúp những người làm
truyền hình có hiểu biết sâu sắc hơn về tổ chức sản xuất các chương trình
truyền hình thời sự quốc tế, giúp tác giả đề tài mạnh dạn đưa ra một số kiến
nghị, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng tổ chức sản xuất các
chương trình truyền hình thời sự quốc tế của Đài PT&TH Vĩnh Long.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
luận văn có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức sản xuất các chương trình truyền hình.
Chương 2: Thực trạng tổ chức sản xuất các chương trình truyền hình
thời sự quốc tế trên Đài PT&TH Vĩnh Long hiện nay.
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng tổ chức sản xuất
các chương trình truyền hình thời sự quốc tế trên Đài PT&TH Vĩnh Long.


7

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC SẢN XUẤT
CÁC CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH
1.1. Khái niệm tổ chức sản xuất chương trình truyền hình
1.1.1. Tổ chức sản xuất
Theo Từ điển Tiếng Việt, tổ chức là việc sắp xếp, bố trí thành các bộ
phận để cùng thực hiện một nhiệm vụ hoặc cùng một chức năng chung [35,
tr.157]. Tổ chức còn là “làm những gì cần thiết để tiến hành một hoạt động
nào đó nhằm có được hiệu quả tốt nhất”.
Hiểu theo nghĩa thông thường, tổ chức là:
- Sắp xếp, bố trí để làm cho có trật tự, nề nếp.
- Tiến hành một công việc theo cách thức, trình tự nào đó.
Tổ chức là liên kết nhiều người lại để thực hiện một công việc nhất
định. Tổ chức đặt ra để thực hiện nhiệm vụ. Mỗi tổ chức đều có mục đích,
nhiệm vụ riêng.
Cũng theo Từ điển Tiếng Việt, sản xuất là tạo ra vật phẩm cho xã hội
bằng cách dùng tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động [35, tr.342],
là hoạt động bằng sức lao động của con người hoặc bằng máy móc, chế biến
các nguyên liệu thành của cải vật chất cần thiết.
Vật phẩm cho xã hội phải được hiểu bao gồm sản phẩm vật chất và sản
phẩm tinh thần mang những nét đặc thù. Tính đặc thù của sản phẩm phụ
thuộc vào các nhân tố sản xuất như nguồn nhân lực, trình độ chuyên môn,
phương tiện sản xuất và công nghệ sản xuất.
Sản xuất hay sản xuất của cải vật chất là hoạt động chủ yếu trong các
hoạt động kinh tế của con người. Sản xuất là quá trình làm ra sản phẩm để sử
dụng, hay để trao đổi trong thương mại. Quyết định sản xuất dựa vào những
yếu tố chính sau: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Giá
thành sản xuất và làm thế nào để tối ưu hóa việc sử dụng và khai thác các



8
nguồn lực cần thiết làm ra sản phẩm.
Thuật ngữ sản xuất trước đây chỉ bao hàm việc tạo ra sản phẩm hữu
hình. Sau này nó được mở rộng bao hàm cả việc tạo ra các dịch vụ. Ngày
nay, nói đến sản xuất có nghĩa là không kể việc nó tạo ra sản phẩm hữu hình
hay dịch vụ. Hệ thống sản xuất có các đặc tính:
Một là, hệ thống sản xuất chịu trách nhiệm cung cấp sản phẩm hay
dịch vụ cho nhu cầu xã hội.
Hai là, các hình thức sản xuất khác nhau có thể có đầu vào khác nhau,
đầu ra khác nhau, các dạng chuyển hóa khác nhau, song đặc tính chung của
nó là chuyển hóa các yếu tố đầu vào thành các kết quả đầu ra có tính hữu
dụng, có ích cho đời sống của con người.
Các đầu vào của sản xuất là nguyên vật liệu, lao động, các phương
tiện sản xuất, kỹ năng quản trị... Các đầu ra của sản xuất là sản phẩm hay
dịch vụ và các ảnh hưởng khác đến đời sống xã hội [44, tr.20].
Đề cập rõ hơn khái niệm sản xuất, giáo trình giảng dạy môn Tổ chức
lao động, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông cho rằng: “Quá trình
sản xuất là quá trình con người dùng sức lao động của mình thông qua công
cụ lao động tác động vào đối tượng lao động, nhằm mục đích tạo ra những
sản phẩm có ích cho nhu cầu xã hội” [20, tr.13].
Nếu coi sản xuất là một quá trình thì tổ chức sản xuất là các biện
pháp, các phương pháp, các thủ thuật để duy trì mối liên hệ và phối hợp hoạt
động của các cá nhân, các bộ phận cùng tham gia vào quá trình sản xuất đó
một cách hợp lý theo thời gian.
Nếu coi sản xuất là một trạng thái thì tổ chức sản xuất là các phương
pháp, các thủ thuật nhằm hình thành các bộ phận sản xuất có mối liên hệ chặt
chẽ với nhau và phân bổ chúng một cách hợp lý về mặt không gian.
Để tổ chức sản xuất tạo ra sản phẩm, đầu tiên cần phải phân chia quá
trình sản xuất tạo nên sản phẩm thành các quá trình riêng. Căn cứ vào
phương pháp, kỹ năng khác nhau, dựa trên lao động máy móc sẽ hình thành



9
nên loại hình sản xuất, cơ cấu sản xuất, lập kế hoạch sản xuất và tổ chức công
tác điều phối sản xuất.
Như vậy có thể hiểu, tổ chức sản xuất là làm những gì cần thiết để liên
kết những người lao động, các quy trình lao động để tạo ra vật phẩm, đáp ứng
nhu cầu thiết thực cho xã hội, bằng cách dùng tư liệu lao động tác động vào
đối tượng lao động, trên cơ sở các quy tắc nghề nghiệp và theo quy trình nhất
định. Thực chất của quá trình tổ chức sản xuất là việc phân chia quá trình
sản xuất phức tạp thành các quá trình thành phần (tức là các bước công
việc), trên cơ sở đó áp dụng những hình thức công nghệ, các biện pháp tổ
chức phân công lao động và các phương tiện, công cụ lao động thích hợp.
Trong quá trình đó tìm biện pháp phối hợp hài hòa giữa các bộ phận tham
gia vào quá trình sản xuất nhằm mục đích đạt hiệu quả cao nhất.
Có thể nói bất kỳ hoạt động sản xuất nào nhằm phục vụ đời sống của
con người đều cần có cách tổ chức sản xuất hiệu quả, từ khâu lựa chọn đầu
vào, sử dụng máy móc trang thiết bị nào, trình độ lao động ra sao để phù hợp
với yêu cầu công nghệ, lãnh đạo, tổ chức phân công lao động như thế nào
cho hợp lý theo không gian và thời gian sao cho hoạt động sản xuất đạt được
mục tiêu đề ra với hiệu quả cao nhất. Và cuối cùng, tổ chức sản xuất có vai
trò quyết định đối với hiệu quả của quá trình sản xuất.
1.1.2. Chương trình truyền hình
Vô tuyến truyền hình ra đời từ đầu thế kỷ XX, nó gắn bó một cách
chặt chẽ với khoa học kỹ thuật và cùng với khoa học kỹ thuật đã mở ra một
thời kỳ mới trong lịch sử phát triển của hệ thống các phương tiện thông tin
đại chúng. Từ những bước đi chập chững ban đầu của buổi sơ khai, vô tuyến
truyền hình ngày nay đã trở nên hết sức tinh vi và hiện đại, có sức mạnh to
lớn trong việc tác động đến thế giới, mở ra chân trời mới đầy sức hấp dẫn đối
với con người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hiện có nhiều

khái niệm khác nhau về truyền hình. Hai tác giả người Pháp Brigitte Besse


10
và Didier Desormeaux, trong cuốn Phóng sự truyền hình, quan niệm rằng
truyền hình là “truyền thanh có minh họa”. Theo đó, “Làm thông tin trên
truyền hình, cũng là nói. Và nói tức là mô tả bằng cách trả lời những câu hỏi:
Ai? Khi nào? Ở đâu? Cái gì? Tại sao?” [6, tr.66].
PGS, TS. Dương Xuân Sơn, trong Tập bài giảng môn Truyền hình
của Khoa Báo chí, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn nêu:
“Truyền hình là một phương tiện thông tin đại chúng truyền đạt thông tin
nhờ phương tiện kỹ thuật đến đối tượng tiếp nhận là người xem. Thông tin
trong truyền hình gồm hình ảnh và âm thanh. Hình ảnh trong truyền hình có
cả hình ảnh động và hình ảnh tĩnh” [34, tr.3].
Trong cuốn Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội,
2001 tác giả Tạ Ngọc Tấn cho rằng: “Truyền hình là một loại phương tiện
thông tin đại chúng chuyển tải thông tin bằng hình ảnh và âm thanh. Nguyên
nghĩa của thuật ngữ vô tuyến truyền hình bắt đầu từ hai từ Tele có nghĩa là “ở
xa” và Vision nghĩa là “thấy được”, tức là “thấy được ở xa” [37, tr.143].
Hai định nghĩa trên đều xác định phương tiện ngôn ngữ của truyền
hình là hình ảnh và âm thanh. Đây chính là đặc trưng của truyền hình. Thực
chất, cội nguồn trực tiếp của truyền hình là điện ảnh. Chính điện ảnh đã cung
cấp cho truyền hình những ý tưởng, gợi ý đầu tiên về một phương thức truyền
thông cũng như một kho tàng những phương tiện biểu hiện phong phú, có sức
thuyết phục mạnh mẽ, làm cơ sở cho truyền hình có thể thích ứng nhanh
chóng với những đặc trưng kỹ thuật riêng của mình. Cho dù có những khác
biệt về nhiều phương diện thì điện ảnh và truyền hình vẫn có chung một cơ sở
ngôn ngữ cũng như một phương pháp tiếp nhận thông tin.
Về mặt kỹ thuật, truyền hình hoạt động theo nguyên lý cơ bản sau:
hình ảnh về sự vật được máy ghi hình biến đổi thành tín hiệu điện trong đó

mang thông tin về độ sáng tối, màu sắc. Đó là tín hiệu hình (tín hiệu video).
Sau khi được xử lý khuếch đại, tín hiệu hình được truyền đi trên sóng truyền
hình nhờ máy phát sóng hoặc hệ thống dây dẫn. Tại nơi nhận, máy thu hình


11
tiếp nhận tín hiệu rồi đưa đến đèn hình để biến đổi ngược từ tín hiệu hình
thành hình ảnh trên màn hình. Phần âm thanh cũng được thực hiện theo một
nguyên lý tương tự như thế để rồi đưa ra loa.
Những năm giữa thế kỷ XX, truyền hình chỉ được sử dụng như công
cụ thông tin giải trí. Đến nay, truyền hình với tư cách là một loại hình báo chí
đang tích cực tham gia thực hiện chức năng quản lý và giám sát xã hội, đóng
vai trò quan trọng trong định hướng dư luận xã hội. So với các loại hình
truyền thông đại chúng khác, truyền hình là phương tiện ra đời muộn, song nó
là sản phẩm của nền khoa học công nghệ phát triển. Truyền hình kết hợp
phương pháp tạo hình, tiếng của điện ảnh và phát thanh. Truyền hình tổng
hợp được nhiều ưu điểm từ các loại hình báo chí khác như có sự khái quát
triết lý của báo in, có tính chuẩn xác cụ thể bằng hình ảnh, âm thanh của điện
ảnh, phát thanh... Có thể xem “truyền hình là loại hình truyền thông có các
yếu tố kỹ thuật hiện đại, là sự kết hợp giữa kỹ thuật + mỹ thuật + nghệ thuật +
kinh tế + báo chí” [34, tr.12].
Chính nhờ kết hợp các yếu tố kỹ thuật hiện đại, truyền hình có ưu
điểm là cùng lúc cung cấp cả hình và tiếng cho người xem. Do đó, truyền
hình có sức hấp dẫn cao hơn so với các loại hình báo chí khác. Tuy nhiên, do
phụ thuộc vào yếu tố kỹ thuật nên truyền hình phụ thuộc vào phát sóng và
phải có máy thu hình để theo dõi. Cũng vì truyền hình có đặc tính riêng nên
việc xây dựng một chương trình truyền hình khó khăn hơn so với các loại
hình báo chí khác.
Đội ngũ những người tham gia làm chương trình truyền hình mang
tính tập thể cao, bao gồm sự tham gia của biên tập viên, phóng viên, đạo

diễn, quay phim, họa sỹ, kỹ thuật viên và các bộ phận hành chính hỗ trợ khác
dưới sự điều hành tổ chức chặt chẽ của một cơ chế thống nhất.
Về khái niệm chương trình, chương trình là toàn bộ những nội dung dự
kiến hành động theo một trình tự nhất định và trong một thời gian nhất định.
Chương trình còn được định nghĩa là một loạt các hoạt động được


12
thực hiện với sự hỗ trợ của các nguồn lực nhằm đạt được những mục tiêu cụ
thể cho các nhóm khách hàng, nhóm đối tượng đã được định sẵn. Để đánh giá
chương trình là sự thu thập cẩn thận các thông tin về một chương trình hoặc
một vài khía cạnh của một chương trình để ra các quyết định cần thiết đối với
chương trình.
Tác giả Trần Bảo Khánh trong cuốn Sản xuất chương trình truyền
hình viết: “với sự xuất hiện của phát thanh, sau đó là truyền hình thì cũng
xuất hiện thuật ngữ chương trình. Đây là thuật ngữ mang tính bản chất của
chúng. Có thể đưa ra khái niệm như sau về chương trình: “là kết quả cuối
cùng của quá trình giao tiếp với công chúng” [22, tr.30] và “chương trình tạo
thành chu kỳ khép kín những mắt xích trong chuỗi giao tiếp” [22, tr.31].
Chương trình truyền hình là khái niệm được sử dụng rộng rãi, phổ
biến trong lĩnh vực truyền hình.
Chương trình truyền hình cũng như chương trình trong các lĩnh vực
khác, là một sản phẩm được sắp xếp, tạo ra từ nhiều công đoạn khác nhau, kết
hợp hàng loạt yếu tố từ nhân sự, máy móc,... để tạo nên sản phẩm.
Thuật ngữ chương trình có nhiều nghĩa như chương trình của Đài
Truyền hình, chương trình của tháng, chương trình tuần, chương trình ngày
và một tác phẩm cụ thể cũng được gọi là chương trình.
Chương trình của tháng, chương trình tuần, chương trình ngày là sự
sắp xếp một chuỗi các tác phẩm báo chí truyền hình nhiều thể loại theo một
thứ tự nhất định, phân bổ thời lượng hợp lý, đan xen chương trình theo nội

dung hợp lý để phát lần lượt trên sóng truyền hình. Thuật ngữ chương trình
trong tiếng Anh là “program” được hiểu gồm các chương trình, ví dụ như
chương trình Thời sự, chương trình Kinh tế, chương trình Khoa học và Đời
sống... Các chương trình được phân bổ theo các kênh chương trình và được
thể hiện bằng nội dung cụ thể qua tin, bài, tác phẩm truyền hình.
Chương trình còn được hiểu là một tác phẩm truyền hình cụ thể, bao


13
gồm nội dung, hình ảnh, lời bình, kỹ xảo... được sắp xếp một cách hợp lý,
cung cấp thông tin cho khán giả. Đây là cách hiểu phổ biến về chương trình
truyền hình. Để một chương trình truyền hình được phát sóng, không chỉ cần
sự sáng tạo của nhà báo, mà còn cần đến sự hỗ trợ của đội ngũ kỹ thuật.
Tùy từng kênh truyền hình mà số lượng chương trình khác nhau.
Trong một kênh, các chương trình thường đa dạng về nội dung và hình thức
thể hiện, mỗi chương trình có tiêu chí riêng, hướng đến nhóm công chúng
riêng. Chúng đều nhằm mục đích thu hút sự quan tâm, chú ý của khán giả.
Dù là thể loại chương trình gì, nội dung như thế nào, chương trình truyền
hình đều phải trả lời được các câu hỏi đặc trưng của truyền hình là: Cái gì?
(nội dung) Như thế nào? (thể loại, hình thức thể hiện) Cho ai? (toàn thể công
chúng hay đối tượng chuyên biệt) Khi nào? (thời gian phù hợp hay bắt buộc).
Chương trình truyền hình là sự liên kết, sắp xếp bố trí hợp lý các tin bài,
bảng biểu, hình ảnh, âm thanh trong một thời gian nhất định. Một chương
trình truyền hình trọn vẹn thường được mở đầu bằng lời giới thiệu, nhạc
hiệu, kết thúc bằng lời chào tạm biệt, chương trình đáp ứng yêu cầu của cơ
quan báo chí truyền hình nhằm mang lại hiệu quả cao nhất cho khán giả.
Chương trình truyền hình đề cập tới các vấn đề của đời sống xã hội
không phải một cách ngẫu nhiên như vẫn diễn ra, mà nó thường truyền tải
các thông tin từ chương trình này đến chương trình khác, từ ngày này qua
ngày khác nhằm phục vụ một đối tượng công chúng xác định. Nội dung của

chương trình truyền hình làm sâu sắc thêm một cách trực tiếp những tư
tưởng, chủ đề, dần dần tạo thói quen trong ý thức công chúng.
Các loại hình truyền thông đại chúng như báo in, phát thanh, truyền
hình có sự khác biệt nhau trong phương thức phản ánh và tái tạo thực tế. Song
giữa chúng có sự khác nhau bản chất đều là các phương tiện thông tin đại
chúng nghĩa là giống nhau ở sự ngắn gọn để tiết kiệm thời gian nhận thông
tin. Bên cạnh đó còn có thể thấy sự giống nhau diễn ra trong cả quan niệm


14
trong sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm này. Với cách tiếp cận này, có thể
thấy rằng:
Từ phương tiện kỹ thuật truyền bá thông tin, nhiệm vụ của chương
trình là làm sao để có thể đưa ra được lời giải đáp, lời hướng dẫn cho thực tế
khi xây dựng chương trình truyền hình. Quy định được nguyên tắc phối hợp
tin, bài. Đây hoàn toàn là một khuynh hướng tiếp cận mang tính chất nghề
nghiệp, là hệ quả của việc nghiên cứu, tiếp xúc với xã hội, là kết quả của mối
quan hệ giữa truyền hình và công chúng sau khi chịu tác động của thông tin
truyền hình.
Mặt khác, cũng có thể thấy rằng, chương trình - đó là hình thức thực
tế hóa, hình thức vật chất hóa sự tồn tại của truyền hình trong đời sống xã hội
để truyền tải thông tin đến công chúng.. Có thể nói nếu không có chương trình
thì không có truyền hình. Nhưng cũng cần hiểu, chương trình truyền hình là
kết quả hoạt động, là sản phẩm của tập thể bao gồm các bộ phận lãnh đạo, bộ
phận kỹ thuật, bộ phận nội dung chương trình, bộ phận hậu cần,... tạo nên thuật
ngữ chương trình truyền hình cả về mặt sáng tạo và sản xuất chương trình. Cũng
như việc sản xuất các sản phẩm khác, truyền hình có người sản xuất, có người
tiêu dùng. Người sản xuất sản phẩm báo chí tác động đến người tiêu dùng và
ngược lại, người tiêu dùng cũng tác động, chi phối tới người làm ra sản phẩm
thông qua mối quan hệ: nhà báo - tác phẩm - công chúng.

Như vậy có thể hiểu, chương trình truyền hình là sản phẩm lao động
của một tập thể các nhà báo và các cán bộ kỹ thuật dịch vụ. Đồng thời đó
cũng là quá trình giao tiếp truyền thông giữa những người làm truyền hình
với công chúng xã hội. Chương trình truyền hình là cầu nối giữa công chúng
và những người làm truyền hình. Bất kỳ một chương trình truyền hình nào
cũng hàm chứa những giá trị tư tưởng, văn hóa đặc thù của dân tộc, quốc gia,
giai cấp hay tầng lớp xã hội rộng rãi. Những giá trị này không chỉ được
chuyển tải qua nội dung mà còn biểu hiện cả trong phương pháp sáng tạo và


15
hình thức thể hiện.
1.1.3. Tổ chức sản xuất chương trình truyền hình
Từ các khái niệm trên có thể hiểu tổ chức sản xuất chương trình
truyền hình là sự chia nhỏ rồi liên kết một cách hợp lý đội ngũ nhân sự cùng
các trang thiết bị truyền hình đi kèm và nội dung thông tin, trên cơ sở các
quy tắc nghề nghiệp và theo quy trình nhất định, để tạo ra sản phẩm là
chương trình phát sóng.
Tùy vào thể loại chương trình mà có các cách tổ chức sản xuất khác
nhau. Hiện nay chương trình truyền hình được phân chia thành các loại gồm:
chương trình bằng băng từ (hay bằng file dựng trên máy tính), chương trình
phát trực tiếp.
Chương trình truyền hình trực tiếp thực hiện ở các sự kiện vào ngay
thời điểm mà nó xảy ra, ở bất kỳ nơi nào trên hành tinh. Khả năng đó có
được là nhờ chương trình trực tiếp được sản xuất dựa trên sự phát triển
nhanh của khoa học và công nghệ, điều mà chỉ vài chục năm trước còn là
điều mơ ước của các nhà sản xuất chương trình truyền hình. Nhưng không
phải sự kiện nào cũng được truyền hình trực tiếp, điều đó là do không phải
bất kỳ sự kiện nào xảy ra mà các nhà báo truyền hình cũng có mặt ngay tại
đó, khả năng kỹ thuật không phải lúc nào cũng cho phép thực hiện các

chương trình truyền hình trực tiếp, giá thành sản xuất của loại chương trình
này rất cao, đòi hỏi sự chuẩn xác lớn, nhân sự chuyên nghiệp. Vì vậy chỉ
những chương trình lớn, tiêu biểu, có ý nghĩa, có ảnh hưởng chi phối nhiều
hoạt động khác nhau trong đời sống xã hội mới được lựa chọn làm trực tiếp.
Để làm được chương trình này, nhà sản xuất cần phải chuẩn bị kỹ về kịch
bản, quan sát hiện trường, dự kiến các tình huống có thể xảy ra ngoài kịch
bản. Việc tổ chức sản xuất chương trình truyền hình trực tiếp đòi hỏi sự tập
trung cao của đội ngũ sản xuất, kịch bản, nội dung phải được duyệt chặt chẽ
trước đó, nhằm đảm bảo hạn chế sai sót khi lên sóng. Tất cả các bộ phận làm


16
chương trình phải kết hợp với nhau một cách nhuần nhuyễn. Những sự kiện
được truyền hình trực tiếp thu hút sự chú ý của công chúng không phải chỉ ở
địa phương, trong một nước, mà còn ở nhiều nước khác nhau, có khi còn
mang tính toàn cầu.
Còn chương trình sản xuất qua băng từ hay file trên máy tính là loại
chương trình sản xuất thường xuyên, phổ biến nhất tại các kênh truyền hình.
Cách sản xuất này mất thời gian; sự việc, hiện tượng được thông tin chậm
hơn so với thời gian diễn ra. Nhờ vậy, người làm chương trình bớt căng thẳng
so với làm chương trình truyền hình trực tiếp và có thời gian để trau chuốt,
sửa chữa chương trình hơn. Việc tổ chức sản xuất chương trình truyền hình
dạng này nhẹ nhàng hơn là làm trực tiếp, nhưng vẫn phải đảm bảo các yếu tố
về nội dung, kỹ thuật...
Tác giả Trần Bảo Khánh, trong cuốn Sản xuất chương trình truyền
hình, đã chia các thể loại của báo chí truyền hình thành ba nhóm chính là:
Nhóm hội thoại, nhóm tạo hình, nhóm các tác phẩm TV gameshow.
Theo đó, nhóm chương trình theo dạng hội thoại có hình thức thông
tin chủ yếu là lời nói, nghệ thuật tạo hình không đặc sắc lắm, bao gồm các thể
loại như phỏng vấn, bình luận, đàm luận, phát biểu trên truyền hình…Thông

tin trong thể loại này, đặc biệt là các tác phẩm làm trực tiếp có tính chuẩn xác
cao dễ tiếp nhận, phù hợp với các quá trình nhận thức.
Nhóm chương trình theo dạng tạo hình rất phổ biến, có dung lượng
thông tin lớn ở hình ảnh. Nó sử dụng thủ pháp tạo hình để sáng tạo nên các
hình thức chuyển tải thông tin. Chương trình dạng này ghi hình ở hiện trường
tạo nên sự đặc sắc trong thông tin, có sức hút lớn đối với khán giả và cũng
đòi hỏi năng lực tư duy hình ảnh cao ở người sản xuất chương trình. Các tác
phẩm thuộc nhóm này có hình ảnh, nội dung phong phú, tránh gây cảm giác
nhàm chán.
Nhóm các tác phẩm TV gameshow kết hợp giữa nhóm hội thoại và


17
nhóm các thể loại tạo hình. Vì vậy nó có các đặc điểm của cả hai nhóm thể
loại trên, đó là tính trực tiếp, yếu tố ganh đua, sự tham gia của khán giả
truyền hình và tính bất ngờ.
Mỗi thể loại chương trình truyền hình lại có cách thức tổ chức sản xuất
riêng. Mặc dù nội dung chương trình là khác nhau (gồm nhiều lĩnh vực như
chính trị, an ninh, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, thể thao...) nhưng
quá trình tổ chức sản xuất đều phải tuân theo một quy trình chung nhất định.
1.2. Các yếu tố cấu thành tổ chức sản xuất chương
trình truyền hình
Để sản xuất được một chương trình truyền hình, việc tổ chức sản xuất
bao gồm các yếu tố sau:
- Tổ chức nhân sự
- Tổ chức hệ thống máy móc, trang thiết bị
- Tổ chức sản xuất nội dung
Tương tự như mọi quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm khác, việc tạo ra
một chương trình truyền hình đòi hỏi phải có yếu tố đầu vào, đầu ra, nhân sự và
các trang thiết bị, khoa học công nghệ được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm.

1.2.1. Tổ chức nhân sự
Về mặt khái niệm, nhân sự được hiểu là người làm công việc nào đó ở
cơ quan hoặc một nơi có tổ chức. Mỗi hình thái kinh tế xã hội đều gắn liền
với một phương thức sản xuất nhất định. Dù ở bất cứ xã hội nào thì vấn đề
mấu chốt của quá trình sản xuất cũng là tổ chức nhân sự. Một doanh nghiệp
dù có nguồn tài chính dồi dào, nguồn tài nguyên phong phú, hệ thống máy
móc thiết bị hiện đại như thế nào đi chăng nữa cũng sẽ trở nên vô ích, nếu
không biết hoặc sử dụng kém nguồn tài nguyên nhân sự.
Tổ chức nhân sự bao gồm các nội dung cơ bản sau:
- Phân tích công việc
- Tuyển dụng nhân sự


18
- Đào tạo và nâng cao năng lực chuyên môn cho nhân sự
- Nâng cao hiệu quả sử dụng lao động thông qua việc sử dụng hệ
thống kích thích vật chất tinh thần đối với nhân sự.
Bất kỳ cơ quan, doanh nghiệp nào hình thành và hoạt động đều phải có kế
hoạch tổ chức nhân sự, mức độ phức tạp tùy thuộc vào loại hình công việc.
Để tổ chức nhân sự khoa học, hiệu quả người sản xuất cần thực hiện
những nhiệm vụ sau:
- Tổ chức và sử dụng nhân sự một cách có kế hoạch và hợp lý nhằm
đảm bảo tiết kiệm nhân sự, đồng thời sử dụng tối đa và hiệu quả các nguồn
nhân lực khác, không ngừng tăng năng suất lao động.
- Xây dựng trong đơn vị mối quan hệ công tác giữa người và người,
giữa người với tư liệu sản xuất hợp lý để quá trình sản xuất đạt hiệu quả cao.
- Không ngừng cải thiện điều kiện làm việc, đảm bảo cho sản xuất an
toàn, bảo vệ sức khỏe, ngăn chặn bệnh nghề nghiệp, nâng cao đời sống vật
chất lẫn tinh thần cho người lao động.
- Có chính sách khuyến khích phát huy mọi khả năng sáng tạo của lực

lượng lao động.
Nhân sự của một ekip thực hiện chương trình truyền hình có nhiều bộ
phận như bộ phận kỹ thuật (âm thanh, ánh sáng, thiết kế,..), bộ phận sản xuất
(nhà sản xuất, quản lý sản xuất, đạo diễn, quay phim, biên kịch,…).
Một chương trình truyền hình không phải là sản phẩm của cá nhân nào
mà là sản phẩm của tập thể. Đây là điểm khác biệt của truyền hình so với các
tác phẩm báo in, báo mạng. Người làm báo in, báo mạng có thể tự thân độc
lập đi viết bài, chụp ảnh, biên tập rồi nộp cho người duyệt bài và đăng bài.
Nhưng để sáng tạo một chương trình truyền hình thì phải có nhiều khâu, mỗi
khâu cần sự tham gia của một bộ phận nhân sự như biên tập, quay phim, kỹ
thuật... Đặc biệt, đối với các chương trình truyền hình trực tiếp, vai trò của
các bộ phận nhân sự là ngang nhau, nếu thiếu bộ phận nào thì không thể đảm
bảo phát sóng chương trình. Với tính chất như vậy, việc tổ chức nhân sự trong


19
quá trình sản xuất chương trình là hết sức quan trọng. Mỗi nhân sự trong quy
trình sản xuất có chuyên môn riêng, nhưng đều phải hướng tới chương trình
chung. Nhân sự trong một kênh truyền hình bao giờ cũng phức tạp, cồng kềnh
hơn so với các tòa soạn báo thuộc những loại hình báo chí khác. Chi phí cho
nhân sự cũng tốn kém hơn.
Khâu tổ chức nhân sự hết sức quan trọng trong việc tổ chức sản xuất
chương trình truyền hình nói riêng và trong hoạt động của các cơ quan báo chí
nói chung. Người làm báo được xem là “nhân vật trung tâm của các cơ quan báo
chí” [40, tr.216] và việc “tổ chức và quản lý để đào tạo và sử dụng tài năng thật
sự là chuyện đáng bàn. Đã làm nghề thì phải được đào tạo” [40, tr.218].
Từng cơ quan sản xuất chương trình truyền hình có tổ chức nhân sự
khác nhau có thể phân theo ban, chẳng hạn như Ban Chuyên đề, Ban Thời sự,
Ban Giải trí... hoặc phân theo tính chất nội dung thông tin như phòng Kinh tế,
phòng Văn hóa, phòng Thể thao...Việc bố trí nhân sự vào các phòng ban phải

tùy thuộc vào năng lực, nguyện vọng của từng người. Thực tế, có những
người làm thời sự rất tốt nhưng không phù hợp làm chương trình chuyên đề
và ngược lại. Người làm quản lý phải làm thế nào để khai thác tối đa năng lực
của từng nhân sự.
Chất lượng nhân sự làm truyền hình rất quan trọng, việc tổ chức lực
lượng nhân sự đó như thế nào cho hợp lý còn quan trọng hơn. Không giống
các ngành nghề khác, nghề báo đòi hỏi cao tính sáng tạo và vai trò của cái tôi
cá nhân. Tờ báo nào cũng có phong cách riêng, nhưng mỗi bài báo lại cũng
có sự khác nhau, có màu sắc riêng. Việc quản lý tổ chức nhân sự trong một
cơ quan báo chí nói chung và truyền hình nói riêng vừa phải đảm bảo tính
thống nhất về tư tưởng, hành động nhưng cũng phải đảm bảo khuyến khích ý
kiến cá nhân của người làm báo, phát huy tinh thần sáng tạo.
Ngoài nhân sự sản xuất chính chương trình truyền hình, các kênh hiện
nay còn có thêm đội ngũ cộng tác viên, “để cho cơ quan báo chí thu hút được


20
trí tuệ toàn xã hội vào việc nâng cao chất lượng tờ báo” [40, tr.220]. Cộng tác
viên có thể là người giúp nhân sự chính ở một khâu nào đó trong sản xuất
chương trình truyền hình hoặc là những người tuy không làm nghề báo nhưng
có hiểu biết sâu sắc về lĩnh vực mà chương trình truyền hình đề cập đến. Ở
nhiều lĩnh vực, tuy phóng viên, biên tập viên là những người giỏi nghiệp vụ
nhưng sự hiểu biết sâu về nội dung còn hạn chế. Người viết dù giỏi đến đâu
cũng không thể thay thế được trí tuệ toàn xã hội. Những cộng tác viên am
hiểu và có uy tín sẽ giúp người thực hiện chương trình khỏa lấp điểm yếu
này. Những nhân sự chính của kênh có thể dần dần học tập thêm về chuyên
môn từ những cộng tác viên như thế. Trên thực tế, nhiều cơ quan báo chí đã
tổ chức các tổ tư vấn, hội đồng biên tập để giúp đỡ ban biên tập và các nhân
sự chính thực hiện tốt phương hướng đề ra của chương trình, tham gia góp ý
về đề tài, nội dung của chương trình.

1.2.2. Tổ chức hệ thống máy móc, trang thiết bị
Chúng ta đều biết truyền hình ra đời nhờ sự phát triển vượt bậc của
khoa học kỹ thuật. Nhờ yếu tố này, truyền hình ngày càng có những bước tiến
mới về thực hiện chương trình và hệ thống thu phát sóng. Tổ chức hệ thống
máy móc, trang thiết bị là công việc không thể thiếu trong việc sản xuất
chương trình truyền hình.
Có thể nói, trong các loại hình báo chí, truyền hình có độ phụ thuộc
vào máy móc, trang thiết bị lớn nhất. Ngay từ khâu chuẩn bị sản xuất, người
tổ chức phải có kế hoạch cụ thể về kỹ thuật, công nghệ, tổ chức thực hiện,
nguồn kinh phí, tính khả thi trong việc sử dụng các máy móc, trang thiết bị.
Việc tổ chức hệ thống máy móc, trang thiết bị một cách hiệu quả còn có tác
dụng trong việc tối ưu hóa các lợi ích kinh tế, tiết kiệm thời gian và tạo ra
môi trường làm việc thuận lợi, thoải mái, hiệu suất cao. Đối với một kênh
truyền hình, bên cạnh bộ phận nội dung, bộ phận kỹ thuật cũng chiếm tỷ lệ
nhân sự đông đảo, bao gồm cả kỹ thuật viên dựng hình, kỹ thuật viên âm


21
thanh, kỹ thuật viên truyền dẫn phát sóng...
Việc sử dụng máy móc, trang thiết bị về thực chất là sự áp dụng kỹ
thuật và công nghệ trong quá trình sản xuất chương trình truyền hình. Sản
xuất chương trình truyền hình có đặc thù là vừa mang tính nghệ thuật, vừa
mang tính kỹ thuật. Sự kết hợp hài hòa, hợp lý giữa hai yếu tố này sẽ mang
lại thành công cho chương trình.
So với giai đoạn đầu phát triển của truyền hình, kỹ thuật phục vụ lĩnh
vực này hiện đã phát triển nhanh chóng, đạt được nhiều thành tựu to lớn, luôn
mang đến cho phóng viên, biên tập viên, đạo diễn, những người làm chương
trình những tính năng mới mẻ. Điều này đòi hỏi phải có sự kết hợp nhuần
nhuyễn, thường xuyên giữa bộ phận kỹ thuật và biên tập để có sự tiếp cận,
trao đổi, tiếp thu, học tập những đổi mới về công nghệ.

Lĩnh vực truyền hình gồm rất nhiều trang thiết bị, máy móc có chức
năng khác nhau như tạo tín hiệu hình, gia công xử lý tín hiệu, tạo các dạng kỹ
xảo truyền hình, phát sóng, ghi, thu tín hiệu hình. Ngoài ra, còn có các thiết
bị âm thanh, ánh sáng, trường quay.
Các thiết bị thu phát tín hiệu hiện nay như vệ tinh, mạng internet giúp
việc truyền tải thông tin được nhanh chóng, dễ dàng hơn. Hay đơn giản việc
chuyển đổi từ bàn dựng analog sang bàn dựng phi tuyến tính cũng giúp người
làm chương trình lựa chọn được những kỹ xảo đẹp, quy trình dựng cũng đơn
giản hơn nhiều.
Hệ thống máy móc, trang thiết bị kỹ thuật mang lại nhiều tiện ích cho
quá trình sản xuất chương trình truyền hình. Tuy nhiên, chi phí đầu tư cho
các hệ thống thiết bị hiện đại rất đắt đỏ. Cho nên việc thường xuyên đổi mới
kỹ thuật, trang bị những máy móc hiện đại còn tùy thuộc vào tiềm lực kinh tế
của mỗi kênh truyền hình. Không phải cứ khi khoa học kỹ thuật phát minh ra
máy móc, công nghệ mới về truyền hình là bất cứ một kênh nào cũng có thể
tiếp cận được. Ngoài ra, mỗi khi có công nghệ mới, các kênh truyền hình còn


×