PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cũng như nhiều nước phát triển khác, ở giai đoạn đầu của
quá trình phát triển kinh tế, sản phẩm may của Việt Nam đang
ngày càng trở thành sản phẩm có vị trí quan trọng đối với nền
kinh tế quốc dân. Nó không chỉ góp phần tạo công ăn việc làm
cho một số lượng lớn lao động mà giá trị xuất khẩu của sản phẩm
may còn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của
cả nước. Nếu như năm 1995 kim ngạch xuất khẩu của sản phẩm
may chỉ đạt 660 triệu USD, chiếm 12,1% tổng kim ngạch xuất
khẩu của cả nước đến năm 2000 tổng kim ngạch xuất khẩu của
sản phẩm may đã là 1,457 tỉ USD, chiếm 10,1% tổng kim ngạch
xuất khẩu; năm 2001 là 1,519 tỷ USD với tỉ trọng tương ứng là
10,59%; năm 2002 là 2,064 tỉ USD chiếm tỉ trọng đến 12,48%.
Năm 2003 giá trị xuất khẩu tương ứng là 2,875 tỉ USD chiếm tỉ
trọng 14,46% trong tổng số kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam1.
Hơn nữa, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ cần “phát triển nhanh công
nghiệp nhẹ, nhất là dệt may, da giầy, giấy và các mặt hàng thủ
công mỹ nghệ. Đầu tư hiện đại hoá dây chuyền công nghệ, nâng
cao chất lượng và năng lực cạnh tranh của sản phẩm…”. Tiếp
theo đó Nghị quyết 4 của BCHTW Đảng khoá VIII, nhấn mạnh
đến yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm xuất
khẩu, xác định những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, đáp ứng
1
Số liệu thông kê của Tổng cục Hải quan
1
được nhu cầu trong nước và có khả năng tiêu thụ ở nước ngoài để
định hướng và khuyến khích phát triển mạnh”
Lợi thế cạnh tranh hiển thị của sản phẩm may năm 2002 là
0.233 cao hơn nhiều ngành công nghiệp khác 2. Trên thực tế sản
phẩm may của Việt Nam đã phát triển nhanh với tốc độ bình quân
trên 20%/năm, là sản phẩm công nghiệp có tốc độ tăng xuất khẩu
cao, chỉ sau dầu thô. Với hình thức gia công là chủ yếu, sản phẩm
may của Việt nam đã khai thác được lợi thế “được hoàn thuế nhập
khẩu nguyên vật liệu và thuế suất xuất khẩu bằng 0” nhưng giá trị
gia tăng thấp, chỉ vào khoảng 10-15%. Năng suất lao động chỉ
bằng 2/3 các nước trong khu vực. Đa số sản phẩm không xuất
khẩu trực tiếp mà thường thông qua trung gian nên giá bán cao:
cao hơn 20% so với sản phẩm tương tự của Trung Quốc, 10-15%
so với các nước trong khu vực3 (Viện Nghiên cứu Chiến lược &
Chính sách Công nghiệp, Bộ Công nghiệp).
Trong điều kiện tự do hoá thương mại nhất là chế độ hạn
ngạch đối với hàng dệt may sẽ được bãi bỏ sau năm 2004 theo
Hiệp định dệt may (ATC), áp lực cạnh tranh đối với sản phẩm
may ngày càng tăng lên. Vì vậy, thực hiện đề tài “Nâng cao năng
lực cạnh tranh của sản phẩm may Việt Nam trong điều kiện tự
do hoá thương mại” từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của sản phẩm may Việt Nam là một nghiên
cứu hết sức cần thiết.
2
3
Viện Chiến lược và Chính sách công nghiệp, Bộ Công nghiệp
Viện Chiến lược và Chính sách, Bộ Công nghiệp
2
Tổng quan kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về sản phẩm dệt may của
Việt Nam như: “Đổi mới phương thức gia công xuất khẩu của
các doanh nghiệp dệt may Việt Nam trong điều kiện hội nhập
quốc tế”- Trường Đại học Kinh tế Quốc dân do JICA tài trợ
(2000-2002); Dự án về “Tự do hoá thương mại và năng lực cạnh
tranh một số sản phẩm” (TLCM) do IDRC tài trợ (năm 19971998), trong đó có cả sản phẩm dệt may; Dự án “Nghiên cứu
năng lực cạnh tranh ngành dệt may” do Viện Chiến lược Phát
triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) thực hiện năm 1998; Đề án “Năng
lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế” do Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương
(Bộ Kế hoạch và Đầu tư) thực hiện năm 1999; Đề tài cấp Bộ “Thị
trường hàng dệt may thế giới và khả năng xuất khẩu của Việt
Nam” – Viện Nghiên cứu Thương mại năm 1999; Báo cáo dự án
nhánh “Nghiên cứu khả năng cạnh tranh nhóm hàng dệt may Việt
Nam” Viện Nghiên cứu Chiến lược & Chính sách công nghiệp Bộ công nghiệp năm 2002.
Hiện nay, chưa có một công trình nghiên cứu nào trên thế
giới về nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm may Việt
Nam trong điều kiện tự do hoá thương mại.
Các nghiên cứu nêu trên mới chỉ phục vụ những mục đích
chung, và mang tính tổng hợp như nghiên cứu năng lực cạnh
tranh của cả sản phẩm dệt và sản phẩm may hoặc các nghiên cứu
đó chỉ đề cập đến thị trường hàng dệt may thế giới hoặc khả năng
3
cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu
và phân tích năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam
cũng như đề ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực của sản
phẩm may Việt Nam trong điều kiện tự do hoá thương mại là phù
hợp yêu cầu thực tế.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về năng lực cạnh tranh
của sản phẩm và ảnh hưởng của tự do hoá thương mại tới năng
lực cạnh tranh của sản phẩm. Phân tích thực trạng năng lực cạnh
tranh của sản phẩm may Việt Nam trên thị trường xuất khẩu và
ảnh hưởng của tự do hoá thương mại tới năng lực cạnh tranh của
sản phẩm may Việt Nam để từ đó đề xuất các giải pháp đối với
các doanh nghiệp và các cơ quan quản lý Nhà nước nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện tự do hoá thương mại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng
Nghiên cứu năng lực cạnh tranh sản phẩm may Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu
Giai đoạn nghiên cứu: từ 1995- đến nay.
Giới hạn vào thị trường xuất khẩu.
4. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về năng lực cạnh tranh
của sản phẩm và tác động của tự do hoá thương mại tới năng lực
cạnh tranh của sản phẩm.
4
- Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh sản phẩm may
xuất khẩu của Việt Nam trong điều kiện tự do hoá thương mại.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của sản phẩm may xuất khẩu của Việt Nam trong điều kiện
tự do hoá thương mại.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp duy vật biện chứng
- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp
- Phương pháp toán thống kê
6. Nội dung nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung của luận văn được chia ra làm 3 chương:
Chương 1. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm và tác động
của tự do hoá thương mại tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Chương 2. Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của sản
phẩm may Việt Nam
Chương 3. Tác động của tự do hoá thương mại và một số đề
xuất nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm may Việt
Nam
5
CHƯƠNG 1
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA SẢN PHẨM VÀ TÁC
ĐỘNG CỦA TỰ DO HOÁ THƯƠNG MẠI TỚI NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA SẢN PHẨM
1.1. QUAN NIỆM VÀ CHỈ TIÊU THỂ HIỆN NĂNG
LỰC CẠNH TRANH CỦA SẢN PHẨM
1.1.1. Quan niệm về năng lực cạnh tranh của sản phẩm
(*)
Khái niệm
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là sự biểu hiện “tính trội”
của sản phẩm về chất lượng, giá cả và hình thức lưu chuyển của
nó trên thị trường, tạo nên sự hấp dẫn và thuận tiện cho khách
hàng trong việc tiếp cận và sử dụng nó. Năng lực cạnh tranh có
thể được hiểu là khả năng giành lợi thế, chiếm ưu thế trong cạnh
tranh của sản phẩm so với các sản phẩm cùng loại trên cùng đoạn
thị trường tại cùng thời điểm.
Các yếu tố cấu thành
Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của sản phẩm bao
gồm: sự khác biệt (vượt trội) về chất lượng, số lượng, giá cả, mẫu
mã, độc đáo hay kiểu dáng, tính tiện dụng, hình thức phân phối
sản phẩm đến tay người tiêu dùng, dịch vụ sau bán hàng, lòng tin
của khách hàng đối với sản phẩm… so với sản phẩm của đối thủ
cạnh tranh trên cùng một phân đoạn thị trường vào cùng một thời
điểm. Năng lực cạnh tranh còn thể hiện qua mức độ chiếm lĩnh thị
trường (thị phần của nó) tốc độ tăng thị phần, khả năng gây ấn
tượng đối với người sử dụng…
6
Các chỉ tiêu đo lường năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Như vậy, năng lực cạnh tranh của sản phẩm là cái hiện hữu
trong sản phẩm. Việc phân tích, đánh giá năng lực cạnh tranh của
sản phẩm thường được tiến hành đồng thời bằng 3 phương pháp:
(1) đánh giá trực tiếp trên sản phẩm (tính năng, chất lượng, giá cả,
sự tiện ích, mẫu mã...); (2) đánh giá trực tiếp thị trường (doanh số
bán, thị phần, tốc độ tăng thị phần, hệ thống phân phối...); (3)
điều tra xã hội học - chủ yếu qua phiếu thăm dò khách hàng (sự
thoả mãn nhu cầu, sự nhận biết tên sản phẩm, sự trung thành với
nhãn hiệu...). Sau đó so sánh các tiêu chí đó với sản phẩm của đối
thủ cạnh tranh trên cùng thị trường tại cùng thời điểm để xác định
năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm là tìm ra những
biện pháp tác động vào quá trình sản xuất và lưu thông sản phẩm,
làm cho nó có “tính vượt trội” so với sản phẩm cùng loại của đối
thủ cạnh tranh (nếu nó chưa có năng lực cạnh tranh) hoặc làm
tăng thêm sức mạnh cho sản phẩm, làm cho “tính trội” của nó ở
mức tốt hơn, cao hơn trên thị trường tiêu thụ (nếu sản phẩm đã có
năng lực cạnh tranh nhưng năng lực cạnh tranh còn yếu). Nói
cách khác: nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm là sử dụng một
số yếu tố tác động nhằm khắc phục những tồn tại được coi là trở
ngại làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm đồng thời hoàn thiện
những nhân tố làm tăng tính trội của nó so với đối thủ khác (chứ
không phải so với chính nó), nhằm làm cho thị phần của sản
phẩm tăng lên so với thị phần của đối thủ cạnh tranh của nó.
7
Quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm khác
với việc hoàn thiện sản phẩm ở chỗ: hoàn thiện sản phẩm chỉ là
quá trình làm cho sản phẩm đó trở nên tốt hơn, có tính mới hơn so
với chính nó ở những thời điểm khác nhau. Vì vậy, có trường hợp
sản phẩm không hoàn thiện nhưng lại có có sức cạnh tranh do nó
có tính trội hơn tương đối khi so sánh một cách tương đối với sản
phẩm khác.
1.1.2. Các tiêu chí thể hiện năng lực cạnh tranh của sản
phẩm
Để chọn lựa các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh của sản phẩm cần phải có các tiêu chí định lượng để đo
lường và đánh giá chúng. Để đánh giá năng lực cạnh tranh sản
phẩm cần sử dụng các tiêu chí định lượng và định tính dưới đây
nhằm phân tích năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên phạm vi
quốc gia và quốc tế.
- Các tiêu chỉ thể hiện năng lực cạnh tranh trên thị
trường nội địa bao gồm:
(1) Các tiêu chí thuộc sản phẩm (tính năng, chất lượng, giá
cả, sự tiện ích, mẫu mã...)
- Tính năng của sản phẩm đó có phù hợp với yêu cầu của
khách hàng hay không: Sản phẩm có tính năng, công dụng phù
hợp hơn với yêu cầu của khách hàng sẽ có năng lực cạnh tranh
cao hơn.
- Mức độ hấp dẫn của sản phẩm đó về mẫu mã kiểu cách so
với các đối thủ cạnh tranh. Trong quá trình quyết định mua của
8
mình khách hàng thường xem xét mẫu mã, kiểu dáng của sản
phẩm có phù hợp với yêu cầu và thị hiếu của mình hay không
trước khi tìm hiểu những thông tin khác về sản phẩm.
- Mức chênh lệch về giá của mặt hàng đó so với các đối thủ
cạnh tranh. Rõ ràng giá cả là một trong những yếu tố quan trong
nhất thể hiện năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Với hai sản phẩm
tương tự nhau, khách hàng sẽ lựa chọn sản phẩm nào có giá thấp
hơn. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của marketing và quá trình
khác biệt hoá sản phẩm hiện nay hầu như không thể tìm thấy hai
sản phẩm hoàn toàn giống nhau trên thị trường, vì vậy, để đánh
giá năng lực cạnh tranh chính xác cần phải đánh giá thêm tiêu chí
khác thể hiện năng lực cạnh tranh của sản phẩm như.
- Mức chênh lệch về chất lượng của sản phẩm so với sản
phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh. Ngày nay chất lượng sản
phẩm là yếu tố được quan tâm hàng đầu sản phẩm được coi là có
năng lực cạnh tranh nếu các tính năng của sản phẩm đó vượt trội
hơn so với sản phẩm cạnh tranh trên thị trường. Yếu tố này có thể
đánh giá thông qua so sánh hai sản phẩm với nhau về chất lượng,
độ bền. tiện ích trong sử dụng…Đây là một trong những yếu tố
tương đối dễ so sánh đối với đa số những sản phẩm đơn giản. Tuy
nhiên, nhiều sản phẩm phức tạp khách hàng không thể đánh giá
ngay được chất lượng của sản phẩm. Do đó khách hàng sẽ đánh
giá chất lượng sản phẩm gián tiếp thông qua uy tín của người sản
xuất, của nước sản xuất…vì vậy xây dựng uy tín về
9
(2) Các tiêu chí trên thị trường (doanh số bán, thị phần, tốc
độ tăng thị phần, hệ thống phân phối...);
- Mức doanh thu của sản phẩm đó trong từng năm: Năng
lực cạnh tranh cũng biểu hiện qua doanh thu của sản phẩm trên thị
trường nội địa. Nếu sản phẩm có doanh thu cao, tốc độ tăng
doanh thu cao so với đối thủ cạnh tranh chứng tỏ sản phẩm có
năng lực cạnh tranh cao. Chỉ tiêu này thể hiện khả năng chiếm
lĩnh thị trường của sản phẩm so với đối thủ cạnh tranh.
- Thị phần của sản phẩm trên thị trường nội địa: Tuỳ theo
loại mặt hàng, thị trường và theo quy mô của thị trường có thể
xem xét năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, thông
qua đánh giá thị phần của sản phẩm đó. Một sản phẩm được coi là
có năng lực cạnh tranh cao trên thị trường khi chúng chiếm thị
phần lớn so với sản phẩm cùng loại được nhập khẩu và bán trên
thị trường. Tuy nhiên, cũng phải vận dụng chỉ tiêu này một cách
linh hoạt. Với một số sản phẩm mới ra đời, chưa chiếm lĩnh được
thị trường thì không thể sử dụng chỉ tiêu này để đánh giá năng lực
cạnh tranh của sản phẩm đó trên thị trường vì khi đó phân tích sẽ
có sự sai lệch nhất định. Đây cũng chính là cơ sở để hình thành
chỉ tiêu thứ 2 nhằm đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm là
tốc độ tăng thị phần của sản phẩm.
- Tốc độ tăng thị phần của sản phẩm đó có thể so sánh theo
tính lịch sử, tức là năm sau tốt hơn năm trước, để đánh giá năng
lực cạnh tranh của sản phẩm. Nếu sản phẩm có tốc độ tăng thị
phần cao thì sản phẩm có năng lực cạnh tranh cao. Và ngược lại
10
nếu thị phần của sản phẩm cạnh tranh tăng nhanh hơn thì sản
phẩm có năng lực cạnh tranh thấp hơn so với sản phẩm cạnh
tranh.
- Hệ thống phân phối: Hệ thống phân phối cho sản phẩm
càng hợp lý thì thị phần do hàng hoá chiếm lĩnh sẽ càng lớn. Hệ
thống phân phối được thiết kế hợp lý so với cách thức phân phối
của sản phẩm cạnh tranh khác, vùng với việc đẩy mạnh xúc tiến
bán hàng sẽ tăng thêm năng lực cạnh tranh của sản phẩm do đáp
ứng được kịp thời yêu cầu của thị trường về số lượng và chất
lượng.
Một hệ thống phân phối hợp lý bao gồm mạng lưới các cơ
sở giúp doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá với
mọi hình thức bán buôn, bán lẻ vừa thích hợp với phong tục, tập
quán địa phương, tiện lợi cho người tiêu dùng đồng thời phù hợp
với khả năng thanh toán của khách hàng.
Kênh phân phối còn giúp khách hàng tiếp cận với các dịch
vụ của nhà sản xuất dễ dàng hơn như dịch dụ trước trong và sau
khi bán hàng.
(3) Các tiêu chí liên quan đến quan điểm của khách hàng (sự
thoả mãn nhu cầu, sự nhận biết tên sản phẩm, sự trung thành với
nhãn hiệu...).
- Trong quá trình phân tích, đánh giá sẽ rất khó khăn cho
việc lượng hoá toàn bộ các yếu tố thể hiện năng lực cạnh tranh
của sản phẩm. Vì vậy, chúng ta phải kết hợp vừa định lượng vừa
định tính nhằm xác định năng lực cạnh tranh thực sự của sản
11
phẩm hàng hoá trên thị trường. Nếu như trước kia hai yếu tố chất
lượng, giá cả có tính chất quyết định đến năng lực cạnh tranh của
sản phẩm thì ngày nay cùng với quá trình toàn cầu hoá, phạm vi
đánh giá các tiêu chí thể hiện năng lực cạnh tranh cần phải được
mở rộng hơn. Trong quá trình đánh giá cũng cần đưa thêm các
yếu tố định tính khác như hình ảnh của các doanh nghiệp tham gia
thị trường, hình ảnh của quốc gia, lòng tin của khách hàng đối với
sản phẩm, sự thoả mãn của khách hàng đối với sản phẩm, thương
hiệu của sản phẩm…
- Các tiêu chí thể hiện năng lực cạnh tranh của sản phẩm
xuất khẩu Việt Nam trên thị trường xuất khẩu.
Ngoài những tiêu chí thể hiện năng lực cạnh tranh như đối
với thị trường nội địa, đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm
xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường xuất khẩu còn phải dựa
trên những tiêu chí sau:
- Hệ số lợi thế so sánh hiện thị: Một trong những chỉ số
được nhiều người sử dụng để đánh giá năng lực và hiệu quả của
một sản phẩm của một quốc gia là hệ số lợi thế so sánh hiển thị.
Chỉ số này được xác định bằng tỷ số giữa mức chênh lệch giữa
xuất và nhập khẩu của một sản phẩm nào đó với tổng xuất và
nhập khẩu của sản phẩm đó. Cụ thể:
Xi - Ni
H =
Xi + Ni
Trong đó: H
là hệ số lợi thế so sánh hiển thị.
12
Xi
là giá trị xuất khẩu của mặt hàng i
Ni
là giá trị nhập khẩu của mặt hàng i
Như vậy, đối với một sản phẩm nào đó, nếu một nước chỉ có
nhập khẩu mà không có xuất khẩu thì giá trị của hệ số lợi thế so
sánh hiển thị bằng -1. Trong trường hợp này, nước đó có bất lợi
so sánh hoàn toàn đối với sản phẩm được xem xét. Ngược lại, nếu
một nước chỉ có xuất khẩu mà không có nhập khẩu về sản phẩm
nào đó thì giá trị của hệ số lợi thế so sánh hiển thị bằng +1. Trong
trường hợp này, quốc gia có lợi thế so sánh hoàn toàn về sản
phẩm được xem xét.
Hệ số lợi thế so sánh hiển thị còn có thể sử dụng để đánh giá
sơ bộ năng lực cạnh tranh của một ngành sản xuất của một nền
kinh tế so với nền kinh tế khác. Ý nghĩa của phương pháp này là ở
chỗ, nó cho phép so sánh năng lực cạnh tranh ở phạm vi quốc tế
và hơn nữa, nó dễ thực hiện do dựa trên cơ sở những thông tin sẵn
có, dễ tập hợp, cho ra kết quả nhanh.
Tuy nhiên, đây là phương pháp tính đơn giản, nên, ý nghĩa
phân tích của hệ số lợi thế so sánh hiển thị không lớn. Bởi vì, nó
không tính đến sự can thiệp của các Chính phủ thông qua chính
sách thương mại và công nghiệp; không tính đến chi phí cá biệt
của các nhà sản xuất.
- Vị thế sản phẩm xuất khẩu của trong tổng kim ngạch buôn
bán sản phẩm đó trên thế giới: Đối với các sản phẩm đã chiếm
được thị phần đáng kể trong tổng kim ngạch buôn bán hàng hoá
này trên thế giới thì thay đổi lượng xuất khẩu chắc chắn sẽ tác
13
động đến giá cả thương mại thế giới. Do đó, do đó đây là những
sản phẩm có năng lực cạnh tranh. Ngược lại với những sản phẩm
có thị phần nhỏ trong thương mại thế giới thì hoặc là có năng lực
cạnh tranh thấp hoặc chưa tiếp cận được thị trường. Tuy nhiên,
đây lại là những sản phẩm có tiềm năng mở rộng thị trường nếu
có những biện pháp cần thiết cải tiến chất lượng mẫu mã, hạn giá
thành, mở rộng hoạt động marketing…bởi vì sản phẩm này mới
chỉ chiếm thị phần nhỏ.
- Tăng trưởng xuất khẩu của sản phẩm: Việc tăng trưởng
xuất khẩu sản phẩm nhanh cho thấy năng lực cạnh tranh của sản
phẩm tăng. Ngược lại nếu tốc độ tăng trưởng giảm hoặc đình trệ
cho thấy năng lực cạnh tranh của sản phẩm thấp. Với những yếu
tố khác không đổi, những sản phẩm xuất khẩu tăng trưởng nhanh,
dù được thể hiện bằng những con số tuyệt đối nhỏ, cho thấy
những sản phẩm này có năng lực cạnh tranh cao.
- Các cơ hội cung: Một số nhân tố quyết định các điều kiện
cung và năng lực cạnh tranh sản phẩm là năng lực của các ngành
phụ trợ, khả năng tiếp cận nguyên liệu thô, công nghệ, năng suất
lao động, năng lực cạnh tranh nội địa v.v. Các điều kiện cung và
năng lực cạnh tranh càng cao thì tiềm năng xuất khẩu càng cao,
với điều kiện các yếu tố khác không đổi.
- Ưu tiên quốc gia: Chính phủ các nước đều đề ra các ưu
tiên trong hầu hết các chiến lược xuất khẩu của mình. Những ưu
tiên này phần nào phản ánh những nhận định kinh tế, như tốc độ
tăng trưởng, hình thái cầu thế giới và tình hình cung sản phẩm đó
14
trên thị trường. Tuy nhiên, những ưu tiên này cũng phản ánh
những mối quan tâm khác như an ninh lương thực, cung của thị
trường nội địa, tạo việc làm, ưu tiên vùng, tiến bộ công nghệ v.v.
Đối với những sản phẩm mà Chính phủ ưu tiên, Chính phủ cũng
sẽ có những hình thức hỗ trợ đặc biệt như các chính sách khuyến
khích, ưu tiên đầu tư. Do đó, nếu những yếu tố khác không đổi,
khi sản phẩm càng được ưu tiên thì năng lực xuất khẩu càng lớn.
- Giá trị gia tăng và liên kết với nền kinh tế: Tuỳ vào hình
thức tạo ra một đồng đô la mà đồng đô la đó có giá trị như thế nào
đối với nền kinh tế. Do đó, giá trị gia tăng càng cao và/ hoặc liên
kết ngược dòng hoặc xuôi dòng với nền kinh tế của một sản phẩm
càng lớn thì sản phẩm đó càng có ý nghĩa đối với nền kinh tế, với
điều kiện các yếu tố khác không đổi. Tiêu chí này nên được đề
cao đặc biệt đối với các nước đang ở giai đoạn đầu công nghiệp
hoá, phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nhiều loại hàng hoá và các
mối liên kết trong nền kinh tế còn chưa phát triển. Rất nhiều sản
phẩm xuất khẩu tuy có kim ngạch xuất khẩu cao nhưng giá trị gia
tăng tạo ra rất thấp chứng tỏ hiệu quả xuất khẩu thấp hay năng lực
xuất khẩu thấp.
- Chất lượng môi trường và xã hội của sản phẩm xuất khẩu:
Giá trị của sản phẩm xuất khẩu có thể được phản ánh không chính
xác nếu chỉ xét trên yếu tố kinh tế vì nó còn có những tác động
phụ và/hay những tác động ngoại lai tích cực hoặc tiêu cực.
Những ví dụ rõ rệt nhất là những tác động ngoại lai liên quan đến
môi trường, sản phẩm xuất khẩu có thể có những tác động tiêu
15
cực lớn hoặc nhỏ đối với môi trường tuỳ theo công nghệ được áp
dụng. Những chi phí này xã hội phải gánh chịu, chứ không phải là
người nhập khẩu hay thị trường. Những tác động tích cực bao
gồm tạo việc làm, trực tiếp hỗ trợ những nhóm người nghèo, nâng
cao hơn sự tham gia và tầm quan trọng của phụ nữ. Do đó, xuất
khẩu sản phẩm có tiềm năng tạo ra nhiều việc làm, không gây ra
hoặc chỉ gây ra những hậu quả thấp đối với môi trường, mang lại
những lợi ích đặc biệt cho phụ nữ và người nghèo, đặc biệt ở
vùng nông thôn, cần được chú ý nhiều hơn, với điều kiện những
yếu tố khác không đổi. Hiện nay nhiều thị trường nhập khẩu đã sử
dụng tiêu chí này để áp dụng các rào cản thương mại đối với một
số sản phẩm như sản phẩm dệt may phải áp dụng tiêu chuẩn
SA8000…Nếu sản phẩm của nước nào đó đáp ứng được tốt hơn
các tiêu chuẩn về môi trường và xã hội sẽ có năng lực cạnh tranh
cao hơn.
- Các tiêu chí khác: Ngoài những tiêu chí kể trên còn nhiều
tiêu chí phản ánh năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sản phẩm
như: các thoả thuận thương mại, các ưu tiên hoặc hạn chế đối với
khu vực, hình ảnh quốc gia…
1.2. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA SẢN PHẨM (*)
Có hàng loạt nhân tố có tính chất lịch sử, kinh tế - xã hội chi
phối năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Tuỳ theo bản sắc dân tộc,
thói quen tiêu dùng, cơ chế quản lý, mức thu nhập dân cư…để có
cách xác định chỉ tiêu biểu hiện năng lực cạnh tranh của sản
16
phẩm. Nếu như mức thu nhập thấp, khi mua hàng vấn đề người
mua hàng quan tâm đầu tiên là giá cả. Chẳng hạn ở Việt Nam
trong những năm qua, mặc dầu người tiêu dùng đều biết sản phẩm
dệt may giá rẻ của Trung Quốc có chất lượng thấp hơn nhiều so
với sản phẩm dệt may của Việt Nam nhưng hàng dệt may Trung
Quốc vẫn tràn ngập thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, khi thị
trường đã phát triển, người tiêu dùng lại quan tâm nhiều hơn đến
kiểu dáng, mẫu mã mầu sắc và độ bền của sản phẩm.
Trong điều kiện thu nhập thấp người tiêu dùng thường quan
tâm tới độ bền của sản phẩm, song khi thu nhập tăng thêm (tuy
không tăng nhiều) thì cách đánh giá và nhìn nhận tiện ích của sản
phẩm cũng thay đổi. Ví dụ, khi có mức GDP/người 200 USD,
người Việt Nam thích mặc áo pha nilon vì nó bền. Đến khi
GDP/người tăng lên 300 USD, người tiêu dùng lại ưa thích sử
dụng các loại quần áo có 100% cotton hơn.
Cũng có nhiều quan điểm cho rằng việc tổ chức tiêu thụ
theo các kênh phân phối có ảnh hưởng nhiều đến năng lực cạnh
tranh của sản phẩm. Điều này chỉ đúng với các quốc gia có mạng
lưới siêu thị tốt và người tiêu dùng thường lui tới để mua hàng.
Còn ở Việt Nam, người tiêu dùng lại thích mua hàng ở các chợ
cóc, chợ xanh hơn là mua hàng ở các siêu thị. Do đó khó có thể
tiêu thụ với khối lượng lớn. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật
cũng có ảnh hưởng lớn đến hình thức tiêu thụ sản phẩm. Khi mà
thương mại điện tử phát triển, người tiêu dùng mua hàng theo
17
dịch vụ internet thì việc cung cấp trên mạng và dịch vụ mang
hàng đến tận nhà có thể trở thành phương thức tiêu thụ tốt hơn…
Qua sự phân tích nói trên có thể thấy rằng, có rất nhiều yếu
tố chi phối đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm-hàng hoá-dịch
vụ như: giá cả; chất lượng; nhu cầu thị trường; lao động; công
nghệ; môi trường kinh doanh…Vì thế, muốn nâng cao năng lực
cạnh tranh bất cứ một sản phẩm nào cũng cần phải kết hợp tất cả
những yếu tố nói trên trong điều kiện có thể. Đồng thời, phải thực
hiện hàng loạt các biện pháp và duy trì ở mức tối ưu các mối quan
hệ đa tầng và đa chiều. Tuy nhiên, xem xét tất cả những yếu tố và
điều kiện nói trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng việc áp dụng
chúng đều hướng tới mục tiêu: nâng cao chất lượng và hạ thấp giá
thành sản phẩm nhằm mở rộng thị trường. Ngược lại khi sản
phẩm-hàng hoá-dịch vụ có năng lực cạnh tranh tốt thì mới có khả
năng vật chất và kỹ thuật để tái đầu tư cho hoạt động sản xuất,
nâng cao chất lượng và hạ giá thành.
Chất lượng sản phẩm và giá cả hàng hoá là hai yếu tố quan
trọng hàng đầu. Hai yếu tố này gắn liền với những thuộc tính vốn
có của hàng hoá góp phần tạo nên giá trị của sản phẩm. Đây có
thể nói là hai yếu tố có ảnh hưởng lớn đến năng lực cạnh tranh
của sản phẩm đặc biệt là trong điều kiện tự do hoá thương mại.
Quá trình tự do hoá thương mại đang tiến lại rất gần thì vấn đề
còn lại của các sản phẩm xuất khẩu là: chất lượng và giá cả, khả.
Nhưng giá cả sản phẩm cũng phụ thuộc vào các yếu tố công nghệ,
mẫu mã, chi phí đầu vào, cơ sở hạ tầng…
18
Phân tích trên cho thấy có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến
năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Trong đó, ngoài các yếu tố
được coi là căn bản và cổ điển như chất lượng, giá cả… còn nhiều
yếu tố khác ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm như
năng lực cạnh tranh của ngành, năng lực cạnh tranh quốc gia.
1.2.1. Các nhân tố thuộc ngành
a. Các nhân tố bên trong
- Các yếu tố sản xuất, đó là những yếu tố đầu vào cần thiết
cho quá trình sản xuất. Nó bao gồm lao động, đất đai, tài nguyên,
vốn, cơ cấu, cơ sở hạ tầng…Các yếu tố sản xuất được chia thành
hai loại là các yếu tố chủ yếu và những yếu tố không chủ yếu:
Những yếu tố chủ yếu là những yếu tố như: lao động có tay nghề,
vốn, công nghệ, cơ sở hạ tầng đây là những yếu tố được do con
người tạo ra. Những yếu tố không chủ yếu hay những yếu tố
thông dụng như lao động phổ thông và những nguyên vật liệu mà
mọi ngành đều có thể sở hữu, do đó không thể tạo nên một năng
lực cạnh tranh bền vững được. Vì vậy những yếu tố chủ yếu cần
phải được đầu tư và duy trì.
- Kinh nghiệp của người lao động hoặc trình độ chuyên môn
của họ sẽ quyết định đến năng suất, chất lượng của sản phẩm.
- Đầu tư vào công nghệ: Nếu đầu tư vào công nghệ cao sẽ
tạo ra những sản phẩm có chất lượng phù hợp hơn với yêu cầu
của người tiêu dùng hiện tại, đây là một phương pháp hữu hiệu để
sản phẩm chiếm được lòng tin của khách hàng trên phạm vi rộng.
19
- Đầu tư vào con người: Con người được đầu tư cùng lúc
với đầu tư công nghệ sẽ tăng khả năng sáng tạo, nâng hàm lượng
chất xám làm cho sản phẩm có tính độc đáo, chiếm lĩnh thị trường
ở mức độ cao hơn. Nói cách khách nếu đầu tư vào con người sẽ
làm tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
b. Nhóm nhân tố bên ngoài
Các nhân tố tác động đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm
bao gồm những yếu tố bên ngoài như nhu cầu thị trường, liên kết
ngành, môi trường cạnh tranh và những công cụ tác động đến
năng lực cạnh tranh của sản phẩm và các biện pháp nhằm xây
dựng “sức mạnh” hay “tính vượt trội” cho hàng hoá so với đối thủ
khác.
- Về nhu cầu thị trường, thị trường nội địa khó tính đối sẽ là
nhân tố quan trọng tạo nên năng lực cạnh tranh. Những sản phẩm
tồn tại trên thị trường này sẽ có chất lượng cao hơn so với những
thị trường xuất khẩu dễ tính hơn. Khi thị trường trong nước khó
tính các doanh nghiệp sẽ tiếp xúc với những khách hàng khó tính
từ đó hiểu rõ hơn về nhu cầu và sở thích người tiêu dùng. Nếu
những giá trị riêng biệt của sản phẩm trên thị trường nội địa được
các thị trường nước ngoài chấp nhận thì các sản phẩm sản xuất
trong nước sẽ có năng lực cạnh tranh cao hơn trên thị trường xuất
khẩu.
Nếu muốn tăng năng lực cạnh tranh thì các doanh nghiệp
sản xuất cần phải trực tiếp tiếp xúc với khách hàng tinh tế và khó
tính. Phân tích và nghiên cứu đầy đủ về quy mô và thị phần của
20
nhu cầu nội địa, những khách hàng thông thạo Internet, những
người mua hàng di động trong nước, phải có năng lực quan sát và
đáp ứng xu hướng thị trường trong nước để từ đó làm cơ sở để
xuất khẩu ra nước ngoài.
- Vấn đề liên kết ngành, đặc biệt là hợp tác liên kết quốc tế
bao gồm những nhà cung cấp và các ngành liên quan thường xảy
ra ở cấp độ khu vực hơn là cả nước. Khả năng duy trì các liên kết
quốc tế có tầm quan trọng ngày càng lớn đối với các nước đang
phát triển (UNCTAD, 1999). Do quá trình toàn cầu hoá, tự do hoá
thương mại và quá trình hội nhập diễn ra ngày càng sâu rộng, vị
thế cạnh tranh của các sản phẩm của các nước đang phát triển
ngày càng xoay quanh khả năng thiết lập các liên kết quốc tế của
các doanh nghiệp và các ngành. Quy mô của các doanh nghiệp
trong nước thường nhỏ hơn rất nhiều so với các công ty xuyên
quốc gia do vậy sẽ có năng lực thấp hơn các công ty xuyên quốc
gia, đa quốc gia, nên khi chế độ thương mại được tự do hoá và
các nền kinh tế mở cửa cho cạnh tranh nước ngoài, nếu các
ngành, các doanh nghiệp trong nước không thực hiện tốt việc liên
kết với các công ty nước ngoài thì sản phẩm của họ sẽ mất năng
lực cạnh tranh trên thị trường.
- Môi trường cạnh tranh. Sự phát triển của năng lực cạnh
tranh của sản phẩm chịu ảnh hưởng bởi các chính sách của chính
phủ. Chính phủ đóng vai trò then chốt trong việc tạo ra môi
trường cạnh tranh, tính cạnh tranh. Cụ thể là tác động đến nội
dung và phạm vi của các hoạt động xuất nhập khẩu, các yếu tố về
21
môi trường thể chế, chính sách, các mối liên kết xuyên quốc gia...
Các chính sách và biện pháp của chính phủ đóng vai trò quan
trọng, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Cần xác xây dựng các
chương trình và sử dụng các công cụ nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho các ngành nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm của
mình. Tuy nhiên, việc phân tích các chương trình cụ thể này phải
xem xét các điều kiện và khuôn khổ kinh tế tổng thể, bằng cách
kiểm soát ảnh hưởng của các nhân tố như ổn định kinh tế vĩ mô,
sự cởi mở trong chính sách thương mại và chế độ đầu tư.
- Năng lực tiếp thị ở tầm vĩ mô: Khả năng thu thập, phân
tích thông tin của các cơ quan đại diện chính phủ ở nước ngoài,
các cơ quan nghiên cứu tầm cỡ quốc gia. Các chiến lược phối hợp
quốc gia, chính sách thương mại trong việc hỗ trợ sản phẩm thâm
nhập thị trường nước ngoài như chính sách thuế, chương trình tín
dụng, hỗ trợ thông tin cho doanh nghiệp trong xúc tiến thương
mại- tìm kiếm khách hàng, khuyến khích và ưu đãi đầu tư ra nước
ngoài.
- Năng lực tổ chức tiếp thị ở tầm vi mô phụ thuộc vào trình
độ nghiệp vụ, khả năng thu thập và phân tích thông tin của nhân
viên nghiệp vụ marketing. Khả năng khám phá thị trường và tiếp
cận thị trường với phí tốn thấp nhất. Cách thực lựa các chiến lược,
kỹ thuật phù hợp với loại sản phẩm để áp dụng vào công tác tiếp
thị như quảng cáo, phân phối tài liệu, hội chợ, khuyến mãi...nhằm
tăng thị phần hàng hoá.
22
Sản phẩm sẽ thực sự có giá trị, có năng lực cạnh tranh khi
bản thân nó có thương hiệu vì trong thực tế khách hàng thường
chọn một loại sản phẩm mang thương hiệu thoả mãn với mong
muốn của họ trong hàng trăm thương hiệu của các sản phẩm cùng
loại trên thị trường. Do nhãn hiệu này đã in đậm trong tâm trí của
họ tạo nên sự trung thành của khách hàng đối với sản phẩm. Vì
vậy, với những sản phẩm mới tham gia thị trường chưa có uy tín,
tiếng tăm thường áp dụng chiến lược “sản xuất dán nhãn” hay
“mượn” thương hiệu của những hàng hoá mang đẳng cấp quốc tế
để “dán” vào hàng hoá do mình sản xuất nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh.
Ngày nay, cùng với xu hướng toàn cầu hoá, việc xác định,
đo lường năng lực cạnh tranh quốc tế của sản phẩm đang ngày
càng thu hút được sự quan tâm của các nhà kinh tế, đặc biệt trong
việc phân tích kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, do tính phức tạp, đa
phương diện, đa chiều của lĩnh vực nghiên cứu, cho nên rất khó
có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu kinh tế ngay từ các khái
niệm về năng lực cạnh tranh sản phẩm trong thương mại quốc tế.
Vì vậy, trên thực tế có rất nhiều cách tiếp cận khi tiến hành phân
tích, đo lường năng lực cạnh tranh sản phẩm theo các góc độ khác
nhau.
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của
sản phẩm ở phạm vi quốc gia:
a. Theo cách tiếp cận của WEF
23
Năng lực cạnh tranh quốc gia là yếu tố ảnh hưởng đến năng
lực cạnh tranh của tất cả các sản phẩm trên thị trường nội địa và
xuất khẩu. Theo khái niệm tiếp cận dựa trên tốc độ tăng trưởng
kinh tế đất nước, WEF đưa 8 nhóm yếu tố chính xác định năng
lực cạnh tranh tổng thể của một nước, đó là:
Nhóm 1: Độ mở cửa nền kinh tế, bao gồm các chỉ tiêu như
thuế quan và các hàng rào phi thuế quan, chính sách tỷ giá hối
đoái.
Nhóm 2: Vai trò và hoạt động của Chính phủ, bao gồm: mức
độ can thiệp của Nhà nước, năng lực của Chính phủ, qui mô của
Chính phủ, thuế và mức độ trốn thuế, chính sách tài khoá,...
Nhóm 3: Các yếu tố về tài chính, bao gồm khả năng thực
hiện các hoạt động trung gian tài chính, hiệu quả và cạnh tranh,
rủi ro tài chính, đầu tư và tiết kiệm.
Nhóm 4: Các yếu tố về công nghệ bao gồm chỉ số về năng
lực phát triển công nghệ trong nước, khai thác công nghệ thông
qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, hoặc phát triển công nghệ thông
qua các kênh chuyển giao khác.
Nhóm 5: Các yếu tố về kết cấu hạ tầng bao gồm bưu chính
viễn thông, giao thông, cơ sở hạ tầng khác.
Nhóm 6: Quản trị bao gồm các chỉ số về quản lý nguồn nhân
lực và quản trị không liên quan đến nguồn nhân lực.
Nhóm 7: Các yếu tố về lao động, bao gồm các chỉ số về
trình độ tay nghề và năng suất lao động, độ linh hoạt của thị
trường lao động, hiệu quả của các chương trình xã hội.
24
Nhóm 8: Các yếu tố về thể chế gồm các chỉ số về chất lượng
các thể chế pháp lý, các luật và các văn bản pháp qui khác.
b. Theo cách tiếp cận của Micheal Porter
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua năng lực
cạnh tranh của các sản phẩm mà doanh nghiệp kinh doanh. Vì
vậy, các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm
bao hàm các yếu tố từ phạm vi doanh nghiệp, ngành công nghiệp
đến phạm vi quốc gia như:
- Điều kiện hay tình trạng về nhân tố sản xuất như nguồn
nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, vốn, kết cấu hạ tầng, tiềm năng
khoa học kỹ thuật... Cần phân biệt các loại yếu tố đầu vào khác
nhau: đầu vào cơ bản, cao cấp, đầu vào chung, đầu vào chuyên
biệt, và lưu ý rằng mỗi một dạng đầu vào tạo nên lợi thế cạnh
tranh khác nhau.
- Tình trạng và nhu cầu trong nước đối với sản phẩm và dịch
vụ: Hai thuộc tính cơ bản của cầu trong nước có ảnh hưởng lớn
tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm là: (1). Tính chất của nhu
cầu khách hàng; (2). Dung lượng và sự thay đổi của nhu cầu đối
với sản phẩm.
- Dung lượng và sự thay đổi của nhu cầu trong nước đối với
sản phẩm có tác động trực tiếp đến lợi thế cạnh tranh của sản
phẩm. Khi thị trường trong nước có dung lượng hay quy mô lớn
có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh4 trong những ngành có lợi ích kinh
tế nhờ quy mô, do khuyến khích các doanh nghiệp trong nước tích
Michael Porter thường sử dụng thợi thế cạnh tranh thay vì khả năng cạnh tranh hay năng lực cạnh
tranh
4
25