Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Các giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.3 KB, 88 trang )

Lời nói đầu
Vài thập niên gần đây, những thành tựu trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật
đã đa nhân loại bớc sang một thời kì mới- thời kì văn minh hậu công nghiệp.
Trong số những thành tựu đó, chúng ta phải kể đến sự phát triển của công
nghệ thông tin. Có thể nói, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã
giúp các doanh nghiệp thay đổi t duy lẫn phơng thức kinh doanh trong môi trờng hiện đại. Đặc biệt, trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, với vai trò huyết
mạch của nền kinh tế, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong sự phát triển
các dịch vụ ngân hàng là một yêu cầu tất yếu để tăng khả năng cạnh tranh và
đem lại nhiều tiện ích cho khách hàng. Nhận thức đợc vai trò to lớn của công
nghệ thông tin mang lại, nhiều ngân hàng trên thế giới đã và đang áp dụng
công nghệ thông tin để phát triển và hoàn thiện các dịch vụ ngân hàng nhằm
thoả mãn tối đa nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng, trong đó phát
triển mạnh mẽ nhất phải kể đến dịch vụ ngân hàng điện tử (e-banking).
ở Việt Nam, việc mở cửa lĩnh vực ngân hàng đã kéo theo sự xuất hiện
các chi nhánh của hàng loạt các tổ chức tín dụng nớc ngoài với số vốn khổng
lồ, công nghệ hiện đại, dịch vụ đa dạng và với bề dầy kinh nghiệm làm cho
các ngân hàng trong nớc phải đứng trớc những thách thức to lớn. Chính vì vậy,
ngày càng có nhiều tổ chức tài chính, tổ chức tín dụng quan tâm đến dịch vụ
ngân hàng điện tử với mục tiêu tăng khả năng cạnh tranh, giảm chi phí hoạt
động, giữ gìn và thu hút khách, tăng thị phần, qua đó tăng doanh lợi cho ngân
hàng và nâng cao hình ảnh và tăng doanh lợi cho ngân hàng. Do vậy, trong vài
năm gần đây và đặc biệt bắt đầu từ năm 2002, các ngân hàng thơng mại Việt
Nam đua nhau tung ra các sản phẩm của dịch vụ ngân hàng điện tử. Tuy
nhiên, do đây vẫn là một dịch vụ mới mẻ nên mức độ quan tâm của các tổ
chức tín dụng có khác nhau, có nơi ngời ta nhắc đến nó nh một cái gì đó xa
xôi, có nơi dịch vụ này lại đợc quan tâm đặc biệt và đợc coi là một chiến lợc
cạnh tranh tất yếu trên bớc đờng phát triển của ngân hàng mà điển hình là ở
Ngân hàng Ngoại Thơng Việt Nam (Vietcombank). Đây là ngân hàng đi đầu

1



của Việt Nam trong ứng dụng công nghệ thông tin và đặc biệt là trong việc
phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử. Để đi sâu tìm hiểu vấn đề này, tôi đã lựa
chọn đề tài Các giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử

tại Ngân hàng Ngoại Thơng Việt Nam cho khoá luận tốt nghiệp.
Thông qua khoá luận này, tôi mong muốn đem đến cho ngời đọc cái nhìn
khái quát về tình hình triển khai dịch vụ e-banking ở Việt Nam và đặc biệt là
ở Ngân hàng Ngoại Thơng Việt Nam, vai trò của dịch vụ này trong sự phát
triển kinh tế của Việt Nam nói chung để từ đó tìm ra các giải pháp chiến lợc
cho sự phát triển của e-banking tại Ngân hàng Ngoại Thơng Việt Nam.
Khoá luận đợc nghiên cứu trên cơ sở lý luận của học thuyết Mác-Lênin,
các lý thuyết kinh tế học hiện đại, chủ trơng, đờng lối phát triển kinh tế của
Đảng Cộng Sản Việt Nam. Các phơng pháp nghiên cứu đợc sử dụng là: hệ
thống, thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, kết hợp logic và lịch sử để đi từ
lý luận đến thực tiễn, giải pháp.
Khoá luận gồm lời nói đầu, kết luận và ba chơng:
Chơng 1: Ngân hàng điện tử và tình hình triển khai ngân hàng điện tử ở
Việt Nam
Chơng 2: Thực trạng phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng
Ngoại Thơng Việt Nam
Chơng 3: Giải pháp mở rộng và phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử ở
Ngân hàng Ngoại Thơng Việt Nam
Mặc dù đã hết sức cố gắng song do đây là đề tài còn khá mới mẻ không
chỉ ở Việt Nam mà còn ở cả trên thế giới nên bài viết không tránh khỏi còn
nhiều thiếu sót. Tôi mong nhận đợc nhiều ý kiến của ngời đọc quan tâm tới
lĩnh vực dịch vụ ngân hàng mới mẻ này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới cô giáo Lê Thị Thanh, ngời đã tận
tình hớng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành khoá luận này.


2


Mục lục
Chơng I: Ngân hàng điện tử và tình hình triển khai dịch vụ ngân hàng Trang
điện tử tại Việt Nam

6

I. Những vấn đề cơ bản về ngân hàng điện tử ..........................................

6

1. Ngân hàng điện tử là gì?............................................................

6

a. Khái niệm

6

b. Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng điện tử...

7

c. Ba cấp độ của dịch vụ ngân hàng điện tử

8

d.Các loại sản phẩm dịch vụ ngân hàng điện tử.


9

e. Phơng thức giao dịch trong dịch vụ ngân hàng điện tử.

11

2. Các nhân tố ảnh hởng đến sự phát triển của dịch vụ ngân hàng
điện tử ........................................................................................

13

a. Sự phát triển của thơng mại điện tử...

13

b. Môi trờng pháp lý..

16

c. Hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin..

16

d. Hạ tầng cơ sở nhân lực

17

e. Tính cạnh tranh...


17

3. Ưu điểm và hạn chế của dịch vụ ngân hàng điện tử..................
II.

III.

18

Kinh nghiệm phát triển ngân hàng điện tử của một số nớc trên
thế giới

20

1. Trung Quốc ...............................................................................

21

2. Malaixia.....................................................................................

22

3. Singapore ...................................................................................

22

4. Nhật Bản.....................................................................................

23


5. Nhận xét chung..........................................................................

24

Thực trạng phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam..

25

1. Bối cảnh thúc đẩy sự ra đời và phát triển của ngân hàng điện
25

tử tại Việt Nam ..
2. Thực tiễn triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam..

26



26

a. Về dịch vụ máy rút tiền tự động..
3


Chơng I
Ngân hàng điện tử và tình hình triển khai dịch vụ
ngân hàng điện tử tại Việt Nam
I.

Khái quát chung về ngân hàng điện tử


1. Ngân hàng điện tử là gì?
a. Khái niệm
Trớc khi tiếp cận với khái niệm ngân hàng điện tử, chúng ta cùng tìm
hiểu về thơng mại điện tử vì ngân hàng điện tử chính là tên gọi của thơng mại
điện tử trong lĩnh vực ngân hàng.
Thơng mại điện tử là một yếu tố hợp thành của nền kinh tế số hoá, là
hình thái hoạt động thơng mại bằng các phơng pháp điện tử, hay là việc trao
đổi thông tin thơng mại thông qua các phơng tiện công nghệ điện tử mà nói
chung là không cần phải in ra giấy tờ trong bất cứ công đoạn nào của quá trình
giao dịch.
Các hình thức hoạt động chủ yếu của thơng mại điện tử là: Th tín điện tử,
thanh toán điện tử, trao đổi dữ liệu điện tử, giao gửi số hoá các dung liệu, bán
hàng hóa hữu hình qua mạng.
Dịch vụ thơng mại điện tử đã và đang phát triển mạnh mẽ trong những
năm gần đây và trở thành đề tài nóng hổi trong bất kỳ hội thảo nào về công
nghệ thông tin. Việc chuyển đổi sang nền kinh tế mạng đang diễn ra với tốc
độ nhanh hơn hầu hết mọi dự tính. Nền kinh tế mạng đòi hỏi các tổ chức tài
chính phải tìm hiểu, phát triển chiến lợc và đầu t vào kinh doanh điện tử. Thử
thách này yêu cầu những mô hình kinh tế mới và phơng thức mới để tiếp cận
với khách hàng. Thơng mại điện tử tạo nên một hình thức cạnh tranh mới,
buộc ngân hàng phải chọn những dịch vụ mà khách hàng cần, quyết định quy
mô các chi nhánh ngân hàng trong hệ thống và mở rộng hệ thống thanh toán
liên ngân hàng. Sự tham gia của thơng mại điện tử cũng làm nảy sinh các vấn
4


đề về công nghệ của ngân hàng. Các ngân hàng giải quyết đợc những thách
thức này sẽ quyết định đợc sự ảnh hởng của mình đối với thị trờng điện tử hoá.
Đứng trớc yêu cầu đó ngân hàng đã cho ra nhiều dịch vụ mới : dịch vụ ngân

hàng qua điện thoại sử dụng mã cá nhân, hoặc nhận dạng giọng nói; dịch vụ
ngân hàng qua mạng internet, khách hàng chỉ cần một máy tính cá nhân nối
mạng internet là có thể giao dịch với ngân hàng mà không cần phải trực tiếp
đến ngân hàng. Những dịch vụ này đã đa đến một thực tế là, thế giới ngày nay
cho ta thấy có một loại ngân hàng mới: dịch vụ ngân hàng điện tử.
Ngân hàng điện tử là ngân hàng mà các dịch vụ đợc cung cấp qua các
phơng tiện kỹ thuật điện tử, khách hàng không cần đến trực tiếp tại các chi
nhánh của ngân hàng mà vẫn có thể thực hiện đợc các giao dịch và nắm bắt đợc thông tin tài chính của mình.
Hiện nay, một số ngời vẫn thờng đồng nhất dịch vụ internet banking với
dịch vụ ngân hàng điện tử (e-banking). Trên thực tế, dịch vụ e-banking có nội
hàm rộng hơn internet banking rất nhiều. Nếu nh internet banking chỉ đơn
thuần là việc cung ứng các dịch vụ ngân hàng thông qua mạng internet, thì
dịch vụ e-banking còn bao hàm cả việc cung cấp các dịch vụ thông qua một
số phơng tiện khác nh: fax, điện thoại, e-mail.Nh vậy, internet banking là
một bộ phận của e-banking và với những tiện ích của internet so với các phơng tiện khác là giá giao dịch tơng đối rẻ, tốc độ nhanh và có thể truyền đợc
dữ liệu tới khắp mọi nơi trên thế giới một cách nhanh nhất thì internet banking
đợc coi là linh hồn của e-banking.
b. Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng điện tử
Khoảng hơn một thập kỷ trớc đây, hàng loạt các ngân hàng bắt đầu cung
ứng một chơng trình phần mềm cho khách hàng nhằm giúp khách hàng có thể
xem số d tài khoản, đồng thời thực hiện một số lệnh thanh toán cho một số
dịch vụ công cộng nh tiền điện, tiền nớcĐến năm 1995, e-banking chính
thức đợc triển khai thông qua chơng trình phần mềm Quicken của công ty
Intuit Inc., với sự tham gia của 16 ngân hàng lớn nhất nớc Mỹ. Khi đó, khách

5


hàng chỉ cần một máy vi tính, một modem và phần mềm Quicken là có thể sử
dụng đợc dịch vụ này.

Kể từ đó, e-banking đã và đang đợc nhân rộng ra ngoài nớc Mỹ đến tất cả
các châu lục khác. Ngày nay, ở những nớc phát triển, dịch vụ này trở nên khá
quen thuộc với khách hàng vì tính tiện lợi và hiệu quả của nó. Nh ở Mỹ, năm
1998 có 7 triệu hộ gia đình giao dịch với ngân hàng qua Internet, năm 2001 có
khoảng 10 triệu và dự kiến năm 2003 con số này sẽ lên tới 60 triệu1.
ở Việt Nam , dịch vụ e-banking đã đợc khởi động từ năm 1994, nhng
phải đến năm 2002, công nghệ thông tin Việt Nam mới đủ sức thích ứng với
việc triển khai loại hình dịch vụ này.
c. Ba cấp độ của dịch vụ ngân hàng điện tử
Dịch vụ e-banking đợc chia thành ba cấp độ khác nhau:
ở cấp độ sơ đẳng nhất, e-banking không khác nhiều so với giao dịch qua
điện thoại hay giao dịch với một máy rút tiền tự động. Bằng cách sử dụng bàn
phím số của điện thoại, khách hàng có thể biết đợc tình hình tài khoản của
mình hoặc có thể thực hiện các giao dịch đơn giản nh chuyển tiền từ tài khoản
tiết kiệm sang tài khoản vãng lai của cùng một chủ tài khoản.
ở cấp độ thứ hai, internet đóng vai trò tích cực hơn. Lúc này mỗi trang
chủ của ngân hàng trên internet đợc xem nh một cửa sổ giao dịch. Ngoài chức
năng kiểm tra tài khoản, khách hàng còn có thể sử dụng hàng loạt các dịch vụ
trực tuyến khác nh vay mua hàng, mua một hợp đồng bảo hiểm và kể cả đầu t
vào chứng khoán
ở cấp độ thứ ba, ngân hàng đóng vai trò rất to lớn, hỗ trợ cho thơng mại
điện tử giữa các doanh nghiệp phát triển. Mọi giao dịch nh chuyển tiền, mở th
tín dụng cho hợp đồng mua bán giữa các nhà xuất nhập khẩu, mở các th bảo
lãnhđều có thể thực hiện trực tuyến. Khách hàng sẽ không phải đến trụ sở
của ngân hàng mà vẫn có thể thực hiện đợc các giao dịch thông qua một chơng trình do ngân hàng cài đặt tại văn phòng của khách hàng. Chơng trình này
1

Theo số liệu của nhà phân tích Joe Demeo, Bộ t pháp Mỹ, (12/2001)

6



cho phép truy cập đến máy chủ của ngân hàng 24/24 giờ và cả bảy ngày trong
tuần.
Hiện nay, ở châu Âu và châu Mỹ, e-banking là một khái niệm không còn
xa lạ đối với dân chúng, nhng ở châu á và đặc biệt là ở Việt Nam, giao dịch
này thuộc loại cha phổ biến. Do đó, các chi nhánh ngân hàng nớc ngoài thờng
giành đợc u thế và đi tiên phong trong lĩnh vực còn mới mẻ này nh ngân hàng
ANZ, ngân hàng HSBCTuy nhiên, một số ngân hàng Việt Nam cũng đã có
những bớc phát triển nhất định trong việc ứng dụng dịch vụ ngân hàng điện tử
để tăng khả năng cạnh tranh với các ngân hàng nớc ngoài nhng vẫn còn ở cấp
độ sơ đẳng và đang có một số hoạt động ở cấp độ thứ hai.
d. Các loại sản phẩm dịch vụ ngân hàng điện tử
Ngân hàng điện tử cung cấp cho khách hàng nhiều loại sản phẩm dịch vụ
tiện ích:
Các loại thẻ nhựa: thẻ nhựa là tên mà ngời ta đặt cho các loại thẻ nhựa
dùng thay thế cho tiền mặt. Có nhiều tên gọi khác nhau cho những loại thẻ
này, nhng nhìn chung chúng đều có hai chức năng chính: giúp cho ngời ta có
thể rút đợc tiền mặt hoặc thực hiện thanh toán mà không cần dùng đến tiền
mặt hoặc séc. Hiện nay, hầu hết các ngân hàng lớn trên thế giới đều có thể
phát hành một thẻ mang ba chức năng cho khách hàng của họ là: Chức năng
bảo chi séc (theo đó ngân hàng đảm bảo thanh toán cho khoản tiền ghi trên
séc do khách hàng phát hành tới một hạn mức nhất định), chức năng rút tiền
mặt từ các máy rút tiền tự động, chức năng thanh toán hàng hoá, dịch vụ bằng
chuyển tiền điện tử tại điểm bán hàng.
Hệ thống thanh toán điện tử tại các điểm bán hàng: đây còn gọi là
dịch vụ chuyển tiền điện tử tại điểm bán hàng. Số tiền phải trả cho hàng hoá sẽ
đợc chuyển bằng công nghệ điện tử tại điểm bán hàng từ ngân hàng của ngời
mua sang ngân hàng của ngời bán. Điểm bán hàng có thể là tại siêu thị hay
trạm bán xăng, nơi mà khách hàng sử dụng thẻ để thanh toán cho hàng hoá.

Ngời bán hàng kéo trợt thẻ qua máy cà thẻ. Đây thực chất là một thiết bị đọc,
có thể đọc đợc các thông tin đợc mã hoá trên dải từ nằm ở mặt sau thẻ.
7


Máy rút tiền tự động (ATM): máy này cho phép khách hàng tự mình
rút tiền mà không cần sự trợ giúp nào của nhân viên ngân hàng. Khách hàng
dùng các loại thẻ nhựa đa vào máy rút tiền tự động, các máy này sẽ nhận dạng
khách hàng thông qua mã số nhận dạng cá nhân mà khách hàng nhập trên bàn
phím của máy. Ngoài chức năng chủ yếu là cho phép khách hàng rút tiền mặt,
các máy ATM còn cung cấp một loạt các tiện ích khác nh cho phép khách
hàng vấn tin tài khoản, chuyển tiền giữa các tài khoản, yêu cầu báo cáo tài
khoản chi tiết hoặc in các báo cáo tài khoản mini
Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại: đây là loại hình dịch vụ ngân hàng
mà khi sử dụng nó, khách hàng chỉ cần dùng hệ thống điện thoại thông thờng.
Với dịch vụ này, khách hàng có thể mọi nơi, mọi lúc dùng điện thoại cố định
hay điện thoại di động để nghe đợc các thông tin về sản phẩm dịch vụ ngân
hàng, thông tin tài khoản của mình và thậm chí có thể thực hiện đợc một số
loại giao dịch. Đây là hệ thống trả lời tự động, hoạt động 24/24 giờ trong
ngày, 7 ngày trong một tuần, 365 ngày trong một năm, nên khách hàng hoàn
toàn chủ động sử dụng khi cần thiết.
Dịch vụ ngân hàng tại nhà: là một loại dịch vụ ngân hàng điện tử cho
phép khách hàng có thể chủ động kiểm soát hoạt động giao dịch ngân hàng từ
văn phòng của họ. Hệ thống này giúp khách hàng tiết kiệm đợc rất nhiều thời
gian và tiền bạc vì họ không cần phải đến giao dịch trực tiếp tại ngân hàng,
khách hàng sẽ có nhiều thời gian hơn để tập trung vào các hoạt động kinh
doanh của mình. Khách hàng cũng không còn phải lo lắng về nạn kẹt xe cũng
nh các loại giấy tờ sổ sách phức tạp. Với sự trợ giúp của dịch vụ này, việc giao
dịch ngân hàng đối với khách hàng giờ đây chỉ còn là việc bấm bàn phím máy
tính, vào thời điểm thuận tiện nhất của mình.

Dịch vụ ngân hàng qua mạng máy tính toàn cầu (internet banking):
là một loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại và còn khá mới mẻ. Nó cho phép
khách hàng có thể giao dịch ngân hàng thông qua mạng internet vào bất cứ lúc
nào, ở bất cứ đâu mà khách hàng cho là phù hợp nhất. Do đó, khách hàng có
thể làm giao dịch 24 giờ trong ngày, 7 ngày trong tuần tại nhà riêng hoặc ở

8


văn phòng, khi đang ở trong nớc hay đang ở nớc ngoài. Sự ra đời của internet
banking thực sự là một cuộc cách mạng, nó thúc đẩy các giao dịch xảy ra
nhanh hơn, tiết kiệm đợc nhiều thời gian và tiền cho cả khách hnàg lẫn ngân
hàng và cho cả xã hội.
Dịch vụ ngân hàng qua vô tuyến truyền hình tơng tác: đây là một loại
hình dịch vụ có tính hai chiều đợc cung cấp thông qua hệ thống truyền hình
kỹ thuật số. Thông tin không chỉ đi một chiều từ đài truyền hình tới các khán
giả mà còn cả theo chiều ngợc lại. Với dịch vụ này, khách hàng không còn thụ
động ngồi xem các chơng trình của đài truyền hình phát mà họ hoàn toàn chủ
động trong việc xem gì, khi nào. Ví dụ, khán giả có thể lấy thêm các thông tin
chi tiết hơn về một bộ phim tài liệu nào đó đang phát hoặc thông qua bộ điều
khiển từ xa có thể gửi ý kiến phản hồi về đài truyền hình.
Dịch vụ ngân hàng qua mạng viễn thông không dây: đây là loại dịch
vụ ngân hàng điện tử mới nhất hiện nay dựa trên công nghệ điện tử viễn
thông không dây của mạng điện thoại di động. Thực chất dịch vụ này chính là
sự kết nối điện thoại di động của khách hàng với trung tâm cung cấp dịch vụ
ngân hàng điện tử và kết nối internet trên điện thoại di động sử dụng giao thức
truyền thông.
e. Phơng thức giao dịch trong dịch vụ ngân hàng điện tử
Việc thiết lập giao dịch điện tử có thể đợc thực hiện theo hai phơng thức
là phơng thức giao dịch trực tiếp và phơng thức giao dịch từ xa thông qua

mạng internet hay thông qua điện thoại.
* Phơng thức giao dịch trực tiếp
Với phơng thức giao dịch trực tiếp, thông qua việc khách hàng trực tiếp
đến ngân hàng, xuất trình các tài liệu để giao dịch, ngân hàng có thể kiểm tra
các tài liệu này, kiểm tra chứng minh th, chữ kí, giấy uỷ nhiệm, từ đó ngân
hàng có thể kiểm tra thẩm quyền của ngời tham gia giao dịch, từ đó đảm bảo
chắc chắn việc giao dịch, chuyển giao thông tin đợc chính xác.
* Phơng thức giao dịch từ xa (thông qua mạng internet hay điện thoại)

9


Trong trờng hợp khách hàng thực hiện đề nghị thiết lập giao dịch ngân
hàng điện tử thông qua mạng internet hay điện thoại, ngân hàng sẽ có một số
khó khăn trong việc kiểm tra, xác thực khách hàng do thiếu các phơng tiện
truyền thống nh: chữ kí, chứng minh thTrong trờng hợp này, thông thờng
các ngân hàng xác định khách hàng thông qua việc yêu cầu khách hàng điền
đầy đủ vào mẫu đề nghị giao dịch ngân hàng điện tử và gửi đến ngân hàng,
trong mẫu này có những thông tin mà chỉ có ngân hàng và khách hàng mới có
thể biết đợc. Ví dụ, các thông tin mà Ngân hàng Ngoại Thơng Việt Nam yêu
cầu khách hàng của mình phải điền đầy đủ khi có đề nghị thiết lập giao dịch
điện tử là: tên ngời mở tài khoản, số, ngày, số chứng minh th, địa chỉ, số điện
thoại, số tài khoản, loại tài khoản, địa chỉ e-mail,số zip. Trong đó, chỉ có
thông tin về mã số zip là chỉ có ngân hàng và khách hàng mới biết đợc. Song
đây chỉ là mã giao dịch nên không có quy định buộc ngân hàng và khách hàng
phải giữ bí mật. Mặt khác, mã số này không chỉ sử dụng cho khách hàng trong
giao dịch mở tài khoản tiền gửi mà còn sử dụng trong các mẫu giao dịch liên
quan đến tiền gửi tiết kiệm nên khả năng bị tiết lộ thông tin là khá cao.
Sau khi ngân hàng chấp nhận đề nghị thiết lập giao dịch ngân hàng điện
tử, ngân hàng sẽ gửi thông báo cho khách hàng trong đó cung cấp cho khách

hàng tên giao dịch và mã số để giao dịch và khách hàng đợc khuyến nghị thay
đổi mã số để đảm bảo an toàn. Việc cung cấp tên giao dịch và mã số giao dịch
có thể thực hiện thông qua phơng thức gửi th giấy, song hiện nay ngân hàng
thờng chuyển bằng th điện tử.
Liên quan đến việc sửa chữa, thay đổi, cung cấp lại tên giao dịch và mã
số, để tạo thuận lợi cho khách hàng, các ngân hàng cũng cho phép thực hiện
yêu cầu giao dịch thông qua mạng và quá trình này cũng tơng tự nh quá trình
thiết lập giao dịch qua mạng hay điện thoại đã đợc trình bày nh trên.
Qua việc xem xét quá trình thiết lập giao dịch ngân hàng điện tử, có thế
thấy việc kiểm tra, xác thực khách hàng là một khâu rất quan trọng để đảm
bảo đúng đối tợng. Bên cạnh đó, việc thiết lập phơng thức cung cấp, chuyển

10


giao thông tin giao dịch một cách thận trọng là rất cần thiết để đảm bảo sự an
toàn và bí mật thông tin tiền gửi của khách hàng.
Do có hai phơng thức để thiết lập giao dịch ngân hàng điện tử nên khách
hàng có thể lựa chọn phơng thức nào tiện lợi nhất cho mình để sao cho nhanh
chóng và hiệu quả. Ngày nay, do yêu cầu tiết kiệm thời gian nên khách hàng
thờng thực hiện theo phơng thức giao dịch từ xa thông qua mạng internet hoặc
thông qua điện thoại.
2. Các nhân tố ảnh hởng tới sự ra đời và phát triển của ngân hàng
điện tử
a. Sự phát triển của thơng mại điện tử
Trớc tiên, có thể khẳng định ngân hàng điện tử ra đời là nhờ vào sự phát
triển mạnh mẽ của thơng mại điện tử. Xu thế cạnh tranh ngày càng khốc lịêt
giữa các doanh nghiệp trên thế giới cũng nh ở Việt Nam đã buộc họ phải luôn
luôn tiếp cận với những thành tựu mới của khoa học kĩ thuật nhằm phục vụ tốt
hơn nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng. Việc áp dụng thơng mại điện

tử vào hoạt động kinh doanh trở thành một yêu cầu tất yếu đối với tất cả các
doanh nghiệp vì thơng mại điện tử đa lại những lợi ích tiềm tàng cho họ.
*Đối với doanh nghiệp :
- TMĐT trớc hết giúp cho các doanh nghiệp nắm đợc thông tin phong
phú về kinh tế- thơng mại, nhờ đó, có thể xây dựng đợc chiến lợc sản xuất và
kinh doanh thích hợp với xu thế phát triển của thị trờng trong nớc, khu vực, và
thị trờng quốc tế.
- Giảm chi phí sản xuất : TMĐT giúp giảm chi phí sản xuất trớc hết là
chi phí văn phòng.Các văn phòng không giấy tờ chiếm diện tích nhỏ hơn rất
nhiều, chi phí tìm kiếm, chuyển giao tài liệu giảm đi nhiều lần. Điều quan
trọng hơn là các nhân viên có năng lực đợc giải phóng khỏi nhiều công đoạn,
sự vụ, có thể tập trung vào nghiên cứu phát triển, sẽ đa đến những lợi ích to
lớn lâu dài.

11


- Giảm chi phí bán hàng và tiếp thị : TMĐT giúp giảm thấp chi phí bán
hàng và chi phí tiếp thị. Bằng phơng tiện internet, một nhân viên bán hàng có
thể giao dịch đợc với rất nhiều khách hàng, catalogue điện tử trên Web phong
phú hơn nhiều và thờng xuyên cập nhật so với catalogue in ấn chỉ có khuôn
khổ giới hạn và luôn lỗi thời.
- Giảm chi phí giao dịch: Thơng mại điện tử qua internet giúp ngời tiêu
thụ và các doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch (giao
dịch đợc hiểu là quá trình quảng cáo, tiếp xúc ban đầu, giao dịch đặt hàng,
giao dịch thanh toán). Thời gian giao dịch qua Internet chỉ bằng 7% thời gian
giao dịch qua Fax và bằng khoảng 0,5 phần nghìn thời gian giao dịch qua bu
điện.
- Cải tiến quan hệ trong công ty, với đồng nghiệp, đối tác, bạn hàng :
TMĐT tạo điều kiện cho việc thiết lập và cũng cố mối quan hệ giữa các thành

tố tham gia vào quá trình thơng mại: Thông qua mạng các thành tố tham gia
có thể giao tiếp trực tiếp và liên tục với nhau gần nh không còn khoảng cách
về địa lý và thời gian nữa; nhờ đó cả sự hợp tác lẫn sự quản lý đều đợc tiến
hành nhanh chóng và liên tục; các bạn hàng mới, các cơ hội kinh doanh mới
đợc phát hiện nhanh chóng trên bình diện toàn quốc, toàn khu vực, toàn thế
giới và có nhiều cơ hội để lựa chọn.
- Tăng năng lực phục vụ khách hàng của các doanh nghiệp vì giờ đây họ
có sự hỗ trợ đắc lực của các phơng tiện điện tử, do vậy mà khách hàng đợc
phục vụ một cách tốt nhất trong một thời gian ngắn nhất.
- Mở rộng phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp do thơng mại điện tử
giúp doanh nghiệp giảm đợc các loại chi phí, khả năng phục vụ khách hàng lại
tăng, nhân lực cũng đợc giảm đi đáng kể nên việc mở rộng phạm vi kinh
doanh là điều không khó nữa.
*Đối với các cá nhân

12


- Thuận tiện hơn khi tiến hành mua các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ
vì bây giờ họ không còn phải chờ đợi, xếp hàng nữa, thời gian giao dịch là
nhanh và thuận tiện.
- Tăng khả năng lựa chọn các loại hình sản phẩm hàng hoá dịch vụ:
khách hàng có thể lựa chọn nhà cung cấp nào mang lại cho họ nhiều tiện ích
nhất đối với họ. Khi thơng mại điện tử xuất hiện, nhiều doanh nghiệp sau khi
tiếp cận với lĩnh vực này sẽ mang đến cho khách hàng nhiều dịch vụ hoặc
cung cấp hàng hoá cho khách hàng một cách thuận tiện nhất
- Tiếp cận mặt hàng dễ dàng hơn: nhờ thơng mại điện tử, khách hàng
có thể tiếp cận với các mặt hàng, dịch vụ không chỉ bằng phơng pháp truyền
thống mà còn thông qua các phơng tiện điện tử hiện đại, điều này mang lại rất
nhiều thuận lợi cho họ.

- Khách hàng có thể đợc hởng các dịch vụ nhiều hơn khi tham gia vào
các giao dịch mua hàng hóa và dịch vụ
Những tác động to lớn của thơng mại điện tử đối với các doanh nghiệp là
điều không phải bàn cãi và ngành ngân hàng cũng không nằm ngoài qui luật
đó. Thơng mại điện tử đã đa đến cho ngành ngân hàng một loại hình dịch vụ
mới: nhanh chóng và hiệu quả, đó là dịch vụ ngân hàng điện tử.
Ngày nay, với sự phát triển nh vũ bão của công nghệ thông tin đã làm
cho nền kinh tế xích lại gần nhau không có sự phân cách về mặt địa lý, không
gian và thời gian. Sự phát triển của thơng mại điện tử đã tác động đến ngân
hàng, đặt ra cho ngân hàng những cơ hội và thách thức mới.
Thơng mại điện tử tạo nên một hình thức cạnh tranh mới, buộc ngân
hàng phải chọn những dịch vụ mà khách hàng cần, quyết định quy mô các chi
nhánh ngân hàng trong hệ thống và mở rộng hệ thống thanh toán liên ngân
hàng.
Sự tham gia của thơng mại điện tử cũng làm nảy sinh các vấn đề về công
nghệ của ngân hàng. Các ngân hàng giải quyết đợc những thách thức này sẽ
quyết định đợc sự sự ảnh hởng của mình đối với thị trờng điện tử hoá.

13


Đứng trớc yêu cầu đó ngân hàng đã cho ra nhiều dịch vụ mới : dịch vụ
ngân hàng qua điện thoại sử dụng mã cá nhân, hoặc nhận dạng giọng nói; dịch
vụ ngân hàng qua mạng internet, khách hàng chỉ cần một máy tính cá nhân
nối mạng internet là có thể giao dịch với ngân hàng mà không cần phải trực
tiếp đến ngân hàng. Những dịch vụ này đã đa đến một thực tế là, thế giới ngày
nay cho ta thấy có một loại dịch vụ ngân hàng mới: ngân hàng điện tử.
Cùng với ảnh hởng của thơng mại điện tử thì còn có các nhân tố có ảnh
hởng quyết định tới sự phát triển của ngân hàng điện tử.
b. Môi trờng pháp lý

Môi trờng pháp lý là một yếu tố đặc biệt quan trọng, ảnh hởng đến hoạt
động của mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Trong từng nớc, các ngân hàng chỉ có
thể áp dụng dịch vụ ngân hàng điện tử khi tính pháp lý của nó đợc thừa nhận
(biểu hiện cụ thể bằng sự thừa nhận pháp lý giá trị của các giao dịch điện tử,
các thanh toán điện tử, chứng từ điện tử) và có các cơ quan xác thực (chứng
nhận chữ ký điện tử). Môi trờng pháp lý ổn định sẽ có tác động tích cực đến
sự phát triển của các loại hình dịch vụ mới này vì nó sẽ đợc bảo đảm các hoạt
động của mình chính bằng hệ thống pháp luật của quốc gia mình. Chính vì
vậy, môi trờng pháp lý của quốc gia đòi hỏi ngày càng hoàn thiện hơn, ổn
định hơn để đảm bảo thông suốt các hoạt động của ngân hàng điện tử.
c. Hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin
Ngân hàng điện tử ra đời, nh trên đã phân tích, là do sự phát triển mạnh
mẽ của công nghệ thông tin. Chính vì vậy, chỉ có thể tiến hành thực tế và một
cách có hiệu quả các hoạt động của ngân hàng điện tử khi có một hạ tầng cơ
sở công nghệ thông tin đủ năng lực. Đòi hỏi về hạ tầng cơ sở công nghệ thông
tin bao gồm hai mặt: một là tính tiên tiến, hiện đại về công nghệ và thiết bị,
hai là tính phổ cập về kinh tế (đủ rẻ tiền để đông đảo ngời có thể tiếp cận đợc).
Do tính chất đặc biệt quan trọng của công nghệ thông tin trong sự phát triển
của ngân hàng điện tử, nên các ngân hàng muốn phát triển loại hình dịch vụ
này cần phải có nguồn vốn quan trọng ban đầu để đầu t và hoàn thiện hạ tầng
cơ sở công nghệ thông tin của ngân hàng mình.
14


d. Hạ tầng cơ sở nhân lực
Khi phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử, có thể các ngân hàng giảm đợc
đáng kể nguồn nhân lực do có nhiều công đoạn đợc tự động hoá và có máy
móc hỗ trợ đắc lực. Nhng cũng chính điều này đòi hỏi mỗi nhân viên ngân
hàng phải trang bị cho mình những kĩ năng ứng dụng công nghệ thông tin một
cách có hiệu quả, có thói quen làm việc bằng các phơng tiện điện tử, đồng thời

các nghiệp vụ ngân hàng lại các phải nắm chắc hơn vì họ không còn làm việc
trực tiếp với khách hàng nữa. Ngoài ra, các ngân hàng cần phải có đội ngũ
chuyên gia thông tin đủ mạnh. Con ngời luôn là nhân tố quyết định đến sự
thành công của bất kì hoạt động nào, phát triển nhân lực mạnh mẽ sẽ góp phần
to lớn cho những thành công của ngân hàng điện tử.
e. Tính cạnh tranh
Cạnh tranh là động lực của sự phát triển. Chỉ có cạnh tranh, các ngân
hàng mới tự đổi mới mình để khỏi bị tụt hậu với các ngân hàng khác. Càng
cạnh tranh nhiều các ngân hàng càng phải hoàn thiện mình hơn, đa ra các dịch
vụ tốt hơn, hoàn hảo hơn, nhiều tiện ích hơn để có thể thu hút đợc nhiều khách
hàng hơn.
Ngày nay, các ngân hàng trên thế giới nói chung và các ngân hàng Việt
Nam nói riêng đã nhận thức đợc những đặc tính u việt của ngân hàng điện tử
so với ngân hàng truyền thống nên đã, đang và sẽ lựa chọn, phát triển loại
hình dịch vụ ngân hàng điện tử để đáp ứng những yêu cầu ngày càng khắt khe
của khách hàng.
Ngân hàng điện tử là ngân hàng mà các dịch vụ đợc cung cấp qua các
phơng tiện kỹ thuật điện tử, khách hàng không cần đến trực tiếp tại các chi
nhánh của Ngân hàng mà vẫn có thể thực hiện đợc các giao dịch và nắm bắt đợc thông tin tài chính của mình. Ngân hàng điện tử ra đời mang lại lợi ích to
lớn cho ngân hàng, chi phí ban đầu và chi phí cho công tác điều hành giảm
xuống đáng kể, năng suất làm việc của nhân viên nâng cao và quan trọng là đợc khách hàng quan tâm tới và đợc đánh giá là những tổ chức hàng đầu về ứng

15


dụng kỹ thuật tiến bộ cho phép ngân hàng có thể phục vụ khách hàng 24/24
giờ và ở mọi lúc, mọi nơi.
3. Ưu điểm và hạn chế của ngân hàng điện tử
a. Ưu điểm
Ngân hàng điện tử đã tạo ra nhiều sản phẩm dịch vụ tuyệt vời, đáp ứng đợc những yêu cầu ngày càng khắt khe của khách hàng. Trớc đây, nói đến giao

dịch ngân hàng, ta thờng tởng tợng ra cảnh khách hàng phải mất hàng giờ để
điền vào các loại mẫu giấy tờ, sau đó đứng xếp hàng dài chờ đến lợt, rồi phải
làm thủ tục qua nhiều cửa của ngân hàng. Nhng giờ đây, các dịch vụ ebanking đa dạng với các cách sử dụng tơng đối đơn giản, tiện lợi đã giúp
khách hàng hoàn toàn thoát khỏi những phiền toái đó. E-banking đã thực sự
trở thành phơng tiện hỗ trợ đắc lực giúp cho khách hàng có thể chủ động kiểm
soát tình hình tài chính của mình, có thể thông tin liên lạc với ngân hàng một
cách hiệu quả, mọi nơi, mọi lúc mà không cần phải giao dịch trực tiếp với
ngân hàng. Bên cạnh đó, phí giao dịch e-banking đợc đánh giá là ở mức thấp
nhất so với các phơng tiện giao dịch khác. Ta có thể theo dõi kết quả khảo sát
sau:
Phí giao dịch e-banking so với các phơng tiện khác
Nhân viên phục vụ

1,07 USD

Qua điện thoại

0,54 USD

ATM

0,27 USD

Internet

0,015 USD

Nguồn: Kết quả khảo sát của hãng nghiên cứu Booz, Allen & Hamilton(2000)

Nh vậy, thay đổi lớn nhất mà e-banking mang lại cho khách hàng là có

thể đem lại một giải pháp mà từ trớc tới nay cha từng có. Khách hàng có đợc
tất cả những gì mình mong muốn với một mức thời gian ít nhất và điều đó có
thể tóm lại thành một cụm từ sự tiện lợi, nhất là đối với các cá nhân, hộ gia
đình, doanh nghiệp vừa và nhỏ vì nhiều khi đối tợng khách hàng này không đủ
nhân lực đi đến văn phòng trực tiếp giao dịch với ngân hàng và e-banking sẽ là
sự lựa chọn tối u.
E-banking không chỉ mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng mà còn cho
cả các ngân hàng nữa. E-banking giúp cho ngân hàng tiết kiệm đợc tối đa
16


nguồn nhân lực bởi nhiều khâu đã đợc tự động hoá nhng vẫn đảm bảo cung
cấp cho khách hàng nhiều loại hình dịch vụ chất lợng cao nh: dịch vụ vấn tin,
chuyển khoản, thanh toán hoá đơn dịch vụ công cộng, kinh doanh chứng
khoán, vay vốn, thông tin quảng cáo, trao đổi thông tin.... Nhờ đó, các ngân
hàng không những có thể thoả mãn yêu cầu của khách hàng, thu hút ngày
càng nhiều ngời tham gia vào các giao dịch của ngân hàng, nâng cao đợc hình
ảnh và uy tín của họ, mà còn giảm chi phí giao kinh doanh và tăng doanh thu
lợi nhuận, hoạt động kinh doanh ngày một phát triển.
Ngoài ra, một lợi ích quan trọng khách mà e-banking mang lại cho ngân
hàng, đó là ngân hàng có thể thực hiện chiến lợc toàn cầu hoá mà không cần
mở thêm chi nhánh.
b. Hạn chế
Tất cả những lợi ích này của e-banking đã và đang khiến các ngân hang
không thể làm ngơ trớc thời kỳ bùng nổ công nghệ thông tin nh hiện nay. Tuy
nhiên, bên cạnh những u điểm trên, có không ít bất lợi của e-banking mà các
ngân hàng và khách hàng của họ phải quan tâm.
Đối với khách hàng, họ phải tính đến những bất lợi nh: Một là, để tham
gia đợc vào e-banking, khách hàng cần phải có máy vi tính hay các phơng tiện
điện tử khác và phải mua dịch vụ từ công ty dịch vụ, đây là khoản chi phí đầu

t ban đầu không nhỏ. Hai là, vấn đề bí mật, an toàn cho khách hàng cũng là
điều đáng lo ngại. Ví dụ, với một giao dịch để thanh toán thẻ, khách hàng phải
tiết lộ số thẻ cho ngân hàng. Giao dịch điện tử, khách hàng thực tế phải chấp
nhận nhiều rủi ro hơn so với giao dịch chứng từ vì trong trờng hợp xảy ra tranh
chấp, chứng từ sẽ là bằng chứng hùng hồn hơn. Ba là, nhiều khách hàng vẫn
muốn trực tiếp giao dịch với cán bộ ngân hàng để có thể diễn giải dễ dàng
hơn. Cuối cùng, có những thông tin mà internet hay bất cứ một phơng tiện
điện tử khác không thể cung cấp đầy đủ nh một cán bộ chuyên trách của ngân
hàng.
Đối với các ngân hàng, e-banking cũng có một số những nhợc điểm. Đó
là, để xây dựng hệ thống giao dịch điện tử đòi hỏi ngân hàng phải có lợng vốn
17


đầu t ban đầu khá lớn cha kể đến các chi phí bảo hành, duy trì và phát triển hệ
thống sau này, một lợng chi phí mà không phải ngân hàng nào cũng có thể sẵn
sàng đầu t. Vấn đề cần quan tâm khác là cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin,
điều này đòi hỏi sự nỗ lực của cả quốc gia chứ không riêng gì một ngân hàng
nào. Ngoài ra, vấn đề bảo mật an toàn cho khách hàng và hoà mạng vào các
phần mền khác cũng đặt ra vấn đề cần giải quyết.
i. Kinh nghiệm phát triển ngân hàng
điện tử của một số nớc trên thế giới

Trong khi ở Việt Nam ngân hàng điện tử còn tơng đối mới mẻ và cha phổ
biến thì trên thế giới, đặc biệt là những quốc gia phát triển thì khái niệm ebanking không còn xa lạ đối với dân chúng. Chỉ cần một dẫn chứng về số
công ty và cá nhân sử dụng mạng internet thì ta có thể rõ vấn đề trên: ở Việt
Nam, con số đó là 0,2% trong khi của thế giới là 7,98% 1. Ngoài ra, giao dịch
thông qua các phơng tiện điện tử ở các nớc này cũng phát triển hơn rất nhiều.
Ví dụ nh giao dịch qua mạng điện thoại di động ở nớc họ diễn ra rất thờng
xuyên với khối lợng giao dịch lớn thì ở Việt Nam chỉ có duy nhất một ngân

hàng là ngân hàng á Châu mới đang có dự án cho việc triển khai hình thức
này mà cũng chỉ là dành cho những giao dịch đơn giản. Có thể nói, dịch vụ
ngân hàng điện tử của Việt Nam còn phải cố gắng và nỗ lực rất nhiều mới
đuổi kịp đợc các nớc khác. Để đạt đợc điều này, Việt Nam cần phải học hỏi
kinh nghiệm của các nớc đã thành công trong việc triển khai dịch vụ ngân
hàng điện tử và áp dụng một cách sáng tạo vào điều kiện thực tế của Việt
Nam.
Đối với các nớc đã triển khai thành công dịch vụ ngân hàng điện tử,
chính phủ nớc họ đã có những điều chỉnh hợp lý, tạo môi trờng pháp lý thuận
lợi để tạo điều kiện cho dịch vụ này phát huy những mặt mạnh của nó trong xã
hội.
1. Trung Quốc

1

Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng số 1+2/2003

18


Tới nay, nỗ lực của Trung Quốc tập trung chủ yếu vào xây dựng cơ sở hạ
tầng công nghệ cho công nghệ thông tin. Mấy năm gần đây, công nghệ phần
cứng đạt tốc độ tăng khoảng 45%/năm. Trung Quốc cũng đã bắt đầu sản xuất
máy siêu vi tính. Công nghiệp phần mềm phát triển với tốc độ trên 20%/năm
và bắt đầu vào giai đoạn phát triển nhanh, át hẳn nhiều khu vực khác trên thế
giới và gần đuổi kịp xu hớng phát triển toàn cầu.
Trung Quốc bớc vào thơng mại điện tử rất chậm: cuối năm 1997 mới
chính thức vào mạng internet (trớc đó có truy cập nhng không chính thức), nhng ngay sau đó tốc độ phát triển tăng rất cao.
Trung Quốc đã tham gia chơng trình Trade Point của UNCTAD, với 1
point ở Thợng Hải và 1 point ở Bắc Kinh nh các tâm điểm cung cấp các dịch

vụ tiếp thị và giao dịch buôn bán đối ngoại có sử dụng phơng tiện điện tử cho
các doanh nghiệp cha có điều kiện tự mình trực tiếp tiến hành, đồng thời cung
cấp dịch vụ đào tạo huấn luyện kỹ năng giao dịch buôn bán đối ngoại, đặc biệt
là kỹ năng giao dịch qua mạng, đồng thời chính phủ cũng tạo điều kiện về cơ
sở vật chất cho các ngân hàng trong nớc tiến hành dịch vụ e-banking, tuy
nhiên mức độ phát triển của dịch vụ này ở Trung Quốc cha cao, số ngời sử
dụng dịch vụ này còn ít vì hiện nay. ở Trung Quốc, các hoạt động trao đổi
thông tin qua mạng vẫn phải chịu sự theo dõi và kiểm duyệt của chính phủ, do
vậy đã khiến cho hoạt động này cha phát triển mạnh mẽ.
Theo các cơ quan nghiên cứu quốc tế về thơng mại điện tử thì triển vọng
phát triển ngân hàng điện tử ở Trung Quốc còn cha rõ ràng, vì một trong nhng
đòi hỏi của lĩnh vực này là internet không bị theo dõi, kiểm duyệt.

19


2. Malaixia
Để phát triển ngân hàng điện tử, Malaixia đã thành lập một tiểu ban đặc
nhiệm do bộ Năng lợng, Bu điện và thông tin đứng đầu, đợc thành lập để xây
dựng một hệ thống luật đáp ứng các yêu cầu của ngân hàng điện tử gồm: Luật
chữ ký điện tử, luật tội phạm máy tính, luật bản quyền sửa đổi. Bên cạnh đó,
chính phủ cũng đã công bố chiến lợc thơng mại điện tử bao gồm:
- Xây dựng một hạ tầng cơ sở thông tin đẳng cấp quốc tế
- Malaixia sẽ không kiểm duyệt internet
- Malaixia sẽ trở thành kiểu mẫu khu vực về bảo vệ sở hữu trí tuệ trong
kinh doanh trên mạng
- Malaixia sẽ đảm bảo tự do sở hữu t nhân và giao lu lực lợng lao động
trí tuệ toàn thế giới
- Sẽ không đánh thuế nhập khẩu các thiết bị và kĩ thuật phục vụ cho
kinh tế số hoá và thơng mại trong thời gian ít nhất là đến năm 2010.

Hệ thống thanh toán điện tử đã đợc thiết lập ở Malaixia do ngân hàng
Negara chịu trách nhiệm chính đã phát triển rất mạnh mẽ. Dịch vụ ngân hàng
điện tử ở đây có thể nói là tơng đối phát triển do chính phủ đã tạo nhiều điều
kiện thuận lợi cho lĩnh vực này hoạt động.
3. Singapore
Từ lâu, Singapore đã tuyên bố mục tiêu biến nớc này trở thành một trong
những nớc đứng đầu thế giới về điện toán hoá, làm cho công nghệ thông tin
thâm nhập vào mọi khía cạnh của đời sống xã hội. Và đến năm 1997, tất cả
các cơ quan, công sở đều đã liên kết vào internet.
Riêng về thanh toán điện tử, Singapore là một trong những nớc áp dụng
đầu tiên trên thế giới. Tháng 12/1996, nhân phiên họp cấp bộ trởng WTO tổ
chức ở Singapore, Singapore đã chính thức khai trơng việc ứng dụng toàn diện

20


các loại thẻ tiền mặt internet, thẻ thông minh, thẻ mua hàng điện tử, túi tiền
điện tử. Hệ thống giao dịch an toàn mang tính quốc tế, thành lập tháng 4/1997
đa vào sử dụng toàn diện cuối năm 1998.
Để đạt đợc những thành tựu đó, chính phủ Singapore đã đa ra nhiều văn
kiện quan trọng điều chỉnh hoạt động thơng mại điện tử nói chung và ngân
hàng điện tử nói riêng ở Singapore nh: Luật chống lạm dụng máy tính điện tử,
luật bí mật riêng t, luật giao dịch điện tử, luật bản quyền cũng đợc sửa đổi lại
cho phù hợp với các yêu cầu của thơng mại điện tử.
Trong thời gian tới, Singapore tiếp tục có các chiến lợc phát triển thơng
mại điện tử và mở rộng thanh toán điện tử, với các mục tiêu sau:
- Xây dựng một cơ sở hạ tầng thơng mại điện tử kết nối quốc tế,
- Biến Singapore thành một trung tâm thơng mại điện tử,
- Khuyến khích các doanh nghiệp ứng dụng thơng mại điện tử nh là một
chiến lợc kinh doanh,

- Xúc tiến dân chúng sử dụng rộng rãi các hình thức thơng mại điện tử,
- Làm hài hoà các luật và các chính sách thơng mại điện tử qua biên giới.
Trong kế hoạch tổng thể phát triển của mình, Singapore coi pháp luật là
nền móng dới cùng của hạ tầng cơ sở thơng mại điện tử.
4. Nhật Bản
Nền công nghệ thông tin của Nhật Bản có đặc điểm nổi bật là: công
nghiệp phần cứng khá xuất sắc, nhng công nghệ phần mềm thì chậm, thua khá
xa so với Mỹ và Tây Âu, và sự xâm nhập của công nghệ thông tin vào đời
sống xã hội cũng thấp hơn so với các nớc kia. Chính vì vậy việc triển khai dịch
vụ ngân hàng điện tử của Nhật Bản cũng không thể nào phát triển bằng Mỹ và
Tây Âu. Để thúc đẩy dịch vụ này phát triển cũng nh để công nghệ thông tin có
nhiều ứng dụng vào đời sống xã hội hơn nữa, Nhật Bản cũng đã đa ra một số
biện pháp nh: đa ra một chơng trình lớn về phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ
thông tin toàn quốc, bộ Bu điện xây dựng một đề án tới năm 2010 hoàn tất

21


việc chuyển mạng thông tin toàn quốc sang dùng sợi cáp quang, có các dự án
xây dựng các cửa hàng ảo, các tiêu chuẩn cho thông tin sản phẩm, vấn đề bảo
mật và an toàn, công nghệ thẻ thông minh, trung tâm xác thực và chứng nhận
chữ ký điện tử và chữ ký số hoáTất cả các hoạt động trên của Nhật Bản đã
có những tác động rõ rệt tới sự phát triển của e-banking ở nớc này. Dịch vụ
ngân hàng điện tử giờ đây đã có một môi trờng pháp lý để tiến hành các giao
dịch trong toàn quốc, nhân dân thấy tin tởng hơn vào sự an toàn của cả hệ
thống, các ngân hàng điện tử của Nhật Bản giờ đã có thể cạnh tranh với các
ngân hàng trên thế giới trong việc kinh doanh lĩnh vực tài chính ngân hàng.
5. Nhận xét chung
Thông qua tình hình phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử ở các nớc trên
thế giới, Việt Nam có thể học tập đợc nhiều bài học kinh nghiệm quý báu nh:

- Hiểu biết và tiếp đó là nhận thức đầy đủ về ngân hàng điện tử đối với
đông đảo ngời dân và doanh nghiệp vẫn còn là một vấn đề phải xử lý, không
chỉ ở các nớc ít phát triển, mà ở cả những quốc gia phát triển về lĩnh vực này.
- Cơ sở kỹ thuật, công nghệ và pháp lý cho ngân hàng điện tử còn đang
trong giai đoạn tiếp tục hoàn thiện trên bình diện toàn thế giới.
- Việc triển khai ngân hàng điện tử đang tăng nhanh, nhng tập trung chủ
yếu vào một số nớc tiên tiến.
- Ngân hàng sđiện tử đang đợc sự quan tâm trong từng nớc, từng khối
kinh tế và trên bình diện thế giới, nhng mối quan tâm xuất phát chủ yếu là từ
phía các nớc đã có hạ tầng cơ sở vững chắc cho kinh tế số hoá, đã có thực
tiễn giao dịch điện tử. Còn các nớc khác, nhất là những nớc đang phát triển, bị
cuốn theo và buộc phải tiếp cận, dù cơ sở công nghệ thông tin còn thấp kém,
chính vì vậy, nhiều nớc tỏ ra dè dặt, nhất là từ phía chính phủ.
- Các nớc có thể chế kinh tế-xã hội ít nhiều còn khép kính chậm tiếp cận
ngân hàng điện tử hơn các nớc theo thể chế mở.
- Dù hành động cụ thể có khác nhau, nhng cách tiếp cận ngân hàng điện
tử ở các nớc về cơ bản là nh nhau và đều gồm các bớc:Đầu tiên, hình thành
22


một hệ thống các quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo về ngân hàng điện tử. Thứ
hai, phổ cập kiến thức và nhận thức về ngân hàng điện tử tới các doanh nghiệp
và từng cá nhân. Thứ ba, xác định các cản trở hiện hữu của đất nớc mình đối
với ngân hàng điện tử. Thứ t, triển khai từng bớc ngân hàng điện tử. Thứ năm,
nhanh chóng đào tạo một đội ngũ nhân lực có kỹ năng.
Những kinh nghiệm trên đây đều rất đáng chú ý đối với các nớc, nhất là
những quốc gia bắt đầu tiếp cận ngân hàng điện tử. Chính vì vậy, nghiên cứu
kinh nghiệm của các nớc và áp dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn của đất
nớc mình thì các nớc mới phát triển đợc ngân hàng điện tử một cách có hiệu
quả.

ii. Thực trạng phát triển dịch vụ ngân
hàng điện tử tại Việt Nam

1. Bối cảnh thúc đẩy sự ra đời và phát triển ngân hàng điện tử tại
Việt Nam
Cùng với xu thế chung của thế giới, Việt Nam đang trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế. Nội dung cơ bản của quá trình này là việc Việt Nam nhất
trí thực hiện các cam kết kinh tế quốc tế trong khuôn khổ các hiệp định, mà
nổi bật là Việt Nam đã kí kết với các tổ chức quốc tế là: Hiệp định về chơng
trình u đãi thuế quan có hiệu lực chung cho khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA), diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dơng (APEC), hiệp định
thơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ và chuẩn bị là tổ chức thơng mại thế giới
(WTO). Các cam trên đã tác động tới mọi ngành, trong đó có ngành ngân
hàng. Các cam kết trên cho thấy, hội nhập sẽ mở ra hàng loạt cơ hội kinh
doanh cho các ngân hàng Việt Nam , đồng thời cũng đặt cho ngành này những
thách thức to lớn của sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt, đặc biệt là với những
ngân hàng mở chi nhánh ở Việt Nam. Đứng trớc nguy cơ này, các ngân hàng
Việt Nam đã buộc phải có chiến lợc phát triển phù hợp để có thể tăng khả
năng cạnh tranh và ngân hàng điện tử chính là sự lựa chọn thích hợp.
2. Thực tiễn phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam

23


ở Việt Nam , dịch vụ ngân hàng điện tử đã đợc khởi động từ năm 1994,
nhng phải tới năm 2002, công nghệ thông tin Việt Nam mới đủ sức thích ứng
với việc triển khai loại hình dịch vụ này. Tuy vậy, có thể khẳng định thơng
mại điện tử nói chung và ngân hàng điện tử nói riêng vẫn là lĩnh vực tơng đối
mới mẻ ở Việt Nam. Trong một cuộc điều tra gần đây của phòng thơng mại và
công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho thấy chỉ có 10% số doanh nghiệp tỏ ra

quan tâm đến thơng mại điện tử, trong đó có 1%-2% là thực sự triển khai dịch
vụ này.
Đối với hệ thống ngân hàng thơng mại Việt Nam, dù đợc cho là luôn đi
đầu trong việc phát triển công nghệ, vẫn còn rất nhiều bất cập. Trong số
khoảng 100 ngân hàng gồm 6 ngân hàng thơng mại nhà nớc, gần 50 ngân
hàng cổ phần, 4 liên doanh, 24 chi nhánh và gần 30 văn phòng đại diện của
các ngân hàng nớc ngoài, chỉ có số ít (khoảng 15%) 1 là thực sự quan tâm tới
dịch vụ ngân hàng điện tử. Các ngân hàng nh Vietcombank, ngân hàng cố
phần thơng mại á Châu ACBlà những ngân hàng đi đầu trong việc phát
triển dịch vụ này.
a. Về máy rút tiền tự động
Trớc tiên phải kể đến là việc triển khai dịch vụ thanh toán thẻ và dịch vụ
ngân hàng tự động qua máy ATM tại các ngân hàng thơng mại Việt Nam. Đây
là hai loại hình dịch vụ phát triển rất mạnh ở nhiều ngân hàng trong thời kì
gần đây.
Cash card là loại thẻ cho phép rút tiền mặt từ tài khoản tại ngân hàng
thông qua các máy rút tiền tự động ATM (automatic teller machine). Với mỗi
thẻ rút tiền mặt khách hàng sẽ có mã số xác định chủ thẻ PIN (personal
identification number). Mã số xác định chủ thẻ đợc giữ bí mật ngay cả đối với
nhân viên của ngân hàng. Khi sử dụng máy rút tiền tự động, khách hàng đa
thẻ cùng với mã cá nhân vào. Sau đó theo sự chỉ dẫn trên màn hình video,
khách hàng có thể rút tiền mặt (nhng giới hạn đến một mức nhất định), kiểm
tra số d trên tài khoản của mình hoặc gửi thêm tiền. Việc triển khai ATM là
1

Tạp chí ngân hàng số 5 năm 2002

24



rất đáng kể tại nhiều ngân hàng Việt Nam, trong đó đáng kể nhất là Ngân
hàng Ngoại Thơng Việt Nam, đây đợc coi là ngân hàng hàng đầu của Việt
Nam trong phát triển ATM. Hiện tại, Vietcombank đã có trên 100 máy ATM
và đang mở rộng mạng lới lên 200 máy ATM, doanh số thanh toán năm 2002
đạt gần 1800 tỷ đồng và 6 tháng đầu năm 2003 đạt gần 1000 tỷ đồng1.
Cùng với ATM, việc phát triển hoạt động thanh toán thẻ cũng rất phát
triển ở Việt Nam. Thị trờng thẻ của Việt Nam sôi động với sự tham gia của
nhiều ngân hàng thơng mại. Và theo đánh giá của các tổ chức thẻ quốc tế và
các chuyên gia ngân hàng tài chính trong nớc thì thị trờng thẻ của Việt Nam
sẽ còn phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn tiếp theo và đầy tiềm năng cho
các ngân hàng đầu t và phát triển. Thẻ đợc đa vào Việt Nam từ năm 1990 và
ngân hàng dầu tiên phát triển thẻ là Ngân hàng Ngoại Thơng Việt Nam . Năm
1990, Vietcombank trở thành đại lý thanh toán thẻ Visa đầu tiên tại Việt Nam
của ngân hàng BFCE Singapore, sau đó là đại lý thanh toán thẻ Mastercard
của công ty MBF Malaixia và đại lí thanh toán thẻ JCB của công ty JCB Nhật
Bản. Đến nay, Vietcombank đã đẩy mạnh hoạt động của mình và là một trong
ít ngân hàng của Việt Nam triển khai đầy đủ cả năm loại thẻ tín dụng quốc tế
là: Visa, JCB, Mastercard, American Express, Diner Club. Có thể nói,
Vietcombank là ngân hàng khai sinh, mở rộng và phát triển thị trờng thẻ ở
Việt Nam.
Năm 1996 là giai đoạn bắt đầu sôi động của thị trờng thẻ với sự tham gia
của nhiều ngân hàng. Nếu nh đầu thập kỷ 90, mới chỉ có hai ngân hàng có uy
tín đợc chấp nhận làm đại lý thanh toán thẻ là Vietcombank và ACB, thì đến
thời kì này còn có một loạt ngân hàng thơng mại (NHTM) cổ phần và NHTM
nhà nớc nh: ngân hàng Công Thơng, Đông á, Sài Gòn Thơng Tín và các chi
nhánh của ngân hàng nớc ngoài, ngân hàng liên doanh cũng đã triển khai các
nghiệp vụ với một số loại thẻ quốc tế. Hạn mức của thẻ Visa/Master Card
chuẩn là 50 triệu đồng hoặc trên 50 triệu đồng đối với thẻ Visa/Master Card
vàng. Với tiện ích sử dụng trớc nguồn vốn của ngân hàng để thanh toán tiền
hàng hoá và dịch vụ,tại gần 7000 điểm chấp nhận thanh toán thẻ, nh : các

1

Tạp chí Thị trờng tài chính tiền tệ, số 16, năm 2003

25


×