Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

SKKN một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình VNEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.22 MB, 29 trang )

Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mơ hình VNEN

MỤC LỤC
STT

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25


NỘI DUNG

TRANG

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
2. Thực trạng
2.1 Thuận lợi, khó khăn
2.2 Thành cơng, hạn chế
2.3 Mặt mạnh, mặt yếu
2.4 Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
2.5 Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trang mà đề tài đã đặt ra.
3.Giải pháp, biện pháp
3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
3.3 Điều kiện để thực hiện giải pháp biện pháp
3.4 Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
3.5 Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề

1
2
2
3

3
3
4
4
4
5
5
6
6
7
8
8
8
9
23
24
24
25

nghiên cứu.
III.PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị

26
26
26

MỤC LỤC


MỘT SỐ BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN GIÁO VIÊN TRANG TRÍ VÀ SỬ
DỤNG CƠNG CỤ HỖ TRỢ HỌC TẬP TRONG LỚP HỌC THEO
MƠ HÌNH TRƯỜNG HỌC MỚI VNEN
I. Phần mở đầu:
1. Lý do chọn đề tài.
Như chúng ta đã biết, Dự án Mơ hình trường học mới tại Việt Nam (Dự án
GPE-VNEN, Global Partnership for Education – Viet Nam Escuela Nueva) là một
Dự án về sư phạm nhằm xây dựng và nhân rộng một kiểu mơ hình nhà trường tiên
tiến, hiện đại, phù hợp với mục tiêu phát triển và đặc điểm của giáo dục Việt Nam.
1
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai


Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mơ hình VNEN

Mơ hình trường học mới khởi nguồn từ Côlômbia từ những năm 1995-2000
để dạy học trong những lớp ghép ở vùng miền núi khó khăn, theo nguyên tắc lấy
học sinh làm trung tâm. Mơ hình này vừa kế thừa những mặt tích cực của mơ hình
trường học truyền thống, vừa có sự đổi mới căn bản về mục tiêu đào tạo, nội dung
chương trình, tài liệu học tập, phương pháp dạy – học, cách đánh giá, cách tổ chức
quản lí lớp học, cơ sở vật chất phục vụ cho dạy học.
Mơ hình trường học mới Việt Nam tập trung vào các phương pháp dạy học
lấy học sinh làm trung tâm, cho phép học sinh tương tác đến các yếu tố trong lớp
học, đặc biệt là tương tác với các công cụ hỗ trợ học tập để tham gia các hoạt động
do giáo viên tổ chức. Qua đó, các em được giải đáp những băn khoăn , thắc mắc,
phát triển tiềm năng, đam mê, sáng tạo, được rèn luyện các kĩ năng hợp tác, các
năng lực học tập, góp phần hình thành phát triển nhân cách con người đáp ứng với
yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo hiện nay.
Năm học 2015-2016, có trên 3700 trường tiểu học triển khai áp dụng mơ hình
Vnen trên cả nước; tồn tỉnh Đắk Lắk đã có 74 trường tiểu học tham gia dự án.

Huyện Krông Ana đang thực hiện chương trình giáo dục VNEN năm thứ tư.
Bước đầu thí điểm tại 4 trường, trong đó có TH Nguyễn Thị Minh Khai. Tính đến
năm nay đã có thêm 4 trường nhân rộng. Điểm nổi bật của mơ hình VNEN là đổi
mới về các hoạt động sư phạm, một trong những hoạt động đó là đổi mới về cách
thức tổ chức lớp học, đổi mới về phương pháp dạy học, đổi mới về cách trang trí
và sử dụng các cơng cụ hỗ trợ học tập. Theo mơ hình này, quản lí lớp học là “Hội
đồng tự quản học sinh”, các “Ban” trong lớp do học sinh tự nguyện xung phong và
được các bạn tín nhiệm. Bên cạnh đó, sự hỗ trợ của các cơng cụ trong lớp học góp
phần khơng nhỏ vào chất lượng giáo dục theo mơ hình Vnen.
Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng và hiệu quả của việc sử dụng các công
cụ học tập trong lớp học, Ban lãnh đạo đã thường xuyên hướng dẫn, chỉ đạo các
lớp cố gắng trong việc xây dựng các công cụ, tổ chức cho học sinh sử dụng các
công cụ hỗ trợ học tập dưới nhiều hình thức sáng tạo. Việc phát huy và sử dụng
đúng từng loại công cụ với mục đích thích hợp của mỗi bài học đều đem lại hiệu
quả nhất định cho việc đổi mới phương pháp dạy học theo mơ hình VNEN. Điều
này địi hỏi sự sáng tạo, đổi mới trong công tác quản lí, chỉ đạo việc dạy học. Mặt
khác, để nâng cao chất lượng dạy học và đổi mới phương pháp theo mơ hình mới,
địi hỏi người lãnh đạo phải là người nhận thức rõ về “bản chất” của VNEN, từ đó
thổi luồng gió mới cho tất cả cán bộ, giáo viên trong trường để cùng thực hiện. Đặc
biệt, người quản lí phải hết sức tâm huyết, phải tìm ra được những biện pháp tối ưu
nhất để chỉ đạo công tác dạy học. Như vậy mới đưa chất lượng nhà trường ngày
càng đi lên. Trong khuôn khổ của bài viết này, tôi chỉ muốn chia sẻ cùng đồng
nghiệp một số biện pháp về Cơng tác hướng dẫn giáo viên cách trang trí và sử
dụng các Công cụ hỗ trợ học tập trong lớp theo mơ hình trường học mới (VNEN),
để góp phần nâng cao chất lượng dạy học của trường TH Nguyễn Thị Minh Khai.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
2
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai



Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mơ hình VNEN

Như chúng ta đã biết, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi
mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục
tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi
mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của
các cơ sở giáo dục-đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản
thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Trong quá trình đổi mới,
cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có
chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới; kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức,
việc làm lệch lạc. Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp
với từng loại đối tượng và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng
tâm, có lộ trình và bước đi phù hợp.
Mục tiêu mà đề tài cần đề cập là mục đích và tác dụng của việc trang trí lớp
học. Trang trí để làm gì? Vì sao phải trang trí và trang trí như thế nào? Thời điểm
nào thì bắt đầu thực hiện? Quan trọng nhất là cách sử dụng. Nếu sử dụng không
đúng mục đích, khơng phù hợp đối tượng thì kết quả sẽ khơng như mong muốn. Vì
vậy, nhiệm vụ của đề tài là tìm ra các giải pháp giúp giáo viên năm rõ cách trang
trí và biết vận dụng linh hoạt vào bài dạy. Điều đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
Giáo viên – học sinh – cha mẹ và cộng đồng. Tất cả phải có cùng quan điểm, có sự
đồng thuận và nhất trí cao mới đem lại thành cơng.
Thực tế lâu nay chúng ta chưa thật sự quan tâm nhiều đến vấn đề này, nhiều
người vẫn nghĩ rằng các công cụ chỉ để trang trí cho đẹp, hoặc nếu có cũng chỉ
dừng lại mức độ tự học sinh trao đổi với nhau cho vui, chưa phát huy hết tác dụng
như Mơ hình VNEN mong đợi. Qua q trình ba năm thực hiện, từ thực tế giải
quyết những khó khăn của học sinh, lớp nào ở trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh
Khai cũng chọn được một số công cụ phù hợp để thực hiện. Đó là Góc
Cộng đồng, Góc Học tập, Góc Thư viện, Góc Thiên nhiên… Tất cả hiện ra dưới
bàn tay khéo léo, cần cù, sáng tạo của thầy trị và cha mẹ học sinh. Các cơng cụ lớp
học đã góp phần khơng nhỏ trong việc rèn kĩ năng sống và giáo dục đạo đức,

phẩm chất, năng lực của các em.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Một số biện pháp hướng dẫn giáo viên trang trí và sử dụng các công cụ
hỗ trợ học tập trong lớp học.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu về vai trò người quản lí trong cơng tác quản lí, chỉ đạo dạy
học theo mơ hình trường học mới (VNEN).
- Nghiên cứu về cách trang trí, tác dụng và cách sử dụng các công cụ hỗ
trợ học tập.
- Nghiên cứu giáo viên và học sinh khối VNEN của trường TH Nguyễn Thị
Minh Khai (về cách sử dụng các công cụ trong mỗi lớp học).
5. Phương pháp nghiên cứu
3
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai


Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mơ hình VNEN

-Sưu tầm, nghiên cứu tài liệu: Thường xun sưu tầm tra cứu sách báo tài
liệu có liên quan đến nội dung đề tài, qua đó phân tích tổng hợp hệ thống hóa theo
mục đích nghiên cứu.
- Điều tra, khảo sát thực tiễn: Tiến hành kiểm tra, khảo sát chất lượng và thiết
lập một số câu hỏi dạng trắc nghiệm, qua đó nắm bắt được thực trạng chung.
- Tư vấn, so sánh: Dựa vào kết quả học tập của học sinh qua từng giai đoạn
để so sánh chất lượng. Tư vấn, chỉ đạo, hướng dẫn trực tiếp cho từng giáo viên sau
mỗi đợt kiểm tra.
- Tổng kết kinh nghiệm: Qua các cuộc họp đột xuất và định kì, đúc rút kinh
nghiệm được hoặc chưa được để tổng hợp đi đến kết luận.
II. Phần nội dung
1. Cơ sở lý luận

Những năm qua ngành giáo dục nước ta có nhiều giải pháp nâng cao chất
lượng nhằm đáp ứng mục tiêu mà Đảng đề ra: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài. Tuy vậy vẫn chưa đáp ứng được mục tiêu mà Đảng ta đã chỉ
ra. Nguyên nhân có nhiều, song vấn đề mấu chốt hiện nay vẫn là Phương pháp dạy
học. Định hướng đổi mới giáo dục của Đảng được thể hiện trong luật giáo dục.
Qua đó cho thấy việc đổi mới phương pháp dạy học không cịn là vấn đề chung
chung mà đã có định hướng rõ ràng, phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo, năng lực tự học, tự nghiên cứu, cùng nhau thảo luận để làm sáng tỏ vấn đề đặt
ra. Rèn kỹ năng, đem lại hứng thú học tập cho học sinh và khắc phục kiểu dạy lấy
giáo viên làm trung tâm; Hạn chế tối đa lối dạy học truyền đạt một chiều . . .
Bắt đầu từ năm học 2008 – 2009 ngành giáo dục phát động phong trào thi đua
“ Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực ở Tiểu học”. Đây là tín hiệu
đáng mừng cho những ai quan tâm đến giáo dục, là bước tiến vượt bậc của ngành.
Tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh làm việc trong bầu khơng khí tích cực,
thân thiện. Qua đó giáo dục tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước cho
học sinh. Xây dựng nền giáo dục hiện đại giúp học sinh chủ động, thân thiện với
bạn bè, thầy cô và với mọi người xung quanh hơn. Học sinh biết tích cực hoạt
động trong học tập, bước đầu rèn luyện kĩ năng sống: “Học để biết. Học để làm.
Học để tự khẳng định mình. Học để cùng chung sống”.
Đối với mơ hình trường học mới Việt Nam, việc tạo ra môi trường học tập
thân thiện là vơ cùng quan trọng. Vì mơ hình này tập trung vào các phương pháp
dạy học lấy học sinh làm trung tâm, cho phép học sinh tương tác đến các yếu tố
trong lớp học, đặc biệt là tương tác với các công cụ hỗ trợ học tập để phát huy các
hoạt động học do GV tổ chức. Nhận thức rõ vai trị, tầm quan trọng của việc sử
dụng các cơng cụ hỗ trợ học tập trong lớp học, trường đã triển khai cho GV hồn
thành các góc cơng cụ trong lớp một cách sáng tạo, đa số giáo viên đã tạo điều
kiện cho các em tương tác công cụ dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng, bước
đầu đem lại hiệu quả nhất định.
4
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai



Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mơ hình VNEN

2.Thực trạng
2.1. Thuận lợi- khó khăn
* Thuận lợi:
Trường có hai phân hiệu đóng ở trung tâm ba thơn Hòa Tây – Hòa Trung –
Hòa Đông thuộc Xã EaBông. Tình hình an ninh trật tự trong khu vực tương đối
đảm bảo, người dân có mức sống tương đối ổn định.
Nhà trường thường xuyên được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng, Chính quyền
địa phương, của Phịng giáo dục và các ban ngành đồn thể. Hội phụ huynh học
sinh tích cực và có nhiều đóng góp hỗ trợ cho các hoạt động phong trào của nhà
trường. Đặc biệt là việc trang trí lớp học theo mơ hình VNEN.
Đội ngũ CB-GV-NV có tinh thần đồn kết và hướng phấn đấu tích cực để
từng bước xây dựng đơn vị vững mạnh về mọi mặt. Được PGD&ĐT quan tâm tạo
điều kiện trong mọi hoạt động như các đợt tập huấn các cấp và chuyên đề cấp
trường.
Cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, học sinh được học 02 buổi/ngày. Hầu hết
học sinh ngoan, chăm chỉ học tập; có 100% học sinh lớp 1 đã qua lớp Mẫu giáo 5
tuổi.
Đại bộ phận giáo viên đã tích cực tìm hiểu, tham khảo để nâng cao nhận thức
về chủ trương của Bộ GD&ĐT, của Sở GD&ĐT Đắk Lắk, Phịng GD&ĐT Krơng
Ana trong việc dạy học theo mơ hình VNEN.
Bước đầu phụ huynh, học sinh hào hứng tham gia, đã có sự đồng thuận trong
cộng đồng xã hội.
* Khó khăn
Đây là mơ hình dạy học mới mẻ nên cịn nhiều khó khăn trong cơng tác tun
truyền. Một vài PHHS chưa thực sự quan tâm đến việc học của con em, chưa quan
tâm đến việc trang trí lớp học.

Giáo viên chưa được trải nghiệm kĩ về phương pháp dạy học mới nên còn
nhiều lúng túng. Đặc biệt là cách trang trí và sử dụng các Cơng cụ trong lớp học.
Trong quá trình thực hiện kế hoạch đổi mới chương trình, một bộ phận nhỏ
giáo viên vẫn chưa tích cực cải tiến phương pháp, còn nặng nề trong lối dạy cũ,
chưa chịu khó học hỏi nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, đặc biệt là việc sử dụng
các Công cụ vào giảng dạy. Họ mới chỉ dừng lại ở hình thức, chưa đi sâu vào nội
dung.
Một số học sinh chưa quen cách học mới nên còn nhiều bỡ ngỡ.
2.2. Thành công và hạn chế
* Thành công:
Sau ba năm thực hiện mơ hình thí điểm VNEN, theo đánh giá khách quan đã
đạt được kết quả bước đầu. Tất cả giáo viên trong trường đã biết cách trang trí và
sử dụng cơng cụ vào dạy học. Hầu hết giáo viên đã hiểu rõ tác dụng của các Cơng
cụ lớp học. Nó góp phần không nhỏ trong sự thành công của từng bài học. Học
sinh mạnh dạn, tự tin, khơng khí học tập trong lớp tự nhiên, nhẹ nhàng, thân thiện,
5
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai


Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mơ hình VNEN

giáo viên và học sinh tương tác với nhau nhiều hơn và kết quả học tập, chất lượng
giáo dục bước đầu được cải thiện. Cụ thể, giáo viên đã linh hoạt hơn trong việc tổ
chức các hoạt động cho học sinh. Giáo viên khơng cịn phải soạn bài nhưng có ý
thức nghiên cứu tài liệu học tập, điều chỉnh một số hoạt động cho phù hợp với đối
tượng học sinh; làm đồ dùng dạy học để giúp học sinh có phương tiện học tập tốt
hơn. Cịn với các em học sinh khi áp dụng mơ hình thực nghiệm này, tại các lớp
học đã thành lập hội đồng tự quản của lớp, bước đầu các em đã biết làm quen với
nhiệm vụ của mình. Đáng ghi nhận là sự phát triển năng lực tự học của học sinh.
Các em biết tương tác với các Công cụ hỗ trợ học tập dưới sự hướng dẫn của giáo

viên, giúp cho việc tiếp thu bài học nhẹ nhàng và hiệu quả hơn (đây được coi là
điểm mới của học sinh học lớp VNEN, hơn hẳn các lớp khơng học theo mơ hình
này). Nhiều em đã thể hiện được khả năng của mình khi điều khiển và có thể
hướng dẫn các bạn khác học. Một điều dễ nhận thấy, đó là học sinh đã mạnh dạn,
linh hoạt và sáng tạo hơn trong học tập, có tư duy độc lập khi phát hiện kiến thức
mới.
Mặt khác, phong trào trang trí lớp học phát triển rầm rộ, có chất lượng và
được nhiều trường bạn đến tham quan.
Đa số phụ huynh hài lịng với mơi trường học tập của con em mình.
* Hạn chế:
Tuy nhiên, từ thực tế tại trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai (mặc dù đã
là trường chuẩn quốc gia) cho thấy, vẫn cịn rất nhiều khó khăn về cơ sở vật chất
khơng thể “một sớm, một chiều” mà khắc phục được ngay. Trước hết, diện tích lớp
học nhỏ, sĩ số học sinh lại đơng nên việc trang trí các góc học tập chưa được như
mong muốn.
Một vài giáo viên chưa biết cách phối hợp hài hịa giữa các cơng cụ trong
lớp, cịn trang trí lịe loẹt, rối mắt.
Một số giáo viên sức khỏe yếu, tuổi cao và một số giáo viên nữ đang trong
độ tuổi sinh đẻ nên có tác động khơng nhỏ đến việc thực hiện triển khai mơ hình
mới trong trường.
Một số giáo viên chưa hiểu hết tác dụng của các Công cụ lớp học nên việc sử
dụng chưa đạt hiệu quả cao.
Việc chuyển đổi từ phương pháp truyền thống qua phương pháp dạy học
tích cực cịn mới mẻ nên không khỏi gây cho GV, HS và phụ huynh sự bỡ ngỡ.
2.3. Mặt mạnh – mặt yếu
* Mặt mạnh:
Học sinh được trải nghiệm 3 năm với chương trình VNEN, đa số các em biết
cách tự học, chủ động sáng tạo trong việc tham gia tương tác và sử dụng các cơng
cụ tương đối thành thạo. Phụ huynh đồng thuận, tích cực tham gia trong việc trang
trí lớp học. Họ đã biết được con mình học gì, học như thế nào, từ đó giúp con nhiều

hơn trong việc liên hệ, ứng dụng kiến thức đã học vào cuộc sống (cha mẹ là giáo
viên thực hành khi ở nhà). Nhà trường được PHHS các lớp đồng tình ủng hộ,
6
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai


Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mơ hình VNEN

khơng cịn băn khoăn, lo lắng; ban đại diện PHHS các lớp luôn tạo điều kiện tối đa
để cùng phối hợp, kết hợp với nhà trường giáo dục học sinh, trong đó có việc tăng
cường cơ sở vật chất để trang trí lớp học, tạo điều kiện thuận lợi để học sinh học
tập.
Trên thực tế, các lớp học thực nghiệm mơ hình VNEN tại trường tiểu học
Nguyễn Thị Minh Khai năm học vừa qua và năm học 2015-2016 được trang trí
rất sinh động, đẹp và vui mắt; xây dựng góc học tập, góc thư viện, góc văn hóa địa
phương, bản đồ dân cư, trưng bày các bài viết, vẽ... của học sinh nên các em rất
yêu thích lớp học và có ý thức giữ gìn, trang trí lớp học của mình tốt hơn.
* Mặt yếu:
Học sinh vùng nơng thơn một số kĩ năng cịn nhiều hạn chế như: giao tiếp,
hợp tác, lãnh đạo,…
Chuyển đổi từ phương pháp truyền thống qua phương pháp học tích cực một
cách đột ngột nên không khỏi gây cho GV, HS và phụ huynh tâm lý hoang mang,
sợ học sinh không tiếp thu được kiến thức bài học, nhất là đối tượng học sinh còn
hạn chế về năng lực.
Một số PHHS chưa quan tâm tới việc học của con em, cịn phó mặc cho giáo
viên.
Một số giáo viên còn lúng túng khi tổ chức hướng dẫn học sinh sủ dụng công
cụ và sử dụng cơng cụ chưa đúng mục đích, chưa phù hợp với thời điểm nên công
cụ chưa được phát huy tác dụng. Đồng thời một số giáo viên chưa có tinh thần trách
nhiệm, chưa tích cực trong việc hướng dẫn học sinh sử dụng công cụ hỗ trợ học tập

nên hiệu quả chưa cao. Một vài giáo viên còn thụ động trong việc trang trí và sử
dụng các Cơng cụ lớp học. Chưa có sự sáng tạo, linh hoạt để phát huy hết tác dụng
của các Góc học tập.
2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
Thứ nhất, cơ sở vật chất phải đảm bảo chuẩn theo u cầu của mơ hình Vnen.
Thứ hai, nhận thức và sự cầu tiến của giáo viên rất quan trọng. Họ là nhân vật
chính để thay đổi phương pháp dạy học.
Thứ ba, sự tiếp thu và tiến bộ của học sinh, đây chính là ”sản phẩm” của quá
trình dạy học. Chất lượng học sinh quyết định kết quả của việc đổi mới giáo dục.
Thứ tư, sự nhiệt tình tham gia của cộng đồng, họ phải đồng thuận với chúng
ta trên con đường giáo dục hiện nay.
Một yếu tố tác động mà bất cứ trường tiểu học nào cũng sẽ gặp phải khi triển
khai thực nghiệm mô hình VNEN, đó là học sinh từ lớp 1 lên lớp 2 khả năng điều
hành của nhóm trưởng chưa tốt, chưa quen với việc tương tác với các công cụ lớp
học nên phải mất nhiều thời gian để giáo viên hướng dẫn học sinh ở những tháng
đầu năm học mới, cần có thời gian để các em làm quen. Bởi vậy, dù các học sinh
trong lớp đã tự bầu ra được hội đồng học tập, các nhóm học tập nhưng cũng phải
mất một vài tháng đầu năm học, các em học sinh trong mới có thể luân phiên đảm
7
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai


Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mơ hình VNEN

nhận trách nhiệm làm nhóm trưởng để giúp các em có được sự tự tin, hoạt bát như
mục tiêu của mơ hình VNEN đề ra.
2.5 Phân tích, đánh giá các vấn đề của thực trạng trên
Thực tế giáo dục nói chung và dạy học nói riêng của nước ta hiện nay cịn
nhiều biểu hiện hạn chế, thậm chí còn lạc hậu trước những yêu cầu của nền kinh tế
xã hội đang đổi mới và yêu cầu phát triển của đất nước. Vì vậy việc quản lý hoạt

động dạy học là nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học để thực hiện chiến lược
con người - nhân tố quyết định sự phát triển xã hội là bức thiết, là quan trọng.
Trước đây, vì chưa có kinh nghiệm nên việc trang trí cịn mang nặng tính
hình thức, màu mè, rườm rà và dẫn đến phản tác dụng cho việc tích hợp giữa mục
tiêu học tập, rèn luyện các kỹ năng của học sinh. Thông thường công việc này chỉ
được khởi xướng rầm rộ vào đầu năm học. Nhưng sau đó khơng được cập nhật nên
dần dần bộc lộ những hạn chế. Năm nay, chúng tôi định hướng cho giáo viên để
việc trang trí lớp học có những nét chung mà vẫn đảm bảo đặc thù riêng của từng
lớp. Mỗi giáo viên phải hiểu rõ ý nghĩa của việc trang trí. Phải thuyết phục được
học sinh, phụ huynh cùng tham gia. Phải có kế hoạch sử dụng các Cơng cụ như thế
nào cho đạt hiệu quả. Không được để các Cơng cụ chỉ là “cho đẹp, cho đúng với
hình thức lớp VNEN” mà phải là một phần trong các tiết học nếu có nội dung phù
hợp. Đó mới là cải đích mà VNEN momg muốn.
Phải khẳng định rằng, cơng cụ để tổ chức hoạt động dạy học trong nhà trường
VNEN là rất quan trọng, thông qua các công cụ này, giáo viên có thể phát hiện và
ni dưỡng các tiềm năng; giải đáp những băn khoăn, lo lắng; giúp các em phát
triển sự đam mê, sự sáng tạo và hình thành nhân cách cùng các kỹ năng hợp tác
trong học tập. Học sinh sử dụng các công cụ để tham gia hoạt động dựa trên vốn từ
vựng và năng lực của mình. Giáo viên có thể hỗ trợ để giúp các công cụ này phát
huy được tác dụng trong quá trình học tập của học sinh. Vì vậy, giáo viên cần tận
dụng tối đa những công cụ mà lớp lựa chọn để phục vụ cho học tập và các hoạt
động của lớp. Các công cụ đã được chứng minh là hữu ích cho cơng tác quản lý
các hoạt động ở lớp học, trường học.
3. Giải pháp, biện pháp
3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Nhằm đề xuất các giải pháp giúp giáo viên biết cách trang trí và sử dụng các
Công cụ hỗ trợ học tập nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Qua đó, giúp các em
chia sẻ, tư duy sáng tạo, chiếm lĩnh tri thức một cách chủ động, tự tin… góp phần
nâng cao chất lượng dạy học, đáp ứng yêu cầu giáo dục hiện nay trong thời kỳ hội
nhập.

Định hướng cho giáo viên xác định đúng mục đích của việc trang trí lớp: Lớp
học có thân thiện thì học sinh mới tích cực.
Giúp giáo viên biết cách sử dụng các công cụ như thế nào cho hợp lí và đạt
hiệu quả cao.
8
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai


Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mơ hình VNEN

Đưa phong trào trang trí lớp vào thi đua, góp phần khơi dậy sự sáng tạo, linh
hoạt, có trách nhiệm trong dạy học.
Ban giám hiệu không để giáo viên đơn độc mà huy động cả công đồng cùng
tham gia vào công tác giáo dục.
Trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai được nằm trong dự án của chương
trình "Dạy học theo mơ hình trường học mới Việt Nam (VNEN)”. Điều đó cho
thấy, cơ hội cho trường cũng cao nhưng thách thức cũng khơng phải là nhỏ. Chính
vì vậy chúng tôi luôn cố gắng để nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường.
Với xu hướng “Dạy thật - học thật - chất lượng thật”, việc dạy học theo mơ hình
trường học mới (VNEN) sẽ giúp cho việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
học sinh, đồng thời giúp cho người giáo viên nhẹ nhàng hơn trong khâu soạn
giảng, có nhiều thời gian đầu tư nghiên cứu bài dạy. Tuy nhiên, trong q trình tổ
chức thực hiện khơng thể khơng gặp những khó khăn nhất định. Vì vậy, sự chỉ đạo
sát sao của Ban giám hiệu là rất quan trọng, chính là địn bẩy để giúp giáo viên
vượt qua những khó khăn ban đầu.
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
Biện pháp 1: Công tác tuyên truyền
Để thực hiện tốt chương trình VNEN, khâu đầu tiên là công tác tuyên truyền.
Đặc biệt, người quản lí phải thực sự thấm nhuần bản chất của mơ hình VNEN. Từ
đó trun truyền sâu rộng trong nhân dân, các ban ngành đoàn thể, đặc biệt là

trong Hội đồng sư phạm. Tôi luôn xác định: mỗi giáo viên là một “tuyên truyền
viên” xuất sắc để giúp phụ huynh và học sinh hiểu rõ về VNEN. Có như vậy mới
tìm được sự đồng thuận của cả xã hội. Vì thế, khi được Phịng giáo dục phân cơng
chọn trường dạy thí điểm của dự án, tôi đã không khỏi băn khoăn lo lắng. Chúng
tôi tham gia các cuộc họp dân của cả ba thơn, giải thích cụ thể về cách dạy, cách
học và đặc biệt là sự hợp tác của cha mẹ học sinh. Mới đầu thật là khó khăn vất vả,
nhưng dần dần họ cũng hiểu và ủng hộ nhà trường.
Về phía giáo viên và học sinh, sau khi được đi tập huấn tại Sở giáo dục,
phịng giáo dục, tơi đã tổ chức chuyên đề cấp trường để tất cả giáo viên thấm
nhuần việc dạy học theo mơ hình Vnen. Đặc biệt, với cơng tác trang trí lớp, tơi
ln tìm hiểu, sưu tầm qua các tài liệu để định hướng cho giáo viên cách thực hiện
tốt nhất.
Những năm trước, chúng ta đã thực hiện trang trí “Trường học thân thiệnhọc sinh tích cực” nhưng mới đạt ở mức độ hình thức. Với VNEN, việc trang phải
xác định rõ: Trang trí cho ai ? Trang trí để làm gì ? Trang trí như thế nào? Bộ phận
nào thực hiện ? Vì vậy, cần thông tin, tuyên truyền sâu rộng trong phụ huynh học
sinh, chia sẻ với phụ huynh những điều họ cịn băn khoăn trong việc giảng dạy
theo mơ hình trường học mới (VNEN) nhất là vào buổi họp phụ huynh đầu năm
học để từ đó họ hiểu và ủng hộ nhà trường, đăc biệt là trong cơng tác trang trí lớp
học. Đồng thời, việc tạo ra một môi trường học tập tốt, để các em coi lớp học như
9
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai


Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mơ hình VNEN

gia đình của mình là trách nhiệm của mỗi thầy cơ giáo. Từ đó các em sẽ thấy mỗi
ngày đến trường thực sự là một ngày vui.
Biện pháp 2: Công tác chỉ đạo
Triển khai đầy đủ, kịp thời các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của các cấp; chủ
động xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch hoạt động của nhà trường.

Ngay từ đầu năm học, tôi đã xây dựng kế hoạch và đề ra những giải pháp cụ
thể trong công tác quản lý nhằm khắc phục những khó khăn khi thực hiện việc dạy
học theo mơ hình trường học mới. Cử giáo viên tham gia tập huấn các chuyên đề
do Sở giáo dục tổ chức. Phân cơng giáo viên theo tình hình thực tế của trường và
chú ý đến việc phân công giáo viên giảng dạy theo mơ hình trường học mới
(VNEN). Tham khảo ý kiến trong Hội đồng trường, tổ chuyên môn và thống nhất
trong Ban giám hiệu phân cơng giáo viên theo đúng trình độ chuyên môn, sở
trường sở đoản của giáo viên nhằm tạo điều kiện cho họ phát huy hết khả năng của
mình trong cơng tác giảng dạy. Lên kế hoạch thực hiện cụ thể theo từng khối lớp.
Phân công thực hiện các chuyên đề, thường xuyên thăm lớp dự giờ để giúp đỡ kịp
thời những khó khăn vướng mắc của giáo viên. Chỉ đạo cán bộ thư viện trang bị
đầy đủ sách giáo khoa, sách tham khảo và những tài liệu chuyên môn cần thiết cho
công tác giảng dạy.
* Về công tác chủ nhiệm lớp:
Tôi thấy rằng để xây dựng “trường học thân thiện, học sinh tích cực” là phải
bắt đầu từ việc “xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực”. Mỗi lớp học thân
thiện, mỗi học sinh tích cực là một viên gạch nền móng vững chắc cho một ngơi
trường thân thiện. Vì thế, vai trị của giáo viên chủ nhiệm rất quan trọng. Họ là
người quyết định sự thành công và chất lượng của từng lớp. Nhiều lớp tốt sẽ có
trường tốt. Họ là nhịp cầu nối giữa gia đình và nhà trường, là một “tuyên truyền
viên” để cộng đồng ủng hộ chúng ta trong lĩnh vực giáo dục hiện nay.
Yêu cầu giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. Họp cha mẹ học sinh đầu
năm để triển khai kế hoạch của nhà trường. Cùng cha mẹ học sinh thực hiện kế
hoạch trang trí lớp học. Vận động họ phối hợp nhịp nhàng trong việc giáo dục các
em.
Đưa hoạt động trang trí lớp vào tiêu chuẩn thi đua và xếp loại GVCN. Đưa
việc sử dụng các Cơng cụ vào tiêu chí đánh giá giờ dạy của mỗi giáo viên.
* Về cơng tác trang trí lớp học:
Mơi trường học tập xanh, sạch, đẹp, an toàn, thân thiện là yếu tố rất quan
trọng góp phần thu hút trẻ đến trường, đến lớp, góp thêm cho lớp học một luồng

khơng khí thân thiện, thoải mái, sinh động.
Vì vậy, tơi đã hướng dẫn, tư vấn cho giáo viên cách trang trí để mỗi lớp mang một
sắc màu riêng. Tổ chức chuyên đề cách sử dụng để tăng hiệu quả tiết dạy, phát huy
tối đa hiệu quả của từng Công cụ. Từ đó, giúp giáo viên hiểu rõ về các Cơng cụ và
10
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai


Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mơ hình VNEN

tác dụng của nó. Khơng những thế, giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh biết
tương tác với các Công cụ, biết phối hợp với học sinh qua từng hoạt động. Quan
trọng nhất, giáo viên phải hiểu được Cơng cụ lớp học là gì? Ai làm? Trang trí ở
đâu? Sử dụng như thế nào? Vì vậy, ngay đầu năm học, tơi đã thực hiện chun đề
về trang trí lớp và cách sử dụng các Công cụ lớp học. Chúng ta cần biết lựa chọn
những Công cụ nào phù hợp với học sinh lớp mình, khơng nên lạm dụng vì sẽ gây
tốn kém và lãng phí. Quan trọng nhất là bản thân mỗi giáo viên phải hiểu rõ tác
dụng và mục đích của từng loại Cơng cụ. Có rất nhiều loại nhưng tôi hướng dẫn
giáo viên lựa chọn như sau:
- Bảng 10 bước học tập
- Hòm thư cá nhân- (Nhịp cầu bè bạn)
- Góc sinh nhật
- Bảng theo dõi Ngày em đến lớp
- Cây nội quy lớp học
- Bản đồ cộng đồng
- Góc địa phương
- Góc thiên nhiên
- Góc thi đua
- Góc học tập (góc Tốn, góc Tiếng Việt, góc TNXH)
Trong buổi sinh hoạt chun mơn, tơi hướng dẫn giáo viên quy trình thực

hiện như sau: Sau khi được sự thống nhất chỉ đạo của Ban giám hiệu, các khối họp
tổ bàn bạc, thảo luận và đề xuất phương án thực hiện để lãnh đạo nhà trường duyệt.
Sau đó, họp cha mẹ học sinh, thông qua kế hoạch của nhà trường, của lớp và cùng
thống nhất cách làm. Tôi ln nhắc nhở giáo viên làm thể nào để có sự sáng tạo
nhưng lại tiết kiệm trong việc lựa chọn nguyên vật liệu. Có thể tận dụng những vật
dụng trong gia đình như hộp bánh để làm Hịm thư, bìa cát tông, tờ lịch cũ để làm
bảng Ngày em đến lớp; giấy màu, ống hút hoặc báo để làm hoa, có thể tận dụng đũa
tre, que kem, xốp để trang trí…
Mỗi lớp đều có sự đầu tư, suy nghĩ để làm sao cho lớp mình trở nên vui tươi,
nhiều màu sắc mà vẫn đạt thẩm mĩ, không bị rối mắt, giúp các em có cảm giác
hưng phấn khi bước chân vào lớp học hàng ngày.
Trong buổi chuyên đề, tôi giải thích rõ về mục đích, tác dụng, cách xây dựng
và vận dụng từng loại công cụ vào dạy học. Việc này phải thực hiện ngay từ tháng
tám.
Sau đây là một vài ví dụ về cách xây dựng và sử dụng một số cơng cụ trong
lớp học:
* Hịm thư cá nhân hay Nhịp cầu bè bạn:
Trước hết, giáo viên phải hiểu rằng: Hòm thư kết bạn tạo cơ hội cho GV và
HS trong lớp được chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ, hình thành cho HS thói quen
biết quan tâm, chia sẻ với mọi người; rèn luyện HS biết tôn trọng sự riêng tư của
bạn, góp phần nâng cao năng lực sử dụng Tiếng Việt cho các em. Công cụ này còn
11
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai


Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mơ hình VNEN

là cách để động viên, khích lệ HS hiểu nhau và thương yêu nhau hơn. Có thể vận
dụng vào các bài học GD Đạo đức, môn Tiếng việt, các tiết SHTT hoặc NGLL...
- Cách thực hiện như sau:

+ Bước 1: GV cho mỗi HS tự tạo một hộp thư nhỏ từ các vật dụng như hộp
bánh nhỏ, giấy bìa, tranh ảnh, giấy màu, giấy trắng… GV để HS tự vẽ, cắt dán,
trang trí những hình ảnh các em u thích. Trên mỗi hộp thư cá nhân có tên của
HS. GV có thể hỗ trợ HS, HS có thể hỗ trợ lẫn nhau để tạo hộp thư. Công việc này
cũng có thể thực hiện ở nhà với sự hỗ trợ của PHHS. GV lưu ý HS về kích cỡ tối
đa cho mỗi hộp thư cá nhân.
+ Bước 2: HS cùng gắn những hộp thư cá nhân của mình tại một vị trí trong
lớp. Hộp thư bè bạn được trang trí đẹp mắt, được gắn ở vị trí đảm bảo tất cả các
HS trong lớp đều có thể với tới được.
- Cách sử dụng: GV cùng trao đổi với HS về tác dụng của hộp thư bè bạn,
giải thích cho HS thấy mỗi cá nhân trong lớp đều có một hộp thư riêng nên bất cứ
điều gì các em muốn chia sẻ, trao đổi với bạn bè hoặc GV, các em có thể viết thư
và bỏ vào hộp thư riêng của bạn, của Cơ. Các em có thể đề tên của mình trong thư
hoặc khơng. GV nên sử dụng hộp thư bè bạn để khích lệ, động viên, góp ý với HS
mà không làm các em xấu hổ trước lớp. GV cũng có thể bỏ vào hộp thư cá nhân
của các em những bài toán, câu đố để tăng thêm hứng thú học tập cho các em. GV
nên mở hộp thư hàng ngày hoặc hàng tuần để ghi nhận, trả lời những ý kiến của
HS cũng như giải quyết các vấn đề nảy sinh trong lớp. Tốt nhất nên mở hộp thư
hàng ngày để đảm bảo cập nhật và giải quyết kịp thời những vấn đề mới phát sinh.
Tôi lưu ý GV, những vấn đề mang tính cá nhân thì cần trao đổi với cá nhân HS,
những vấn đề mang tính tập thể thì cần có sự trao đổi, bàn bạc trước cả lớp để tìm
ra phương án giải quyết.

12
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai


Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mơ hình VNEN

Nói chung, Hộp thư Bè bạn hay Hịm thư cá nhân đều là con đường dẫn dắt

giáo dục học sinh hoàn thiện dần cái hay cái đẹp, giúp tình cảm bạn bè của học
sinh ngày càng thắm thiết qua những lời tâm sự mộc mạc, ngây thơ của tuổi học
trị; từ đó khơi dậy, thơi thúc các em thêm yêu trường, yêu lớp, yêu bạn bè… qua
những lời tâm tư tình cảm, cịn là chiếc cầu nối của các em với phụ huynh và thầy
cô giáo trong những trường hợp cần thiết mà các em khơng thể nói trực tiếp.
Nhiều giáo viên của trường cũng viết thư cho học sinh tâm sự như những
người bạn thân, giúp cho các em chuyển biến từ nhận thức tiêu cực sang nhận thức
tích cực. Có những lời tâm sự qua thư trở thành những kỉ niệm đẹp khó quên,
in đậm mãi trong tâm hồn của trẻ, hơn hẳn những lời dạy bảo khác. Cũng có những
bức thư làm cơ giáo xúc động, thương các em nhiều hơn. Qua những lá thư, tình
cảm giữa cơ trị càng thêm gắn bó và có trách nhiệm hơn.
Đăc biệt, có thể phối hợp với cha mẹ học sinh để khai thác tác dụng của Công
cụ này trong việc rèn Kĩ năng sống hoặc giáo dục đạo đức cho các em. Đó cũng là
một cách để tăng cường Tiếng việt cho học sinh. Ví dụ: Trước buổi họp CMHS,
giáo viên tổ chức cho các em viết thư cho người thân, những điều mà các em
không muốn nói trực tiếp, hãy nhờ hộp thư chia sẻ những tâm tư tình cảm để bố
mẹ, ơng bà hiểu mình hơn. Và điều không ngờ đã xảy ra. Học sinh hào hứng tham
gia. Bố mẹ các em thì rất ngạc nhiên với hình thức mới mẻ này. Đọc thư của con,
người thì cười tủm tỉm, có người lại quay đi giấu những giọt nước mắt. Giáo viên
chủ nhiệm nhờ cây cầu tình cảm đó mà thắt chặt mối quan hệ nhà trường với cộng
đồng. Một điều không thể thiếu trong việc giáo dục các em học sinh.
Tôi vẫn nhớ một kỷ niệm khó qn ở lớp 5C, khi tơi dự giờ một tiết Sinh hoạt
lớp. Cô giáo tổ chức cho học sinh kiểm tra Hộp thư bè bạn và Điều em muốn nói.
Có một lá thư đã làm cả lớp xúc động, riêng tôi phải rơi nước mắt.

13
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai


Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mơ hình VNEN


Một lá thư của HS

Sau tiết học đó tơi và cơ giáo chủ nhiệm đã tìm hiểu hồn cảnh gia đình em
và động viên để em có niềm vui trong học tập.

Em Hiếu nhận món quà nhỏ của tơi tại văn phịng
14
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai


Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mơ hình VNEN

Như vậy, nếu chúng ta biết cách khai thác dù là những chuyện nhỏ
nhưng hiệu quả giáo dục đem lại rất lớn.
*Về Góc sinh nhật:

Giáo viên cần hiểu rõ ý nghĩa của Góc sinh nhật: Tạo sự vui tươi trong lớp
học, giúp cho HS biết cách quan tâm đến bạn bè, biết cách tổ chức các buổi lễ kỉ
niệm nho nhỏ tạo sự gắn kết các thành viên trong lớp.
Ở lứa tuổi Tiểu học, nhiều em không nhớ mình sinh vào ngày, tháng, năm
nào? Có những em chưa một lần được bố mẹ tổ chức sinh nhật cho. Thậm chí có
em khơng biết “sinh nhật” là gì?. Cũng có em đã được bố mẹ tổ chức một, hai lần
ở nhà nhưng cũng chỉ có những người thân, các anh, chị và bạn bè trong thơn, xóm
mà thơi. Việc xây dựng “Góc sinh nhật” là một trong những điểm mới của mơ hình
“Lớp học VNEN”. Nó giúp các em hưởng trọn niềm vui, niềm hạnh phúc trong
ngày kỷ niệm trọng đại đó bên thầy cơ, bố mẹ và bạn bè cùng trang lứa.

15
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai



Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mơ hình VNEN

Cách xây dựng: GV khơng nên tự làm mà nên trao đổi với HS trong lớp về
cách xây dựng góc sinh nhật. Có thể là một cây với 12 bông hoa hoặc quả tương ứng
với 12 tháng trong năm và trên mỗi bông hoa ghi tên các bạn có ngày sinh trong
tháng. GV hãy để các em tự trao đổi và thống nhất cách thực hiện.
Cũng có cách xây dựng khác nữa là GV chia lớp thành các nhóm có cùng
tháng sinh. Nhóm đó sẽ cùng bàn bạc để tìm cách mừng sinh nhật mà các em thích
nhất cho từng thành viên trong nhóm của mình. Có thể cả phụ huynh cùng tham gia.
- Cách sử dụng: GV và HS có thể lên kịch bản cho một chương trình văn
nghệ, trị chơi... trong tiết Sinh hoạt lớp hoặc tiết SHTT. GV cần hướng dẫn cho HS
trong lớp chúc mừng bạn mình và gợi ý HS sử dụng các công cụ khác (vd: hộp thư
bè bạn, những lời yêu thương...) để hiện tình cảm với bạn mình trong ngày sinh nhật
của các em. GV nên tạo điều kiện cho HS được mừng sinh nhật nói về bản thân
mình, về những thay đổi khi một tuổi mới đến với em hoặc những tâm tư tình cảm
của các em. Như vậy, qua Công cụ này giúp học sinh được Tăng cường Tiếng việt
và rèn kĩ năng tự tin, mạnh dạn trước tập thể.
* Bảng theo dõi: Ngày em đến lớp.
Mục đích: Bảng Ngày em đến lớp được thiết kế để theo dõi sĩ số hàng ngày
của lớp. Công cụ này như một bảng đánh giá sự chuyên cần của HS. Giúp HS phát
triển tính tự giác, đi học đúng giờ, có tinh thần trách nhiệm trong học tập. HS cảm
thấy vui vẻ, hứng thú khi đến trường.
Cách xây dựng: Làm một bảng chung cho cả lớp, ghi tên HS, ngày tháng vào
các ơ tương ứng. Có thể trang trí xung quanh bảng cho đẹp và vui mắt.
Tơi cịn nhớ năm đầu tiên thực hiện VNEN, từ quản lí đến giáo viên đang cịn
bỡ ngỡ, chỉ biết trang trí lớp cho thật nhiều, thật đẹp mà khơng nghĩ đến cách sử
dụng. Vì vậy, bảng Ngày em đến lớp treo thật cao, giáo viên cũng phải bắc ghế
mới tới nơi. Sau vài năm, khi đã hiểu rõ về VNEN, chúng tôi mới “vỡ” ra nhiều

16
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai


Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mơ hình VNEN

điều. Góc trang trí “Ngày em đến lớp” sẽ do các em tự điền dấu tích đánh dấu mỗi
ngày đến trường. Qua đó, hình thành ý thức đi học chuyên cần, sự thi đua giữa các
bạn với nhau. Vì thế, phải đặt ở vị trí thấp và dễ cho học sinh đánh dấu. Cũng
khơng cần đóng bảng cầu kì, chỉ cần một lốc Lịch cũ, lật ngược mặt sau và trang trí
thêm hoa lá, vẽ vài đường diềm là ta đã có bảng Ngày em đến lớp thật đẹp, gần gũi
và tiện dụng.

HS lớp 3 A đang đánh dấu ngày mình đi học

* Bảng Nội quy lớp học:
Cách xây dựng: Đầu năm học, GV tổ chức cho HS trong lớp cùng thảo luận,
thống nhất đưa ra nội quy của lớp. Nội quy cần ngắn gọn, cụ thể dễ hiểu dễ nhớ. Có
thể bổ sung điều chỉnh nội quy nếu thấy cần thiết và nên công bố ở kỳ họp cha mẹ
HS.
Vật liệu làm nên chọn bìa cát tơng và vẽ trang trí cây hoa hoặc quả. Mỗi bơng
hoa là một yêu cầu về nội quy. Ví dụ: “Chúng ta cùng nhau đồn kết, giữ gìn vệ sinh
chung các bạn nhé!”
Cách sử dụng: Cây nội quy nên đặt ở nơi dễ nhìn thấy, hội đồng tự quản theo
dõi và nhắc nhở các bạn thường xuyên thực hiện tốt nội quy. Từ đó hạn chế được
việc vi phạm nội quy, ảnh hưởng đến phong trào thi đua của lớp. Qua đó giáo dục
các em tinh thần tự giác, sống có trách nhiệm với bản thân và với mọi người. Có thể
vận dụng vào các bài học GD Đạo đức, môn Tiếng việt …
* Góc cộng đồng
Mục đích: Bản đồ cộng đồng giúp HS biết được khoảng cách các em đi học từ

nhà đến trường. Xác định được những thuận lợi khó khăn gặp trên đường đi. Biết
những chỗ nguy hiểm để tránh rủi ro. Biết địa chỉ nhà bạn để đến thăm.
17
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai


Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mơ hình VNEN

Cách xây dựng: Bản đồ cộng đồng là sự mơ tả một cách đơn giản bằng hình vẽ
khổ to về cộng đồng địa phương, trong đó bao gồm đường đi lại, ao hồ, trường học,
các nơi công cộng, các trụ sở cơng an, nhà văn hóa, cơng viên, trạm y tế , những nơi
có thể nguy hiểm với HS... Quan trọng nhất là Bản đồ cộng đồng có tất cả các ngôi
nhà của HS trong lớp đang sinh sống. Để làm được Công cụ này không thể thiếu sự
hợp tác của phụ huynh. Họ sẽ giúp giáo viện xác định vị trí các ngơi nhà, vẽ sơ đồ,
đánh dấu những nơi nguy hiểm nhất…

Nhà gần, nhà xa, nhà to, nhà nhỏ, chợ Hịa Đơng, chùa Thiện Hịa xuất hiện
đầy đủ trong sơ đồ. Nếu khơng có sự hợp tác của cha mẹ các em thì khơng thể tái
hiện Góc cộng đồng một cách đầy đủ, chi tiết như vậy. Đây là điều mới mẻ mà
công tác chủ nhiệm trước kia chúng chưa làm được. Nếu muốn đến nhà em A, chỉ
cần nhìn vào sơ đồ là ta sẽ biết nhà ở vị trí nào. Khơng những thế, Góc Cộng đồng
còn giúp giáo dục các em ý thức về “cộng đồng”, khiến các thêm yêu mến quê
hương mình hơn. Qua đó, nhịp cầu nối giữa gia đình và nhà trường càng xích lại
gần nhau hơn. Một Phụ huynh lớp 3B chia sẻ: “Tôi tất vui khi được tham gia học
cùng con. Có như vậy tơi mới biết con mình đang học cái gì, học như thế nào?”
18
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai


Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mơ hình VNEN


* Góc địa phương
- Đây là một bảng mô tả một cách đơn giản về mối quan hệ giữa nhà trường và
cộng đồng địa phương, trong đó bao gồm các thông tin về mùa vụ, nghề thủ công
đặc trưng, phong tục tập quán, văn hóa lễ hội, trang phục đặc sắc, khí hậu thời
tiết…, và một số sản vật đặc trưng của địa phương. Quan trọng nhất là cách thức đưa
những nội dung thơng tin đó vào các hoạt động dạy học trong lớp một cách hữu ích
nhất.
- Các thành viên trong cộng đồng bao gồm cha mẹ HS, HS và GV tham gia
vào quá trình xây dựng “góc địa phương” này. Có thể vẽ trên giấy khổ to, hoặc trên
tấm bìa lớn để mơ tả thơng tin về mùa vụ, nghề thủ công của địa phương, lễ hội, khí
hậu thời tiết… với các màu sắc sinh động. Mọi người có thể đóng góp hoặc sưu tầm
một số sản phẩm đặc trưng của địa phương để trưng bày tại góc cộng đồng.

19
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai


Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mơ hình VNEN

HS sưu tầm Sản vật của q hương
Với Góc địa phương, ta có thể vận dụng vào các mơn học như Địa lí: Bài Các
dân tộc ở Tây Nguyên hay HĐGD Âm nhạc giới thiệu các nhạc cụ của Tây
Nguyên. Đặc biệt môn Tiếng Việt, ta vận dụng được nhiều nội dung để tăng cường
Tiếng Việt cho các em.
* Cịn về Góc Học tập:
Ngay từ đầu năm học, GV tổ chức tìm những tài liệu phù hợp để đưa vào góc
học tập với sự giúp đỡ của HS và cộng đồng. Các tài liệu không phải là thứ duy nhất
có trong góc học tập. Giáo viên phải lựa chọn những tác phẩm hay, liên quan đến
nội dung bài học để trưng bày trong các góc học tập.

Đây là nơi HS trưng bày những sản phẩm đẹp mà các em đã làm được. Ví dụ:
sản phẩm mơn Thủ cơng, Kỹ thuật, Mỹ thuật, các bài văn hay, chữ viết đẹp……
nhằm động viên khuyến khích sự tiến bộ của HS. Sau mỗi tiết học, giáo viên tổ
chức cho các em trưng bày sản phẩm của mình. Nên có sự thi đua giữa các tổ,
nhóm, cá nhân để có nhiều sản phẩm chất lượng cao. Trước đây, vì cịn mang tính
hình thức nên Góc này thường treo một loại sản phẩm từ đầu năm đến cuối năm,
chủ yếu là để cho đẹp. Tôi đã hướng dẫn giáo viên thay đổi sản phẩm theo tháng
hoặc theo chủ điểm để nhiều em có cơ hội thi đua, nhiều sản phẩm được trưng bày
hơn. Đó chính là động lực khiến các em chăm học và ln cố gắng hồn thành tốt
bài học.
Trong Góc học tập có Góc Tiếng Việt:

20
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai


Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mơ hình VNEN

Các sản phẩm do HS, GV làm ra: các tác phẩm, truyện, bài văn, hình vẽ các
sản phẩm cắt dán hay sản phẩm thực hành. Ví dụ: thẻ từ, thẻ câu, thẻ dấu thanh, mẫu
chữ viết hoa, ca dao tục ngữ…

Nét chữ nết người
Các em còn cùng nhau chuẩn bị đồ dùng đặt vào góc Tiếng Việt, làm tăng
niềm say mê của HS trong việc học "Tiếng Việt".
Tôi lưu ý giáo viên nên thay đổi tài liệu theo chủ điểm để việc sưu tầm được
thực hiện thường xuyên và sản phẩm phong phú hơn. Ví dụ:
Tháng 11: Chủ điểm ngày Nhà giáo Việt Nam, giáo viên và học sinh sưu tầm
những câu ca dao tục ngữ, những bài văn hay nói về tình thầy trị… Hoặc tháng 12:
Chủ điểm ngày Quân dội nhân dân. Sản phẩm sưu tầm là những hình ảnh, những

câu chuyện về bộ đội, về tình cảm qn dân.
Có Góc Tốn:

GV và HS chuẩn bị đồ dùng trong góc mơn Tốn, các em có thể tự làm các
phép cộng, phép trừ, bảng cộng, bảng trừ, bảng nhân chia... Ngồi ra cịn có thêm
những tài liệu giới thiệu cách học tốn, cách tính, trưng bày một số phép tính do HS
21
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai


Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mơ hình VNEN

thực hiện đúng, trình bày đẹp ở góc tốn. Để Góc được phong phú hơn, tơi lưu ý
giáo viên nên trưng bày theo mạch kiến thức của chương trình. Các em học tới đâu,
sưu tầm tài liệu tới đấy. Ví dụ các dạng tốn, các cơng thức… và kết quả là những
bài kiểm tra, những kết luận của nhóm …
Tơi thích nhất là Góc Tự nhiên. Nếu trong lớp học chỉ có bảng đen, phấn
trắng, thiếu bóng dáng cây xanh thì thật là đơn điệu. Bây giờ thì khác rồi, nào hoa,
nào lá, nào cây, cứ thân thiện mơn mởn tỏa khơng khí trong lành khắp lớp học.
Nhìn vào Góc Thiên nhiên học sinh thấy đỡ mệt mỏi căng thẳng và thêm yêu cuộc
sống xung quanh. Đồng thời, qua đó giáo viên giáo dục học sinh biết yêu q bảo
vệ cây cối vì nó rất có ích cho chúng ta. Thật đúng như câu khẩu hiệu: “ Trường
em xanh - sạch - đẹp”.

Góc tự nhiên lớp 3A
Nói chung, có nhiều cách để trang trí lớp học, có nhiều cơng cụ để giáo viên
và học sinh lựa chọn. Ngồi các “Góc”, cịn có các cơng cụ khác như Tài liệu học
“ba trong một” của Vnen, các thẻ cứu trợ, các Đồ dùng học tập... Tôi luôn lưu ý
giáo viên làm thế nào để lớp mình có sắc màu riêng nhưng vẫn đạt mục tiêu chung
của nhà trường. Làm thế nào để đạt hiệu quả tốt nhất, phù hợp với đối tượng học

sinh của từng lớp. Tuyệt đối không để việc trang trí ở bên lề lớp học mà phải biết
khai thác triệt để từng loại cơng cụ.
Ví dụ: Trong giờ học Toán, đối với những em tiếp thu nhanh sẽ làm bài tập
xong sớm hơn các bạn. Giáo viên nên có bài tập dành riêng cho đối tượng này.
Thay vì cầm bài tốn khó đưa trực tiếp cho các em thì giáo viên nên bỏ bài tốn đó
vào hộp thư của em A trong “Hòm thư cá nhân” và yêu cầu các em đến khám phá
điều bí mật. Chắc chắn sẽ tạo cho các em sự tò mò, hưng phấn khi được cô giao
thêm bài tập một cách thú vị như vậy.
Hoặc trong giờ Tiếng Việt lớp 4, bài 9A: Những điều em mơ ước. Sau tiết
học, giáo viên có thể cho học sinh chia sẻ tâm tư tình cảm của mình bằng cách:
22
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai


Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mơ hình VNEN

Hãy viết nhưng ước mơ của em và gửi thư cho một bạn nào đó để nói lên suy nghĩ
của mình ...
Hoặc với Góc địa phương, giáo viên nên động vien, khích lệ các em sưu tầm
các cơng cụ, các loại sản vật hay hình ảnh tư liệu của q mình để trưng bày. Có
thể nhờ người lớn hỗ trợ thêm.
Ngoài ra, giáo viên cần biết hướng dẫn học sinh tương tác với các công cụ.
Mới đầu hơi bỡ ngỡ nhưng lâu dần sẽ quen. Đặc biệt với học sinh lớp 2, phải có
một lộ trình thực hiện vì các em cịn nhỏ, chưa có kĩ năng như các lớp lớn.
Chúng ta thấy rằng, dạy theo mơ hình VNEN sẽ giúp học sinh hứng thú học
tập, phát huy được hết khả năng của mình, giảm bớt những căng thẳng mệt mỏi
trong quá trình học tập. Vì vậy, vì tương lai của đất nước, chúng ta phát tiếp tục
phát huy hơn nữa việc trang trí lớp học thân thiện và dạy học theo mơ hình trường
học mới để giúp học sinh trở thành những “Búp măng non” có ích cho xã hộpi.
Qua các Công cụ lớp học giúp các em tự điều chỉnh, bổ sung, trao đổi, hợp tác tốt

hơn để xây dựng cảnh quan, vệ sinh lớp học nói riêng và của nhà trường nói chung.
Từ đó tạo nền tảng cơ bản giúp các em góp phần vào việc cải tạo cảnh quan, vệ
sinh của gia đình, địa phương của học sinh. Giáo dục các em thể hiện qua hành
động chung tay, góp một phần vào việc xây dựng mơi trường sống thân thiện. Tạo
cho học sinh có thói quen và có trách nhiệm với các hoạt động của lớp.
Biện pháp 3: Đổi mới sinh hoạt chun mơn
Ngồi việc triển khai và chỉ đạo cơng tác trang trí lớp học, cách sử dụng các
Công cụ hỗ trợ học tập, tơi ln xác định rõ vai trị chỉ đạo các hoạt động chuyên
môn.
Từ khi trường tham gia vào môi trường mơ hình trường học mới (VNEN).
Tơi thấy rằng trường sẽ được đổi mới, sẽ tạo ra những hình thức và phương pháp
hoạt động đem lại một chất lượng dạy học mới. Cung cấp các điều kiện, những yếu
tố kỹ thuật mới cho giáo viên phát triển hoạt động nghề nghiệp của mình. Trong
mơi trường mới, năng lực của GV sẽ được nhân lên nhiều lần, song trong mơi
trường đó cũng địi hỏi GV phải cố gắng cao, phải có những kiến thức và kỹ năng
mới. Tất cả những giáo viên được chọn dạy mơ hình VNEN đều phải được tập
huấn ít nhất là ở cấp trường. Phải thấm nhuần tinh thần VNEN, sẵn sàng cho một
cuộc đổi mới trong dạy học.
Ban giám hiệu khơng khoanh tay đứng nhìn mà vào cuộc cùng với giáo
viên, chia sẻ những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện. Các cuộc họp khối chúng
tôi đều tham gia với giáo viên. Định hướng cho họ trong việc lập kế hoạch dạy học
cũng như kế hoạch đánh giá học sinh.
Tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo hướng “Lấy học sinh làm trung tâm”,
dự giờ theo kiểu “cắt lát”. Đánh giá theo chiều phát triển của giáo viên và học sinh.
Sau mỗi đợt, họp tổng kết rút kinh nghiệm. Phân công chuyên đề các môn, thao
giảng dự giờ để giáo viên học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
23
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai



Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mơ hình VNEN

Tham gia sinh hoạt Cụm chun mơn, thường xuyên liên lạc với các trường
bạn để trao đổi thông tin, cập nhật những điểm mới về chuyên môn. Động viên,
khuyến khích giáo viên mạnh dạn, sáng tạo, đổi mới trong dạy học.
Ngồi ra, chúng tơi định hướng để giáo viên nắm được quy trình khi lên lớp:
Mặc dù khơng phải soạn bài nhưng mỗi giáo viên trước khi lên lớp đều phải lập kế
hoạch dạy học, kế hoạch đánh giá học sinh. Kế hoạch dạy học phải phù hợp với đối
tượng học sinh của lớp mình giảng dạy. Phải quan tâm cả ba đối tượng học sinh
trong lớp. Điều đó thể hiện ở khâu chuẩn bị các câu hỏi dành cho học sinh năng
khiếu, học sinh còn hạn chế về năng lực. Phải biết sử dụng các Công cụ lớp học
một cách phù hợp và hiệu quả.
Giáo viên phải biết giao việc cho các Ban, hướng dẫn các Ban hoạt động
đúng chức năng, nhiệm vụ của mình. Hướng dẫn các em biết tương tác với các
Công cụ trong lớp học. Tận dụng tối đa khả năng của Hội đồng tự quản. Huấn
luyện cho các em làm quen và thành thạo kĩ năng làm lãnh đạo. Phải luân chuyển
trong nhóm để em nào cũng được làm nhóm trưởng. Từ đó bồi dưỡng cho các em
lịng tự tin, tính mạnh dạn trong công việc.
Không chỉ giáo viên chủ nhiệm mà tất cả giáo viên chuyên biệt, giáo viên dạy
thay đều phỉa thực hiện tốt cơng tác trang trí lớp học, phải biết sử dụng các công cụ
một cách hiệu quả. Để làm tốt việc này, ngay từ đầu năm tôi đã tổ chức chuyên đề
về cách trang trí lớp và hướng dẫn sử dụng các Công cụ trong lớp.
Biện pháp 4: Làm tốt công tác thi đua khen thưởng
Thi đua là một hình thức “cạnh tranh lành mạnh” trong mơi trường giáo dục.
Thúc đẩy sự phấn đấu và khai thác tiềm năng sẵn có của mỗi cá nhân. Sinh thời
Bác Hồ thường kêu gọi cả nước “ngành thi đua – người người thi đua”, “thi đua là
yêu nước”. Đúng vậy, ở đâu có thi đua, ở đó có sáng tạo, có sự thành công vượt
bậc. Với nghề dạy học của chúng ta rất cần có sự thi đua giữa các lớp, giữa giáo
viên và học sinh. Trong một năm học có rất nhiều phong trào được phát động như
phong tào thi đua “Hai tốt”, Vở sạch chữ đẹp, Trường học than thiện – học sinh

tích cực, GV chủ nhiệm giỏi… Và trang trí lớp học là một trong các tiêu chí để xếp
loại GV chủ nhiệm giỏi cấp trường; Sử dụng các cơng cụ lớp học là một trong
những tiêu chí để đánh giá xếp loại giờ dạy của mỗi giáo viên.
Ngoài việc thường xuyên kiểm tra cách làm việc của cơ – trị từng lớp. Tơi
tiến hành đánh giá thành hai đợt: Cuối kì I và cuối năm. Họp rút kinh nghiệm sau
mỗi đợt kiểm tra. Vận dụng hình thức “nêu gương” để kích thích giáo viên và học
sinh phát huy hết năng lực của mình. Như vậy, có phát động thì phải có tổng kết.
trước khi tổng kết, tơi cho giáo viên tự bình chon trong khối những cá nhân tiêu
biểu để nhà trường khen thưởng. Qua đó, nhân rộng điển hình những cá nhân, tập
thể lớp làm tốt để nhiều người học tập.
3.3 Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
Điều thay đổi lớn nhất mà dự án tạo ra chính là một phương pháp dạy và học
mới với việc học sinh tự tìm hiểu, tiếp cận kiến thức trong mỗi giờ học. Đối với
24
Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai


Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mơ hình VNEN

các lớp VNEN, ta khơng cịn gặp một không gian lớp học được kê theo hai, ba dãy
bàn từ trên xuống như trước mà chia theo từng nhóm, học sinh ngồi quay mặt vào
nhau để cùng trao đổi và tự học. Ở giữa bàn sẽ có một thẻ “cứu trợ”, đó là thẻ được
sử dụng khi các em chưa hiểu hoặc chưa biết cách làm để báo hiệu cho thầy cơ đến
giúp đỡ. Xung quanh lớp cịn có các Cơng cụ lớp học với đủ các “Góc” để học sinh
khai thác, tạo nên một môi trường học tập mới mẻ, gần gũi. Quản lý và điều hành
lớp học là “Hội đồng tự quản học sinh” được các em bầu ra khi bắt đầu bước vào
năm học. Đây là một biện pháp giúp học sinh được phát huy quyền làm chủ q
trình học tập. Học sinh cịn có điều kiện hiểu rõ quyền và trách nhiệm trong môi
trường giáo dục, được rèn luyện các kỹ năng quản lý, bao quát, lãnh đạo, kỹ năng
tham gia, hợp tác trong các hoạt động. Mỗi học sinh “Trường học mới - VNEN”

khi đến trường ln có ý thức được mình phải bắt đầu và kết thúc hoạt động như
thế nào mà không chờ đến sự nhắc nhở của giáo viên, tránh sự thụ động trong dạy
và học, góp phần đẩy mạnh sự phát triển trong công tác giáo dục của trường.
Để việc trang trí lớp học có tác dụng, phần lớn phụ thuộc vào giáo viên chủ
nhiệm. Họ là người lên kế hoạch, là người tuyên truyền, hợp tác với phụ huynh,
học sinh trong lớp. Là người vận dụng từng loại Công cụ sao cho phù hợp với từng
nội dung bài học, giúp học sinh hứng thú và tiếp thu bài hiệu quả hơn. Họ phải rèn
cho HS kĩ năng làm việc theo nhóm, kĩ năng học tập hợp tác. kĩ năng điều hành,
ghép nối, giao tiếp. Vì đây là kĩ năng cần thiết để hình thành kĩ năng tự học.
Có một điều thú vị là với Mơ hình VNEN là phụ huynh có thể đến dự giờ
với lớp bất cứ lúc nào. Tất cả những thay đổi này đều làm tăng tính tương tác giữa
giáo viên - học sinh, học sinh - học sinh, nhà trường - gia đình. Nhờ áp dụng
phương pháp dạy học mới, học sinh được trao đổi nhiều hơn, vốn tiếng Việt của
các em cũng tăng lên rõ rệt, từ đó dần hình thành kỹ năng giao tiếp cho các em.
Họ đến lớp để giúp giáo viên và học sinh trang trí lớp, giúp học sinh trong một số
hoạt động như tiết Sinh hoạt lớp, tiết GD Đạo đức, tiết Tiếng Việt … Đây là một
trong những biểu hiện rõ nét về thành công bước đầu của Dự án VNEN.
Như vậy để thực hiện tốt các biện pháp trên cần có sự thống nhất quan điểm
từ lãnh đạo đến giáo viên. Có như vậy mới đạt được mục tiêu mà nhà đã đề ra.
3.4 Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Hiệu trưởng giao quyền Phó Hiệu trưởng phải luôn cập nhật, đôn đốc, kiểm
tra các công việc dạy học của giáo viên, sao cho không chệch hướng, sao cho
không ai lơ là, phải phát triển đồng bộ. Phải hướng dẫn cụ thể cho giáo viên cách
trang trí lớp và cách sử dụng các Cơng cụ lớp học như thế nào cho hiệu quả.
Bản thân người cán bộ quản lí khơng được nơn nóng, ln kịp thời tư vấn để
đội ngũ “vui vẻ”, “ thuận hòa” thực hiện và thực hiện có sáng tạo, có “cái tâm”.
Triển khai kế hoạch và giao trách nhiệm cho từng cá nhân để họ thực sự góp sức
vào cơng cuộc đổi mới phương pháp dạy học theo mơ hình VNEN.

25

Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai


×