PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN KRÔNG ANA
TRƯỜNG MẪU GIÁO EANA
___________________________________________
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NHẬN
THỨC THẨM MỸ CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI
THÔNG QUA MÔN TẠO HÌNH
TÁC GIẢ: NGUYỄN THỊ LỆ THỦY
CHỨC VỤ: GIÁO VIÊN
1
NĂM HỌC 2014 – 2015
MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài:
2. Mục tiêu, nhiệm vụ chọn đề tài:
3. Đối tượng nghiên cứu:
4. Phạm vi nghiên cứu:
5. Phương pháp nghiên cứu:
II. NỘI DUNG:
1. Cơ sở lí luận thực hiện đề tài:
2. Thực trạng:
a. Thuận lợi, khó khăn:
b. Thành công, hạn chế:
c. Mặt mạnh, mặt yếu:
d. Nguyên nhân:
e. Phân tích đánh giá các vấn đề thực trạng:
3. Giải pháp, biện pháp:
a. Mục tiêu của các giải pháp, biện pháp:
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
c. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp:
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp:
e. Kết quả khảo nghiệm:
4. Hiệu quả của sang kiến kinh nghiệm:
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận:
2. Kiến nghị:
2
I. MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài:
Hoạt động tạo hình là một trong các lĩnh vực hoạt động của xã hội. Xã hội có văn
minh, hiện đại, có nhiều công trình xây dựng với những kiểu lối kiến trúc đẹp
cùng với những phương tiện máy móc hiện đại như ngày nay là có phần đóng góp
không nhỏ của hoạt động tạo hình.
Hoạt động tạo hình ra đời từ rất sớm. Từ xa xưa con người đã biết mô tả lại cuộc
sống của mình qua những bức tranh, những hình vẽ trên vách đá với rất nhiều
hình ảnh sống động như cảnh săn bắn, trồng trọt hay nhảy múa, những đàn súc
vật, muôn thú, cỏ cây…Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những tượng đá, tượng
đồng, những đền đá có hình trạm trổ nằm trong lòng đất đó là kết quả tạo hình của
loài người từ hàng nghìn năm về trước. Nó gắn liền với nền văn minh, văn hóa –
Tồn tại và phát triển cùng với xã hội loài người. Trong đời sống con người hoạt
động tạo hình là một hoạt động nghệ thuật, góp phần đem đến cái đẹp làm phong
phú cho đời sống con người. Hoạt động tạo hình còn là phương tiện quan trọng
trong giáo dục trẻ. Nó tác động to lớn trong việc hình thành và phát triển tính cách
cho trẻ Mầm non. Tác động trực tiếp đến năm mặt giáo dục của trẻ ở tuổi MN.
Một nhà giáo dục Xô Viết đã nói: “ Phải giáo dục cho trẻ biết yêu cái đẹp từ tuổi
bé nhất vì nó là cơ sở ban đầu cho việc hình thành nhân cách con người”
Với câu nói trên một lần nữa khẳng định rằng tạo hình là một trong những môn
học quan trọng nhất trong trường Mầm non. Nó giúp trẻ phát triển và hình thành
nhân cách, chức năng tâm lý hình thành ở trẻ tình yêu con người, yêu thiên nhiên,
yêu cuộc sống, yêu cái đẹp…Từ đó hình thành các kỹ năng, kỹ sảo, năng lực quan
sát, phát triển trí nhớ, trí tưởng tượng, sáng tạo, phát triển khả năng tri giác về
hình dáng, cấu trúc, màu sắc của sự vật hiện tượng bằng mắt một cách có chủ
đích. Khi tham gia các hoạt động tạo hình trẻ tái tạo lại bằng hình tượng của sự
vật, hiện tượng quen thuộc mà trước đó trẻ đã tri giác được. Góp phần đáng kể
trong việc tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, phát huy tính tích cực tư duy trực
quan hình tượng. Thông qua đó ngôn ngữ của trẻ cũng phát triển, hoàn thiện dần
cảm xúc. Thẩm mỹ và tính kiên trì bền bỉ, khéo léo nay rất quan trọng bởi tình
yêu đối với cái đẹp là bậc cao của con người, tình cảm đó không phải là bẩm sinh,
không có sẵn trong mỗi con người từ khi lọt lòng mẹ. Một em bé sẽ không có
được tình yêu cái đẹp nếu chúng ta không tạo điều kiện để em bé đó được tiếp xúc
với nhiều cái đẹp xung quanh, không làm cho những đặc điểm sinh động, phong
phú của các sự vật hiện tượng lọt vào các giác quan của trẻ.
Ở trong trường Mầm non hoạt động tạo hình bao gồm nhiều hoạt động như: Vẽ,
nặn, cắt, xé, dán. Đây là một môn học được Ngành giáo dục – Đào tạo cũng như
các trường Mầm non trên cả nước rất quan tâm, đầu tư bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ cũng như về cơ sở vật chất.
Xong việc thực hiện chuyên đề của đội ngũ giáo viên vẫn còn nhiều mặt hạn chế
dẫn đến kết quả đạt được trên trẻ còn thấp như: Trẻ không hứng thú với hoạt động
tạo hình, sản phẩm tạo hình tạo ra mang tính chất rập khuôn không sáng tạo, qua
3
hoạt động tạo hình trẻ chưa thực sự phát triển về năm mặt thể chất, nhận thức,
ngôn ngữ, tình cảm xã hội và thẩm mỹ.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy tôi rất trăn trở và mong muốn tìm ra được
giải pháp để nâng cao hơn nữa chất lượng lĩnh hội của trẻ về hoạt động tạo hình
cũng như góp hạt muối nhỏ vào biển khơi kỹ năng truyền đạt tri thức cho trẻ trong
ngành học của chúng ta.
Đó là lý do tôi chọn đề tài: Một số biện pháp phát triển nhận thức cho trẻ thông
qua môn tạo hình, lứa tuổi 5-6 tuổi cụ thể là lớp Lá 1 trường Mẫu giáo Eana – Xã
Eana – Huyện Krông Ana – Tỉnh Đắk Lắk.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ chọn đề tài:
Mục tiêu:
- Nâng cao chất lượng giảng dạy hoạt động tạo hình cho giáo viên mần non
- Nâng cao chất lượng hoạt động tạo hình cho trẻ 5 – 6 tuổi
- Giúp trẻ phát triển toàn diện về thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm xã hội
và thẩm mỹ.
Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu lý luận: Tìm hiểu cơ sở lý luận của sự hứng thú và đặc điểm nhận
thức của trẻ về phương pháp dạy hoạt động tạo hình và xếp hình.
- Nghiên cứu thực nghiệm: Thực trạng của việc áp dụng các phương pháp trong
môn tạo hình và hứng thú của trẻ với môn học.
- Nghiên cứu việc ứng dụng: Đề xuất các biện pháp thông qua việc nghiên cứu,
đánh giá đúng để rút ra kết luận, tìm ra được những biện pháp hay, phương pháp
dạy tích cực, tác động tốt đến trẻ góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và phát
huy hết khả năng ở trẻ.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Một số biện pháp phát triển nhật thức thông qua môn tạo hình cho trẻ mầm non 5
– 6 tuổi
4. Phạm vi nghiên cứu:
Học sinh lớp Lá 1 trường Mẫu Giáo Eana - Huyện Krông Ana – Tỉnh Đắk Lắk
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực nghiệm
- Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp ứng dụng thực nghiệm giáo dục
- Phương pháp đánh giá kết quả.
4
II. NỘI DUNG:
1. Cơ sở lí luận thực hiện đề tài:
Hoạt động tạo hình là một trong những nội dung giáo dục thẩm mỹ nhằm phát
triển toàn diện cho trẻ mẫu giáo, thông qua đó phát triển cảm giác, tri giác, phát
triển khả năng cảm thụ và khả năng sáng tạo, đồng thời còn là sự biểu lộ thái độ,
tình cảm yêu ghét của trẻ đối với thế giới xung quanh.
Đối với trẻ, thế giới xung quanh thật mới mẻ và lý thú, trẻ luôn muốn thông qua
mọi phương tiện để biểu đạt những cảm xúc của mình. Trong điều kiện khả năng
ngôn ngữ phát triển chưa hoàn toàn hoàn thiện thì tạo hình là phương tiện biểu đạt
hiệu quả nhất, lý thú nhất, đặc biệt là với trẻ ở gần tuổi đi học lớp 1.
Trong cuộc sống hàng ngày, trẻ đã tiếp thu một lượng tri thức đáng kể về thế giới
xung quanh do trẻ trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy và sờ thấy hoặc do người lớn kể
lại qua các câu chuyện, phim ảnh. Từ đó thế giới biểu tượng của trẻ cũng phong
phú dần lên và làm nẩy sinh tính ham hiểu biết, hứng thú nhận thức, muốn khám
phá những điều mới lạ. Xuất phát từ đó trẻ bắt đầu quan tâm đến các kiểu hình
dáng, cách trang trí, thiết kế, bỗng kết hợp lại với nhau và được trẻ thể hiện qua
sản phẩm tạo hình một cách tượng trưng. Những nét vẽ nghuệch ngoạc, hồn nhiên
hết sức bình dị nhưng rất cần thiết trong quá trình hình thành khả năng cảm thụ
cái đẹp và khả năng tư duy sáng tạo của trẻ. Từ những sản phẩm đó thể hiện lên
cảm xúc, tình cảm, ước mơ của trẻ.
Lứa tuổi này là lứa tuổi tràn ngập xúc cảm, phát triển trí tò mò, trí tưởng tượng
bay bổng, khả năng liên tưởng mạnh. Vì vậy, đây là giai đoạn tối ưu, là “Mảnh
đất” màu mỡ để gieo sự sáng tạo. Mọi trẻ em đều tiềm ẩn năng lực sáng tạo, sự
sáng tạo của trẻ không giống sự sáng tạo của người lớn. Sáng tạo của ngời lớn là
tạo ra cái mới, cái độc đáo, gắn với tính chủ đích, có tính bền vững và thường là
kết quả của quá trình nỗ lực tìm tòi. Sự sáng tạo của trẻ em lại khác, thường bắt
đầu bằng sự tái tạo, bắt chước, mô phỏng và thường không có tính chủ đích. Sự
sáng tạo của trẻ phụ thuộc nhiều vào cảm xúc, tình huống và thường kém bền
vững. Do đó tranh vẽ của trẻ nhỏ chưa phải là những tác phẩm nghệ thuật thực
thụ. Trẻ sẵn sàng vẽ bất cứ cái gì, không biết sợ, không biết tới khó khăn trong
miêu tả. Đối tượng mà trẻ chọn để miêu tả thường là cái trẻ thích, trẻ muốn chứ
không phải là cái dễ miêu tả.
Mối quan tâm chính trong sản phẩm của trẻ tập trung vào sự thể hiện, biểu cảm
chứ chưa phải là hình nghệ thuật thực sự của tác phẩm. Trẻ cũng không quan tâm
nhiều đến sự đánh giá thẩm mỹ của người xem mà chỉ cố gắng truyền đạt, giúp
người xem hiểu được những suy nghĩ, thái độ tình cảm của mình qua những gì
được miêu tả.
Tính không chủ định cũng là một đặc điểm tâm lý rất đặc trưng tạo cho sản phẩm
của trẻ có vẻ hấp dẫn riêng. Do đó, trẻ chưa có khả năng độc lập suy tính công
việc một cách chi tiết, các ý định miêu tả của trẻ thường nảy sinh một cách tình
cờ.
5
Ban đầu là những kiến thức, kỹ năng cơ bản, theo thời gian, qua luyện tập, dần
dần trẻ tích lũy được kinh nghiệm và phát triển khả năng thẩm mỹ, năng khiếu
thẩm mỹ.
Trẻ 5 tuổi hình thành kiểu tư duy mới trực quan sơ đồ giúp trẻ hiểu được những
thuộc tính bản chất của sự vật hiện tượng. Đây là một bước ngoặc trong sự phát
triển tư duy của trẻ chuyển từ tính hình tượng sang tính trừu tượng. Ở tuổi này do
sự phát triển về thể lực, cơ bắp và sự khéo léo của vận động, trẻ đã có khả năng
tạo nên các đường nét với tính chất khác nhau khá phức tạp. Cùng với sự tăng lên
ngày càng phong phú của các kinh nghiệm nhận thức, các ấn tượng, xúc cảm, tình
cảm, trẻ bắt đầu nhận ra được sự hạn chế và vẻ hấp dẫn của các hình vẽ khái quát
với những đường nét đơn điệu, sơ lược. Đặc biệt trẻ ở tuổi này khá linh hoạt trong
việc biến đổi, phối hợp tính chất của đường nét và hình thể để thể hiện hình vẽ
độc đáo, rất riêng của mỗi hình tượng, sự vật cụ thể. Trẻ 5 tuổi đã có vốn hiểu biết
phong phú về cảm giác màu sắc, đã có khả năng độc lập quan sát để thấy được vẻ
linh hoạt trong sự thay đổi màu sắc của các sự vật hiện tượng trong hiện thực và
làm quen qua quá trình tri giác với một số cách phối hợp màu sắc.
Tính tích cực quan sát, nhận thức chính là điều kiện giúp trẻ biết sử dụng màu sắc
một cách sinh động để thể hiện một cách sáng tạo nội dung tác phẩm, qua đó mà
biểu lộ suy nghĩ, tình cảm, ước mơ của mình qua những sản phẩm tạo hình. Hoạt
động tạo hình của trẻ là hoạt động trẻ sử dụng hệ thống các biểu tượng mỹ thuật
mang tính hình học không gian đa dạng để thể hiện những cảm xúc và tình cảm
chính bản thân trẻ. Cảm nhận mỹ thuật qua tranh vẽ vừa là sự cảm nhận về cái
đẹp của tác phẩm thông qua cảm giác và tri giác. Đồng thời vừa là quá trình tiếp
nhận vào bên trong của những cảm xúc phán đoán. Vì vậy hoạt động tạo hình có
giá trị giáo dục rất lớn đối với trẻ mẫu giáo.
Trẻ em nói chung đều thích hoạt động tạo hình nhất là vẽ tranh mặc dù đó là
những bức tranh vẽ theo cảm hứng, dẫu động tác còn vụng về nhưng trẻ vẫn
muốn thể hiện tài năng của mình. Trẻ được tự do tưởng tượng, bộc lộ niềm vui, ý
thích của mình trong tranh. Cha mẹ, cô giáo và cảnh vật luôn là đối tượng trẻ
muốn thể hiện đầu tiên và là hình tượng nghệ thuật quan trọng, có tác động gợi
mở khả năng hội họa của trẻ. Bồi dưỡng năng lực hội họa cho trẻ cần được bắt
đầu từ khi trẻ còn nhỏ tuổi.
Người lớn cần hướng dẫn trẻ vẽ một cách phù hợp, đúng với lứa tuổi kết hợp với
rèn kỹ năng cơ bản để khai thác và phát huy được trí tưởng tượng sáng tạo cũng
như năng lực bên trong của trẻ. Những hoạt động vẽ tranh đối với trẻ mẫu giáo
vừa có giá trị giáo dục sâu sắc, vừa tích hợp được tất cả các lĩnh vực phát triển
khác.
Vì vậy đứng trên cương vị là một cô giáo chúng ta phải tìm ra các giải pháp, biện
pháp giúp cho trẻ mầm non của mình lĩnh hội được những kiến thức cô truyền đạt
và thể hiện trên sản phẩm của mình một cách sáng tạo, riêng biệt không mang tính
khuôn mẫu. Qua hoạt động tạo hình trẻ phát triển được cả về thể chất, tình cảm xã
hội, thẩm mỹ, nhận thức và ngôn ngữ.
2. Thực trạng:
6
a. Thuận lợi, khó khăn:
Thuận lợi:
- Được sự quan tâm của PGD&ĐT Huyện Krông cũng như BGH trường Mẫu
giáo Eana về cơ sở vật chất lớp học có bàn ghế đầy đủ phục vụ cho việc học tập
- Được phụ huynh học sinh quan tâm chăm lo việc học tập, đóng góp các khoản
đầy đủ để lớp học trang bị đồ dùng và dụng cụ học tập kịp thời.
- Học sinh đúng độ tuổi, không có học sinh khuyết tật
- Lớp học rộng rãi, thoáng mát, đầy đủ ánh sáng cho cô và trẻ học tập và giảng
dạy.
- Hai cô giáo dạy lớp đều đã đạt trình độ trên chuẩn.
Khó khăn:
- Lớp có 24 học sinh trong đó có đến 17 cháu là dân tộc thiểu số (Ê đê và Mường)
- Nhiều cháu người dân tộc còn chưa biết và hiểu tiếng phổ thông
- Nhiều gia đình còn rất nghèo và khó khăn trong việc đóng góp các khoản tiền
khi cho con đến lớp.
- Hai cô giáo giảng dạy lớp đều là người kinh không biết tiếng Ê đê
b. Thành công, hạn chế:
Thành công:
- Trẻ hứng thú hơn với môn học, hoàn thành sản phẩm của mình một cách sáng
tạo, riêng biệt.
Những bông hoa trong bức tranh trẻ đã vẽ thêm mắt, mũi, miệng làm cho bức
tranh sinh động hơn rất nhiều. Lá không nhất thiết là phải màu xanh lá cây và nên
của bức tranh không nhất thiết là phải màu xanh da trời
7
- Qua hoạt động vẽ trẻ củng cố lại được kiến thức đã học: Con heo (lợn) là loài
động vật có 4 chân, mũi to tròn, được nuôi trong gia đình.
Con heo được vẽ một cách sống động với màu sắc tuy không hiện thực hóa nhưng
lại rất bắt mắt và thể hiện được cá tính của chủ nhân bức tranh là rất yêu con vật
gần gũi này.
- Trẻ yêu cái đẹp thích tạo ra cái đẹp:
Nhìn bức tranh trên thấy rõ khung cảnh rất đẹp của con vật thân thương đang dạo
chơi trong vườn có đủ cả hoa và bướm với bầu trời trong xanh. Cho người xem
thấy được tâm trạng rất thích thú và tươi vui của “tác giả”.
8
- Cơ tay của trẻ đã phát triển hơn, khéo léo hơn trong việc thực hiện các tác phẩm
của chính mình
Bức tranh là cảnh tượng các bạn đang vui chơi trò chơi kéo co, với sắc màu hồng
mang tính chủ đạo toát lên cái gì đó dễ thương, nền đất không còn là màu nâu nữa
nó đã được biến tấu thành màu tím nhưng cũng không có gì là bất hợp lý cả đối
với một đứa trẻ phải không nào?!.
- Đam mê với hoạt động tạo hình, trẻ có thể biến bất cứ chỗ nào thành nơi để
“sáng tác” ra những “tác phẩm” của riêng mình
Hạn chế:
9
- Giáo viên chưa phát huy hết được khả năng vận dụng phương pháp, biện pháp
trong việc truyền đạt, xây dựng hoạt động tạo hình hấp dẫn, lôi cuốn.
- Số lượng trẻ có sản phẩm tạo hình đạt yêu cầu còn ít, chưa có sự sáng tạo, bố
cục chưa hợp lý, khả năng xé dán cũng còn nhiều hạn chế, chưa biết nhận xét sản
phẩm tạo hình, mơ hồ trong việc đặt tên cho sản phẩm của mình
- Công tác phối kết hơp với phụ huynh học sinh trong việc rèn kỹ năng tạo hình
cho trẻ còn chưa thật sự được quan tâm.
c. Mặt mạnh, mặt yếu:
Mặt mạnh:
- Trang thiết bị phục vụ cho cô và trẻ tương đối đầy đủ: Bàn ghế, giấy màu, bút
màu, bút chì, vở vẽ, hồ dán, kéo, bảng, phấn…
- Trẻ đủ độ tuổi và đi học đều
- Giáo viên nhiệt tình, 2/2 GV đạt trình độ Đại học
Mặt yếu:
- Các tác phẩm hội họa, tranh mẫu, đối tượng quan sát cho trẻ còn hạn chế hầu hết
là do cô tự vẽ hoặc xé dán, nặn lấy.
- Trẻ là người dân tộc thiểu số chiếm hơn nửa lớp (17/24 trẻ)
- Đầu tư xây dựng hoạt động tạo hình còn chưa phong phú, khả năng tạo hình của
GV có hạn nên việc tạo ra các sản phẩm tạo hình cho trẻ quan sát, chiêm ngưỡng
còn ít.
Bảng 1: Kết quả khảo sát thực trạng:
Nội dung
Kết quả thực trạng
Số lượng (24) Tỷ lệ (%)
Số trẻ có sản phẩm vẽ đạt yêu cầu trở lên
10
41,6
Số trẻ có sản phẩm nặn đạt yêu cầu trở lên
9
37,5
Số trẻ có sản phẩm cắt, xé, dán đạt yêu cầu trở lên
5
21
d. Nguyên nhân:
Qua quá trình giảng dạy tôi nhận thấy giáo viên mầm non chưa thật sự coi trọng
môn tạo hình. Chúng ta vẫn không coi hoạt động tạo hình là một trong những
môn học quan trọng, mà cho là môn thứ yếu đứng sau môn Làm quen với Toán và
môn Làm quen chữ cái.
Từ những suy nghĩ đó chính GV đã không quan tâm xây dựng, thiết kế phương
pháp, biện pháp tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ. Các tiết dạy tạo hình hầu như
đơn điệu, rập khuôn, không phong phú làm cho sự sáng tạo của trẻ cũng bị ảnh
hưởng theo.
Một khi giáo viên có kỹ năng tạo hình yếu thì việc truyền đạt cho trẻ cũng sẽ hạn
chế. Nguy hiểm hơn là giáo viên lại suy nghĩ rằng “Muốn vẽ đẹp thì phải có năng
khiếu chứ đâu phải ai cũng vẽ được, nếu thế thì ai mà chả là họa sỹ!”. Câu nói này
không hoàn toàn là sai nhưng cũng không đúng hết bởi lẽ nếu năng khiếu không
có ta có thể nhờ đến công nghệ thông tin: Chụp, chiếu, photo, sưu tầm hay làm
“Họa sỹ đồ” như tôi vẫn hay làm. Nói chung là có rất nhiều cách để khắc phục
nhược điểm năng khiếu của mình, nhưng do ngại tìm tòi và quỹ thời gian của giáo
10
viên mầm non hạn hẹp đã góp phần làm cho kết quả hoạt động tạo hình trên trẻ
còn thấp.
Lý do nữa đó là việc tuyên truyền vận động phụ huynh quan tâm đến con em, tạo
điều kiện cho con có cơ hội được vẽ, nặn, xé, dán, cắt…ở nhà còn chưa được phụ
huynh hưởng ứng.
e. Phân tích đánh giá các vấn đề thực trạng:
Với một lớp Lá có 24 em học sinh trong đó 17 em là người dân tộc Êđê và
Mường. Nhiều cháu còn chưa nói và giao tiếp bằng tiếng Phổ thông được. Gia
đình các em còn nhiều khó khăn cơm ăn chưa đủ no, áo mặc chưa đủ ấm. Giáo
viên lại không biết tiếng Êđê đã tạo ra nhiều khó khăn trong công tác giảng day:
- Các cháu người dân tộc hầu hết tiếp thu bài chậm hơn những cháu người kinh.
Gia đình người dân tộc hầu hết không quan tâm đến việc học tập của con, không
đưa con cái đi học nên việc trao đổi tình hình học tập của các em gặp nhiều khó
khăn. Nhiều phụ huynh còn không biết chữ nên vấn đề kèm cặp con ở nhà là rất
hạn chế.
- Nhiều cháu chưa biết và hiểu tiếng Phổ thông làm cho việc giao tiếp, giảng dạy
của giáo viên và trẻ trở nên bất đồng. Từ đó đem lại kết quả giảng dạy cũng như
các hoạt động trong ngày không đạt yêu cầu đặt ra.
- Nhiều gia đình còn nghèo khổ nên họ lo việc kiếm sống là chủ yếu và không
mấy quan tâm đến việc học tập của con cái.
- Hai cô giáo đều không biết tiếng Êđê nên đôi lúc không gần gũi trao đổi, trò
chuyện với những trẻ người dân tộc. Cũng như không thể dạy các cháu nói, phát
âm tiếng Phổ thông.
- Giáo viên chưa phát huy hết khả năng vận dụng phương pháp, biện pháp trong
việc truyền đạt, xây dựng hoạt động tạo hình hấp dẫn, lôi cuốn: Hầu hết giáo viên
dạy một cách rập khuôn cứng nhắc, không đổi mới cách mở bài, hình thức tạo
hình cứ quay đi quay lại kiểu hát một bài rồi trò chuyện dẫn dắt vào bài. Hình
thức chỉ vẽ, nặn, cắt dán trên những nguyên liệu cũ như giấy mà không sáng tạo
ra những hình thức ví dụ như:
Làm con bướm bằng lá cây, bằng vỏ sò, bằng cánh hoa khô….
Làm con ếch bằng vỏ chai nước ngọt, bằng vỏ con nghêu, bằng đá cuội…
Cô và trẻ cùng làm chứ cô không ôm đồm làm một mình. Đừng sợ trẻ làm sai mà
hãy để trẻ có cơ hội thử thách khả năng của mình, qua đó trẻ có cơ hội sáng tạo
mà đôi khi ta không ngờ tới được.
- Số sản phẩm tạo hình đạt yêu cầu còn ít vì khi tổ chức hoạt động không thu hút
được sự chú ý thì việc tạo ra sản phẩm tạo hình kém chất lượng là điều đương
nhiên. Trẻ có bố cục chưa hợp lý một phần là do cách hướng dẫn của cô không rõ
ràng, ngắn gọn nhưng phải dễ hiểu. Các cháu chưa biết nhận xét sản phẩm vì thật
ra cô giáo chúng ta khi nhận xét bài cũng rất hời hợt vì sợ cháy giáo án. Nhưng
muốn trẻ có kỹ năng nhận xét bài của mình và của bạn thì cô giáo phải là người
nhận xét hàng ngày ngay cả trong mọi hoạt động từ đó hình thành một trình tự
nhận xét cho trẻ một cách tự nhiên. Cách đặt tên cho sản phẩm cũng tương tự,
11
giáo viên gợi mở các tên gọi cũng như cách thức đặt tên mọi lúc mọi nơi để trẻ
quen và không bị bỡ ngỡ.
- Nếu phụ huynh không đưa con em đến lớp thì giáo viên có thể đưa trẻ về tận nhà
vào các buổi chiều nhằm gặp mặt trao đổi, hướng dẫn, tuyên truyền trực tiếp để
phụ huynh phần nào thấy được tầm quan trọng trong việc hình thành hoạt động
tạo hình cho con trẻ ở nhà. Chí ít thì họ cũng không ngăn cản việc con trẻ vẽ lên
tường, vẽ ở dưới đất, lấy than củi để vẽ, hay là nghịch đất sét…
- Giáo viên chúng ta vẫn ngại tìm tòi, khám phá công nghệ thông tin, hay gần gũi
hơn là chiếc điện thoại di động. Bây giờ chỉ cần vài triệu đồng là có được chiếc
điện thoại có thể chụp hình, quay phim tốt rồi. Sao không tận dụng nó để quay,
chụp hình, in màu ra giảng dạy. Hay lên mạng coopy những hình ảnh phù hợp với
tiết dạy in màu ra để giảng dạy, cho trẻ xem… Đó là cách đơn giản mà tương đối
hiệu quả lại rất kinh tế.
- Các tiết dạy của giáo viên chưa thật sự được đầu tư công sức, chỉ rập khuôn và
không đổi mới hình thức giảng dạy. Hầu hết cô làm hộ cho trẻ chứ không cho trẻ
cơ hội tự thực hiện.
3. Giải pháp, biện pháp:
a. Mục tiêu của các giải pháp, biện pháp:
- Nâng cao số lượng trẻ thực hiện đạt yêu cầu về các hoạt động tạo hình
- Nâng cao chất lượng giảng dạy, đầu tư xây dựng tiết dạy tạo hình hấp dẫn, lôi
cuốn
- Qua hoạt động tạo hình trẻ phát triển về thẩm mỹ, thể chất, tình cảm xã hội,
ngôn ngữ và nhận thức.
- Giúp giáo viên, gia đình và toàn xã hội có cái nhìn khác hơn về hoạt động tạo
hình từ đó tạo mọi điều kiện để trẻ phát huy kỹ năng tạo hình của mình.
- Trang bị cho giáo viên, phụ huynh thêm về các kỹ năng tạo hình khắc phục
nhược điểm của mình.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
* Tự bồi dưỡng để nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ:
- Tích cực sưu tầm các loại sách hướng dẫn, tham khảo thông tin trên các trang
mạng có nội dung liên quan đến chuyên đề tạo hình nhằm nắm bắt những cái mới,
cái hay về nội dung, hình thức, phương pháp tổ chức các hoạt động tạo hình cho
trẻ 5 – 6 tuổi. Vận dụng có chọn lọc, sáng tạo sao cho phù hợp với khả năng nhận
thức, điều kiện lớp học.
- Học hỏi cách làm đồ dùng, đồ chơi, cách tạo môi trường làm giàu cảm xúc tạo
hình cho trẻ.
- Thiết kế bài giảng về vẽ, nặn, cắt, xé, dán mỗi loại một bài, lấy ý kiến tham gia
của Ban giám hiệu, tổ chuyên môn và đồng nghiệp trong toàn trường để thống
nhất và góp nhặt những ý kiến, sáng kiến hay kiến tạo nên một tiết dạy đầy đủ.
- Mời Ban giám hiệu, tổ chuyên môn và đồng nghiệp dự tiết dạy đã thiết kế để
đưa ra ý kiến góp ý nhằm chỉnh sửa và hoàn thiện cả về lý thuyết lẫn thực nghiệm
tiết dạy.
12
- Thường xuyên học hỏi, dự giờ đồng nghiệp, tham gia có chất lượng các đợt tập
huấn chuyên môn do cấp trên phát động nhằm đúc rút ra kinh nghiệm giảng dạy
hoạt động tạo hình.
* Tạo môi trường tạo hình cho trẻ:
Để có được những sản phẩm tạo hình đạt yêu cầu từ trẻ thì trước tiên giáo viên
phải khơi gợi được niềm hứng thú đối với hoạt động tạo hình cho chính trẻ. Một
trong các cách tạo hứng thú cho trẻ đó là tạo môi trường trong và ngoài lớp học.
Khi tạo môi trường tạo hình cần phải đảm bảo về mặt thẩm mỹ như: Đẹp, màu sắc
bắt mắt, hình ảnh ngộ nghĩnh, phù hợp với tư duy, khả năng tri giác của trẻ, đa
dạng về chủng loại hình dáng, kích thước. Đồng thời giáo viên chính là người dẫn
dắt trẻ đến khám phá môi trường đó. Môi trường này cần được thường xuyên
trang trí thay đổi sao cho khoa học và phù hợp với từng chủ đề, chủ đề nhánh:
VD: Với chủ đề “Thế giới động vật”
* Trong lớp học
- Trang trí các góc:
+ Góc học tập: Các con vật sẽ được xếp theo nhóm hoặc dãy tương ứng với số
lượng 8 – 9 mà lớp đã học và sắp được học. Bảng chữ cái cũng tương ứng với chữ
cái đầu là con vật VD: Chữ Ê tương ứng với Ếch xanh; Chữ C tương ứng với Cá
Vàng …
Trang hoàng lại nơi trưng bày “Sản phẩm của bé” bằng những bức tranh do chính
trẻ vẽ về động vật như: Đàn gà, xé dán con cá, con bướm…
Nặn những con vật: Trưng bày ra để cho trẻ chiêm ngưỡng.
13
+ Góc Phân vai: Cửa hàng bán thức ăn gia súc trưng bày ra các loại cám gạo, cám
bắp, gạo, bắp, cám viên… Máng đựng thức ăn, nước uống…
+ Góc Nghệ thuật: Sẽ trang trí những chiếc mũ có hình những con vật dễ thương
và ngộ nghĩnh như: Mũ thỏ, mũ gà trống, mũ gấu, mũ nhím, mũ mèo con…Để trẻ
được biến mình thành những con vật và tham gia hát múa, đóng kịch… Ngoài ra
thì nên chuẩn bị thêm một số tranh tô màu con vật để trẻ được tô màu.
14
+ Góc Xây dựng: Chuẩn bị tên cổng phù hợp VD: Trang trại nhà bé, Vườn bách
thú, Ao làng… Que kem để làm thành các chuồng trại nuôi con vật, các con vật
bằng nhựa, cây cối, hoa lá, …
+ Góc Thiên nhiên: Cũng chuẩn bị một số mũ các con vật để trẻ được ướm mình
vào các nhân vật trong truyện đi trồng cây, tưới nước…
15
- Trước cửa lớp học treo tranh chủ đề ngang tầm, với kích thước tranh phù hợp
sao cho trẻ dễ dàng nhìn thấy các chi tiết bức tranh, phía trên bức tranh có ghi tên
chủ đề lớn. Dưới tranh chủ đề là tranh chủ đề nhánh, và dưới tranh có từ miêu tả
bức tranh để ngoài việc trẻ được xem tranh ra thì trẻ còn làm quen chữ cái.
* Ngoài lớp học:
Trong giờ hoạt động ngoài trời cho trẻ hát các bài hát, đọc thơ, tạo dáng về thế
giới động vật và vẽ con vật mình yêu thích xuống sân trường bằng phấn. Hoặc có
thể làm con cá từ lá bàng khô, làm con rùa từ vỏ ốc, làm con trâu bằng lá mít…
Xếp các con vật bằng hột, hạt…
16
* Tạo điều kiện cho trẻ được tiếp xúc và làm giàu các biểu tượng tạo hình
cho trẻ:
Muốn trẻ có được những kỹ năng tạo hình dần dần thành kỹ xảo, có hứng thú và
tích cực tham gia hoạt động tạo hình, sáng tạo trong các sản phẩm tạo hình thì cần
phải cung cấp cho trẻ các biểu tượng, xúc cảm về sự vật hiện tượng xung quanh
trẻ:
VD1: Trước khi cho trẻ vẽ “Vườn hoa” thì các ngày trước đó trong giờ hoạt động
ngoài trời tôi cho trẻ đi tham quan vườn hoa trong sân trường, trò chuyện về tên
gọi, màu sắc, hình dáng, cho trẻ ngửi mùi hương, sờ cánh hoa… cấu tạo của hoa
đó. Ngoài ra tôi còn cho trẻ xem tranh ảnh về nhiều loài hoa mà trong sân trường
không có trong giờ hoạt động góc, hoạt động chiều. Lên mạng tải các hình ảnh về
các loài hoa cho trẻ xem trong giờ đón, trả trẻ…
VD2: Vẽ , nặn, xé dán đàn gà
Tôi sử dụng điện thoại di động của mình quay lại cảnh những chú gà con đang ăn
trong vườn nhà mình, với các hình ảnh có chú gà con mỏ đang cắp con giun, có
17
chú đang dang cánh chạy đuổi theo… Khi cho trẻ xem tôi kết hợp đặt câu hỏi để
hướng sự tập trung của trẻ vào một số chi tiết như: Các con thấy hình dáng của
các chú gà con như thế nào? (Đầu như thế nào? Mình như thế nào?...) Chú gà này
đang làm gì? Khi chạy cánh chú gà như thế nào? Trông giống cái gì?...
* Đổi mới hình thức, phương pháp cho trẻ tạo hình trong giờ hoạt động nhận
thức:
Để tổ chức một giờ học tạo hình đạt hiểu quả cao thì giáo viên phải luôn luôn làm
mới phương thức vào bài của mình sao cho lôi cuốn, khoa học, phù hợp với khả
năng tư duy của trẻ, phù hợp với chủ đề. Trong quá trình diễn ra tiết học phải tạo
ra một không khí gần gũi, cởi mở, thoải mái cho cả cô và cháu. Các phương pháp
đưa ra đều hướng đến phát huy tính tích cực chủ động của trẻ:
VD1: Vẽ, nặn củ cà rốt
Vào bài: Cô giáo kể một câu chuyện ngắn về chú thỏ: Nhà bạn thỏ bông có một
khu vườn bên cạnh một con suối, trong khu vườn bạn thỏ trồng rất nhiều cà rốt,
hôm qua bạn thỏ ra vườn nhổ cà rốt mang về nhà để làm thức ăn cho cả nhà,
nhưng khi đi qua con suối bạn thỏ bị trượt chân ngã, toàn bộ số cà rốt trồng được
đã bị rơi xuống suối và trôi đi mất, bạn thỏ đang rất lo lắng không biết trong mùa
đông này cả nhà thỏ lấy gì để ăn. Sau khi kể chuyện cô giáo đặt câu hỏi: Các con
có muốn giúp đỡ bạn thỏ bông tìm thức ăn cho gia đình không?. Chúng mình hãy
cùng nặn (Vẽ) thật nhiều củ cà rốt để tặng cho bạn thỏ bông nhé!. Tiếp theo giáo
viên cho trẻ quan sát mẫu (Chuẩn bị cả vật thật và mẫu cô nặn (Vẽ) cho trẻ quan
sát). Tổ chức cho trẻ thi đua theo nhóm (Nhóm bạn trai, bạn gái), xem nhóm nào
nặn (Vẽ) được nhiều củ cà rốt nhất để tặng cho bạn thỏ... Khi nhận xét sản phẩm
giáo viên gợi ý để các bạn trai nhận xét sản phẩm của các bạn gái và ngược lại,
đồng thời cho trẻ tự đánh giá nhận xét về sản phẩm của mình.
VD2: Cắt dán con Công
Ở đây tôi muốn giới thiệu một cách làm mới không hướng dẫn trẻ sử dụng các nét
vẽ đơn thuần mà cho trẻ sử dụng biện pháp đồ bàn tay, bàn chân để tạo thành hình
con công. Đầu tiên để có được đuôi con công thì cần có bút chì, giấy màu và kéo,
cái không thể thiếu là bàn tay của cô. Tiếp theo đặt tay cô lên mặt trái của giấy
màu dùng bút chì đồ khuôn bàn tay vào, tiếp đến là lấy một tờ giấy màu khác để
mặt phải của tờ giấy màu đồ khuôn bàn tay lên rồi cắt ra được 2 khuôn bàn tay đặt
2 bàn tay này lại gần nhau ngón cái của bàn tay phải đặt chống lên ngón trỏ của
bàn tay trái ta được đuôi con công.
Muốn có được phần mình con công thì cần đến các bạn học sinh, cho trẻ dùng
khuôn bàn chân đặt lên giấy màu dùng bút vẽ rồi cắt ra được phần mình công.
Dán phần mình vào phần đuôi sao cho đầu thấp hơn đuôi công, cắt hoặc vẽ thêm
chi tiết: Mỏ, mắt, các hình tròn màu ở phần đuôi cho sinh động.
(Lưu ý: Việc phối hợp màu tự các bạn phối sao cho đẹp và bắt mắt không nhất
thiết phải hoàn toàn giống thật.)
VD3: Vẽ trăng, sao cho bầu trời đêm
18
Chuẩn bị: Màu nước, hoặc màu khô pha với hồ, đĩa nhỏ đựng màu, giấy vẽ, bàn
ghế, quả khế non cắt phần đầu, quả đậu rồng cắt bớt phần đầu, tàu lá cây Bạc hà
(Phần có khoảng rỗng)
Sau khi đã giới thiệu và hướng dẫn cho trẻ thực hiện dùng quả khế non đã cắt
bằng một đầu chấm vào màu và in lên giấy tạo thành nhiều ngôi sao to, ngôi sao
nhỏ hơn dùng quả đậu rồng cắt bằng một đầu nhúng vào màu và in lên giấy,
hướng dẫn trẻ in những ngôi sao to ở gần ngôi sao nhỏ ở xa theo luật xa gần. Tiếp
đến là in trăng khuyết, dùng tàu lá Bạc hà phần có khoảng rỗng nhúng vào màu và
in lên giấy. Nếu muốn có hình trăng tròn thì dùng củ cà rố cắt bằng một đầu và in
lên.
Cho trẻ ngồi thành từng nhóm để việc chuẩn bị màu được thuận lợi và tiết kiệm
hơn, thường thì chia thành 3 nhóm, nhưng thực hiện tranh thì từng cá nhân.
(Lưu ý: Khi lựa chọn các loại củ quả để cho trẻ in thì nên chọn các loại cụ quả có
độ rắn một tí không chảy nước trong quá trình trẻ thực hiện. Và phải lựa chọn củ
quả có kích thước phù hợp với khổ giấy và đối tượng: Của cô sẽ chọn loại củ quả
có đường kính và kích thước to hơn của trẻ)
VD4: Sử dụng màu để thể hiện cảm xúc
Ngoài việc cho trẻ vẽ khuôn mặt biểu cảm thì giáo viên hướng dẫn cho trẻ tô màu
các khuôn mặt sao cho phù hợp với sắc thái như:
Tô màu Hồng nhạt cho khuôn mặt vui vẻ
Tô màu Đỏ tía cho khuôn mặt tức giận
Tô màu Xanh lá cây cho khuôn mặt sợ hãi
Tô màu Xám cho khuôn mặt buồn
Tô màu Đen cho khuôn mặt hung ác
VD5: Tranh sắp đặt
Nguyên liệu:
Kéo, hồ dán, giấy bìa
Cách thực hiện: Cho trẻ chọn các tranh trong báo cắt rồi sắp xếp cho thành một
bức tranh lô gich về nội dung.
VD: Chọn tranh và cắt xếp các hoạt động trong một ngày của bé: Ngủ dậy, đánh
răng rửa mặt, tập thể dục, ăn sáng, đi học, vè nhà…
* Tổ chức hoạt động tạo hình thông qua các hoạt động khác:
Một ngày ở trường mầm non trẻ được tham gia rất nhiều các hoạt động. Thông
qua các hoạt động này giáo viên có thể tổ chức cho trẻ lồng ghép các hoạt động
tạo hình nhưng lại sử dụng lời dẫn dắt dưới một hoạt động khác:
VD1: Trong giờ hoạt động góc, ở góc nấu ăn giao nhiệm vụ hãy làm ra những
chiếc bánh có các hình con vật ngộ nghĩnh; Cửa hàng bán vật liệu xây dựng: Hãy
nặn ra các con vật nuôi, nặn cây… để bán cho trang trại của Bác Gấu đang xây.
Cắt miếng xốp trắng nhỏ ra để làm gạo, cắt miếng xốp màu cam ra thành nhiều
hạt bắp… Vẽ nhiều bức tranh để dành tặng cho ngôi nhà mới sắp được hoàn
thành…
VD2: Trong giờ hoạt động ngoài trời:
Chủ đề “Thế giới động vật”
19
Cho trẻ hát và tạo dáng giống với những con vật quen thuộc như con vịt bơi, vịt
kêu, chim bay, cá bơi…
* Làm con vật từ đá cuội:
Nguyên liệu: Đá cuội, màu, cọ vẽ, keo dán
Cách thức: Chọn đã cuội gần giống với con vật, vẽ thêm các chi tiết, dán các phần
lại với nhau.
20
Một chú chó ngộ nghĩnh chỉ sau vài thao tác nhỏ
Ngoài việc vẽ, cắt xốp dán mắt thì còn có thể mua mắt thú gắn cho con vật sinh động hơn
21
Chú chuột điệu đà này sẽ giống thật hơn khi có thêm chiếc đuôi được gắn bằng kẽm màu
Gọi là Gấu Trúc vì chúng thích ăn lá cây trúc, tre vì thế thêm một cành trúc vào cho bắt mắt
22
Sau khi lựa chọn các viên đá cuội rồi thì dùng keo đính lại cho cố định, trang trí thêm là hoàn
chỉnh/
23
VD3: Trong giờ hoạt động chiều
Cô và trẻ cùng làm ra các con vật từ lá khô
Nguyên liệu là những gì có sẵn dễ tìm kiếm như cỏ khô, lá khô, màu nước, hoa
khô, hồ dán, kéo, bút chì và màu, bìa cứng.
24
25