Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

skkn DẠY LÍ LUẬN VĂN HỌC Ở LỚP 10 CHƯƠNG TRÌNH CƠ BẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.23 KB, 30 trang )

DẠY LÍ LUẬN VĂN HỌC Ở LỚP 10
CHƯƠNG TRÌNH CƠ BẢN
--------oOo-------I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Là một giáo viên, hẳn không ai trong chúng ta không mong muốn một ngày
nào đó những lớp học sinh thân yêu gặt hái thành công trong học tập, đặc biệt là
đối với các giáo viên dạy môn Ngữ văn ở trường Phổ thông. Bởi lẽ, trong một thời
đại mà tất cả các môn khoa học xã hội đều đang mất dần chỗ đứng, vì nhiều lí do
có cả khách quan và chủ quan, học sinh còn ít em quan tâm yêu thích, đó là niềm
khích lệ vô cùng lớn lao cho người dạy.
Làm thế nào để học sinh đạt kết qủa cao nhất trong môn Ngữ văn? Một câu
hỏi lớn vốn là sự trở trăn của những nhà giáo dục có tâm huyết.
Có một thực tế là học sinh khi viết văn nghị luận đi tìm vẻ đẹp văn chương
của các tác phẩm cụ thể thường có thói quen gần như cố hữu là phân tích rất sâu
những vấn đề thuộc về nội dung tư tưởng mà quên đi những giá trị nghệ thuật.
Dường như, tận sâu thẳm tiềm thức của các em, vẫn tuyệt đối hóa nội dung.
Mặt khác, qua việc điều tra một số học sinh lớp 11 về thực trạng học Lí luận
văn học ở lớp 10, chúng tôi nhận thấy phần lớn các em đã quên, thậm chí có em
không còn chút ấn tượng nào về những gì đã được học, dù rằng thời gian học
những bài này đều ở cuối năm học lớp 10. Khi có kết quả này, chúng tôi không
khỏi có những băn khoăn. Thực tế cho thấy trong các kì thi chọn học sinh giỏi các
cấp, những bài điểm tốt thường là những bài mang tính lí luận cao. Bài viết đã phát
hiện được vấn đề, cảm nhận sâu sắc, diễn đạt trôi chảy, giàu cảm xúc. Thành quả
ấy, phần lớn do các em được thâu nhận và biết vận dụng kiến thức lí luận vào quá
trình làm bài. Sự thăng hoa trong cảm xúc, sự trưởng thành trong suy nghĩ, sự đủ
đầy trong kiến thức là các tố chất quyết định sự thành công trong bài viết của các
em.
Bất cứ giáo viên nào cũng biết các điều kiện cần và đủ ấy. Thế nhưng không
phải ai ai cũng có định hướng đúng để giảng dạy hiệu quả. Nhất là đối với các bài
1



Lí luận văn học của chương trình lớp 10 - những bài học cung cấp nhiều kiến thức
quan trọng trong việc tiếp cận tác phẩm từ các phương diện cấu thành của nó.
Qua thực tiễn giảng dạy, chúng tôi nhận thấy kiến thức bài Lí luận văn học ở
các khối lớp nói chung và lớp đầu cấp là vô cùng cần thiết cho môn học, thậm chí
được ví như những chiếc chìa khóa giúp học sinh mở được kho tàng văn học vốn
vô cùng đa dạng, phong phú thông qua việc mã hóa tác phẩm văn học.
Một câu hỏi được đặt ra: Phải chăng những cuộc thi có quy mô lớn như thi
chọn học sinh giỏi quốc gia luôn là và chỉ là sân chơi trí tuệ của học sinh trường
chuyên, lớp năng khiếu, nơi các em được thầy cô đầu tư thỏa đáng, tích cực?
Đứng trước câu hỏi mà câu trả lời đã quá rõ ràng, chúng tôi đã trăn trở, suy
nghĩ rất nhiều về một hướng đi có hiệu quả hơn trong dạy học Lí luận văn học ở
cấp học Phổ thông nói chung và các bài Lí luận văn học ở lớp 10 nói riêng để cả
giáo viên và học sinh không phải e ngại nhiều khi gặp những vấn đề lí luận trong
chương trình học. Đây chỉ là những ý kiến ban đầu của một giáo viên còn non trẻ
trong nghề, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận
được sự đóng góp nhiệt tình của quý thầy cô đồng nghiệp để việc giảng dạy phần
Lí luận văn học nói riêng và phân môn Văn học nói chung đạt hiệu quả cao hơn.
II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
PHẦN 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lí luận
1.1. Lí luận văn học ở trường Đại học
- Lí luận văn học là một bộ môn chính trong khoa nghiên cứu văn học. Lấy
đối tượng chủ yếu là phương diện cấu trúc của văn học, Lí luận văn học có nhiệm
vụ rất quan trọng. Một mặt, Lí luận văn học xem xét văn học trong sự tác động qua
lại giữa chủ thể và khách thể trong thực tiễn của con người. Ở đây sẽ bắt gặp một
số khái niệm như nguồn gốc, đối tượng, tính hiện thực, tính chân thực của tác
phẩm, tính hình tượng và các chức năng của văn học…Mặt khác Lí luận văn học
cũng xem xét tác phẩm trong cấu trúc nội tại của nó, đó cũng là mối quan hệ biện
chứng giữa nội dung và hình thức. Xét từ khía cạnh sinh thành, Lí luận văn học

2


cũng nghiên cứu tiến trình của văn học. Tuy nhiên, trong trường hợp này, Lí luận
văn học không đi sâu mô tả và giải thích quá trình phát triển lịch sử của các giai
đoạn, các trào lưu như văn học sử, mà chủ yếu xem xét các phương pháp sáng tác
chính yếu, những nguyên tắc tư tưởng – nghệ thuật… Ngoài ra, Lí luận văn học
còn có tính chất là phương pháp luận nghiên cứu văn học.
- Việc giảng dạy và học tập Lí luận văn học ở trường Đại học là vô cùng cần
thiết. Nó cung cấp cho người học những vấn đề khái quát về bản chất, chức năng
cùng quy luật phát triển của văn học nói chung, tác phẩm cũng như một số phương
pháp sáng tác chính yếu. Trên cơ sở đó, người học có thể bước đầu vận dụng được
phương pháp nghiên cứu những hiện tượng văn học, nhất là việc phân tích một tác
phẩm cụ thể.
1.2. Lí luận văn học ở trường THPT
- Lí luận văn học là một bộ phận của phân môn Văn học, nhưng lại có tầm
quan trọng rất lớn đối với cả bộ môn và có quan hệ mật thiết với phân môn Văn
học. Những kiến thức Lí luận văn học sẽ giúp giáo viên trang bị cho học sinh
những công cụ và phương tiện cơ bản để từng bước hình thành năng lực văn.
- Qua Lí luận văn học, học sinh có thể cảm thụ thẩm mỹ một cách có ý thức
từ các phương diện của tác phẩm văn học như: ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu… Đó
cũng là con đường khắc phục có hiệu quả hội chứng “xã hội học dung tục” trong
dạy học văn. Lí luận văn học cũng giúp học sinh nâng cao năng lực tư duy. Đó là
khả năng phát hiện vấn đề, đặt vấn đề trước một đối tượng, một hiện tượng nào đó
của đời sống hiện thực hay đời sống văn học, khoa học. Ngoài ra, Lí luận văn học
còn giúp học sinh bồi dưỡng năng lực diễn đạt.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1 Về chương trình Lí luận văn học ở cấp THPT
Theo phân phối chương trình môn Ngữ văn THPT của Bộ Giáo dục và Đào
tạo, thực hiện chuẩn hóa từ năm học 2005 – 2006, phần Lí luận văn học của toàn

cấp gồm 10 tiết, trong đó có 5 bài tất cả, được phân bổ đều từ lớp 10 – 12. Ở lớp
10 có 2 bài được dạy trong 2 tiết là: Văn bản văn học, Nội dung và hình thức của
văn bản văn học. Ở lớp 11 có 1 bài được dạy trong 4 tiết là: Một số thể loại văn
3


học (Thơ, truyện, kịch, văn nghị luận). Ở lớp 12 có 2 bài được dạy trong 4 tiết là:
Quá trình văn học và phong cách văn học, Giá trị văn học và tiếp nhận văn học.
Như vậy, xét một cách khách quan, dù rằng kiến thức LLVH được đánh giá
là vô cùng quan trọng và cần thiết cho bộ môn, là “đèn chiếu sáng” cho học sinh,
nhưng lại có vị trí vô cùng khiêm tốn trong chương trình học của cả cấp. Điều này
đã ảnh hưởng ít nhiều đến chất lượng dạy và học môn Ngữ văn.
2.2 Thực trạng giảng dạy Lí luận văn học của giáo viên
Nhằm tìm hiểu thực trạng dạy học Lí luận văn học trong nhà trường THPT
hiện nay, làm cơ sở thực tiễn cho chuyên đề, chúng tôi đã tiến hành khảo sát bằng
hình thức phỏng vấn một số giáo viên Ngữ Văn ở nhiều trường THPT. Bước đầu
đã thu nhận được một số vấn đề sau:
Thứ nhất, bên cạnh nhiều thầy cô ý thức được tầm quan trọng của phần Lí
luận văn học của chương trình nên đã có cách giảng dạy hợp lí, hiệu quả, thì một
số giáo viên chưa thực sự chú trọng vào phần Lí luận văn học, vì một số lí do như
sau:
- Phân phối chương trình của Bộ giáo dục và Đào tạo dành cho bài học Lí luận
văn học quá ít, mặt khác còn bố trí bài học hoặc ở cuối học kì hoặc ở cuối năm
học. Thông thường khi học đến những bài học đó, học sinh đã hoàn tất kì thi học
kì. Vấn đề này tạo ra một chuỗi hệ quả là không thi thì không cần phải dạy kĩ,
không cần phải học kĩ.
- Ở các trường THPT không phải là trường chuyên, trường trọng điểm chất
lượng cao, xa trung tâm Tỉnh, hay các trường không có lớp ban C, mục đích đầu
tiên và cũng quan trọng nhất là làm sao học sinh thi đậu Tú tài, cao hơn một chút là
Đại học. Xuất phát từ mục đích đó giáo viên cân nhắc nên dạy vấn đề nào sâu và

vấn đề gì nên lướt. Bao giờ giáo viên cũng lựa chọn những nội dung khó có thể
đưa vào thi cử đại trà hay ít xuất hiện trong chương trình của Bộ giáo dục và Đào
tạo để dạy lướt. Do luôn được sắp xếp chương trình ở cuối học kì, cuối năm học
nên số phận của các bài học về Lí luận văn học rất dễ nằm trong ý định đó của giáo
viên.

4


- Còn quan niệm giờ dạy Văn học chủ yếu dạy Đọc - hiểu văn bản. Lí thuyết
văn học thuộc về lí luận cao siêu là địa phận của giáo dục Đại học. Vì vậy, giáo
viên thường chăm chút rất nhiều vào các bài học Đọc - hiểu văn bản. Điều này góp
phần lớn trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy. Tuy nhiên sẽ toàn diện hơn nếu
giáo viên một mặt bồi dưỡng xúc cảm thẩm mỹ cho học sinh, mặt khác nâng cao
nhận thức, phát huy năng lực độc lập suy nghĩ ở học sinh bằng những thao tác tư
duy khái quát, trừu tượng. Hoặc nếu không muốn nói học sinh khi viết bài sẽ thiên
về chủ nghĩa duy cảm.
Thứ hai, giáo viên vẫn chưa đầu tư thỏa đáng trong tất cả các khâu của một
giờ dạy Lí luận văn học: từ chuẩn bị, soạn giảng đến lên lớp, kiểm tra đánh giá. Tất
cả đều diễn ra tuy đúng trình tự nhưng khiên cưỡng, hời hợt. Một điều quan trọng
nữa là giáo viên cũng chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp giảng dạy, chẳng hạn
ứng dụng công nghệ thông tin vào giờ dạy Lí luận văn học. Vì mọi người cho rằng
rất khó để ứng dụng vào bài học. Nếu có, chỉ là cách để thay thế thao tác ghi bảng.
Như vậy, vận dụng không khéo sẽ lợi bất cập hại.
2.3. Thực trạng học Lí luận văn học của học sinh
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát bằng cách phát phiếu điều tra trắc nghiệm
cho 100 học sinh 2 lớp 11A1 và 11A2 trường THPT Chuyên Lương Thế Vinh.
Đây là 2 lớp mặt bằng, học môn Ngữ Văn theo chương trình cơ bản.
2.3.1. Khảo sát chất lượng học tập bài Lí luận văn học của học sinh
Sử dụng các câu hỏi: “Em hiểu Lí luận văn học là gì?”, “Em đã học những

bài Lí luận văn học nào ở lớp 10?” và “Theo em, thế nào là văn bản văn học?”,
chúng tôi nhận thấy chỉ có 3% số học sinh được khảo sát hiểu thấu đáo về Lí luận
văn học, 28% số học sinh được khảo sát trả lời chính xác năm lớp 10 đã học bài Lí
luận văn học nào, 17% số học sinh được khảo sát nhớ những kiến thức Lí luận văn
học đã học.
2.3.2. Nhận thức của học sinh về tri thức Lí luận văn học
Trả lời câu hỏi “Kiến thức Lí luận văn học đem lại cho em những lợi ích
gì?”, 64% số học sinh được khảo sát nắm rõ tầm quan trọng của Lí luận văn học.
2.3.3. Thái độ và tinh thần học tập đối với bài Lí luận văn học của HS
5


Với câu hỏi : “Trong qúa trình học Lí luận văn học, em cảm thấy như thế
nào?”, chúng tôi nhận thấy 33% học sinh cảm thấy hứng thú, 22% học sinh cảm
thấy nhàm chán, 59% học sinh cảm thấy khó hiểu, 52% học sinh cảm thấy mơ hồ.
2.3.4. Khảo sát khả năng vận dụng kiến thức lí luận vào bài tập thực hành
Sử dụng câu hỏi: “Theo em, văn bản “Đại cáo bình Ngô” có phải là văn bản
văn học không? Vì sao?”, 17% học sinh được khảo sát biết dùng kiến thức lí luận
để phân tích.
Nhận xét
Qua khảo sát, điều tra, ta thấy thực trạng học Lí luận văn học ở học sinh có
một số đặc điểm như sau:
- Với sự thay đổi bảng giá trị trong xã hội hiện nay, Văn học cùng nhiều sản
phẩm tinh thần khác dường như ngày càng trở nên chông chênh, không đủ sức
chống đỡ trước những làn sóng của chủ nghĩa duy lợi. Số đông học sinh hiện nay
có thiên hướng thi vào Đại học các khối tự nhiên để sau khi ra trường dễ kiếm việc
và làm ra nhiều tiền. Với bộ phận này, môn Văn không được các em đón nhận hào
hứng. Thậm chí có học sinh không ngại ngần bày tỏ một cách thẳng thắn với bạn
bè, thầy cô rằng “thí” môn Văn để đầu tư vào các môn thi đã chọn. Trước tình
hình đó, các giờ Ngữ Văn trở nên vô vị, nhạt nhẽo vì học sinh ngồi đó đón nhận

kiến thức nhưng không có sự quan tâm, yêu thích. Như vậy, phần Lí luận văn học
cũng không thể tạo được những cú lội ngược dòng.
- Số còn lại rất ít dự thi vào hai khối C, D thì học có tốt hơn, nhưng lại có tư
tưởng thực dụng: chỉ cần đậu Đại học. Với mục đích này, học sinh chỉ cần nắm
kiến thức trọng tâm và diễn đạt tương đối trôi chảy. Những vấn đề đó, phần Đọc hiểu văn bản và Làm văn có thể giải quyết được. Mặt khác, trong các kì thi học kì,
tú tài, Đại học, hiếm có đề bài thiên về lí luận. Vậy nên, cái gì không thi thì không
cần học kĩ. Xét cho cùng, số học sinh này thực sự chưa ý thức được tầm quan trọng
của phần Lí luận văn học mang lại.
- Tuy nhiên, đưa ra những thực trạng trên không phải là đổ lỗi cho hoàn
cảnh để từ đó bỏ qua luôn hoặc làm chiếu lệ những bài học khó. Bởi bên cạnh số
đông học sinh học lệch, học tủ, vẫn tồn tại khá nhiều học sinh tích cực, có nhu cầu
6


tiếp nhận nhiều kiến thức lí luận. Nhưng số học sinh này cũng rơi vào hai trường
hợp. Một là, học sinh ý thức được tầm quan trọng của Lí luận văn học trong quá
trình nhận thức, tư duy và diễn đạt văn chương, nhưng bản thân lại không thể tiếp
thu chúng một cách tốt nhất. Nguyên nhân do các em hạn chế về năng lực. Vả lại,
Lí luận văn học cũng không phải là những vấn đề đơn giản. Kiến thức lí luận
thường hết sức khô khan, trừu tượng và có độ khó nhất định. Thực tế, không phải
ai ai cũng có tư duy lí luận tốt.
Hai là, học sinh học cực tốt Lí luận văn học. Đối tượng này phải kể đến học
sinh các lớp năng khiếu, lớp chuyên. Ở chương trình học Nâng cao, các em được
tiếp xúc với khá nhiều kiến thức lí luận. Những kiến thức này hoặc tồn tại ở các
chuyên đề riêng biệt, hoặc rải rác ở phần Tri thức đọc hiểu. Mặt khác, khi giảng
dạy ở lớp chuyên, lớp chọn, lớp năng khiếu, giáo viên không ai bảo ai, hết sức tập
trung vào việc bồi dưỡng vào những kiến thức lí luận. Như vậy, học sinh ở các lớp
này rõ ràng có ưu thế và được cấp vốn kiến thức dồi dào hơn rất nhiều so với học
sinh theo học ban cơ bản và không chuyên. Thêm vào đó, áp lực phải đạt giải cao
trong các kì thi Olympic, học sinh giỏi quốc gia, cũng đòi hỏi học sinh cố gắng hết

sức. Đây cũng là dịp tốt nhất để Lí luận văn học có cơ hội gia nhập vào túi khôn
của học sinh, đồng thời đo lường hiệu quả trong giảng dạy và định hướng của giáo
viên.
Phân tích thực trạng dạy và học phần LLVH ở học sinh lớp 11, chúng tôi
không có ý vạch lá tìm sâu. Bởi lẽ khách quan nhìn nhận giáo viên ngày nay đã nỗ
lực rất nhiều trong sự đổi mới phương pháp dạy học. Và thực tế, ngành giáo dục
cũng đã từng bước gặt hái thành công. Việc đánh giá lại một phần nhỏ sự thật
trong giảng dạy của giáo viên để từ đó thiết lập một hướng tiếp cận căn cơ hơn có
thể phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh là điều cần thiết. Đặc biệt, nắm
bắt thực trạng học Lí luận văn học ở học sinh lớp 11 để người dạy thấy rõ hơn
trọng trách của bản thân trong quá trình dạy Lí luận văn học ở năm đầu cấp. Đó
cũng là phương cách khắc phục hội chứng xem xét văn bản văn học ở một góc độ
duy nhất là nội dung tư tưởng.

7


PHẦN II
TỔ CHỨC MỘT GIỜ DẠY HỌC LÍ LUẬN VĂN HỌC Ở LỚP 10
Mặc dù trong chương trình lớp 10, chỉ có 2 tiết dạy về Lí luận văn học,
nhưng cũng là một thử thách lớn đối với giáo viên. Là một bộ phận của phân môn
Văn, dạy bài Lí luận văn học cũng phải nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của
phân môn Văn; tuân thủ và vận dụng những nguyên tắc, phương pháp chung trong
dạy học Văn. Tuy nhiên, bài Lí luận văn học có những đặc điểm riêng đòi hỏi khi
dạy người giáo viên phải cân nhắc. Để dạy tốt, điều cần thiết đối với mỗi giáo viên
là phải nắm được nguyên tắc dạy học Lí luận văn học và có những biện pháp, cách
thức phù hợp.
1. Những nguyên tắc cơ bản khi dạy LLVH
1.1. Đảm bảo đặc trưng phân môn trong quá trình dạy học
Trong bộ môn Văn học thì phân môn Lí luận văn học thực sự khó hơn cả vì

nó đòi hỏi người học phải có một trình độ tư duy và kiến thức nền tảng nhất định.
Đứng trước điều kiện này, cả người dạy và người học đều gặp những thách thức.
Xét riêng về phía giáo viên, để truyền thụ những kiến thức lí luận cụ thể, lại
khá phong phú, trong sự khống chế của thời lượng, giáo viên cần đảm bảo các yêu
cầu sau:
- Dù kiến thức lí luận khó, nhiều nhưng nhiệm vụ quan trọng nhất của nó vẫn
là cách tiếp cận và phân tích tác phẩm văn học.
- Do tính chất đặc điểm là một môn lí thuyết, Lí luận văn học là những tri
thức trừu tượng, khái quát, vì vậy dạy học Lí luận văn học không thể tách rời thành
đơn vị kiến thức đơn lẻ, độc lập mà phải xuất phát từ tác gia, tác phẩm, lịch sử văn
học, qua đó cung cấp kiến thức cơ bản.
Từ những yêu cầu này, ta nhận thấy kiến thức lí luận sẽ được hình thành từ
hai nguồn: thứ nhất là từ các tiết dạy theo phân phối chương trình, thứ hai là lời
giảng giải của giáo viên qua các tiết Đọc văn. Với thực tiễn giờ dạy Đọc văn khá
rộng rãi, người giáo viên với sự thông minh, khéo léo của mình chắc chắn sẽ có
những giải pháp tốt nhất để có thể cung cấp những kiến thức lí luận vừa đầy đủ
vừa phong phú, sâu sắc.
8


Ở đây, cần phân biệt với nguyên tắc tích hợp. Bởi lẽ quan điểm tích hợp
được xây dựng trên cơ sở lí luận xuất phát từ đặc trưng của phân môn: Lí luận phải
gắn liền với thực tiễn.
Trong các giờ đọc văn, nếu có sự bổ sung, minh họa bằng các kiến thức lí
luận, học sinh sẽ có cơ hội tiếp cận với những khái niệm vốn nằm im lặng trong
những mệnh đề: đề tài, chủ đề, hình tượng nghệ thuật… Tuy nhiên cũng cần lưu ý
tới hiện tượng về các quan điểm lí luận khác nhau, người giáo viên phải nắm lấy
những vấn đề chuẩn xác, tránh sa vào các vấn đề còn tranh cãi.
Có đặc điểm của một môn học lí thuyết, giáo viên không thể dạy Lí luận văn
học suông được mà đòi hỏi phải có sự thực hành trong đó. Đây là nguyên tắc đầu

tiên và vô cùng quan trọng đối với môn học lí thuyết. Với những bài tập mang tính
sáng tạo, bắt buộc học sinh khi làm phải có kiến thức tổng hợp sẽ là thước đo hiệu
quả nhất về mức độ thành công trong quá trình dạy và học Lí luận văn học của cả
giáo viên và học sinh.
1.2. Thực hiện tích hợp linh hoạt với Đọc văn và Làm văn
Tích hợp là một xu hướng của đổi mới dạy học. Không chỉ riêng ở môn Ngữ
văn, mà ở tất cả các môn học khác, việc tích hợp phù hợp, khoa học sẽ mang lại
nhiều lợi ích lớn trong dạy và học. Vấn đề này không cần phải tranh cãi. Xét ở
phân môn Văn, với sự góp mặt của các bộ phận như: Đọc hiểu văn bản, Văn học
sử, Lí luận văn học, người giáo viên cần biết giải quyết mối quan hệ nội tại giữa
các bộ phận bằng cách tích hợp. Lấy văn bản văn học làm trung tâm, điều quan
trọng giáo viên phải làm được là định hướng cho học sinh những con đường có thể
tiếp cận với văn bản được. Nói vậy cũng có nghĩa dạy Lí luận văn học không thể
tách rời phần phân tích văn bản và ngược lại. Thực hiện tích hợp giữa Lí luận văn
học và phân tích tác phẩm một mặt làm cho bài viết của học sinh trở nên sắc sảo
hơn, hấp dẫn hơn, mặt khác cũng tránh cho học sinh rơi vào trường hợp bị giáo
viên nhận xét là bài viết sơ sài, thiếu sự thuyết phục.
Để việc tích hợp không mang tính chất khiên cưỡng, áp đặt, bản thân giáo
viên phải có ý thức tích hợp, đồng thời phải nắm bắt thời điểm nào, chọn nội dung
gì, tích hợp ra sao, chứ không phải tích hợp một cách tùy tiện, cơ học.
9


Giáo viên có thể lựa chọn cách tích hợp ngang, dọc hoặc kết hợp cả hai
cách. Tuy nhiên, khi quyết định cách tích hợp nào, giáo viên cũng cần chú ý đến
chủ đề chung giữa hai đối tượng tác phẩm và vấn đề Lí luận văn học. Không thể
tích hợp nếu hai đối tượng này không có điểm đồng quy hay tiếp xúc với nhau.
Tích hợp ngang là sự tích hợp diễn ra thường xuyên đối với từng bài học và
nội dung tích hợp quan trọng có thể tìm thấy kết quả ngay trong tiết học đó. Khi
tiến hành tích hợp ngang, giáo viên cần xác định ý trọng tâm và đan xen lồng ghép

vấn đề lí luận. Trong trường hợp này, nếu không xác định được vấn đề trọng tâm
và lồng ghép nội dung lí luận, giáo viên sẽ rơi vào trạng thái khoe khoang kiến
thức không cần thiết. Bởi lẽ, ở mỗi tác phẩm đều có ít hay nhiều vấn đề, trong đó
không phải vấn đề nào cũng chính, cũng quan trọng.
Tích hợp dọc là sự tích hợp thường diễn ra ở các đề bài, nhất là các dạng đề
tổng hợp, sử dụng trong thi học sinh giỏi. Với tích hợp dọc, giáo viên phải đặt ra
vấn đề lí luận trước, sau đó dùng tác phẩm văn học làm sáng tỏ các chủ đề đó.
Trong quá trình phân tích đó, có các ý cần được khái quát theo nguyên tắc tích hợp
ngang. Khi ấy ta đã có sự kết hợp hai cách thức tích hợp cả ngang và dọc. Thường
thực hiện tích hợp dọc giữa Lí luận văn học với phân môn Làm văn.
Có một thực tế là không phải ở bất cứ bài học nào về tác phẩm cũng lồng lí
luận vào mà chỉ chọn những ý trọng tâm. Nếu tích hợp không đúng lúc, đúng ý sẽ
làm bài dạy trở nên nặng nề, thậm chí mang tính lối mòn. Thế nhưng, điều đó cũng
không có nghĩa là thỉnh thoảng mới tích hợp cho có, cho phù hợp với sự đổi mới
trong phương pháp dạy học. Ngược lại, giáo viên phải tiến hành thường xuyên việc
tích hợp này. Có như vậy, học sinh mới có thói quen cảm nhận văn học không chỉ
bằng cảm tính mà còn là nhận thức lí tính.
Những nỗ lực của giáo viên trong qúa trình dạy phải tỉ lệ thuận với sự cố
gắng của người học trong quá trình học. Có vậy, mới có thể nâng cao chất lượng
giáo dục, nhất là trong giảng dạy môn Ngữ văn. Việc nắm được nguyên tắc trong
giảng dạy phân môn sẽ phần nào giúp giáo viên vượt qua các khó khăn, rào cản
trong chuyên môn và tâm lí.

10


2. Những biện pháp, cách thức có thể vận dụng khi dạy bài Lí luận văn học ở
lớp 10
2.1. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà trước khi lên lớp
Để có thể tiếp thu tốt nhất kiến thức bài học mới, học sinh phải xem bài mới

ở nhà. Điều này càng trở nên thiết thực hơn khi học sinh học phần Lí luận văn học.
Bởi lẽ ở phân môn Văn, Lí luận văn học là kiến thức nền tảng, căn bản. Mặt khác,
Lí luận văn học rất trừu tượng, khó hiểu. Thời gian thực hiện cho một đơn vị kiến
thức không nhiều, chỉ có một tiết ít ỏi. Đảm bảo được yêu cầu cần đạt về nội dung
và sự hiểu biết, vận dụng của học sinh là việc khó của giáo viên. Vì vậy trước mỗi
bài học, giáo viên cần hướng dẫn học sinh học bài bằng hệ thống câu hỏi hợp lí,
vừa sức, khoa học và đưa danh sách bài đọc tham khảo. Hệ thống câu hỏi giáo viên
có thể lấy từ phần hướng dẫn học bài hoặc căn cứ vào tình hình thực tiễn, đặt ra
câu hỏi hoặc vấn đề thảo luận phù hợp.
2.2. Lấy dẫn chứng tiêu biểu trong chương trình học để làm sáng rõ vấn đề
Lí luận văn học có tính chất của một môn lí thuyết. Vì vậy để những kiến
thức đó không qúa xơ cứng và khô khan, khó hiểu, xa lạ với học sinh, giáo viên
cần đưa ví dụ vào để tiết học thêm sinh động, cuốn hút. Hãy để học sinh tự lĩnh hội
nội dung của vấn đề thông qua việc phân tích ví dụ. Giáo viên chỉ nên định hướng,
gợi dẫn.
2.3. Xác định kiến thức trọng tâm
Ở cấp Đại học, Lí luận văn học là môn học quan trọng không chỉ đối với
sinh viên ngành Ngữ văn mà cả các ngành có liên quan đến văn hóa nghệ thuật.
Môn này cũng là một trong hai môn thi tốt nghiệp. Điều này càng nói lên tầm quan
trọng của nó.
Ở cấp THPT nói chung và lớp 10 nói riêng, Lí luận văn học dù vẫn giữ
nguyên tính chất quan trọng của nó nhưng quy mô, vị trí, nội dung bị thu hẹp. Đến
nỗi, cả người dạy và học Lí luận văn học đều có chung cảm nhận đang cưỡi ngựa
xem hoa. Vấn đề lí luận đặt ra trong chương trình không phải ít nhưng thời gian có
hạn, vậy người giáo viên cần làm gì để học sinh vẫn tiếp thu và vận dụng được vào
trong bài viết của mình? Thực sự giáo viên nên tính đến tình trạng tiếp thu không
11


đều của học sinh, việc trình bày trên lớp các vấn đề lí luận phải thật khúc chiết,

mạch lạc, tránh rườm rà, rắc rối. Cần xác định kiến thức trọng tâm và tập trung vào
nội dung đó. Thà để hiểu học sinh hiểu sâu, hiểu đúng một số vấn đề cơ bản còn
hơn là cái gì cũng biết mà biết không đến nơi đến chốn.
2.4. Chọn thời điểm thích hợp để dạy bài Lí luận văn học
Ngoài chuyện tích hợp thường xuyên trong các bài đọc hiểu văn bản, giáo
viên nên chủ động chọn thời điểm thích hợp để dạy các bài lí luận văn học. Theo
phân phối chương trình hiện nay, phần lớn các bài Lí luận văn học thường ở cuối
học kì và cuối năm học. Tất nhiên, cách sắp xếp vị trí này cũng chứa đựng nhiều ẩn
ý của các nhà biên soạn sách. Nhưng bên cạnh cái được, điều đó ít nhiều ảnh
hưởng đến tâm lí và hiệu quả dạy, học các bài học này. Liệu có nên chăng tổ chức
cho học sinh học các bài lí luận vào những thời điểm thích hợp hơn? Chẳng hạn,
vào giữa các học kì. Lúc này, các em đã có một vốn kiến thức cần thiết, đủ để phân
tích dẫn chứng. Đồng thời, trong quá trình vận dụng, còn những thiếu sót gì nơi
tiếp nhận và vận dụng của học sinh, giáo viên sẽ kịp thời chỉnh đốn. Theo chúng
tôi, không nên để vào cuối năm, khi mọi việc gần như đã xong xuôi. Lúc đó học
sinh sẽ tiếp nhận thụ động, uể oải vì bài học chỉ mang tính chất tổng hợp hoặc khái
quát lại những gì đã học ở đọc hiểu văn bản. Trong trường hợp đó, Lí luận văn học
cũng không thể phát huy được tính chất là công cụ hay “đèn chiếu sáng” cho học
sinh.
2.5. Tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm
Hoạt động nhóm là một hình thức, phương pháp, biện pháp dạy học tích cực.
Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa đang diễn ra sâu sắc như hiện nay, kĩ
năng hợp tác, hoạt động nhóm đòi hỏi phải được hình thành trong môi trường học
đường. Môn Ngữ văn, trong tình hình này, không thể nằm ngoài quy luật vận
động.
Có điều ở phần Lí luận văn học, có áp dụng được hình thức hoạt động nhóm
không? Được, thậm chí rất thích hợp với các bài lí luận ở khối 10. Có hai lí do để
chọn hoạt động nhóm trong bài học này:

12



- Thứ nhất, xuất phát từ nguyên tắc dạy học môn lí thuyết, không thể tách rời
giữa lí thuyết và thực hành. Lí luận văn học ở lớp 10 tập trung chủ yếu ở các tầng
nghĩa, nội dung và hình thức của văn bản văn học. Vì vậy, giáo viên cần có bài tập
vận dụng bên cạnh những vấn đề lí thuyết. Việc làm bài tập có sự vận dụng từ thấp
lên cao sẽ bước đầu hình thành thói quen tốt trong tiếp cận văn bản văn học với đầy
đủ các phương diện cấu thành của nó. Tuy nhiên, dạng bài tập vận dụng cao có độ
khó nhất định, trong điều kiện thời gian hạn hẹp, trình độ học sinh không đồng đều,
giáo viên cần thiết tổ chức ngoại khóa theo nhóm.
- Thứ hai, hoạt động nhóm là một khái niệm rộng, trong dạy học Ngữ văn, riêng
ở bài Lí luận văn học, có thể tổ chức nhiều hình thức cụ thể như: Thảo luận theo
nhóm, giải thích cắt nghĩa theo nhóm, luyện tập theo nhóm, hay ngoại khóa theo
nhóm… Các vấn đề lí luận không đơn giản, không dễ tiếp thu, việc tạo tình huống
có vấn đề để học sinh giải quyết là nên làm.
Để thực sự có kết quả trong hoạt động nhóm, giáo viên cần xác định được
mục đích rõ ràng, đặt ra được tình huống có vấn đề hoặc một vấn đề trọng tâm với
độ khó cao của bài học đòi hỏi phải có sự hợp sức của một nhóm học sinh. Đây cũng
là nguyên tắc chung khi tiến hành hoạt động nhóm.
2.6. Sử dụng công nghệ thông tin
Các phương tiện giảng dạy hiện đại như overhead, projector không thể là điều
xa lạ đối với người dạy lí luận. Tuy nhiên hiện nay vẫn tồn tại một số giáo viên hơi e
ngại sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, nhất là đối với các bài Lí luận văn
học. Thực ra, ở một số bài học, với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, sẽ trở nên hấp
dẫn hơn rất nhiều hoặc qua việc sử dụng công nghệ thông tin, đây cũng là một thủ
thuật của người giáo viên khi đối diện với vấn đề thời gian. Các bài học về Lí luận
văn học ở lớp 10 có thể sử dụng công nghệ thông tin để trong hai tiết ngắn ngủi
truyền đạt một lượng thông tin quá lớn như hiện tại.
2.7. Hình thức kiểm tra đánh giá đa dạng, phong phú
Kiểm tra, đánh giá là khâu then chốt cuối cùng của qúa trình dạy học, là thước

đo hiệu quả dạy học.

13


Có thể nói học để thi là tình trạng phổ biến hiện nay. Đề ra kiểu gì, học sinh sẽ
tìm cách học theo kiểu ấy. Muốn khuyến khích học sinh phát biểu theo dòng cảm
xúc thực đồng thời có cơ sở lí luận vững chắc, không có cách nào khác phải có dạng
đề tương ứng. Tất nhiên không thể đưa ra những đề bài thuần chất lí luận, làm thế
không khác đánh đố học sinh. Ra đề phù hợp là việc làm cần thiết mà mỗi giáo viên
phải nghĩ đến và có sự đầu tư cao. Theo tinh thần đổi mới, việc kiểm tra, đánh giá
không thể chỉ làm một nhiệm vụ duy nhất là xem học sinh có hiểu bài hay không mà
quan trọng là khả năng vận dụng lí thuyết vào bài thực hành và qua đó giáo viên có
thể phân loại được học sinh. Muốn vậy, đề bài phải đa dạng về hình thức. Sau khi
học xong bài “Văn bản văn học”, “Nội dung và hình thức của văn bản văn học”,
giáo viên có thể đưa ra các đề bài nghị luận theo hướng mở, như đi tìm vẻ đẹp văn
chương của một tác phẩm cụ thể nào đó. Giáo viên có thể chọn những sáng tác vượt
thời gian không có trong chương trình học để kích thích óc sáng tạo, cảm nhận thẩm
mỹ của người học. Qua đó, giáo viên đo đếm mức độ thẩm thấu nghệ thuật của học
sinh. Đương nhiên là bài tập mới không được quá sức với các em.
Những biện pháp, cách thức nêu trên không phải là mới. Quan trọng là mang
lại hiệu quả cho bài dạy thì chúng ta nên sử dụng. Và có lẽ còn nhiều vấn đề xoay
quanh cách dạy tốt bài Lí luận văn học. Chúng tôi tin rằng mỗi thầy cô trong quá
trình dạy cũng sẽ có cho riêng mình những kinh nghiệm quý báu.

PHẦN 3
MỘT SỐ GỢI Ý TRONG THIẾT KẾ GIÁO ÁN, BÀI TẬP VÀ ĐỀ BÀI
VỀ LÍ LUẬN VĂN HỌC

1. Một số gợi ý trong thiết kế giáo án

Ở lớp 10 có một bài về văn bản văn học, được học trong 2 tiết. Mỗi tiết là
một đơn vị kiến thức. Các nội dung chính được học lần lượt là: tiêu chí phân định,
cấu trúc, nội dung, hình thức, mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của văn bản
văn học. Giáo viên tùy vào điều kiện thực tế từng địa phương, đặc điểm của học
14


sinh mà lựa chọn phương pháp dạy hiệu quả. Ở đây chúng tôi chỉ gợi ý một số vấn
đề xoay quanh bài dạy như: hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài và đọc tài liệu, các
thao tác khi lên lớp và hướng dẫn học bài ở nhà. Sau đó, chúng tôi sẽ thiết kế một
tiết học cụ thể
1.1. Mục tiêu cần đạt
Giúp học sinh
- Nắm các tiêu chí chủ yếu của văn bản văn học theo quan niệm ngày nay.
- Nắm các tầng của cấu trúc VBVH và mối quan hệ giữa các tầng đó.
- Nắm các khái niệm về nội dung, hình thức và mối quan hệ giữa nội dung và
hình thức của VBVH.
- Vận dụng những hiểu biết nói trên để tìm hiểu VBVH.
1.2. Phương pháp thực hiện
1.2.1. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà
- Đọc SGK bài “Văn bản văn học”, “Nội dung và hình thức của Văn bản văn
học” và trả lời các câu hỏi phần Hướng dẫn học bài trong SGK
- Tìm đọc một số tài liệu tham khảo, như:
+ Lí luận văn học. Phương Lựu (chủ biên). NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006
+ Một số tác phẩm thơ văn đã học.
1.2.2. Hướng dẫn học sinh đọc tài liệu
- Đọc và ghi lại những kiến thức cần thiết liên quan đến bài học. Ở các tài liệu
Lí luận văn học, đọc tập trung vào các chương viết về:
+ Văn học - nghệ thuật ngôn từ.
+ Bạn đọc - chủ thể tiếp nhận văn học.

+ Tác phẩm như một chỉnh thể trung tâm của hoạt động văn học.
+ Đề tài, chủ đề, tư tưởng của tác phẩm văn học.
- Đọc kĩ các bài “Văn bản văn học”, “Nội dung và hình thức của Văn bản văn
học” trong SGK Ngữ văn 10.
1.3. Lên lớp

15


- Có thể kết hợp nhiều biện pháp, cách thức như đã nêu ở mục 2, phần II. Tuy
nhiên, ở mỗi tiết học, tùy theo kiến thức mà quyết định biện pháp, cách thức phù
hợp.
-

Khi dạy, giáo viên cần phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học

sinh.
1.4. Thiết kế giáo án cụ thể
Tiết 1: Văn bản văn học
A. Mức độ cần đạt
- Nắm được các tiêu chí chủ yếu của một VBVH theo quan niệm ngày nay
- Nắm được cấu trúc của VBVH với tầng ngôn từ, hình tượng, hàm nghĩa
- Vận dụng những hiểu biết nói trên để tìm hiểu tác phẩm văn học.
B. Trọng tâm kiến thức, kĩ năng
1. Kiến thức
- Các tiêu chí chủ yếu của một văn bản văn học
- Cấu trúc của VBVH với các tầng: ngôn từ, hình tượng, hàm nghĩa
2. Kĩ năng
- Phân tích TPVH theo đặc trưng thể loại
- Cảm thụ tác phẩm có chiều sâu

C. Nội dung lên lớp
Hoạt động của GV và HS

Nội dung cần đạt

Hoạt động 1: Tìm hiểu các tiêu chí của I. Tiêu chí chủ yếu của văn bản văn
VBVH

học

GV cho HS quan sát một vài văn bản Ngày nay một văn bản được coi là
sau

VBVH khi:

VB1: Bài ca dao “Thân em…tay ai”

- Phản ánh và khám phá cuộc sống, bồi

VB2: Truyện An Dương Vương và Mị dưỡng tư tưởng và tâm hồn, thỏa mãn
Châu – Trọng Thủy.

nhu cầu thẩm mỹ của con người.

VB3: Chiến thắng Mtao Mxây

- Ngôn từ có nhiều tìm tòi sáng tạo, có

GV hỏi: Các VB trên phản ánh những tính hình tượng, có hàm nghĩa sâu sắc.
vấn đề nào? Em có nhận xét gì về - Được viết theo một thể loại nhất định

16


những vấn đề đó? Để thể hiện những với những quy ước thẩm mỹ riêng:
vấn đề trên, yếu tố hình thức nào quyết truyện, thơ, kịch...
định? Dù các VB đều được xây dựng
bằng yếu tố ngôn từ nhưng giữa các
VB vẫn có sự khác nhau như thế nào?
HS trả lời lần lượt từng câu hỏi. GV
nhận xét, định hướng, trên cơ sở đó GV
chốt lại các tiêu chí chủ yếu của VBVH.
Hoạt động 2: Tìm hiểu cấu trúc VBVH

II. Cấu trúc của văn bản văn học

GV cho HS xét VD sau

1. Tầng ngôn từ- Từ ngữ âm đến ngữ

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn

nghĩa

Bảy nổi ba chìm với nước non

- Tìm hiểu tầng ngôn từ là tìm hiểu về

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

cả ngữ âm và ngữ nghĩa.


Mà em vẫn giữ tấm lòng son”

- Tầng ngôn từ là bước thứ nhất cần

( Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương)

phải vượt qua để đi vào chiều sâu của

GV hỏi: Để hiểu VB trên, em sẽ chú ý văn bản.
những từ ngữ chủ chốt nào? Trong 2. Tầng hình tượng
VB trên, tác giả đã dùng những hình - Hình tượng được sáng tạo trong văn
ảnh nào cùng những tính chất ra sao bản nhờ những chi tiết, cốt truyện, nhân
để nói lên ý của mình? Em có nhận xét vật, hoàn cảnh, tâm trạng...
gì về hình tượng đó? Kết hợp hình - Qua hình tượng, tác giả gửi gắm tình ý
tượng cùng những từ ngữ chủ chốt, với cuộc đời.
em hiểu gì về tâm sự của nhà thơ?

3. Tầng hàm nghĩa

HS làm việc theo nhóm. Sau đó cử đại - Hàm nghĩa là ý nghĩa ẩn kín, ý nghĩa
diện trình bày. GV nhận xét, định hướng tiềm tàng
và đưa ra các kết luận quan trọng về các - Có tìm ra hàm nghĩa mới hiểu ý tình
tầng nghĩa của cấu trúc VBVH.

sâu sắc của nhà văn.

Hoạt động 3: Nhận biết quá trình văn III. Từ văn bản đến tác phẩm văn học
bản trở thành TPVH


- Nhà văn sáng tác ra VBVH nhưng ban

GV hỏi: Khi nào một VB trở thành đầu nó chỉ là một tập giấy có chữ, chưa
17


VBVH?

có sự tác động đến xã hội

HS thảo luận theo nhóm

- Chỉ khi đến với người đọc, các giá trị

GV nhận xét và định hướng

văn học vốn tiềm ẩn trong văn bản sẽ
được người đọc tiếp nhận.
- Với sự trải nghiệm của người đọc, tác
phẩm sẽ tác động đến con người và cuộc
đời.

Hoạt động 4: Kiểm tra và đánh giá

IV. Luyện tập

Chia lớp thành 2 nhóm thảo luận. Nhóm
1 làm bài tập 1/trang 121 SGK, nhóm 2
làm bài tập 3/trang 123 SGK. Sau đó lần
lượt các nhóm trình bày. GV nhận xét

và chốt ý.

Tiết 2: Nội dung và hình thức của Văn bản văn học
A. Mức độ cần đạt
- Nắm được các khái niệm về nội dung và hình thức của VBVH, mối quan hệ
giữa nội dung và hình thức của VBVH.
- Vận dụng những hiểu biết nói trên để tìm hiểu tác phẩm văn học.
B. Trọng tâm kiến thức, kĩ năng
1. Kiến thức
- Các khái niệm về nội dung và hình thức của VBVH
- Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của VBVH.
2. Kĩ năng
- Phân tích TPVH theo đặc trưng thể loại
- Cảm thụ tác phẩm có chiều sâu
C. Nội dung lên lớp
Hoạt động của GV và HS

Nội dung cần đạt

Hoạt động 1: Tìm hiểu về các khái niệm của I. Các khái niệm của nội dung và
18


nội dung và hình thức

hình thức trong văn bản văn học

Hs đọc phần I - SGK.

1. Các khái niệm của nội dung


GV hỏi: Đề tài là gì? Phân tích qua ví dụ cụ a. Đề tài
- Là lĩnh vực đời sống được nhà văn

thể.

HS trả lời cá nhân. GV nhận xét và định nhận thức, lựa chọn, khái quát, bình
hướng.

giá và thể hiện trong văn bản.

- Truyện Kiều: có đề tài là cuộc đời bất hạnh - Đề tài có thể rộng hay hẹp (một
của người tài hoa, người phụ nữ.

con người hay cả xã hội…)

- Lục Vân Tiên: lấy đề tài là người trung
nghĩa.
- Tắt đèn: có đề tài là cuộc sống bi thảm của
người nông dân Việt Nam trước CMTT...
GV nói thêm: Các nhà văn thường lựa chọn
đề tài mình hiểu biết sâu sắc và có cảm hứng
mãnh liệt.
GV hỏi: Em hiểu thế nào là chủ đề? Hãy b. Chủ đề
nêu chủ đề của Truyện Kiều, Chuyện chức - Là vấn đề cơ bản được nêu ra
phán sự đền Tản Viên?

trong văn bản. Nó thể hiện sự quan

HS trả lời cá nhân


tâm cũng như chiều sâu nhận thức

GV định hướng

của nhà văn đối với cuộc sống.

- Truyện Kiều: số phận bất hạnh của con - Tầm quan trọng của chủ đề không
người nhỏ bé trong XH cũ, khát vọng có sự phụ thuộc vào khuôn khổ của văn
công bằng XH, lên án các thế lực tàn bạo con bản.
người, khát vọng hạnh phúc lứa đôi…

- Mỗi văn bản có thể có một hoặc

- Chuyện chức phán sự đền Tản Viên: phản nhiều chủ đề. Có những văn bản đề
ánh các mảng tối trong XH, khát vọng công tài có thể đồng nhất với chủ đề.
lý, đề cao trí thức Việt…
GV hỏi: Thế nào là tư tưởng? Phân tích ví c. Tư tưởng
- Là sự lí giải đối với chủ đề đã nêu

dụ để chứng minh.

- Truyện Kiều: Với chủ đề là số phận bất lên, là nhận thức của tác giả muốn
19


hạnh nổi nênh của người tài tình. Nhà thơ đã trao đổi, nhắn gửi, đối thoại với
vận dụng mọi tư tưởng có thể có trong kho người đọc.
tàng văn hóa đương thời để lí giải vấn đề. - Là linh hồn của văn bản.
Trước hết, Nguyễn Du hiểu người tài tình là

người có lí tưởng, có tài sắc, biết khinh
trọng, hiếu nghĩa, vị tha… Những người như
vậy thường có số phận bất hạnh, vì theo tác
giả, xã hội luôn tồn tại quy luật “tạo vật đố
tài”, luật thừa trừ của tạo hóa, hồng nhan bạc
phận… Đi sâu vào tác phẩm, ta lại thấy
nguyên nhân đích thực và đối tượng trực tiếp
hãm hại người tài: lái buôn và quan lại, hai
thế lực chủ yếu trong xã hội phong kiến suy
tàn. Lái buôn biến họ thành món hàng, quan
lại biến họ thành phương tiện. Đó cũng chính
là “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”
của Nguyễn Du.
- Chinh phụ ngâm: Với đề tài người chinh
phụ, chủ đề nói về nỗi niềm khát khao hạnh
phúc, tác giả đã xuất phát từ sự đồng cảm, sẻ
chia với tâm trạng mong chờ của người chinh
phụ, đồng thời kín đáo lên án chiến tranh phi
nghĩa.
GV: Cảm hứng nghệ thuật là gì? Phân tích d. Cảm hứng nghệ thuật
cảm hứng đó trong bài thơ “Tùng” của - Là nội dung tình cảm chủ đạo của
văn bản.

Nguyễn Trãi.

“Tùng” của Nguyễn Trãi đâu phải chỉ là hình - Qua cảm hứng nghệ thuật, người
ảnh cây tùng với các đặc điểm về mặt chịu đọc cảm nhận được tư tưởng, tình
rét, vật liệu và dược liệu, đâu phải chỉ là cảm của tác giả nêu lên trong văn
tượng trưng cho phẩm chất, lí tưởng của bản.
20



người quân tử. “Tùng” trước hết là một nhiệt
tình tự khẳng định phẩm giá, tài năng, công
lao của người anh hùng kinh bang tế thế. Bài
thơ chủ yếu tồn tại các câu mang tính khẳng
định. Cảm hứng đó chính là linh hồn của bài
thơ.
GV tổng kết và nhấn mạnh: Giữa đề tài, chủ
đề, tư tưởng và cảm hứng nghệ thụât có mối
liên hệ mật thiết với nhau, bổ sung làm nổi
bật nhau. Chúng thể hiện một cách thống
nhất trong văn bản. Người đọc phải đọc kĩ để
hiểu.
Trong các yếu tố nội dung thì 2 yếu tố tư
tưởng và cảm hứng nghệ thuật là quan trọng
nhất.
HS đọc văn bản.

2. Các khái niệm hình thức

GV hỏi: Ngôn từ giữ vai trò như thế nào a. Ngôn từ
trong VBVH? Tại sao cùng chất liệu ngôn - Ngôn từ hiện diện trong câu, trong
từ, mỗi VBVH lại mang những đặc trưng hình ảnh, trong giọng điệu của văn
bản.

khác nhau? Cho VD.

HS trả lời cá nhân. GV định hướng và phân - Ngôn từ thể hiện cá tính sáng tạo
tích VD.


của nhà văn.

GV hỏi: Phân tích tầm quan trọng của kết b. Kết cấu
cấu? Phân tích VD cụ thể.

- Là sự sắp xếp, tổ chức các thành tố

HS trả lời cá nhân. GV định hướng

của văn bản thành một đơn vị thống

GV nói thêm: Cần phân biệt bố cục và kết nhất, hoàn chỉnh, có ý nghĩa.
cấu.

- Kết cấu hàm chứa dụng ý của tác

Bố cục là biểu hiện bên ngoài của kết cấu: giả sao cho phù hợp với nội dung
chương, đoạn…

văn bản.
- Có nhiều kiểu kết cấu: kết cấu
21


theo thời gian, không gian, tâm lý…
GV hỏi: Kể tên các thể loại văn học mà em c. Thể loại
- Là những quy tắc tổ chức hình

biết? Thế nào là thể loại?


HS trả lời cá nhân. GV định hướng và phân thức văn bản thích hợp với nội dung
tích.

văn bản: thơ, tiểu thuyết, kịch…

GV nói thêm: Nội dung và hình thức của một - Thể loại cũng biến đổi theo thời
văn bản văn học là hai mặt không thể chia đại và mang màu sắc riêng của tác
tách. Nội dung chỉ có thể tồn tại trong một giả.
hình thức nhất định. Và bất kì hình thức nào
cũng mang một nội dung.
Hoạt động 2: Tìm hiểu về ý nghĩa quan II. Ý nghĩa quan trọng của nội
trọng của nội dung và hình thức

dung và hình thức

Hs đọc phần II.

- Sự kết hợp hài hòa nội dung và

GV hỏi: Thế nào là một tác phẩm văn học hình thức làm nên sự hoàn mĩ của
có giá trị? Nội dung và hình thức có ý văn bản văn học.
nghĩa thế nào đối với văn bản văn học?

- Những tác phẩm ưu tú là những

HS trả lời cá nhân. GV định hướng

tác phẩm đạt được sự thống nhất


GV nói thêm: Nội dung có giá trị là nội dung giữa nội dung và hình thức.
mang tư tưởng nhân văn sâu sắc. Hình thức
có giá trị là hình thức phù hợp với nội dung
mới mẻ, hấp dẫn, có tính nghệ thuật cao. Nếu
tác phẩm nghiêng về hình thức thì tác phẩm
nghèo nàn, nghiêng về nội dung thì tác phẩm
khô khan…
Hoạt động 3: Luyện tập

III. Luyện tập

HS làm việc theo nhóm với gợi dẫn của GV.

Bài tập 2/130

Sau đó các nhóm trình bày kết quả. GV nhận
xét và định hướng

22


2. Một số đề bài luyện tập
2.1 Vẻ đẹp bài thơ “Thời gian” của Văn Cao
2.2 Phân tích nội dung tư tưởng Truyện Kiều của Nguyễn Du
2.3 Vẻ đẹp ngôn ngữ trong đoạn trích Trao duyên
2.4 Sự đồng cảm của Nguyễn Du đối với nàng Kiều trong đoạn trích Trao duyên
2.5 Những sáng tạo độc đáo trong bản dịch Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm
so với nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn.
III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
Hầu hết HS đều nhận diện được văn bản văn học từ góc độ đặc trưng của

loại văn bản đó. Đồng thời, đứng trước một văn bản văn học hoàn toàn mới, HS có
ý thức xuất phát từ ngôn từ, hình tượng để phân tích, cảm nhận và nắm được hàm
nghĩa sâu xa mà văn bản chứa đựng. Điều quan trọng hơn, HS đã không còn tiếp
cận văn bản văn học một cách phiến diện, sơ sài nữa mà đã biết quan tâm đến hai
mặt trong một chỉnh thể là nội dung và hình thức. Với cách nhìn nhận từ các
phương diện cấu thành, HS đã khám phá được vẻ đẹp của một tác phẩm văn học
thật trọn vẹn và thuyết phục.
Phần phụ lục của chuyên đề, chúng tôi sẽ cung cấp một số bài cảm nhận hay
của HS mà chúng tôi đã có dịp kiểm tra sau các bài học. Giọng văn chưa thực sự
trưởng thành nhưng đây là những bước đầu cần ghi nhận để trên cơ sở đó giúp các
em hình thành những thói quen tốt trong quá trình học môn Ngữ văn.
IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lí luận văn học. Phương Lựu (chủ biên). NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006
2. Một số tác phẩm thơ văn đã học.

23


PHỤ LỤC 1
PHIẾU THĂM DÒ
(Về thực trạng học Lí luận văn học ở HS khối lớp 11)
Khoanh tròn vào đáp án mà em cho là đúng
Câu 1: Em hiểu Lí luận văn học là gì?
A. Một bộ môn khoa học nghiên cứu về văn học
B. Một bộ phận cấu thành nên văn học
C. Một cơ sở để tìm hiểu về văn học
Câu 2: Em đã học những bài Lí luận văn học nào ở lớp 10?
A. Văn bản văn học; Quá trình văn học và phong cách văn học
B. Nội dung và hình thức của VBVH; Giá trị văn học và tiếp nhận văn học

C. Văn bản văn học; Nội dung và hình thức của văn bản văn học
D. Một số thể loại văn học; Văn bản văn học
Câu 3: Kiến thức Lí luận văn học đem lại cho em những lợi ích gì?
A. Làm bài viết thêm phong phú, sâu sắc
B. Nâng cao năng lực diễn đạt
C. Biết phát hiện vấn đề
D. Biết cách tiếp cận tác phẩm
Câu 4: Trong quá trình học Lí luận văn học, em cảm thấy như thế nào?
A. Hứng thú
B. Nhàm chán
C. Khó hiểu
D. Mơ hồ
Câu 5: Theo em thế nào là Văn bản văn học?
A. Phản ánh và khám phá cuộc sống, bồi dưỡng tư tưởng và tâm hồn, thỏa mãn
nhu cầu thẩm mỹ của con người.
B. Ngôn từ có nhiều tìm tòi sáng tạo, có tính hình tượng, có hàm nghĩa sâu sắc.
C. Được viết theo một thể loại nhất định với những quy ước thẩm mỹ riêng:
truyện, thơ, kịch...

24


Câu 6: Theo em, văn bản “Đại cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi có phải là văn
bản văn học không? Tại sao?
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
....................................................................................................................................


25


×