Tải bản đầy đủ (.doc) (140 trang)

Đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc thông tấn xã việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.08 KB, 140 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hòa nhập với xu hướng chuyển sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ trương xã hội hóa dịch vụ công,
các đơn vị sự nghiệp ở Việt nam không còn đơn thuần thực hiện chỉ
tiêu kế hoạch Nhà nước giao mà còn tự tổ chức cung ứng dịch vụ
cho xã hội. Nguồn tài chính của các đơn vị này không chỉ do ngân
sách nhà nước cấp mà từng đơn vị đều khai thác thêm các nguồn thu
từ hoạt động dịch vụ cho xã hội. Trong những năm gần đây, số thu từ
hoạt động cung ứng dịch vụ không chỉ là nguồn thu bổ sung mà còn
chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng nguồn kinh phí của đơn vị.
Tuy nhiên, nhiều đơn vị sự nghiệp vẫn còn lúng túng trong việc quản
lý và sử dụng nguồn vốn này. Gần đây, Chính phủ đã ra Nghị định
10/2002/NĐ-CP ngày 16.1.2002 về chế độ tài chớnh ỏp dụng cho đơn
vị sự nghiệp có thu, trong đó đã quy định tạm thời quy chế quản lý tài
chính các đơn vị sự nghiệp theo hướng tự chủ, nhưng trên thực tế
việc triển khai Nghị định này còn gặp không ít khó khăn.
Thông tấn xã Việt nam (TTXVN), với tư cách là một đơn vị
sự nghiệp, cũng nằm trong tình trạng như thế. Mặc dù trong những
năm vừa qua, công tác quản lý tài chính của TTXVN đã đạt được
một số kết quả nhất định, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đề ra,
song cơ chế quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp của TTXVN
hiện cũng bộc lộ những hạn chế, khiếm khuyết. Để góp phần làm
cho công tác quản lý tài chính của TTXVN ngày càng tốt hơn, phù


2
hợp hơn với tiến trình đổi mới của đất nước trong điều kiện hội
nhập kinh tế thế giới và khu vực, đề tài: “Đổi mới quản lý tài chính
ở các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông tấn xã Việt Nam” được chọn


làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chuyển các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước sang hoạt động
theo cơ chế quản lý phù hợp với kinh tế thị trường là lĩnh vực vấp
phải nhiều lúng túng ở nước ta. Mặc dù từ đầu những năm 90 Đảng
và Nhà nước ta đã có chủ trương xã hội hóa một phần các dịch vụ
công của Nhà nước, nhưng quá trình xã hội hóa diễn ra chậm chạp.
Gần đây, với việc ban hành Nghị định số10/ 2002/CP Nhà nước ta
đã thể hiện quyết tâm đổi mới trong quản lý các đơn vị hành chính,
sự nghiệp. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này
còn rất ít, mới chỉ có một số công trình đề cập đến ba góc độ sau:
* Bàn về chủ trương xã hội hóa các dịch vụ công của nhà
nước. Điển hình cho các công trình nghiên cứu này là:
+ Mở rộng hơn nữa quyền tự chủ đối với các ĐVSN (Huỳnh
Thị Nhân, Tạp chí tài chính số 1 năm 2005)
+ Mở rộng quyền chủ động tài chính cho các đơn vị sử dụng
ngân sách (Vĩnh Sang, Tạp chí Tài chính số 8 năm 2005)
+ Cơ chế tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu,
(http://WWW. caicachhanhchinh.gov.vn, ngày 14/10/2004)
+ Cơ chế khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính thu
(http://WWW. caicachhanhchinh.gov.vn, ngày 14/10/2004).


3
*Quá trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các đơn vị
sự nghiệp đã được thực hiện trong một số năm gần đây. Tuy nhiên,
các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này còn ít, mới chỉ có một số
bài phân tích, bình luận trên tạp chí, một số luận văn, luận án nghiên
cứu về quản lý tài chính. Chẳng hạn như:
+ Thủ trưởng đơn vị được quyền tự chủ về kinh phí quản lý

hành chính (Báo Đầu Tư ra ngày 20/03/2006)
+ Một số vấn đề về đổi mới lĩnh vực sự nghiệp (Đỗ Quốc Sam,
http:// WWW.irv.moi.gov.vn, ngày 2/03/2006).
+ Trao quyền tự chủ rộng hơn cho đơn vị sự nghiệp (Phỏng
vấn ông Huỳnh Quang Hải, Vụ trưởng Vụ hành chính sự nghiệp, Bộ
Tài chính, , ngày 09/03/2006)
+ Hội thảo “ Chương trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính
đối với các cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công
giai đoạn 2004-2005” Bộ Tài chính phối hợp với Dự án VIE
01/024/B-Bộ Nội vụ tổ chức với các Bộ ngành Trung ương và các
địa phương ()
+ Mỗi năm chuyển khoảng 20% - 25% số đơn vị sự nghiệp
sang tự chủ tài chính (Xuân Quang, )
Các công trình này chủ yếu bình luận về tính đúng đắn của
chủ trương xã hội hóa trên các mặt tăng quy mô và chủng loại dịch
vụ, nhất là dịch vụ y tế và giáo dục, tăng ý thức trách nhiệm của
công dân và các đơn vị trong cung cấp, lựa chọn, kiểm soát và trả


4
phí theo chất lượng dịch vụ, tăng tính cạnh tranh và sức ép buộc các
đơn vị sự nghiệp của Nhà nước phải cải thiện hoạt động của mình.. .
Một số công trình cũng phân tích những yếu kém khi triển khai thực
hiện chủ trương xã hội hóa dịch vụ công.
*Bàn về thực trạng đổi mới cơ chế quản lý, nhất là đổi mới cơ
chế quản lý tài chính, ở các đơn vị sự nghiệp của nhà nước theo
hướng mở rộng quyền tự chủ tài chính cho cơ sở. Có thể kể ra một
số công trình đã công bố về lĩnh vực này như:
- Luận văn thạc sĩ của Hoàng Ngọc Tuấn về đề tài: “Một số giải
pháp nhằm hoàn thiện quá trình quản lý tài chính tại Trung tâm dịch

vụ báo chí Hà Nội”.
- Luận án tiến sỹ của Đặng Minh Hiền về đề tài: “ Một số giải
pháp quản lý tài chính ở các Bệnh viện công Việt Nam”.
- Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thu Thảo về đề tài: “ Hoàn
thiện cơ chế tự chủ tài chính đối với ĐVSN có thu tại Viện khoa học
Thủy Lợi”.
Trong khuôn khổ quản lý tài chính của TTXVN, cũng đã có
một số công trình nghiên cứu nhưng mang tính kỹ thuật và báo chí.
Riêng nghiên cứu về đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự
nghiệp thuộc TTXVN hiện vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách hệ thống.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


5
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: là đổi mới quản lý tài
chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN. Vì TTXVN là một đơn
vị sự nghiệp thuộc sở hữu của Nhà nước, trong nó lại bao gồm
nhiều đơn vị trực thuộc, nên đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị
sự nghiệp thuộc TTXVN bao hàm nhiều nội dung phức tạp như đổi
mới quản lý tài chính của Nhà nước với tư cách chủ sở hữu đối với
TTXVN, đổi mới quản lý tài chính của Văn phòng TTXVN đối với
đơn vị trực thuộc và đổi mới quản lý tài chính của từng đơn vị trực
thuộc TTXVN … Do khuôn khổ hạn chế nên luận văn chỉ tập trung
nghiên cứu quản lý tài chính của Văn phòng TTXVN và của đơn vị
trực thuộc. Cơ chế, chế độ quản lý tài chính của Nhà nước đối với
TTXVN được giới hạn trong các văn bản có giá trị thi hành hiện
nay.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ khảo sát các đơn vị trong
nước của TTXVN, không đề cập đến quản lý tài chính các đại diện

ở nước ngoài. Thời gian khảo sát chủ yếu tập trung trong giai đoạn
5 năm trước và sau năm 2006.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của
quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN, trên cơ sở
đó đề xuất một số giải pháp đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị
sự nghiệp của TTXVN trong thời gian tới.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:


6
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận của quản lý tài chính ở các đơn vị
sự nghiệp thuộc TTXVN.
- Phân tích thực trạng quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp
thuộc TTXVN.
- Đề xuất giải pháp đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự
nghiệp thuộc TTXVN trong thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu kinh tế phổ
biến như phương pháp phân tích, tổng hợp dựa trên các số liệu
thống kê có sẵn và tự điều tra, kết hợp với so sánh, hệ thống hóa,
mô hình hóa nhằm rút ra các kết luận và đề xuất cần thiết.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý thuyết về quản lý tài chính ở
các đơn vị sự nghiệp phù hợp với điều kiện xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Đưa ra được bức tranh về thực trạng quản lý tài chính ở các
đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN trên cơ sở chế độ quản lý của Nhà
nước hiện hành.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới quản lý tài

chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN trong thời gian tới.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết.


7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUẢN LÝ
TÀI CHÍNH Ở CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN QUẢN LÝ
TÀI CHÍNH Ở CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP
1.1.1. Hoạt động sự nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm hoạt động sự nghiệp
Trong xã hội, con người tạo ra và tham gia vào nhiều hoạt
động khác nhau như sản xuất ra của cải để nuôi sống mình, tự nhận
thức thế giới và giáo dục cho thế hệ sau những tri thức và kỹ năng
mình đã tích lũy được, nghiên cứu và tìm cách chữa bệnh cho mình,
rèn luyện thể lực và giải trí…Các Mác, và sau này là các học trò và
người kế tục Người, đã quan niệm xã hội gồm nhiều tầng cấu trúc,
trong đó quá trình tạo ra của cải vật chất là cơ sở hạ tầng, bên trên
nó là kiến trúc thượng tầng chính trị, văn hóa, nghệ thuật, khoa học,
tinh thần…Khi xây dựng mô hình xã hội chủ nghĩa hiện thực, các lý
luận gia của các nước xã hội chủ nghĩa đã coi các hoạt động sản
xuất là hoạt động kinh tế, các hoạt động của bộ máy nhà nước là
hành chính và các hoạt động giáo dục, nghiên cứu, y tế, văn hóa,
nghệ thuật là hoạt động sự nghiệp. Hơn nữa, trong mô hình kinh tế
xã hội chủ nghĩa thời bao cấp, ngoài các cơ sở sản xuất và thương
mại quốc doanh bao trùm quá trình tái sản xuất xã hội, Nhà nước



8
còn thành lập các cơ sở cung cấp dịch vụ giáo dục, y tế, nghiên
cứu…Để phân biệt chức năng và cơ chế hoạt động của các loại hình
đơn vị cơ sở như thế, Nhà nước gọi các hoạt động sản xuất và
thương mại là hoạt động kinh tế, các hoạt động nghiên cứu, giáo
dục, y tế, thể dục thể thao, nghệ thuật… là các hoạt động sự nghiệp.
Từ đó cho đến nay thuật ngữ hoạt động sự nghiệp được sử dụng
thường xuyên trong các văn bản pháp lý về quản lý của Nhà nước.
Tuy nhiên, về mặt lý luận, chưa có công trình nào đưa ra định nghĩa
về hoạt động sự nghiệp.
Theo chúng tôi, hoạt động sự nghiệp là những hoạt động do
Nhà nước thực hiện nhằm cung cấp những dịch vụ có lợi ích chung
và lâu dài cho cộng đồng xã hội. Hoạt động sự nghiệp không trực
tiếp tham gia vào quá trình tái sản xuất ra của cải vật chất, nhưng nó
tác động đến lực lượng sản xuất và xã hội thông qua việc nâng cao
trình độ học vấn và kỹ năng lao động cho nhân dân, cải thiện chất
lượng sống của con người, duy trì, bảo tồn và phát triển các giá trị
văn hóa, nghệ thuật, tinh thần của dân tộc, phát triển khoa học…
Kết quả hoạt động sự nghiệp ảnh hưởng đến không chỉ phát triển
kinh tế mà còn đến sự phát triển xã hội và đất nước.
1.1.1.2. Đặc điểm hoạt động sự nghiệp
Hoạt động sự nghiệp có những đặc trưng cơ bản sau:


9
Thứ nhất, hoạt động sự nghiệp có xu hướng cung cấp các loại
hàng hóa, dịch vụ có tính chất của hàng hóa công cộng hoặc hàng
hóa khuyến dụng.
Kết quả của hoạt động sự nghiệp chủ yếu là học vấn, kỹ năng

lao động của nhân dân, các giá trị văn hóa, khoa học, nghệ thuật khó
đánh giá được giá trị kinh tế bằng tiền, nhưng có ý nghĩa tăng hiệu
quả kinh tế xã hội chung, tăng năng lực sản xuất của quốc gia, tăng
chất lượng sống của nhân dân, tăng phúc lợi xã hội, tạo hiệu ứng
tích cực cho các lĩnh vực khác, lợi ích đem lại không chỉ cho người
hưởng thụ trực tiếp mà còn cho những người khác …. Nhiều sản
phẩm của các đơn vị sự nghiệp có giá trị sử dụng tăng thêm khi tăng
người sử dụng mà không tăng chi phí như phát thanh, truyền hình…
Theo ý kiến của nhà kinh tế được giải thưởng Nôben J. Stieglits,
nhà nước cung cấp hàng hóa công cộng sẽ có lợi hơn tư nhân [14,
tr.170-173].
Hơn nữa, trong xã hội hiện đại, để đảm bảo công bằng và tiến
bộ xã hội, Nhà nước nên cung cấp nhiều hàng hóa công cộng. Bởi
vì, nhờ sử dụng những hàng hóa công cộng do hoạt động sự nghiệp
tạo ra mà quá trình sản xuất của cải vật chất được thuận lợi và
ngày càng đạt hiệu quả cao hơn. Hoạt động sự nghiệp giáo dục,
đào tạo, y tế, thể dục thể thao đem đến tri thức và bảo đảm sức
khỏe cho lực lượng lao động, tạo điều kiện cho lao động có chất
lượng ngày càng tốt hơn; hoạt động sự nghiệp khoa học, văn hóa
thông tin mang lại những hiểu biết của con người về tự nhiên, xã


10
hội, tạo ra những công nghệ mới phục vụ sản xuất và đời sống...
Nếu không có sự cung cấp của Nhà nước, nhiều người không có
cơ hội hưởng thụ những loại hàng hóa, dịch vụ đó.
Thứ hai, hoạt động sự nghiệp không nhằm mục đích thu lợi
nhuận trực tiếp.
Trong nền kinh tế thị trường, một số sản phẩm, dịch vụ do
hoạt động sự nghiệp tạo ra có thể trở thành hàng hóa đem lại thu

nhập cho đơn vị cung cấp. Song do nhiều nguyên nhân, chẳng hạn
như nếu trao đổi theo nguyên tắc thị trường thì nhiều người không
có khả năng tiêu dùng hoặc không khuyến khích tiêu dùng đủ
mức…, trong khi đó mở rộng tối đa sự tiêu dùng các loại hàng hóa
đó có ý nghĩa vừa làm tăng năng lực sản xuất của đất nước, vừa có
giá trị tiến bộ và công bằng. Chính vì thế, Nhà nước cần tổ chức
cung ứng hoặc duy trì các tài trợ để các hoạt động sự nghiệp cung
cấp những sản phẩm, dịch vụ không thu tiền hoặc thu tiền chỉ để
hoàn một phần chi phí, không nhằm thu lợi nhuận. Ngoài ra, khi
cung cấp các dịch vụ sự nghiệp không theo nguyên tắc thương mại
bình thường, Nhà nước hướng đến mục tiêu phân phối lại thu nhập
và tăng phúc lợi công cộng.
Tuy nhiên, xét về mặt quản lý vi mô, Nhà nước mong muốn
các đơn vị cung cấp hàng hóa, dịch vụ sự nghiệp phải hoạt động có
hiệu quả, có nghĩa là hoạt động với chi phí tối thiểu. Do đó, các biện
pháp khoán kinh phí hay buộc các đơn vị sự nghiệp phải hạch toán


11
thu chi không phải là giải pháp tăng thu lợi nhuận như các biện pháp
quản lý doanh nghiệp, mà đơn thuần chỉ là giải pháp quản lý khuyến
khích đơn vị sự nghiệp chủ động phát huy hết mọi năng lực của
mình để tiết kiệm chi phí.
Thứ ba, hoạt động sự nghiệp luôn gắn liền và bị chi phối bởi
các chương trình phát triển kinh tế xã hội và ngân sách của Nhà
nước.
Trong kinh tế thị trường, các hoạt động sự nghiệp cũng là
công cụ để Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã
hội, nhất là các chương trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng, chương
trình dân số, kế hoạch hóa gia đình, chương trình phát triển giáo

dục, chương trình phát triển văn hóa... Những chương trình mục tiêu
quốc gia chi phối hoạt động sự nghiệp nằm trong tổng thể chiến
lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Hơn nữa, nhu cầu về các sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp của xã
hội thì nhiều vô hạn, trong khi đó nguồn tài chính của Nhà nước
giành cho các hoạt động này lại bị hạn chế bởi ngân sách nhà nước
cũng như mối quan hệ với các nhu cầu chi tiêu khác của Nhà nước.
Chính vì thế, cung sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp luôn thấp hơn nhu
cầu và việc xác định phải cung cấp các loại sản phẩm, dịch vụ sự
nghiệp với quy mô bao nhiêu luôn là vấn đề hóc búa của các Nhà
nước.
Thứ tư, sản phẩm của các hoạt động sự nghiệp có tính ích lợi
chung và lâu dài.


12
Sản phẩm, dịch vụ do hoạt động sự nghiệp tạo ra chủ yếu là
những giá trị về tri thức, văn hóa, phát minh, sức khỏe, đạo đức, các
giá trị về xã hội... Đây là những sản phẩm thường mang lại lợi ích cho
nhiều người, cho nhiều đối tượng trên phạm vi rộng. Nhiều sản phẩm
sự nghiệp có tác dụng lâu dài như các phát minh khoa học, các giá trị
văn hóa, trình độ học vấn, kỹ năng lao động…
Nhìn chung, đại bộ phận các sản phẩm do hoạt động sự nghiệp
tạo ra là sản phẩm có tính phục vụ không chỉ bó hẹp trong một
ngành hoặc một lĩnh vực nhất định, những sản phẩm đó khi tiêu
dùng thường có tác dụng lan toả và vựcđược sử dụng đi, sử dụng lại
nhiều lần.
1.1.1.3. Phân loại hoạt động sự nghiệp
Hoạt động sự nghiệp trong xã hội rất đa dạng, phong phú và
có thể phân loại chúng theo nhiều tiêu thức khác nhau.

- Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động, các hoạt động sự nghiệp được
chia thành:
+ Sự nghiệp kinh tế: Là hoạt động sự nghiệp nhằm phục vụ
trực tiếp hoặc gián tiếp cho yêu cầu sản xuất kinh doanh, đảm bảo
cho các ngành kinh tế hoạt động bình thường, thuận lợi.
+ Sự nghiệp văn hóa xã hội (gọi tắt là sự nghiệp văn xã): Là
các hoạt động phục vụ cho các yêu cầu phát triển của xã hội về văn
hóa, sức khỏe và các nhu cầu về đời sống tinh thần của nhân dân.
- Căn cứ vào đặc điểm nguồn tài chính đảm bảo cho hoạt động
sự nghiệp, hoạt động sự nghiệp được chia thành:


13
+ Hoạt động sự nghiệp không có thu: Là hoạt động do Nhà
nước đảm bảo hoàn toàn nhu cầu tài chính. Những hoạt động này
thường là những hoạt động cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho xã
hội, phạm vi tiêu dùng rộng rãi và chỉ có Nhà nước mới có thể thực
hiện một cách hiệu quả nhất. Thuộc về những hoạt động này gồm có
các hoạt động về văn hóa tuyên truyền, giáo dục tiểu học, đào tạo,
khoa học, y tế cho người nghèo, đảm bảo xã hội,...
+ Hoạt động sự nghiệp có thu: Là những hoạt động mà nguồn
tài chính đảm bảo vừa do Nhà nước cung cấp, vừa do người tiêu
dùng đóng góp một phần dưới dạng phí, lệ phí. Những hoạt động
này thường là những hoạt động cung cấp các dịch vụ có tác động
trực tiếp đến quá trình sản xuất và đời sống mà người tiêu dùng có
thể trả tiền do họ thấy ngay hiệu quả sử dụng dịch vụ, hoặc là họ
muốn nhận được những dịch vụ có phí phân biệt theo chất lượng.
- Căn cứ vào tính chất hoạt động của chúng, hoạt động sự
nghiệp được chia thành:
+ Hoạt động sự nghiệp thường xuyên: Là những hoạt động

được tổ chức và duy trì hoạt động liên tục và xã hội luôn luôn có
nhu cầu tiêu dùng sản phẩm dịch vụ của nó, bất luận điều kiện kinh
tế xã hội trong từng giai đoạn như thế nào. Thuộc về hoạt động sự
nghiệp thường xuyên là các hoạt động về giáo dục tiểu học, đào tạo,
khoa học, y tế, văn hóa …


14
+ Hoạt động sự nghiệp không thường xuyên: Là những hoạt
động sự nghiệp để thực hiện các chương trình cụ thể của Nhà nước
trong một giai đoạn nhất định.
1.1.1.4. Vai trò của hoạt động sự nghiệp trong nền kinh tế
thị trường
Trong thời đại ngày nay, một nước giầu hay nghèo, lạc hậu
hay phát triển không phải chỉ phụ thuộc vào khối lượng hàng hóa tư
nhân mà người dân có được do trao đổi trên thị trường, mà còn phụ
thuộc vào khối lượng phúc lợi xã hội mà họ được hưởng, trong đó
có các sản phẩm, dịch vụ do hoạt động sự nghiệp cung cấp. Hơn
nữa, tiềm năng phát triển nhanh hay chậm trong tương lai của một
nước không những do số lượng lao động, tài nguyên thiên nhiên và
vốn đã tích lũy được quyết định, mà chủ yếu là do khả năng phát
huy tiềm năng sáng tạo của con người chi phối. Tiềm năng sáng tạo
này nằm trong các yếu tố cấu thành con người về trình độ văn hóa,
tri thức khoa học, thể lực, tâm hồn, đạo đức lối sống, thị hiếu, thẩm
mỹ, giao tiếp của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng… Đa phần yếu
tố cấu thành tiềm năng sáng tạo của con người do hoạt động sự
nghiệp cung cấp trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Hoạt động sự nghiệp là động lực to lớn giúp dân tộc bảo tồn
và phát triển văn hóa, truyền thống, các giá trị đạo đức… Nghị
quyết Đại hội toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X đã



15
khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội” [13].
Hoạt động sự nghiệp đóng vai trò động lực cải cách, đổi mới,
phát triển giáo dục - đào tạo. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4
(khóa VII) và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 (khóa VIII) của
Đảng ta đã khẳng định quan điểm khoa học công nghệ cùng với
giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu trong phát triển đất nước.
Thể dục - thể thao là một bộ phận quan trọng trong chính sách
phát triển khoa học xã hội của Đảng và Nhà nước ta nhằm bồi
dưỡng và phát huy nhân tố con người, góp phần tích cực nâng cao
sức khoẻ, thể lực, giáo dục nhânnhân cách, đạo đức lối sống lành
mạnh, làm phong phú đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân,
nâng cao năng suất lao động xã hội và sức chiến đấu của các lực
lượng vũ trang. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa VII) của
Đảng ta đã khẳng định “Sức khỏe là vốn quý của mỗi con người và
của toàn xã hội, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc” [11]. Hoạt động sự nghiệp có vai trò quan trọng
trong lĩnh vực này.
1.1.2. Đơn vị sự nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm đơn vị sự nghiệp ở Việt Nam
Trong nền kinh tế-xã hội, để thực hiện các hoạt động sự
nghiệp cần có các tổ chức tiến hành các hoạt động đó, các tổ chức
này được gọi là đơn vị sự nghiệp (ĐVSN). Tuy nhiên, theo ngôn ngữ


16
quen dùng ở Việt Nam, ĐVSN thường phải là các cơ quan của Nhà

nước.
“Chương trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ
quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công giai đoạn 20042005”, ban hành theo Quyết định số 08/2004/QĐ-TTg ngày
15/01/2004 của Thủ tướng Chính phủ đã xác định: ĐVSN là một
loại hình đơn vị được Nhà nước ra quyết định thành lập, thực hiện
nhiệm vụ chuyên môn nhất định nhằm thực hiện các mục tiêu kinh
tế - xã hội do Nhà nước giao trên lĩnh vực quản lý, thực hiện các
hoạt động sự nghiệp. Đó là đơn vị thuộc sở hữu nhà nước, hoạt
động trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, văn hóa, thông tin,
nghiên cứu khoa học, y tế,... không theo nguyên tắc hạch toán kinh
doanh [24].
ĐVSN thuộc khu vực phi lợi nhuận, sự chi tiêu của các đơn vị
này, theo con mắt của các nhà quản lý tài chính nhà nước, mất đi,
không thu hồi lại được vốn gốc, mặc dù các đơn vị này vẫn tính
khấu hao tài sản cố định. Trong quá trình hoạt động, các ĐVSN
được Nhà nước trang trải kinh phí đáp ứng nhu cầu chi tiêu từ ngân
sách nhà nước hoặc được bổ sung từ các nguồn khác.
Đặc điểm hoạt động của các ĐVSN là rất đa dạng, bắt nguồn
từ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và vai trò của Nhà nước trong
nền kinh tế thị trường. Mục đích hoạt động của các ĐVSN là phục
vụ lợi ích cộng đồng, xã hội, đất nước. Trong quá trình cung cấp
hàng hóa và dịch vụ công cho xã hội, các ĐVSN được phép tạo lập
nguồn thu nhập nhất định thông qua các khoản thu phí và các khoản


17
thu từ cung ứng dịch vụ do Nhà nước quy định để trang trải các
khoản chi tiêu. Quản lý tài chính ĐVSN phải tuân thủ theo những
quy định pháp lý của Nhà nước. Tùy theo đặc điểm tạo lập nguồn
thu của các ĐVSN, Nhà nước áp dụng cơ chế tài chính thích hợp để

các ĐVSN thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Phù hợp
với xu hướng cải cách khu vực công trong bối cảnh hội nhập, Nhà
nước thực hiện chính sách đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với
các ĐVSN theo hướng nâng cao quyền tự chủ tài chính nhằm nâng
cao chất lượng dịch vụ công phục vụ xã hội.
ĐVSN có những đặc điểm khác với cơ quan hành chính. Cơ
quan hành chính là những tổ chức cung cấp trực tiếp các dịch vụ
hành chính công cho người dân khi thực hiện chức năng quản lý
Nhà nước của mình. Các dịch vụ hành chính công được cung cấp
theo luật định, với chất lượng đồng nhất cho mọi người tiêu dùng và
được chi trả trực tiếp bằng ngân sách nhà nước. Dịch vụ hành chính
công là chức năng của cơ quan hành chính Nhà nước, là trách nhiệm
và nghĩa vụ của bộ máy Nhà nước với nhân dân và chỉ có Nhà nước
(chứ không có một tổ chức tư nhân nào khác) có đủ thẩm quyền
thực hiện chức năng đó. Nhà nước với tư cách là một tổ chức công
quyền phải có nghĩa vụ cung cấp các dịch vụ này cho nhân dân, còn
người dân có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước dưới hình thức thuế.
Như vậy, quan hệ trao đổi các dịch vụ hành chính công không phản
ánh quan hệ thị trường, mà phản ánh quan hệ nghĩa vụ của Nhà
nước và phương tiện thực hiện nghĩa vụ do xã hội công dân cung


18
cấp. Người sử dụng dịch vụ có thể trả một phần hoặc không phải trả
tiền cho việc sử dụng dịch vụ đó, nhưng phải đóng thuế để chi trả
cho chúng. Chính vì vậy cơ quan hành chính chỉ được tự chủ tài
chính trong phần kinh phí ngân sách nhà nước cấp (cơ chế khoán
chi), không được tự do mở rộng dịch vụ và nguồn thu. Dịch vụ và
nguồn thu là cố định theo luật.Trong khi đó, dịch vụ của ĐVSN
cung ứng có thể cạnh tranh với khu vực tư nhân và cung ứng theo

nhu cầu nên các đơn vị này được phép khai thác và mở rộng nguồn
thu từ các hoạt động sự nghiệp của mình. Đặc điểm khác biệt này
cho phép ĐVSN có thể hoạt động theo nguyên tắc tự chủ tài chính.
ĐVSN có những điểm khác với loại hình doanh nghiệp. Trong
kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tuân thủ nguyên tắc hạch toán
kinh doanh, hướng tới mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận bằng cách tự bù đắp
đủ chi phí và có lãi. Doanh nghiệp phải hoạt động theo quy luật thị
trường. ĐVSN không hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường và
không coi lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của mình.
Lĩnh vực sự nghiệp tạo ra những sản phẩm đặc biệt vừa mang
tính phục vụ chính trị-xã hội, vừa mang tính hàng hóa đòi hỏi phải
bù đắp chi phí. Với chức năng phục vụ xã hội, sản phẩm của hoạt
động sự nghiệp không thể đo bằng giá trị tiền tệ hữu hình. Những
đơn vị tạo ra sản phẩm đó không thể và càng không hạch toán được
lỗ lãi đơn thuần bởi sản phẩm của nó thuộc chức năng phục vụ nhân
dân, phục vụ xã hội. Mặt khác, mỗi sản phẩm này đều mang trong
nó giá trị đã hao phí để tạo ra nó. Để tái sản xuất giản đơn, các


19
ĐVSN phải thu lại từ ngân sách nhà nước và từ chi trả của người
hưởng thụ.
Hiệu quả hoạt động của ĐVSN không đơn thuần đo đếm bằng
tiền, mà thường được tính bằng các giá trị phi tiền tệ. Chính vì thế,
việc đánh giá hiệu quả hoạt động của các ĐVSN thường khó khăn.
1.1.2.2. Các loại hình đơn vị sự nghiệp ở Việt Nam
Có rất nhiều tiêu thức để phân loại ĐVSN.
* Căn cứ vào vị trí, ĐVSN được phân loại thành:
- ĐVSN ở Trung ương là những ĐVSN trực thuộc Chính phủ
như TTXVN, Đài Phát thanh Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam,

các bệnh viện, trường học, các nhà xuất bản quốc gia…
- ĐVSN ở địa phương như đài phát thanh truyền hình ở địa
phương, các bệnh viện, trường học, do địa phương quản lý,...
* Căn cứ vào từng lĩnh vực hoạt động sự nghiệp cụ thể, ĐVSN
bao gồm:
- ĐVSN giáo dục, đào tạo.
- ĐVSN y tế (Bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân)
- ĐVSN văn hóa, thông tin
- ĐVSN phát thanh, truyền hình
- ĐVSN dân số-trẻ em, kế hoạch hóa gia đình
- ĐVSN thể dục, thể thao
- ĐVSN khoa học công nghệ, môi trường
- ĐVSN kinh tế (Duy tu, sửa chữa đê điều, trạm trại,...)
- Đơn vị sự nghiệp khác.
* Căn cứ vào nguồn thu thì ĐVSN được chia thành hai loại:


20
- Đơn vị sự nghiệp không có thu: Là đơn vị được Nhà nước
cấp toàn bộ kinh phí để đảm bảo hoạt động của đơn vị và kinh phí
được cấp theo nguyên tắc không hoàn lại trực tiếp.
- ĐVSN có thu gồm hai loại:
+ ĐVSN có thu tự đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động thường
xuyên: Là đơn vị có nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp ổn định, bảo
đảm được toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên, ngân sách nhà
nước không phải cấp kinh phí cho hoạt động thường xuyên cho đơn
vị.
+ ĐVSN có thu tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động
thường xuyên: Là đơn vị có nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp
nhưng chưa tự trang trải toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên,

ngân sách nhà nước phải cấp một phần chi phí cho hoạt động
thường xuyên của đơn vị.
1.1.3. Quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
1.1.3.1. Khái niệm quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp
trong điều kiện kinh tế thị trường nước ta
Quản lý là yêu cầu tất yếu để đảm bảo sự hoạt động bình
thường của mọi quá trình và hệ thống kinh tế, xã hội, văn hóa, chính
trị có sự tham gia tự giác của nhiều người. Thực chất của quản lý là
thiết lập và thực hiện hệ thốngcác phương pháp và biện pháp khác
nhau của chủ thể quản lý để tác động một cách có ý thức tới đối
tượng quản lý nhằm đạt tới kết quả nhất định.


21
Quản lý bao gồm nhiều phương diện như quản lý công nghệ,
quản lý thương mại, quản lý nhân sự, quản lý tài chính…Quản lý tài
chính là hoạt động của chủ thể quản lý trong lĩnh vực tài chính
nhằm sử dụng nguồn tài sản dưới hình thái tiền, giấy tờ có giá của
một đơn vị, tổ chức vừa đảm bảo cho đơn vị, tổ chức hoạt động bình
thường, vừa đảm bảo cho nguồn tài chính sử dụng tiết kiệm và sinh
lợi nhiều nhất.
Chủ thể quản lý tài chính ĐVSN gồm cơ quan nhà nước
chuyên trách, bộ phận quản lý tài chính trong ĐVSN.
* Quản lý tài chính ĐVSN từ phía Nhà nước (với tư cách chủ
sở hữu và cơ quan quản lý hành chính của Nhà nước). Tùy theo tổ
chức bộ máy nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, có các cơ
quan nhà nước trực tiếp quản lý tài chính ĐVSN khác nhau. Hiện
nay, cơ quan chuyên trách quản lý tài chính các ĐVSN ở trung ương
là Bộ Tài Chính, Bộ chủ quản, ở địa phương là Sở Tài chính và Sở

chủ quản.
Mục tiêu của Nhà nước trong quản lý tài chính các ĐVSN là
đề ra chính sách, chế độ, quy chế hoạt động tài chính phù hợp với
luật pháp và chức năng, nhiệm vụ của ĐVSN.
* Quản lý tài chính ở ĐVSN
Chủ thể quản lý tài chính là các bộ phận chuyên trách về tài
chính trong các ĐVSN. Thông thường, đó là bộ phận kế toán-tài vụ.
Nếu trong ĐVSN còn có các đơn vị độc lập có tư cách pháp nhân
thì đơn vị trực thuộc đó cũng tiến hành quản lý tài chính trong đơn
vị mình. Mục tiêu quản lý tài chính của ĐVSN là sử dụng đúng mục
đích, đúng chế độ nhà nước và tiết kiệm nguồn tài chính của mình.


22
1.1.3.2. Vai trò của quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp
trong điều kiện kinh tế thị trường nước ta
Quản lý tài chính là một trong những hoạt động quản lý quan
trọng của bất kỳ một tổ chức nào trong điều kiện kinh tế thị trường.
Bởi vì, tài chính biểu hiện tổng hợp và bao quát hoạt động của đơn vị.
Thông qua quản lý tài chính, chủ thể quản lý không chỉ kiểm soát
được toàn bộ chu trình hoạt động của đơn vị mà còn đánh giá được
chất lượng hoạt động của chúng. Tài chính còn biểu hiện lợi ích của
các chủ thể tham gia và liên quan đến đơn vị. Thông qua quản lý tài
chính, chủ thể quản lý sử dụng được công cụ kích thích lợi ích một
cách hữu hiệu.
Quản lý tài chính ở các ĐVSN cũng có vai trò quan trong như
thế. Ngoài ra, do hoạt động của các ĐVSN rất đa dạng, tham gia trong
nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội và theo đuổi không chỉ mục
tiêu riêng, mà còn phục vụ mục tiêu chung của toàn xã hội nên quản
lý tài chính khá phức tạp, thường được quy định cụ thể cho từng

ngành. Trong điều kiện kinh tế thị trường, yêu cầu về chất lượng dịch
vụ công và hiệu quả hoạt động của các ĐVSN là những vấn đề còn
mang tính phức tạp hơn nữa. Bên cạnh các khoản chi của ngân sách
nhà nước đối với các ĐVSN, các đơn vị này còn có nguồn thu nhập từ
chi trả của dân cư. Quản lý tốt tài chính của ĐVSN không những góp
phần làm giảm bớt các khoản chi sự nghiệp của ngân sách nhà nước,
mà còn khuyến khích cung cấp dịch vụ chất lượng cao cho xã hội với
chi phí tiết kiệm.


23
Việc quản lý, sử dụng nguồn tài chính ở các ĐVSN liên quan
trực tiếp đến hiệu quả kinh tế - xã hội và chi tiêu đóng góp của nhân
dân. Do đó, nếu tài chính của các ĐVSN được quản lý, giám sát,
kiểm tra tốt, sẽ góp phần hạn chế, ngăn ngừa các hiện tượng tiêu
cực, tham nhũng trong khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính
công, đồng thời nâng cao hiệu quả việc sử dụng các nguồn tài chính
của đất nước.
Ngoài ra, quản lý tài chính các ĐVSN còn cung cấp thông tin
để tái cơ cấu hoạt động cung cấp dịch vụ văn hóa, giáo dục, y tế, thể
dục thể thao… trong tương quan với sự cạnh tranh của khu vực tư
nhân.
1.2. MỤC TIÊU, NGUYÊN TẮC VÀ NỘI DUNG QUẢN
LÝ TÀI CHÍNH Ở CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP
1.2.1. Mục tiêu quản lý tài chính ở đơn vị sự nghiệp
Việc quản lý tài chính ĐVSN nhằm đạt tới các mục tiêu:
- Làm cho ĐVSN hoạt động có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu đòi
hỏi ngày càng cao của xã hội.
- Tạo động lực khuyến khích các ĐVSN tích cực, chủ động tổ
chức hoạt động hợp lý, xác định số biên chế cần có, sắp xếp, tổ chức

và phân công lao động khoa học, nâng cao chất lượng công việc nhằm
sử dụng kinh phí tiết kiệm.
- Nêu cao ý thức trách nhiệm, tăng cường đấu tranh chống các
hiện tượng tiêu cực trong sử dụng tài chính.


24
- Tạo điều kiện để công chức phát huy khả năng, nâng cao
chất lượng công tác và tăng thu nhập vật chất cho cá nhân và tập
thể.
1.2.2. Nguyên tắc quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp
- Nguyên tắc hiệu quả: Là nguyên tắc quan trọng hàng đầu
trong quản lý tài chính nói chung và trong quản lý các ĐVSN nói
riêng. Hiệu quả trong quản lý tài chính thể hiện ở sự so sánh giữa
kết quả đạt được trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội
với chi phí bỏ ra. Tuân thủ nguyên tắc này là khi tiến hành quản lý
tài chính các ĐVSN, Nhà nước cần quan tâm cả hiệu quả về xã hội
và hiệu quả kinh tế. Mặc dù rất khó định lượng hiệu quả về xã hội,
song những lợi ích đem lại về xã hội luôn được đề cập, cân nhắc
thận trọng trong quá trình quản lý tài chính công. Nhà nước phải cân
đối giữa việc thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu trên cơ sở lợi ích của
toàn thể cộng đồng, những mục tiêu chính trị quan trọng cần phải
đạt được trong từng giai đoạn nhất định với định mức chi hợp lý.
Hiệu quả kinh tế là tiêu thức quan trọng để các cá nhân hoặc cơ
quan có thẩm quyền cân nhắc khi xem xét các phương án, dự án hoạt
động sự nghiệp khác nhau. Hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế là hai
nội dung quan trọng phải được xem xét đồng thời khi hình thành một
quyết định hay một chính sách chi tiêu ngân sách liên quan đến hoạt
động sự nghiệp.



25
- Nguyên tắc thống nhất: Là thống nhất quản lý tài chính
ĐVSN bằng những văn bản luật pháp thống nhất trong cả nước.
Thống nhất quản lý chính là việc tuân theo một khuôn khổ chung từ
việc hình thành, sử dụng, thanh tra, kiểm tra, thanh quyết toán, xử lý
những vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện quản lý thu,
chi tài chính ở các ĐVSN. Thực hiện nguyên tắc quản lý này sẽ đảm
bảo tính công bằng, bình đẳng trong đối xử với các ĐVSN khác
nhau, hạn chế những tiêu cực và rủi ro trong hoạt động tài chính,
nhất là những rủi ro có tính chất chủ quan khi quyết định các khoản
thu, chi.
- Nguyên tắc tập trung, dân chủ: Là nguyên tắc quan trọng
trong quản lý tài chính đối với các ĐVSN thụ hưởng ngân sách nhà
nước. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý tài chính ĐVSN
đảm bảo cho các nguồn lực của xã hội được sử dụng hợp lý cả ở quy
mô nền kinh tế quốc dân lẫn quy mô ĐVSN.
- Nguyên tắc công khai, minh bạch: ĐVSN là tổ chức công
nên việc quản lý tài chính các đơn vị này phải đáp ứng yêu cầu
chung trong quản lý tài chính công, đó là công khai, minh bạch
trong động viên, phân phối các nguồn lực xã hội, nhất là nguồn lực
về tài chính. Bởi vì tài chính công là đóng góp của xã hội. Thực
hiện công khai, minh bạch trong quản lý sẽ tạo điều kiện cho cộng
đồng có thể giám sát, kiểm soát các quyết định về thu, chi tài chính
công, hạn chế những thất thoát và đảm bảo tính hợp lý trong chi tiêu
của bộ máy nhà nước.


×