Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

CHƯƠNG 1 he thong hinh phat doi voi phap nhan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.87 KB, 21 trang )

Hệ thống hình phạt đối với pháp nhân phạm tội trong bối cảnh sửa đổi, bổ sung BLHS – Lý
luận và giải pháp hoàn thiện

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI
PHÁP NHÂN
1.1 Hình phạt và hệ thống hình phạt.
1.1.1 Khái niệm hình phạt và hệ thống hình phạt.
Trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp, ở Việt Nam hiện nay,
việc nghiên cứu những vấn đề lí luận về hình phạt và hệ thống hình phạt có ý nghĩa quan
trọng trên các mặt lí luận, thực tiễn và lập pháp ở nước ta. Ý nghĩa về việc nghiên cứu hình
phạt và hệ thống hình phạt càng quan trọng hơn khi nước ta đang trong quá trình sửa đổi, bổ
sung BLHS.
Về mặt lí luận, hiện nay trong khoa học hình sự Việt Nam xung quanh những vấn đề hình
phạt đối với pháp nhân (như: hình phạt nào sẽ phù hợp để áp dụng đối với pháp nhân, hiệu
quả của hình phạt khi được áp dụng, các yếu tố đảm bảo hiệu quả của hình phạt khi được áp
dụng,…) còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau, mà chưa có một quan điểm chính thống.
Về mặt thực tiễn, đây là lần đầu tiên Dự thảo BLHS Việt Nam quy định về TNHS đối với
pháp nhân cũng như xây dựng hệ thống hình phạt đối với pháp nhân, xuất phát từ tình hình
vi phạm pháp luật do pháp nhân thực hiện ngày càng phức tạp và nghiêm trọng. Tuy nhiên,
đây là chế định hoàn toàn mới sẽ gây khó khăn cho quá trình áp dụng pháp luật hình sự nói
chung và áp dụng hình phạt nói riêng vì vậy cần phải tiếp tục cùng nhau nghiên cứu, quản
lí, phân tích và luận chứng, nhằm khắc phục và loại trừ những nhược điểm nhất định.
Về mặt lập pháp, trong bất kì một nhà nước pháp quyền nào, các quy định của pháp luật
thuộc lĩnh vực tư pháp hình sự nói chung và các quy định của PLHS nói riêng đều nhằm
phải mục đích hàng đầu – là bảo vệ các quyền tự do của con người tránh khỏi không chỉ sự
xâm hại có tính chất tội phạm của công dân khác, mà còn sự tùy tiện của một số cơ quan, tổ
chức vì mục đích lợi nhuận đã vi phạm pháp chế và dân chủ. Chính vì vậy, chúng ta cần quy
định chế tài để xử lý các pháp nhân vi phạm pháp luật này nhằm bảo vệ công bằng, dân chủ
và tính pháp chế của XHCN. Vì suy cho cùng, mục đích hình phạt ra sao và hệ thống hình
phạt trong PLHS của một quốc gia như thế nào cũng là những tiêu chí cơ bản và quan trọng


để đánh giá mức độ dân chủ và nhân đạo, pháp chế và nhân văn trong quốc gia đó.
Như vậy, tất cả những phân tích trên đây cho chúng ta thấy ý nghĩa khoa học – thực
tiễn của việc lí giải và làm sáng tỏ về mặt lí luận xung quanh những vấn đề về hình phạt và
hệ thống hình phạt đối với pháp nhân, mà còn là lí do luận chứng cho sự cần thiết của việc
nghiên cứu chế định này với tư cách là một trong bốn chế định quan trọng trung tâm, chủ
yếu nhất ( bên cạnh chế định về đạo luật hình sự, trách nhiệm hình sự – TNHS và tội phạm)
của luật hình sự.
1.1.1.1 Khái niệm hình phạt.
Trước khi được chính thức quy định trong BLHS năm 1999, có nhiều quan điểm khác
nhau của các nhà khoa học pháp lý về khái niệm hình phạt. Nhìn từ góc độ lý luận chung về
pháp luật thì hình phạt là một trong những yếu tố cấu thành của quy phạm pháp luật hình sự
bao gồm: Giả định, quy định, chế tài (hay còn gọi là hình phạt). Trong đó chế tài hình sự
(hình phạt) là một bộ phận của quy phạm pháp luật hình sự nêu lên những biện pháp tác
động mà Nhà nước dự kiến sẽ áp dụng đối với chủ thể nào không thực hiện đúng mệnh lệnh
của nhà nước đã nêu ở phần quy định của quy phạm pháp Luật Hình sự. Nói cách khác hình
phạt là hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải gánh chịu khi thực hiện hành vi
phạm tội. Trong nhiều văn bản pháp luật hình sự cũng có đề cập đến hình phạt và hướng
dẫn áp dụng hình phạt nhưng không có văn bản nào đưa ra định nghĩa chính thức về hình

GVHD: Nguyễn Văn Tròn

SVTH: Trần Thị Kim Soan


Hệ thống hình phạt đối với pháp nhân phạm tội trong bối cảnh sửa đổi, bổ sung BLHS – Lý
luận và giải pháp hoàn thiện
phạt, kể cả trong Bộ luật Hình sự năm 1985 cũng không quy định thế nào là hình phạt. Cụ
thể, trong pháp luật hình sự thực định của Việt Nam thời kì từ sau Cách mạng tháng tám đến
trước khi pháp điển hóa lần thứ hai (1945 – 1999), định nghĩa pháp lí của khái niệm hình
phạt chưa bao giờ được ghi nhận về mặt lập pháp. Chỉ đến khi pháp điển hóa lần thứ hai với

việc thông qua Bộ luật Hình sự năm 1999 thì định nghĩa pháp lí về hình phạt lần đầu tiên
được nhà làm luật chính thức ghi nhận trong PLHS Việt Nam hiện hành. Nhằm mục đích
khắc phục những hạn chế, đảm bảo thống nhất về nhận thức và thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự, Bộ luật Hình sự năm 1999 đã quy định rõ khái niệm hình phạt tại Điều 26 BLHS.
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc
hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự
và do Tòa án quyết định.”
Trong khoa học luật hình sự của Việt Nam, cũng đã có nhiều tác giả nghiên cứu và đề cập
tới khái niệm hình phạt với nhiều quan điểm như:
- Hình phạt là biện pháp cưỡng chế do Tòa án quyết định trong bản án đối với người có lỗi
trong việc thực hiện tội phạm và được thể hiện ở việc tước đoạt hoặc hạn chế các quyền và
lợi ích do pháp luật quy định đối với người bị kết án (PGS. TS Võ Khánh Vinh)1
- Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước được luật hình sự quy định và do tòa án áp
dụng có nội dung tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội nhằm trừng trị,
giáo dục họ, cũng như nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh chống và
phòng ngừa tội phạm” (PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa).2
- Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà Nước được quyết định trong
các bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án để tước bỏ hay hạn chế quyền, tự do của
người bị kết án theo các quy định của PLHS (PGS. TSKH. Lê Cảm).3
Kết luận: Nhìn chung các ý kiến đều đã tập trung khẳng định bản chất của hình phạt: đó là
biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, được Tòa án áp dụng đối với người
bị kết án nhằm tước bỏ hoặc hạn chế một số quyền lợi nhất định của họ theo quy định của
pháp luật hình sự. Lịch sử của quá trình thi hành pháp luật đã khẳng định vai trò đặc biệt
cần thiết và không thể thay thế của hình phạt trong công cuộc đấu tranh chống và phòng
ngừa tội phạm. Bởi hình phạt là biện pháp cưỡng chế mang tính đặc thù của Luật hình sự,
mang những đặc trưng hoàn toàn khác biệt với các biện pháp cưỡng chế khác của Nhà nước,
đã thể hiện khả năng cưỡng chế cao độ nhất của Nhà nước với hành vi mang tính nguy hiểm
nhất cho xã hội.
1.1.1.2 Khái niệm hệ thống hình phạt.
Hệ thống hình phạt trong pháp luật Việt Nam, được quy định cụ thể tại Điều 28 của Bộ

luật Hình sự năm 1999 gồm: Hình phạt bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung.
1. Hình phạt chính bao gồm:
a) Cảnh cáo;
b) Phạt tiền;
c) Cải tạo không giam giữ;
d) Trục xuất;
đ) Tù có thời hạn;
1

Tội phạm học, Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Viện Nghiên cứu nhà nước và pháp luật, NXB Chính
trị quốc gia, 1995, tr. 194.
2
Trách nhiệm hình sự và hình phạt”, PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2001.
3
Hình phạt và hệ thống hình phạt”, PGS. TSKH. Lê Cảm, Tạp chí Tòa án nhân dân số 14/2007, tr. 3.

GVHD: Nguyễn Văn Tròn

SVTH: Trần Thị Kim Soan


Hệ thống hình phạt đối với pháp nhân phạm tội trong bối cảnh sửa đổi, bổ sung BLHS – Lý
luận và giải pháp hoàn thiện
e) Tù chung thân;
g) Tử hình.
2. Hình phạt bổ sung bao gồm:
a) Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định;
b) Cấm cư trú;
c) Quản chế;
d) Tước một số quyền công dân;

đ) Tịch thu tài sản;
e) Phạt tiền, khi không áp dụng hình phạt chính;
g) Trục xuất, khi không áp dụng hình phạt chính;
3. Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị
áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung.
So với các quy định tại Điều 21 BLHS năm 1985 thì hệ thống hình phạt trong BLHS năm
1999 bổ sung thêm một hình phạt trục xuất trong cả phần hình phạt chính và hình phạt bổ
sung. Điều này là một tiến bộ so với BLHS 1985, việc quy định thêm hình phạt trục xuất đã
đáp ứng kịp thời nhu cầu của tình hình xã hội của nước ta hiện nay khi nước ta đang trên
đường mở rộng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc mở rộng đầu tư và hợp tác
quốc tế nên số lượng người nước ngoài đến Việt Nam làm ăn, sinh sống, du lịch…vv cũng
gia tăng. Trong số đó sẽ có người phạm tội tại Việt Nam. Việc bổ sung hình phạt này là kịp
thời và hợp lý, nhằm tạo điều kiện để xử lý người nước ngoài phạm tội. Ngoài ra, BLHS
năm 1999 cũng đã loại bỏ hình phạt “cải tạo tại đơn vị kỷ luật quân đội”. Việc làm này
khiến cho người bị kết án không cảm thấy có sự phận biệt giữa công dân thường và quân
nhân phạm tội, điều này giúp cho hình phạt đạt được hiệu quả cao hơn.
Hệ thống hình phạt để đảm bảo hiệu quả phải được xây dựng theo các yêu cầu, tiêu chí cơ
bản dưới đây:
- Hệ thống hình phạt trong phần chung phải được xây dựng một cách khoa học, cân đối
và hợp lý để làm cơ sở cho việc quy định một cách chính xác các chế tài cụ thể đối với
các tội phạm tương ứng trong phần các tội phạm.
- Hệ thống hình phạt thể hiện rõ được tính chất và mức độ nghiêm khắc khác nhau của
từng loại hình phạt, tưng ứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của các
nhóm tội phạm được quy định trong BLHS.
- Việc quy định trình tự áp dụng của các loại hình phạt trong hệ thống hình phạt tương
ứng với sự phân chia tội phạm thành các nhóm nhất định trong phần chung của BLHS.
- Trong hệ thống hình phạt quy định một cách cụ thể, rõ ràng và chính xác trình tự, căn
cứ và điều kiện áp dụng của từng loại hình phạt nói chung, cũng như giới hạn tối thiểu
và tối đa của các loại hình phạt có thời hạn nói riêng4.
Từ những đặc điểm trên người viết đưa ra khái niệm về hệ thống hình phạt như sau:

“Hệ thống hình phạt là tổng hợp các biện pháp cưỡng chế của nhà nước về hình sự, được
quy định theo các mức độ nghiêm khắc khác nhau, tương ứng với tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của từng loại tội phạm và được quy định trong BLHS”.
Sơ đồ hệ thống hình phạt trong BLHS của nước ta hiện nay:

4

PGS.TSKH. Lê Cảm, Hình phạt và hệ thống hình phạt, Tạp chí Tòa án nhân dân tháng 7 – 2007, số 14.

GVHD: Nguyễn Văn Tròn

SVTH: Trần Thị Kim Soan


Hệ thống hình phạt đối với pháp nhân phạm tội trong bối cảnh sửa đổi, bổ sung BLHS – Lý
luận và giải pháp hoàn thiện

Hình phạt:

Tước bỏ quyền, lợi ích hợp pháp của
người phạm tội.

Biện pháp cưỡng chế nghiêm
khắc nhất (Điều 26 BLHS)

Được quy định trong BLHS
Do Tòa án quyết định

Hình phạt chính
a) Cảnh cáo;

b) Phạt tiền;
c) Cải tạo không giam giữ;
d) Trục xuất;
đ) Tù có thời hạn;
e) Tù chung thân;
g) Tử hình.

-

Được áp dụng độc lập
với hình phạt bổ sung.
Chỉ được áp dụng một
hình phạt chính cho mỗi
tội phạm.

Bao gồm:
Hình phạt bổ sung
a) Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất
định;
b) Cấm cư trú;
c) Quản chế;
d) Tước một số quyền công dân;
đ) Tịch thu tài sản;
e) Phạt tiền, khi không áp dụng hình
phạt chính;
g) Trục xuất, khi không áp dụng hình
phạt chính;
-


Chỉ được áp dụng kèm theo hình
phạt chính.
Có thể không áp dụng, áp dụng
một hay nhiều hình phạt bổ sung
cho mỗi tội phạm.

Có mục đích:
Trừng trị, giáo dục người phạm tội
Giáo dục, răn đe – Ngăn ngừa người khác phạm tội.
Giáo dục, động viên mọi người đấu tranh phòng chống tội phạm.
1.1.2 Đặc điểm của hình phạt và hệ thống hình phạt.
1.1.2.1 Đặc điểm của hình phạt.
Việc quy định khái niệm hình phạt trong BLHS có ý nghĩa đảm bảo nhận thức thống
nhất về hình phạt trong pháp luật hình sự. Khi nói đến tội phạm chúng ta không thể không
nói đến hình phạt. Tội phạm và hình phạt là hai nội dung cơ bản trong pháp Luật Hình sự

GVHD: Nguyễn Văn Tròn

SVTH: Trần Thị Kim Soan


Hệ thống hình phạt đối với pháp nhân phạm tội trong bối cảnh sửa đổi, bổ sung BLHS – Lý
luận và giải pháp hoàn thiện
của mỗi quốc gia. Về nguyên tắc khi đã thực hiện tội phạm thì phải chịu hình phạt và ngược
lại hình phạt không thể được áp dụng nếu không có tội phạm xảy ra. Từ khái niệm hình phạt
được đề cập trên chúng ta có thể rút ra những đặc điểm của hình phạt như sau:
- Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước.
Khi nói đến pháp luật chúng ta không thể không nói đến tính cưỡng chế của nó. Có thể nói
cưỡng chế là thuộc tính của pháp luật nói chung. Trong đấu tranh chống và phòng ngừa tội
phạm thì hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất, được áp dụng phổ biến và có

lịch sử lâu đời nhất. Các biện pháp cưỡng chế của các ngành luật khác như: Luật Hành
chính, Luật Lao động, Luật Dân sự,.. chủ yếu là các biện pháp như cảnh cáo, phạt tiền,
chuyển làm việc khác, buộc bồi thường vật chất, buộc thôi việc,… nếu so sánh các biện
pháp cưỡng chế này với hình phạt của Luật Hình sự thì hình phạt của Luật Hình sự là biện
pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất.
Tính nghiêm khắc của hình phạt trong Luật Hình sự thể hiện ở chỗ: hình phạt được áp
dụng đối với người phạm tội không những tước đi quyền tự do, quyền chính trị, quyền sở
hữu tài sản, mà thậm chí còn tước đi cả quyền sống của con người. Bên cạnh đó hình phạt
bao giờ cũng để lại hậu quả pháp lý sau này cho người phạm tội đó là án tích trong một thời
gian do luật định. Ngoài ra, đối với một số tội phạm, người bị kết án ngoài việc bắt buộc
phải chấp hành hình phạt chính còn có thể phải chấp hành một hay nhiều hình phạt bổ sung
như: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, cấm cư trú
quản chế…
Đối với một số hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, để truy cứu trách nhiệm hình sự
cần phải có điều kiện: đã bị xử phạt hành chính về hành vi đó hoặc đã bị kết án về một số
tội được quy định ngay trong điều luật như: tội kinh doanh trái phép, tội lừa dối khách hàng,
… Điều đó có nghĩa là nếu chưa được xử phạt hành chính thì chưa bị truy cứu trách nhiệm
hình sự, điều này nói lên rằng để áp dụng hình phạt trong Luật Hình sự đòi hỏi hành vi vi
phạm phải có mức độ nguy hiểm cao hơn so với hành vi vi phạm trong các ngành luật khác.
- Hình phạt chỉ áp dụng đối với người có hành vi phạm tội.
Hình phạt chỉ được áp dụng đối với cá nhân người thực hiện hành vi phạm tội là nguyên
tắc được áp dụng khi quyết định hình phạt.
Điều 2 BLHS quy định về cơ sở của trách nhiệm hình sự nêu rõ: Chỉ người nào phạm một
đã được BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, Luật Hình sự chỉ thừa nhận trách nhiệm hình sự của người phạm tội người đã
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó có đầy đủ các dấu hiệu để cấu thành tội
phạm. Không thừa nhận trách nhiệm hình sự của người khác hay của tập thể. Điều đó có
nghĩa là chỉ người nào phạm tội mới phải chịu hình phạt mà thôi. Hình phạt không thể được
áp dụng nhằm chống lại các thành viên trong gia đình cũng như những người thân khác của
người phạm tội, ngay cả trong trường hợp người phạm tội lẩn tránh hình phạt. Bởi vì, bản

thân người phạm tội là người đã thực hiện hành vi có tính chất nguy hiểm cho xã hội, hành
vi đó xâm hại đến lợi ích nhất định được Luật Hình sự bảo vệ và như vậy hình phạt thể hiện
sự trừng phạt xứng đáng đối với hành vi nguy hiểm đó, cho nên hình phạt phải được áp
dụng đối với cá nhân người phạm tội, nhằm cho người phạm tội nhận ra những sai lầm của
mình, từ đó tạo cơ sở để họ cải tạo tốt để trở thành người công dân có ích cho xã hội, có ý
thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội ngăn ngừa họ phạm tội mới.
Quy định này thể hiện nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự của Luật Hình sự.
- Hình phạt được Luật Hình sự quy định và do Tòa án áp dụng.
Hình phạt trong BLHS Việt Nam được quy định ở cả Phần chung và Phần các tội phạm.
Phần chung của BLHS quy định những vấn đề có tính nguyên tắc liên quan đến hình phạt
như mục đích của hình phạt (Điều 27 BLHS), hệ thống của hình phạt (Điều 28 BLHS), căn

GVHD: Nguyễn Văn Tròn

SVTH: Trần Thị Kim Soan


Hệ thống hình phạt đối với pháp nhân phạm tội trong bối cảnh sửa đổi, bổ sung BLHS – Lý
luận và giải pháp hoàn thiện
cứ quyết định hình phạt (Điều 45 BLHS),… Phần các tội phạm quy định các loại hình phạt
và mức hình phạt cho từng loại tội phạm cụ thể.
Các dấu hiệu tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tính trái pháp luật hình sự
và tính có lỗi của người phạm tội luôn gắn liền với tính chịu hình phạt. Do vậy, cùng với
việc xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm thì cũng đòi hỏi phải quy định loại
và mức hình phạt áp dụng cho người có hành vi phạm tội đó trong luật.
Trong mọi trường hợp không được áp dụng hình phạt đối với những hành vi không được
BLHS quy định là tội phạm và tất nhiên cũng không được áp dụng một loại hình phạt nào
đó nếu hình phạt ấy không được quy định trong hệ thống hình phạt hoặc không được quy
định trong chế tài của điều luật mà hành vi bị xử phạt thỏa mãn. Đây là đòi hỏi của nguyên
tắc pháp chế XHCN.

Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2014 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Có thể thấy Tòa án là cơ quan duy nhất có
thẩm quyền xét xử, là cơ quan có quyền nhân danh nhà nước tuyên một người có tội và áp
dụng hình phạt đối với họ. Ngoài Tòa án không cơ quan nào khác có quyền quyết định hình
phạt.
1.1.2.2 Đặc điểm của hệ thống hình phạt.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau thì hệ thống hình phạt được quy định trong luật
cũng sẽ khác nhau, sự thay đổi đó nhằm phù hợp với nhu cầu thực tiễn và tình hình tội phạm
ở từng thời kì lịch sử của đất nước, đáp ứng nhu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy
nhiên, dù là ở giai đoạn nào thì hệ thống hình phạt luôn có một số đặc điểm chung không
thể thay đổi. Cụ thể, hệ thống hình phạt có những đặc điểm như sau:
Đặc điểm thứ nhất, Hệ thống hình nước ta có 2 loại: hình phạt chính và hình phạt bổ
sung. Giữa hai loại hình phạt chính và bổ sung có những đặc điểm riêng tạo nên đặc trưng
của hệ thống hình phạt.
Hình phạt chính được sắp xếp theo một trật tự nhất định tùy thuộc vào mức độ nghiêm
khắc của mỗi loại hình phạt. Danh mục các hình phạt chính được sắp xếp theo thứ tự từ nhẹ
đến nặng. Trong đó, hình phạt cảnh cáo có nội dung cưỡng chế nhẹ nhất và hình phạt tử
hình có nội dung cưỡng chế cao nhất. Việc sắp xếp các loại hình phạt chính trong HTHP
theo thứ tự như vậy có ý nghĩa to lớn về lý luận và thực tiễn. Thứ nhất, để chúng ta hiểu
được sự đánh giá chính thức của nhà nước về tính chất nghiêm khắc của mỗi loại hình phạt.
Mỗi loại hình phạt trong HTHP sẽ tương ứng với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Khi một hành vi nguy hiểm cho xã hội có mức độ nguy hiểm cao sẽ bị áp dụng hình phạt
nặng và ngược lại hành vi nguy hiểm cho xã hội thấp thì hình phạt áp dụng sẽ nhẹ hơn. Từ
đó, có thể thấy cách nhìn nhận của Nhà nước về tính nguy hiểm của hành vi phạm tội mà
chủ thể phạm tội gây ra, mà áp dụng hình phạt với mức độ nghiêm khắc khác nhau. Thứ hai,
Tòa án có thể linh hoạt lựa chọn hình phạt khi giải quyết vấn đề hoặc chuyển sang một hình
thức khác thuộc loại nhẹ hơn khi áp dụng quy định tại Đ 47 BLHS: Khi có ít nhất hai tình
tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, Toà án có thể quyết định một
hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải
trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật; trong trường hợp điều luật chỉ có một

khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật, thì Toà
án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một
hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Hình phạt chính của LHS ở mỗi nước được sắp xếp theo
thứ tự khác nhau tuỳ theo đường lối, chính sách hình sự của mỗi nhà nước mà có thể sắp
xếp các hình phạt theo thứ tự từ hình phạt nặng đến hình phạt nhẹ hoặc từ hình phạt nhẹ đến
hình phạt nặng. Nhưng việc sắp xếp đó phải tuân theo nguyên tắc là hình phạt kế ngay sau
hình phạt kia phải nặng hơn (hoặc nhẹ hơn) nhưng lại là hình phạt ở mức độ nhẹ hơn (hoặc

GVHD: Nguyễn Văn Tròn

SVTH: Trần Thị Kim Soan


Hệ thống hình phạt đối với pháp nhân phạm tội trong bối cảnh sửa đổi, bổ sung BLHS – Lý
luận và giải pháp hoàn thiện
nặng hơn) được quy định ngay sau nó. Quy định việc sắp xếp các hình phạt như trên là hết
sức cần thiết. Nó có ý nghĩa không chỉ tạo ra tính hệ thống chặt chẽ của các hình phạt mà nó
còn thể hiện tinh thần chính sách hình sự của nhà nước, cho phép phản ánh rõ nét sự đánh
giá chính thức của nhà nước về tính chất nặng nhẹ của từng loại hình phạt và do đó, nó bắt
buộc các cơ quan tư pháp, trong đó có toà án phải tuân theo. Mặt khác, tính hệ thống của
các HPC cho phép chúng có thể thay thế cho nhau khi có đủ điều kiện luật quy định. Các
hình phạt chính có khả năng thay thế cho nhau bởi nội dung của mỗi hình phạt có tính độc
lập khác biệt với nội dung của hình phạt bổ sung, đủ để thực hiện được mục đích phục hồi
công lý, công bằng xã hội và phòng ngừa tội phạm của hình phạt nói chung.
Còn đối với hình phạt bổ sung, nghiên cứu cho thấy chúng không có thể liên kết với nhau
theo một trật tự có hệ thống, vì tính chất, nội dung trừng trị, giáo dục, cải tạo của mỗi HPBS
là rất khác nhau. Mỗi loại hình phạt bổ sung chỉ có khả năng tác động riêng đối với từng
loại tội phạm. Ngay theo cách sắp xếp các hình phạt bổ sung trong BLHS hiện hành của
Việt Nam (khoản 2 Điều 28) cũng khó có thể đánh giá được hình phạt nào nặng, hình phạt
nào nhẹ hơn hình phạt nào. Chúng ta khó có thể đánh giá, so sánh được trong số các HPBS

như quản chế, tước một số quyền công dân, tịch thu tài sản, trục xuất, hình phạt nào nặng
hơn, nghiêm khắc hơn hình phạt nào. Chính bởi lý do đó các hình phạt bổ sung không có
khả năng thay thế cho nhau được, và cũng vì thế Toà án không thể áp dụng quy định tại
Điều 47 BLHS chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Chính vì hình phạt bổ sung
là áp dụng bổ sung cho hình phạt chính, nên hình phạt bổ sung không được áp dụng đối với
tất cả các loại tội phạm mà chỉ được áp dụng đối với một số loại tội mà LHS quy định. Ngay
cả trong trường hợp một người bị kết án về nhiều tội, thì hình phạt bổ sung của tội nào cũng
chỉ được áp dụng kèm theo hình phạt chính của tội ấy, không áp dụng hình phạt bổ sung
chung chung cho tất cả các tội. Đối với mỗi tội phạm, Tòa án chỉ áp dụng một hình phạt
chính nhưng có thể áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung nếu điều luật về tội phạm có
quy định. Đây là đặc điểm đặc thù của hình phạt chính và hình phạt bổ sung tạo nên đặc
điểm chủ yếu của hệ thống hình phạt khi ta nhìn từ cấu trúc bên ngoài của hệ thống hình
phạt5.
Đặc điểm thứ hai, HTHP trong BLHS hiện hành nước ta là đa dạng, trong mọi trường hợp
thực hiện các nguyên tắc của việc quy định hình phạt. Các hình phạt, do có cùng vai trò,
chức năng, nhiệm vụ và mục đích chung, nên chúng liên kết chặt chẽ với nhau trong hệ
thống hình phạt. Tuy vậy, mỗi loại hình phạt trong hệ thống hình phạt lại có những đặc
điểm, nội dung, phạm vi, điều kiện áp dụng riêng biệt. Chính sự khác nhau này làm cho hệ
thống hình phạt có tính đa dạng, bảo đảm khả năng phân hóa và cá thể hóa hình phạt và suy
cho cùng là đảm bảo thực hiện được hiệu quả của chính sách hình sự của nhà nước trong
từng giai đoạn phát triển của đất nước. Hệ thống hình phạt này cho phép Tòa án linh hoạt
trong việc xem xét quyết định hình phạt áp dụng đối với từng tội phạm cụ thể, tùy thuộc vào
tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhằm thực hiện tốt hơn nguyên tắc cá thể hóa hình
phạt. Ví dụ, trong vụ án đồng phạm phức tạp có nhiều người tham gia, khi xét xử Tòa án sẽ
căn cứ vào mức độ thực hiện hành vi nguy hiểm cho từng người, nhân thân của từng người,
… mà lựa chọn một hình phạt trong hệ thống hình phạt phù hợp với chủ thể đó. Sự đa dạng
hình phạt trong hệ thống hình phạt giúp thẩm phán có nhiều sự lựa chọn khi giải quyết vụ án
góp phần đảm bảo nguyên tắc cá thể hóa hình phạt.
Đặc điểm thứ ba, Hệ thống đó thể hiện tính nhân đạo sâu sắc, không có những hình phạt

nhằm khủng bố, trả thù, làm nhục hình, đày đọa thể xác và chà đạp phẩm giá của con người.
5

Trịnh Quốc Toản, Về vai trò của hình phạt bổ sung trong hệ thống hình phạt, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học
28 (2012) 142‐150.

GVHD: Nguyễn Văn Tròn

SVTH: Trần Thị Kim Soan


Hệ thống hình phạt đối với pháp nhân phạm tội trong bối cảnh sửa đổi, bổ sung BLHS – Lý
luận và giải pháp hoàn thiện
Trong thực tế, trường hợp áp dụng tù chung thân đối với tội phạm được xét ân giảm tử hình,
thì tù chung thân được coi là “hình phạt đệm” để thay thế hình phạt tử hình, hạn chế việc áp
dụng hình phạt đặc biệt này. Tù chung thân cũng không được áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội. Quy định này biểu hiện nguyên tắc nhân đạo và là bước phát triển mới
của PLHS nước ta. Người đang chấp hành hình phạt tù chung thân có thể được giảm thời
hạn chấp hành hình phạt khi có những điều kiện nhất định 6. Đối với hình phạt tử hình,
BLHS nước ta chẳng những quy định cụ thể các tội phạm mà tòa án có thể áp dụng mà còn
hạn chế đến mức tối đa khả năng áp dụng hình đó trong phạm vi những tội đặc biệt nghiêm
trọng. Ngay cả khi có đủ điều kiện này, tử hình cũng không phải là hình phạt duy nhất mà là
khả năng cuối cùng, khi tòa án xét thấy không thể áp dụng loại hình phạt nào khác được quy
định trong chế tài vì tính chất đặc biệt nghiêm trọng của tội phạm.
Trong hai Bộ luật Quốc triều hình luật của nhà Lê và Hoàng Việt luật lệ của nhà Nguyễn
thì trong hệ thống hình phạt của hai Bộ luật này giống nhau điều có năm hình phạt hay còn
gọi là ngũ hình xuất phát từ luật cổ Trung Quốc gồm: xuy (roi), trượng (gậy), đồ (làm việc
nhẹ), lưu (đi đày), tử (chết). Hệ thống hình phạt này mang tính dã man, tàn bạo không
những về thể xác mà còn cả tinh thần. Hình phạt được áp dụng chung cho tất cả các loại vi
phạm pháp luật không chỉ là chế tài hình sự mà còn áp dụng cả trong dân sự, hành chính,

hôn nhân gia đình. So sánh với hệ thống hình phạt của Nhà nước ta hiện nay có thể thấy tính
nhân đạo sâu sắc. Hệ thống hình phạt không có những hình phạt dã man, đày dọa thể xác
hay chà đạp phẩm giá con người. Trong hệ thống hình phạt của nước ta coi trọng việc giáo
dục và phòng chống tội phạm, kết hợp hài hòa giữa trừng trị và giáo dục là chủ yếu. Thể
hiện ở việc bên cạnh những hình phạt nhiêm khắc như: tù có thời hạn, tù chung thân hay tử
hình thì vẫn có những hình phạt không thể hiện sự trừng trị mà chỉ giáo dục, thuyết phục
chủ thể phạm tội như cảnh cáo, phạt tiền qua đó cũng thấy được tính nhân đạo sâu sắc của
hệ thống hình phạt ở nước ta. Tính nhân đạo sẽ giúp phát huy tốt vai trò của hệ thống hình
phạt của nước ta hiện nay là đấu tranh phòng chống tội phạm.
1.2 Khái quát chung về pháp nhân và một số cơ sở lý thuyết về việc áp dụng hình phạt
đối với pháp nhân.
1.2.1 Khái niệm pháp nhân và hình phạt đối với pháp nhân.
1.2.1.1 Khái niệm pháp nhân.
Ngoài các cá nhân tham gia vào quan hệ dân sự còn có các tổ chức, các cơ quan và các chủ
thể khác. Để các tổ chức tham gia vào quan hệ dân sự với tư cách là một chủ thể riêng biệt
trong các quan hệ xã hội nói chung, các quan hệ pháp luật nói riêng. Pháp luật dân sự đưa ra
khái niệm pháp nhân nhằm phân biệt với thể nhân (tự nhiên nhân) là những cá nhân tham
gia vào quan hệ pháp luật.
Từ thời La Mã cổ đại những phường hội, nhà thờ, xưởng thủ công,… đã hình thành và
ngày càng mở rộng. Ban đầu, những tổ chức này không có tài sản riêng của mình mà tài sản
do các thành viên góp lại như một hình thức sở hữu chung theo phần và trong trường hợp tổ
chức bị tan rã (do nhiều nguyên nhân khác nhau) tài sản được chia trả lại cho các thành viên
theo phần mà họ đã đóng góp vào. Những tổ chức như vậy không thể tham gia như một chủ
thể độc lập trong các quan hệ pháp luật. Trong khi đó, người ta nhận thấy có những trường
hợp tài sản không của riêng ai: nhà hát, nhà thờ, một con tàu,…đó là những vật không chia
được và mặc dù những thành viên của nó thay đổi, những tài sản đó vẫn tồn tại.
Những tài sản này không của riêng từng người, từng nhóm người, mà là của một tổ chức
tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào sự thay đổi các thành viên trong các tổ chức đó. Những
giao dịch của tổ chức thông qua người đại diện nhưng dưới danh nghĩa của tổ chức chứ
không phải của cá nhân. Tuy nhiên, khái niệm pháp nhân trong thời cổ đại chưa hình thành.

6

Nguyên tắc này cũng được áp dụng trong các hình phạt khác.

GVHD: Nguyễn Văn Tròn

SVTH: Trần Thị Kim Soan


Hệ thống hình phạt đối với pháp nhân phạm tội trong bối cảnh sửa đổi, bổ sung BLHS – Lý
luận và giải pháp hoàn thiện
Trong chế độ phong kiến việc phân chia lao động tiếp tục phát triển và hình thành ngày
càng nhiều những tổ chức như vậy. Đã bắt đầu xuất hiện những công ty khai thác thuộc địa
trên lãnh thổ các nước thuộc châu Á, Phi, Mỹ - La tinh.
Sản xuất hàng hóa chế ngự trong thời kì tư bản chủ nghĩa. Trong điều kiện của chủ nghĩa
tư bản, vấn đề củng cố địa vị các tổ chức kinh tế bằng phương tiện pháp lý để các tổ chức
này tham gia vào các quan hệ dân sự và thương mại là nhu cầu cấp thiết với các loại hình tổ
chức khác nhau và cũng là phương tiện cạnh tranh giữa các nhà tư bản với nhau trong nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa. Khái niệm pháp nhân được hình thành và phát triển ở thời kì này.
Tuy vậy không có một định nghĩa chung về pháp nhân ở bất cứ pháp luật của một nước nào,
mặc dù ngày nay pháp luật công nhận sự tồn tại của pháp nhân là chủ thể của quan hệ pháp
luật dân sự, thương mại. Pháp luật ở các nước chỉ dừng lại ở việc quy định các dấu hiệu một
pháp nhân. Những dấu hiệu của một tổ chức có tư cách pháp nhân được quy định như sau:
- Sự tồn tại độc lập của pháp nhân mà không phụ thuộc vào sự thay đổi các thành viên
trong pháp nhân đó. Vì vậy, pháp nhân được coi là cá thể riêng biệt, có ý chí riêng, có
đời sống riêng, không trùng hợp với ý chí và đời sống của thành viên pháp nhân đó.
- Có tài sản riêng, độc lập với tài sản của các thành viên của pháp nhân.
- Có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản và thực hiện những hành vi pháp lý
nhân danh mình.
- Có quyền làm nguyên đơn, bị đơn trước Tòa án.

- Trách nhiệm độc lập về tài sản.
Chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước. Bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và có sự cạnh tranh lành
mạnh trong nền kinh tế, đó là điều tất yếu khi mà quy luật giá trị tiền – hàng vẫn tồn tại.
Việc các tổ chức tham gia vào các quan hệ pháp lý với tư cách chủ thể các quan hệ pháp
luật rất cần thiết cho quá trình sản xuất và trao đổi. Hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa,
kinh tế thị trường cho dù có sự quản lý của Nhà nước vẫn cần thiết phải có sự tồn tại những
tổ chức sản xuất kinh doanh là những chủ thể độc lập trong các quan hệ nói chung và quan
hệ pháp luật nói riêng.
Khái niệm pháp nhân trong các văn bản pháp luật của Nhà nước ta được đề cập ở dạng mô
tả các dấu hiệu của pháp nhân như Thông tư 525 ngày 26/03/1975 của Trọng tài kinh tế,
Nghị định 17 ngày 16/01/1990 hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế và Pháp
lệnh Hợp đồng dân sự ngày 01/07/1991. Các dấu hiệu (điều kiện) được quy định ở Thông tư
525 và Nghị định 17 đặc trưng cho các pháp nhân là tổ chức kinh tế, Pháp lệnh hợp đồng
dân sự mô tả các dấu hiệu của pháp nhân có tính chất chung và bao quát các pháp nhân ở
mọi dạng, thể loại. Điều 94 Bộ luật Dân sự mô tả các dấu hiệu của một tổ chức có tư cách
pháp nhân là:
- Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng kí hoặc
công nhận.
- Có cơ cấu tổ chức chặc chẽ.
- Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó.
- Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ dân sự một cách độc lập.
Qua các văn bản pháp luật đã ban hành và tính chất chủ thể trong các quan hệ dân sự, kinh
tế có thể đưa ra khái niệm pháp nhân như sau:
“Pháp nhân là một tổ chức thống nhất, độc lập, hợp pháp, có tài sản riêng và chịu trách
nhiệm bằng tài sản của mình nhân danh mình tham gia vào các quan hệ dân sự một cách
độc lập”.
1.2.2 Khái niệm hình phạt đối với pháp nhân

GVHD: Nguyễn Văn Tròn


SVTH: Trần Thị Kim Soan


Hệ thống hình phạt đối với pháp nhân phạm tội trong bối cảnh sửa đổi, bổ sung BLHS – Lý
luận và giải pháp hoàn thiện
Như chúng ta đã biết hình phạt là một dạng của trách nhiệm hình sự. Hình phạt là một
hình thức để thực hiện trách nhiệm hình sự và hình phạt chỉ có thể thực hiện khi có sự việc
phạm tội. Trên cơ sở đó để quy định hình phạt cho pháp nhân thì chúng ta phải quy định
trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân song song đó đưa ra hình phạt đối với các pháp nhân
phạm tội . Khi nói đến hình phạt thì chúng ta phải nói đến trách nhiệm hình sự vì không thể
tồn tại hình phạt mà không có trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết tội
phạm nói chung có thể tồn tại trách nhiệm hình sự mà không có hình phạt. Việc đặt ra trách
nhiệm hình sự đối với pháp nhân là cơ sở đầu tiên để quy định hình phạt đối với pháp nhân.
Cũng giống như hình phạt đối với cá nhân thì hình phạt dối với pháp nhân cũng có những
đặt điểm tương tự như: Hình phạt chỉ do một cơ quan tư pháp hình sự duy nhất, đó là Tòa án
có thẩm quyền áp dụng lên pháp nhân phạm tội. Hình phạt đối với pháp nhân chỉ được quy
định trong Bộ luật hình sự, đồng thời được Tòa án áp dụng theo một trình tự đặt biệt do luật
tố tụng hình sự quy định. Mặc dù, khi quy định hệ thống hình phạt thì giữa cá nhân và pháp
nhân có phần khác nhau. Chúng ta không thể áp dụng hình phạt tù hay tử hình lên pháp
nhân mà chúng ta có thể áp dụng những hình phạt khác tương tự. Nên suy cho cùng hình
phạt được áp dụng trên cá nhân hay pháp nhân cũng đều thể hiện mục đích cuối cùng của
hình phạt là tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của chủ thể bị kết án.
Từ những phân tích trên người viết đưa ra khái niệm hình phạt đối với pháp nhân:
“Hình phạt đối với pháp nhân là biện pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc nhất của
Nhà nước, được quy định trong Bộ luật hình sự và do Tòa án quyết định, áp dụng đối với
pháp nhân phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của pháp nhân đó”.
Đến thời điểm hiện nay, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, đã đến lúc cần bổ sung hệ thống
hình phạt đối với pháp nhân để xử lý đối với các trường hợp tổ chức kinh tế (pháp nhân) vì
chạy theo lợi ích cục bộ, đã thực hiện nhiều hành vi trái pháp luật mang tính chất tội phạm,

đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, gây hậu quả rất nghiêm trọng cho xã hội, cho nền kinh tế
nhưng chỉ xử lý hình sự đối với cá nhân mà trong nhiều trường hợp việc xác định trách
nhiệm cá nhân là rất khó khăn. Trong khi đó, tổ chức kinh tế, doanh nghiệp chỉ bị xử lý
bằng các chế tài hành chính, kinh tế, dân sự, không đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa. Vì
vậy, cần nghiên cứu khả năng bổ sung quy định hình phạt đối với pháp nhân vào BLHS.
1.2.2 Các điều kiện để trở thành pháp nhân.
Các điều kiện để trở thành pháp nhân là các dấu hiệu để công nhận một tổ chức có tư
cách là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự nói riêng và quan hệ pháp luật khác nói chung.
Các điều kiện của pháp nhân được xác định tại Điều 94 - Bộ luật dân sự 2005.
a. Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, công nhận, cho phép đăng kí.
Một tổ chức được coi là hợp pháp nếu có mục đích, nhiệm vụ hợp pháp và được thành lập
hợp pháp theo trình tự, thủ tục do luật định. Tổ chức hợp pháp được Nhà nước công nhận
dưới các dạng: Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, đăng kí hoặc công nhận (khoản
1 Điều 94 Bộ luật Dân sự 2005). Nhà nước bằng các quy định về trình tự, thủ tục thành lập,
điều kiện thành lập các tổ chức chi phối các tổ chức tồn tại trong xã hội. Việc công nhận sự
tồn tại của một tổ chức phụ thuộc vào hoạt động của tổ chức đó có phù hợp với lợi ích của
giai cấp thống trị hay không. Một khi sự tồn tại của một tổ chức (không chỉ là tổ chức chính
trị) có nguy cơ đến tồn tại của nền tảng xã hội, ảnh hưởng đến lợi ích của giai cấp thống trị
thì Nhà nước không cho phép nó tồn tại. Bởi vậy, chỉ những tổ chức hợp pháp được Nhà
nước công nhận sự tồn tại mới có thể trở thành chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật.
b. Có cơ cấu tổ chức chặc chẽ.
Trước tiên, tổ chức là một tập thể người được sắp xếp dưới một hình thái nào đó (doanh
nghiệp, công ty, bệnh viện, trường học, hợp tác xã,…) phù hợp với chức năng và lĩnh vực
hoạt động. Cơ cấu tổ chức chặt chẽ nhằm biến một tập thể người thành một thể thống nhất

GVHD: Nguyễn Văn Tròn

SVTH: Trần Thị Kim Soan



Hệ thống hình phạt đối với pháp nhân phạm tội trong bối cảnh sửa đổi, bổ sung BLHS – Lý
luận và giải pháp hoàn thiện
(một chủ thể) có khả năng thực hiện có hiệu quả nhất nhiệm vụ của tổ chức đó đặt ra khi
thành lập. Việc lựa chọn hình thức tổ chức như thế nào căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ của
tổ chức đó, căn cứ vào cách thức góp vốn thành tài sản của tổ chức. Ngoài ra, có thể còn do
tính chất, truyền thống về loại hình tổ chức và cả loại tên gọi của tổ chức đó. Thống nhất về
tổ chức được quy định trong quyết định thành lập, trong điều lệ mẫu, trong các văn bản
pháp luật, trong điều lệ của từng loại tổ chức hay từng tổ chức đơn lẻ.
Phải là một tổ chức độc lập. Một tổ chức độc lập hoàn toàn theo nghĩa rộng không tồn tại
trên thực tế mà bất kỳ một tổ chức nào cũng bị chi phối ở dạng này hay dạng khác của cá
nhân trong tổ chức đó, của các tổ chức khác và của Nhà nước. Sự độc lập của tổ chức là
pháp nhân chỉ giới hạn trong quan hệ với chủ thể khác, không bị chi phối bởi các chủ thể
khác khi quyết định các vấn đề có liên quan đến nhiệm vụ của tổ chức đó. Pháp nhân có ý
chí riêng và hành động theo ý chí của mình, chỉ với sự độc lập mà pháp luật thừa nhận thì
một tổ chức mới có thể trở thành một chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật. Nó chỉ bị
chi phối bởi mục đích và nhiệm vụ của pháp nhân khi quyết định các quan hệ mà nó tham
gia mà không bị chi phối bởi ý chí của các chủ thể khác. Sự tồn tại độc lập của tổ chức còn
thể hiện ở chỗ nó không phụ thuộc vào sự thay đổi các thành viên của pháp nhân (kể cả cơ
quan pháp nhân). Có rất nhiều tổ chức thống nhất nhưng không độc lập như các phòng, ban,
khoa,… trong các trường học, nó chỉ là một bộ phận của pháp nhân.
c. Có tài sản độc lập và tự chịu trách nhiệm độc lập bằng tài sản đó.
Để một tổ chức tham gia vào các quan hệ tài sản đối với tư cách là chủ thể độc lập, tổ chức
đó phải có tài sản riêng của mình – tài sản độc lập. Tài sản của pháp nhân độc lập với tài sản
của cá nhân – thành viên của pháp nhân, độc lập với cơ quan cấp trên của pháp nhân và các
tổ chức khác. Tài sản độc lập của pháp nhân là tài sản thuộc quyền của pháp nhân đó, do
pháp nhân chiếm hữu, sử dụng, định đoạt trong phạm vi nhiệm vụ và phụ hợp với mục đích
của pháp nhân. Tài sản của pháp nhân thể hiện ở dạng vốn, các tư liệu sản xuất và các loại
tài sản khác phù hợp với từng loại pháp nhân. Tài sản của pháp nhân được hình thành trên
nhiều cơ sở khác nhau dưới dạng được Nhà nước giao để thực hiện chức năng (các pháp
nhân là lực lượng vũ trang) được giao theo pháp luật về doanh nghiệp nhà nước; được

chuyển giao quyền sở hữu cho các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội; từ nguồn vốn đóng
góp của các thành viên, từ hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp… Tài sản của pháp
nhân có thể thuộc sở hữu nhà nước hoặc thuộc hình thức sở hữu hỗn hợp hoặc các hình thức
sở hữu khác, nhưng các pháp nhân thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt như
một chủ sở hữu trong khuôn khổ điều lệ hoặc quyết định thành lập pháp nhân ghi nhận.
Trên cơ sở có tài sản riêng, pháp nhân phải chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng của mình.
Pháp nhân tham gia vào các quan hệ tài sản và các quan hệ nhân thân như một chủ thể độc
lập, và phải chịu trách nhiệm về những hành vi được coi là “hành vi của pháp nhân”. Cơ
quan cấp trên không chịu trách nhiệm thay hay chịu trách nhiệm bổ sung cho pháp nhân.
Pháp nhân không chịu trách nhiệm thay cho cơ quan quản lý cấp trên của pháp nhân hoặc
cho thành viên của pháp nhân. Trách nhiệm của pháp nhân thuộc dạng trách nhiệm hữu hạn
trong phạm vi tài sản riêng của pháp nhân. Các thành viên của pháp nhân không dùng tài
sản riêng của mình để thực hiện các nghĩa vụ của pháp nhân.
Tài sản độc lập của pháp nhân và chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng là tiền đề vật chất để
một tổ chức tham gia vào quan hệ pháp luật như là một chủ thể độc lập.
d. Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ dân sự một các độc lập, có thể là nguyên
đơn, bị đơn trước Tòa án.
Với tư cách là một chủ thể độc lập, pháp nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật với tư
cách riêng, có khả năng hưởng quyền và gánh chịu các nghĩa vụ do pháp luật quy định
phù hợp với điều lệ của pháp nhân. Pháp nhân không núp dưới danh nghĩa của tổ chức

GVHD: Nguyễn Văn Tròn

SVTH: Trần Thị Kim Soan


Hệ thống hình phạt đối với pháp nhân phạm tội trong bối cảnh sửa đổi, bổ sung BLHS – Lý
luận và giải pháp hoàn thiện
khác, cũng không cho người khác núp dưới danh nghĩa mình để hoạt động. Khi pháp
nhân không thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc gây thiệt hại cho cá nhân và pháp nhân

khác, thì pháp nhân có thể là bị đơn trước Tòa án. Ngược lại, cá nhân hoặc pháp nhân
khác không thực hiện nghĩa vụ, hoặc gây thiệt hại cho pháp nhân, thì pháp nhân có quyền
khởi kiện trước Tòa án để bảo vệ quyền lợi của mình.
Việc phân định các điều kiện của pháp nhân thành ba hay bốn là tùy thuộc vào cách sắp
xếp trong các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, pháp nhân ở bất cứ hệ thống pháp luật nào
cũng phải thỏa mãn các điều kiện chung nhất:
- Đó là tiền đề về tổ chức để biến một tập thể người thành một chủ thể độc lập và hợp
pháp để tham gia vào các quan hệ pháp luật.
- Là tiền đề về vật chất để tham gia vào các quan hệ tài sản và tự chịu trách nhiệm bằng
tài sản đó.
- Tổng hợp các tiền đề tổ chức và vật chất để một tổ chức có tư cách chủ thể tham gia
vào các quan hệ tài sản, các quan hệ nhân thân trong khuôn khổ pháp luật và điều lệ
của pháp nhân quy định.
- Các điều kiện của pháp nhân nêu trên là một thể thống nhất không tách rời nhau, hợp
thành tư cách chủ thể của pháp nhân.
1.2.3 Cơ sở của việc áp dụng hệ thống hình phạt đối với pháp nhân
Xuất phát từ tình hình vi phạm pháp luật của pháp nhân Việt Nam trong những năm gần
đây mang tính phổ biến, với mức độ nguy hiểm ngày càng cao, gây thiệt hại nghiêm trọng
cho kinh tế xã hội và cho đời sống nhân dân, đòi hỏi phải có biện pháp xử lý để ngăn chặn
hành vi này. Cụ thể:
Theo quy định của pháp luật hiện hành, khi pháp nhân là các doanh nghiệp có hành vi vi
phạm thì chỉ có thể áp dụng biện pháp xử lý hành chính hoặc buộc pháp nhân phải bồi
thường thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra theo quy định của pháp luật dân sự.
a) Áp dụng biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với pháp nhân
- Theo quy định của Điểm b Khoản 1 Điều 5 Luật Xử lý vi phạm hành chính thì “Tổ chức
bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra”. Đồng thời, theo
giải thích tại Khoản 1 Điều 2 của Luật thì “Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá
nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không
phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”.
- Về hình thức xử phạt: Theo Khoản 1 Điều 21 Luật Xử lý vi phạm hành chính, tổ chức,

pháp nhân vi phạm hành chính có thể bị áp dụng một trong các hình thức là cảnh cáo; phạt
tiền; tước quyền sử dụng giấy phép, đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính, trục xuất. Trong đó cảnh cáo, phạt tiền là biện pháp phạt
chính; tước quyền sử dụng giấy phép, đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính, trục xuất có thể được áp dụng là biện pháp phạt chính
hoặc là biện pháp xử phạt bổ sung.
- Ngoài việc bị áp dụng hình thức xử phạt như đã nêu ở trên, pháp nhân vi phạm còn có thể
áp dụng một hay nhiều biện pháp khác phục hậu quả quy định tại Khoản 1 Điều 28 Luật Xử
lý vi phạm hành chính là: buộc khôi phục tình trạng ban đầu; buộc tháo dỡ công trình, buộc
áp dụng biện pháp khắc phục ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh; buộc đưa ra khỏi lãnh
thổ hoặc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương tiện; buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm; buộc
cải chính thông tin; buộc thu hồi sản phẩm; buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp…Cũng theo
quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính, mức phạt tiền đối với pháp nhân bằng 02 lần
mức phạt đối với cá nhân và mức phạt tối đa là 2 tỷ đồng, trừ các trường hợp luật chuyên
ngành quy định khác (Điểm e Khoản 1 Điều 3, Điều 23).

GVHD: Nguyễn Văn Tròn

SVTH: Trần Thị Kim Soan


Hệ thống hình phạt đối với pháp nhân phạm tội trong bối cảnh sửa đổi, bổ sung BLHS – Lý
luận và giải pháp hoàn thiện
Như vậy, Luật Xử lý vi phạm hành chính tuy đã được điều chỉnh theo hướng nâng mức phạt
cao hơn so với trước kia, nhưng cũng không đủ sức răn đe doanh nghiệp, tổ chức vi phạm.
Mức phạt tối đa theo Điểm k Khoản 1, Khoản 2 Điều 24 Luật Xử lý vi phạm hành chính áp
dụng đối với tổ chức đến 2 tỷ đồng chỉ trong một số lĩnh vực (quản lý các vùng biển, đảo và
thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quản lý hạt nhân và chất phóng
xạ, năng lượng nguyên tử; tiền tệ, kim loại quý, đá quý, ngân hàng, tín dụng; thăm dò, khai
thác dầu khí và các loại khoáng sản khác; bảo vệ môi trường), trong khi đó hậu quả do hành

vi vi phạm của pháp nhân gây ra trong nhiều trường hợp là đặc biệt nghiêm trọng. Với mức
phạt như hiện hành thì đối với pháp nhân là các doanh nghiệp lớn hoàn toàn không đủ sức
răn đe. Nhiều trường hợp pháp nhân sẽ chấp nhận nộp phạt để tiếp tục vi phạm.
Trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính hiện nay đối với vi phạm
của pháp nhân cũng gặp nhiều khó khăn nhất là việc xác minh hành vi vi phạm và mức độ
thiệt hại do hành vi vi phạm của pháp nhân gây ra, do vậy, các cơ quan có thẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính gặp rất nhiều khó khi áp dụng các biện pháp phạt hành chính hay
các biện pháp xử lý hành chính khác.
Nếu so với thủ tục tư pháp hình sự (khi chúng ta coi pháp nhân là chủ thể của TNHS) thì rõ
ràng, sự vào cuộc của một cơ quan điều tra chuyên trách, với một trình tự, thủ tục tố tụng tư
pháp chặt chẽ, khách quan làm cho hoạt động thu thập chứng cứ, xác minh tội phạm và
chứng minh thiệt hại gây ra sẽ thuận lợi hơn nhiều. Mặt khác, với tư cách là đối tượng bị xử
phạt, vì xử lý theo thủ tục hành chính, nên pháp nhân có ít điều kiện hơn trong việc bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của mình như: không nhận được sự trợ giúp của người bào chữa, không
được quyền xét xử theo hai cấp với một cơ quan tài phán độc lập, khách quan và công bằng.
b) Áp dụng biện pháp buộc khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại đối với pháp nhân có
hành vi vi phạm
Việc buộc pháp nhân khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại được thực hiện theo quy định
của pháp luật về dân sự. Điều đó có nghĩa là để được bồi thường, người bị thiệt hại phải
khởi kiện vụ án dân sự ra trước Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bồi thường thiệt hại mà
pháp nhân gây ra cho mình theo quy định về bồi thường ngoài hợp đồng.
- Một trong những nguyên tắc áp dụng biện pháp buộc bồi thường thiệt hại theo chế độ bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng đặt ra yêu cầu đối với người bị thiệt hại phải tự chứng minh
mức độ thiệt hại. Trong khi đó, để chứng minh được mức độ thiệt hại, nhất là thiệt hại do
hành vi gây ô nhiễm môi trường (như ô nhiễm đất, không khí, nguồn nước…) không phải là
chuyện đơn giản và không phải lúc nào thiệt hại đó cũng biểu hiện ngay lập tức. Do vậy,
nếu chỉ quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong luật dân sự của pháp nhân vi phạm
thì người dân khó có điều kiện để thực hiện quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại của mình.
- Theo quy định hiện hành, đối với các pháp nhân là doanh nghiệp có hành vi vi phạm có
thể bị xử lý thông qua khởi kiện vụ án dân sự, nhưng trên thực tế, do hành vi xảy ra trong

một khoảng thời gian dài, với nhiều đối tượng bị hại khác nhau nên việc xác định ai là
người khởi kiện gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, theo quy định hiện hành thì việc khởi kiện
đòi bồi thường thiệt hại luôn đi kèm theo một mức án phí dân sự rất lớn nên, đã gây ra nhiều
cản trở cho người dân trong việc đòi bồi thường thiệt hại. Như vậy, trước hành vi vi phạm
của tổ chức, doanh nghiệp, người dân vừa bị thiệt hại lại vừa phải đi tự chứng minh thiệt hại
trước khi đòi bồi thường. Trong khi đó, nếu coi pháp nhân là chủ thể của tội phạm thì việc
chứng minh tội phạm và xác định mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm của tổ chức, pháp
nhân gây ra thuộc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng với một quy trình tố tụng chặt
chẽ, nhanh chóng, khách quan và công bằng. Do vậy, có thể nói, việc chưa quy định trách
nhiệm hình sự của pháp trong BLHS là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng xử lý
không dứt điểm trong vụ kiện người dân của ba tỉnh đòi bồi thường thiệt hại trong Vụ Vedan.

GVHD: Nguyễn Văn Tròn

SVTH: Trần Thị Kim Soan


Hệ thống hình phạt đối với pháp nhân phạm tội trong bối cảnh sửa đổi, bổ sung BLHS – Lý
luận và giải pháp hoàn thiện
Như vậy, theo quy định hiện hành, đồng thời với biện pháp xử lý hành chính, các pháp nhân
phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại gây ra. Tuy nhiên, trên thực tế việc bồi thường thiệt
hại hầu như ít khi được thực hiện. Bởi vì, thứ nhất, bản thân người bị thiệt hại do hành vi vi
phạm của pháp nhân gây ra không đủ kiến thức pháp lý cũng như nguồn lực tài chính để
chứng minh tổn thất, thiệt hại của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, nhất là các
vi phạm về môi trường, để khởi kiện yêu cầu pháp nhân bồi thường thiệt hại; thứ hai, trong
nhiều trường hợp, số tiền tạm ứng án phí dân sự vượt quá khả năng của người khởi kiện; thứ
ba, đa số các trường hợp thiệt hại do pháp nhân gây ra cho rất nhiều người và không phải cá
nhân nào cũng muốn hoặc đủ khả năng khởi kiện, làm cho việc giải quyết vụ án bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng thiếu hiệu quả, thiếu triệt để, thiếu toàn diện và kéo dài...Ví dụ: Vụ
xả thải của công ty Vedan là một minh chứng cụ thể sinh động về những bất cập trong việc

buộc Công ty này phải bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm xả thải cho những người bị
gây thiệt hại. Nông dân Cần Giờ được hỗ trợ án phí nên khởi kiện vụ án dân sự; trong khi
nông dân Đồng Nai vì không chứng minh được và khó khăn trong việc nộp án phí cho nên
chỉ yêu cầu Vedan hỗ trợ một số tiền nhất định; Vụ Công ty Nicotex Thành Thái, nhân dân
của năm xã bị ô nhiễm không được bồi thường vì không có căn cứ khởi kiện đòi bồi
thường...Bên cạnh đó, trong lĩnh vực thi hành án cũng còn nhiều bất cập, vì việc thi hành
Quyết định xử phạt hành chính như buộc khắc phục hậu quả... rất khó được thi hành trên
thực tế với tính cưỡng chế thấp hơn so với việc thi hành bản án, quyết định tư pháp của Tòa
án. Xét dưới khía cạnh khả năng bồi thường thiệt hại, việc chỉ xử lý TNHS đối với cá nhân
sẽ dẫn đến việc pháp luật chỉ buộc cá nhân đó dùng tài sản của mình để bồi thường thiệt hại.
Điều này hoàn toàn không phù hợp trong trường hợp giá trị thiệt hại rất lớn và đối tượng bị
gây thiệt hại có thể lên đến hàng nghìn người.
c. Bất cập về chính sách xử lý hình sự
Cho đến thời điểm này, chính sách hình sự của nhà nước ta chỉ xử lý về hình sự đối với chủ
thể phạm tội là các cá nhân. Tuy nhiên, trong điều kiện chúng ta đang triển khai thi hành
Hiến pháp năm 2013 tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và Luật doanh nghiệp (sửa đổi) có hiệu lực, chính sách này tỏ ra không phù hợp, vì
hoạt động quản lý của các doanh nghiệp có thể được quyết định bởi cá nhân Giám đốc hoặc
người điều hành doanh nghiệp, nhưng cũng không ít trường hợp các quyết định đưa ra (bao
gồm cả những quyết định vi phạm) trên cơ sở bàn bạc, biểu quyết tập thể (ví dụ Điều 60
Luật Doanh nghiệp). Về thực chất, đây là trường hợp lãnh đạo tập thể, quyết định tập thể và
hưởng lợi tập thể. Trong những trường hợp này, vai trò của giám đốc điều hành chỉ là người
chấp hành quyết định của tập thể. Vì vậy, nếu vẫn chỉ buộc một số cá nhân chịu trách nhiệm
hình sự; những người khác cũng biểu quyết, được hưởng lợi từ những quyết định tập thể ấy
là thiếu công bằng.
Điều này càng thấy rõ đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc các loại
hình công ty cổ phần, khi mà phần lớn chủ sở hữu thực sự của doanh nghiệp, pháp nhân này
lại không phải là người trực tiếp điều hành doanh nghiệp. Do đó, nếu cứ duy trì chính sách
hình sự chỉ xử lý cá nhân người phạm tội như hiện nay, thì chúng ta mới chỉ xử lý đến cá
nhân người trực tiếp điều hành doanh nghiệp mà chưa xử lý những ông chủ thật sự - người

được hưởng lợi chính từ những hành vi vi phạm của doanh nghiệp.
d. Xu thế hội nhập quốc tế đặt ra yêu cầu cần thay đổi chính sách xử lý hình sự đối với pháp
nhân ở Việt Nam
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, Việt Nam đã trở thành thành viên của
nhiều công ước quốc tế về phòng, chống tội phạm như: Công ước chống tội phạm có tổ
chức xuyên quốc gia, Công ước chống tham nhũng, Công ước chống tài trợ khủng bố, 40
Khuyến nghị của FATF về chống rửa tiền,…thì việc bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế

GVHD: Nguyễn Văn Tròn

SVTH: Trần Thị Kim Soan


Hệ thống hình phạt đối với pháp nhân phạm tội trong bối cảnh sửa đổi, bổ sung BLHS – Lý
luận và giải pháp hoàn thiện
trong đó có vấn đề về trách nhiệm hình sự và hình phạt của pháp nhân, nhằm tăng cường
hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm là hết sức cần thiết.
- Việc quy định trách nhiệm pháp lý của pháp nhân (hành chính hoặc hình sự) để xử lý hành
vi của pháp nhân tham gia vào các tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, tham nhũng, rửa
tiền, buôn bán người, tài trợ khủng bố là nghĩa vụ quốc tế bắt buộc của nước ta với tư cách
là quốc gia thành viên Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, Công ước
chống tham nhũng, thành viên Nhóm Châu Á- Thái Bình Dương về phòng, chống rửa tiền
(APG). Với tư cách là quốc gia thành viên APG, nước ta có trách nhiệm thực hiện đầy đủ
các Khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF), trong đó có
Khuyến nghị 2 liên quan đến việc quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân". Do tính
chất nguy hiểm của các loại hành vi vi phạm này nên BLHS hiện hành đã xác định là tội
phạm và phải bị xử lý hình sự. Tuy nhiên, hiện nay, chúng ta mới xử lý hình sự đối với cá
nhân, còn đối với pháp nhân tham gia thực hiện tội phạm, trong đó có tội phạm tham nhũng,
rửa tiền, buôn bán người, tài trợ khủng bố ..... thì không bị xử phạt vi phạm hành chính cũng
không bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì Luật Xử lý vi phạm hành chính không quy định xử

phạt đối với những hành vi này mà BLHS thì cũng chưa quy định về trách nhiệm hình sự của
pháp nhân. Điều này đã tạo ra khoảng trống trong việc xử lý vi phạm của pháp nhân ở nước ta,
dẫn đến tình trạng cá nhân có hành vi tham nhũng, rửa tiền, buôn bán người, tài trợ khủng
bố, ... thì bị xử lý hình sự, còn nếu pháp nhân cũng thực hiện các hành vi phạm tội này, thậm
chí là ở quy mô và mức độ nghiêm trọng hơn thì không có cơ sở pháp lý để xử lý, kể cả hình sự
lẫn hành chính.
- Theo số liệu thống kê, hiện có 119 nước trên thế giới đã quy định TNHS của pháp nhân.
Trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á có 5/10 nước đã quy định chính thức và 2/10
nước (Lào và Brunei) đang trong quá trình xem xét. Từ số liệu này cho thấy, nếu ta không
quy định TNHS của pháp nhân và thiết lập hệ thống hình phạt đối với pháp nhân, thì khi
doanh nghiệp Việt Nam ta ra nước ngoài có thể bị xử lý hình sự (nặng hơn nhiều so với xử
phạt hành chính), còn doanh nghiệp nước ngoài đầu tư tại Việt Nam, vi phạm pháp luật Việt
Nam lại chỉ có thể bị phạt cao nhất 2 tỷ đồng 7. Hơn nữa, trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế ngày nay, nhất là vào cuối năm nay sẽ hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN, cơ hội
các doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài đầu tư, làm ăn ngày càng nhiều và ngược lại các
doanh nghiệp nước ngoài cũng vào Việt Nam đầu tư, làm ăn. Nếu ta chỉ áp dụng cơ chế xử
phạt hành chính đối với pháp nhân vi phạm thì sẽ có sự bất công là cùng hành vi vi phạm
nghiêm trọng tương tự nhau mà doanh nghiệp nước ta hoạt động ở nước ngoài thì bị xử lý
hình sự theo pháp luật của nước sở tại (nhất là ở 06 nước ASEAN có quy định xử phạt hình
sự pháp nhân), còn đối với doanh nghiệp hoạt động ở nước ta (kể cả doanh nghiệp Việt
Nam lẫn doanh nghiệp nước ngoài) thì chỉ bị xử phạt hành chính
Tóm lại, thực tiễn thời gian qua cho thấy, tình hình vi phạm của các tổ chức cơ bản là tổ
chức kinh tế (pháp nhân) diễn ra khá phổ biến và nhiều trường hợp gây hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, môi trường. Trong khi đó, cơ chế xử lý hành
chính, dân sự hiện hành tỏ ra không hiệu quả, tính răn đe phòng ngừa của các chế tài xử lý
này không cao, hậu quả pháp lý của việc xử lý này đối với doanh nghiệp vi phạm chưa có
sức nặng đủ để phòng ngừa tái phạm nên chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng,
chống hành vi vi phạm của các công ty, doanh nghiệp. Thêm vào đó là yêu cầu hội nhập
quốc tế. Điều này đòi hỏi chúng ta phải có biện pháp xử lý mạnh mẽ hơn, nghiêm khắc hơn
7


Về vấn đề này, một số ý kiến cho rằng, ta đang chủ trương thu hút vốn đầu tư, nên nếu quy định TNHS của pháp nhân
sẽ tạo nên tâm lý e ngại của Nhà đầu tư. Tuy nhiên, thu hút vốn đầu tư để phạt triển đất nước là một chủ trương đúng,
nhưng không phải bằng mọi giá và ngay cả những Nhà đầu tư nước ngoài cùng cần được đối xử bình đẳng giữa Nhà
đầu tư chấp hành đúng pháp luật và Nhà đấu tư vi phạm pháp luật.

GVHD: Nguyễn Văn Tròn

SVTH: Trần Thị Kim Soan


Hệ thống hình phạt đối với pháp nhân phạm tội trong bối cảnh sửa đổi, bổ sung BLHS – Lý
luận và giải pháp hoàn thiện
để bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và truy xét đến cùng trách nhiệm của công ty,
doanh nghiệp đối với hành vi vi phạm nguy hiểm mang tính chất tội phạm mà một trong
những biện pháp đó chính là xử lý hình sự đối với các công ty, doanh nghiệp vi phạm. Trên
tinh thần đó, dự thảo BLHS (sửa đổi) đã bổ sung quy định về trách nhiệm hình sự của pháp
nhân và trên cơ sở đó chúng ta sẽ thiết lập một hệ thống hình phạt để áp dụng lên pháp nhân
phạm tội.
1.3 Sơ lược về hệ thống hình phạt của pháp nhân trên thế giới và ở Việt Nam.
1.3.1 Trong hệ thống pháp luật các nước trên thới giới
Đối với hệ thống chế tài áp dụng đối với pháp nhân, nghiên cứu luật hình sự nước ngoài quy
định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân cho thấy hình phạt quy định với pháp nhân
phạm tội ở mỗi nước cũng rất khác nhau, có nước chỉ quy định hình phạt tiền là hình phạt
duy nhất như các nước theo truyền thống Common law và Trung quốc, trong khi các nước
khác như Pháp, Bỉ, Hà Lan lại quy định một hệ thống hình phạt có thể áp dụng đối với pháp
nhân. Để tìm hiểu rõ hơn hệ thống hình phạt áp dụng đối với pháp nhân ở mỗi nước. Đồng
thời, có cái nhìn tổng quan về các chế tài quy định đối với pháp nhân nhằm học hỏi kinh
nghiệm lập pháp ta sẽ đi sâu nghiên cứu từng hệ thống hình phạt của mỗi nước .
1.3.1.1 Hệ thống hình phạt của pháp nhân ở Trung Quốc.

Nghiên cứu lịch sử tiến triển của pháp luật hình sự Trung Quốc kể từ khi thành lập nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cho thấy trong một thời gian dài pháp luật hình sự ở nước
này không thừa nhận trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân, ngay cả khi ban hành Bộ luật
hình sự năm 1979 thì nước này vẫn giữ quan niệm truyền thống là trách nhiệm hình sự chỉ
đặt ra đối với cá nhân. Tuy nhiên, trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực dân sự, hành chính,
môi trường... lại được quy định áp dụng đối với pháp nhân.
Từ khi có Luật hải quan năm 1987, Trung Quốc đã quy định pháp nhân, tổ chức, đơn vị, có
thể là chủ thể chịu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm buôn lậu. Tiếp theo đó, nước này
đã ban hành một loạt các đạo luật chuyên biệt và trong đó có các quy phạm khác nhau quy
định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân, tổ chức.
Sau hơn 20 năm cải cách thì nền kinh tế Trung Quốc ngày càng phát triển, để đáp ứng nhu
cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lần pháp điển hóa lần thứ hai Trung Quốc đã
ban hành Bộ luật hình sự 1997 thay thế Bộ luật hình sự 1979, Trung Quốc đã chính thức
thiết lập trách nhiệm hình sự của pháp nhân với tư cách là một nguyên tắc chung của pháp
luật hình sự. Điều 30 Tiết 4 Chương III Phần chung Bộ luật hình sự quy định: “ Công ty,
doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, đoàn thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi
là tội phạm theo quy định của luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự”. Từ việc quy định
trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân, tổ chức thì Bộ luật này cũng đưa ra hình phạt để xử
lý những trường hợp phạm tội. Tuy nhiên, điều đặc biệt là nếu như các nước khác như Anh,
Pháp, Hà Lan,... quy định cả một hệ thống hình phạt đối với pháp nhân thì pháp luật Trung
Quốc chỉ quy định một hình phạt duy nhất áp dụng đối với pháp nhân là hình phạt tiền. Tại
Điều 31 Tiết 4 Chương III Phần chung Bộ luật hình sự Trung Quốc quy định: “Đơn vị phạm
tội sẽ bị phạt tiền. Người phụ trách và những người có trách nhiệm trực tiếp khác của đơn vị
cũng phải chịu trách nhiệm hình sự. Trường hợp có những quy định khác được quy định
trong Phần các điều khoản đặc biệt của luật này hoặc trong các luật khác, thì sẽ áp dụng các
quy định đó”. Theo điều luật chúng ta có thể thấy ở Trung Quốc không có một hệ thống
hình phạt để áp dụng đối với pháp nhân phạm tội, các pháp nhân nếu như phạm tội thì chỉ bị
áp dụng một hình phạt duy nhất là phạt tiền. Ngoài ra, theo điều luật chúng ta cũng có thể
thấy trách nhiệm ở đây là trách nhiệm đồng thời, có nghĩa là trách nhiệm hình sự của pháp


GVHD: Nguyễn Văn Tròn

SVTH: Trần Thị Kim Soan


Hệ thống hình phạt đối với pháp nhân phạm tội trong bối cảnh sửa đổi, bổ sung BLHS – Lý
luận và giải pháp hoàn thiện
nhân và của một hay nhiều cá nhân được đồng nhất hóa cho cùng một tội phạm, tức là cá
nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gì thì pháp nhân cũng bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội đó. Đồng thời, với quy định trên cho thấy Điều 31 Bộ luật hình sự Trung
Quốc đã thiết lập tính hai mặt – tính nhị nguyên của chế tài hình sự. Trong trường hợp pháp
nhân phạm một tội cụ thể, thẩm phán cần phải áp dụng hình phạt tiền đối với pháp nhân và
các hình phạt khác đối với người lãnh đạo phụ trách hoặc người có trách nhiệm trực tiếp.
Những quy định riêng của Bộ luật hình sự đã dự liệu hai mức độ hình phạt và loại hình phạt
đối với cá nhân bị trừng phạt liền ngay sau bản án tuyên đối với pháp nhân phạm tội. Đối
với một số tội phạm, pháp luật hình sự Trung Quốc quy định hình phạt áp dụng đối với pháp
nhân phạm tội tương tự như đối với cá nhân phạm cùng một tội.
Nhưng đối với nhiều tội phạm, pháp nhân phạm những tội này lại được xử phạt nhẹ hơn so
với hình phạt được dự liệu đối với cá nhân phạm cùng một tội. Ví dụ: tội buôn lậu được quy
định tại Điều 152 như sau: người nào vì mục đích kiếm lời hay vì mục đích truyền bá mà
buôn lậu phim ảnh, sách báo, băng ghi âm, băng video đồi trụy, hay những vật phẩm đồi
trụy khác thì đối với pháp nhân phạm tội thì phạt tiền còn đối với cán bộ chủ quản phụ trách
trực tiếp và cán bộ chịu trách nhiệm trực tiếp thì bị xử phạt tù từ 3 năm đến 10 năm và bị
phạt tiền, nếu có tình tiết giảm nhẹ thì phạt tù từ 3 năm trở xuống, cải tạo lao động hoặc
quản chế và bị phạt tiền. Hoặc ví dụ khác, các điều 192, 194, 195 Bộ luật hình sự nêu trên
về tội trốn thuế có quy định, hình phạt nghiêm khắc nhất áp dụng đối với pháp nhân phạm
tội này cũng chỉ là phạt tiền nhưng đối với người đại diện cho pháp nhân này phạm tội vì lợi
ích của nó sẽ bị phạt, tùy trường hợp không vượt quá 10 năm tù hoặc tù chung thân.
Mặc dù, Bộ luật hình sự Trung Quốc đã có sự điều chỉnh cụ thể chế định trách nhiệm hình sự
của pháp nhân nhưng còn nhiều vấn điều quan trọng vẫn chưa được quy định như: phạm vi,

điều kiện áp dụng trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân, vấn đề lỗi, vấn đề đồng nhất hóa
trách nhiệm hình sự của cá nhân và pháp nhân. Tuy nhiên, do đặc điểm kinh tế, chính trị, xã
hội của Trung Quốc có phần giống Việt Nam, hơn nữa cũng là nước đang trong quá trình
chuyển đổi, nên việc nghiên cứu những kinh nghiệm của nước này sẽ giúp ích cho nước ta
trong việc xây dựng hệ thống pháp luật nói chung cũng như hệ thống hình phạt của pháp
nhân nói riêng trong tương lai. Chúng ta nên nghiên cứu Bộ luật hình sự Trung Quốc bằng
cách tiếp thu có chọn lọc nhằm bổ sung, hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam.
1.3.1.2 Hệ thống hình phạt của pháp nhân ở nước Anh
Kể từ sau cách mạng Pháp năm 1789, Anh là nước đầu tiên xác lập chế định trách nhiệm
hình sự của pháp nhân trong pháp luật hình sự trên cơ sở các án lệ của Tòa án, sau đó trách
nhiệm hình sự của pháp nhân lan tỏa ra toàn bộ các nước trong truyền thống Common Law
như: Hoa Kỳ, Cannada, Ôxtrâylia, Niu Dilân. Hiện nay, chế định trách nhiệm hình sự của
pháp nhân được tiếp nhận ở nhiều nước trên thế giới.
Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ở Anh cho thấy tình hình tội phạm có tổ chức,
đặc biệt là các vi phạm và tội phạm do pháp nhân thực hiện trên các lĩnh vực kinh tế,
thương mại, môi trường,... ngày càng nhiều và diễn biến phức tạp, gây hậu quả, tác hại lớn
cho lợi ích xã hội. Đứng trước tình hình đó, với chính sách hình sự mềm dẻo nhằm nâng cao
hiệu qua đấu tranh phòng, chống tội phạm, Tòa án Anh đã áp dụng trách nhiệm hình sự đối
với pháp nhân, coi pháp nhân là một thực thể xã hội chứ không phải là một trừu tượng pháp
lý, không phải là con số cộng của các cá nhân. Thực thể xã hội này có sự tồn tại của chính
nó và với tư cách đó nó phải tự mình chịu trách nhiệm về những hành vi phạm tội đã thực
hiện.
Trong thực tiễn xét xử và theo giải thích trong Luật giải thích các đạo luật năm 1978 đã coi
pháp nhân với tư cách là chủ thể của trách nhiệm hình sự có thể là những thực thể tổ chức
hoặc thực thể cá thể có tư cách pháp nhân, nhưng cũng có thể là các nhóm, hội, hiệp hội...

GVHD: Nguyễn Văn Tròn

SVTH: Trần Thị Kim Soan



Hệ thống hình phạt đối với pháp nhân phạm tội trong bối cảnh sửa đổi, bổ sung BLHS – Lý
luận và giải pháp hoàn thiện
không có tư cách pháp nhân. Như vậy, pháp nhân, tổ chức với tư cách là chủ thể trách
nhiệm hình sự rộng hơn nhiều so với pháp nhân với tư cách là chủ thể chịu trách nhiệm dân
sự, thương mại, kinh tế.
Pháp nhân có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hầu hết các tội phạm được quy định
trong Common Law và luật thành văn, chỉ trừ một số tội nghiêm trọng và một số tội khác do
bản chất của nó nên pháp nhân không thể thực hiện được.
Trong quá trình áp dụng chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân, các Tòa án Anh cũng
gặp những trở ngại mà chính vì những trở ngại đó mà nhà làm luật của nhiều nước, trong đó
có Việt Nam, ngập ngừng chưa tiếp nhận nguyên tắc này, đó là do có quan niệm coi pháp
nhân là những thực thể trừu tượng pháp lý nên không có ý chí, ý thức, không có mong muốn
cá nhân, do đó, không thể tự mình thực hiện tội phạm và cũng không thể phạm lỗi hình sự
được. Ngoài ra, đối với pháp nhân không thể áp dụng các hình phạt cổ điển như tù giam, tử
hình,...
Tuy nhiên, qua thực tiễn xét xử, các Tòa án Anh đã đưa ra những giải pháp khác nhau để có
thể áp dụng chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Một trong những giải pháp đó mà
hiện nay pháp luật hình sự nước này đã hoàn toàn chấp nhận đó là lý thuyết đồng nhất hóa
mà theo lý thuyết này một hoặc một số người giữ vị trí lãnh đạo – người có quyền quyết
định trong pháp nhân, được đồng nhất hóa với pháp nhân tới mức các hành vi phạm tội mà
họ thực hiện vì lợi ích hoặc trong khuôn khổ các hoạt động của pháp nhân luôn luôn được
đánh giá như là các hành vi phạm tội của pháp nhân. Tồn bộ các thành phần lỗi thuộc về
những người này cũng được coi là của pháp nhân. Còn về hình phạt, do sự phát triển mạnh
của hình phạt tiền nên pháp luật hình sự Anh cũng như pháp luật hình sự ở Trung Quốc chỉ
quy định phạt tiền là hình phạt duy nhất áp dụng đối với pháp nhân phạm tội.
Ở Vương quốc Anh, không có một văn bản pháp luật nào quy định cụ thể về hệ thống hình
phạt. Tuy nhiên, lại có một số lượng lớn luật quy định về thẩm quyền của các tòa hình sự về
việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Mặc dù vậy, ở Vương quốc Anh tồn tại
một hệ thống hình phạt rất linh hoạt. Đặc trưng cơ bản của hệ thống này là được quy định

trong luật hình sự, hệ thống hình phạt là bắt buộc đối với các Tóa án và là hệ thống đầy đủ
các hình phạt có mối liên hệ với nhau.
Hệ thống hình phạt ở Anh không phân chia ra thành hình phạt chính và hình phạt bổ sung.
Vì thế tất cả các hình phạt có thể thay thế và bổ sung cho nhau. Phân tích pháp luật và thực
tiễn xét xử cho phép đưa ra mối quan hệ tồn tại giữa một số loại hình phạt đó là trong
trường hợp người phạm tội từ chối cháp hành hình phạt nhẹ hơn thì có thể dẫn đến việc bị
thay thế bằng một hình phạt nặng hơn. Chẳng hạn trường hợp vi phạm điều kiện thử thách,
không đóng tiền phạt và không thực hiện các hình phạt khác thì có thể dẫn đến việc thay thế
các hình phạt này bằng hình phạt tù. Ngoài ra, nếu ta phân ra một nhóm hình phạt mà Tòa
án chỉ có thể áp dụng nếu có sự đồng ý của bị cáo. Cần phải nói thêm rằng xuất phát từ mục
đích xã hội, nhu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong những năm gần đây hệ thống
hình phạt được phát triển theo hướng phân hóa, đặc biệt là các hình phạt đối với người chưa
thành niên hoặc đối với người trẻ tuổi, người vi phạm không đáng kể. Xu hướng làm luật
của các nhà làm luật ở Anh là hạn chế sử dụng đến hình phạt tù, chỉ sử dụng trong những
trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng.
1.3.1.3 Trong hệ thống pháp luật Hà Lan.
Trong cổ luật Hà Lan và các nước Châu Âu khác đã thừa nhận nguyên tắc trách nhiệm hình
sự của pháp nhân, nhưng kể từ khi Bộ luật hình sự Napôlêông được áp dụng ở nước này, thì
về nguyên tắc, trách nhiệm hình sự của pháp nhân không được áp dụng ở Hà Lan nữa. Tuy
nhiên, trên lĩnh vực chuyên biệt về thuế quan, trách nhiệm hình sự của pháp nhân vẫn được
áp dụng theo Điều 231 của Luật chung ngày 26-8-1822 và Điều 13 Luật chung về hải quan

GVHD: Nguyễn Văn Tròn

SVTH: Trần Thị Kim Soan


Hệ thống hình phạt đối với pháp nhân phạm tội trong bối cảnh sửa đổi, bổ sung BLHS – Lý
luận và giải pháp hoàn thiện
năm 1870. Đến năm 1886, Hà Lan ban hành bộ luật hình sự mới thay thế cho bộ luật hình

sự Napôlêông năm 1810. Bộ luật hình sự năm 1886 chỉ quy định chung về chế độ trách
nhiệm hình sự của cá nhân, còn pháp nhân phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Ngày 22-6-1950, Hà lan đã ban hành luật về các tội phạm kinh tế (gọi tắt là WED). Điều
đáng quan tâm là WED không chỉ quy định trách nhiệm hình sự của cá nhân mà còn quy
định trách nhiệm hình sự của pháp nhân phạm tội về kinh tế. Cho đến khi Quốc hội Hà Lan
ban hành luật ngày 23-6-1976, trách nhiệm hình sự của pháp nhân mới thực sự trở thành
một nguyên tắc chung của pháp luật hình sự Hà Lan. Nguyên tắc này sau đó được ghi nhận
tại Điều 51 Bộ luật hình sự hiện hành, được áp dụng không chỉ trong pháp luật hình sự Phần
chung mà còn được áp dụng trong các lĩnh vực của pháp luật hình sự Phần các tội phạm
như: về thuế, môi trường, lao động, thương mại hoặc các lĩnh vực khác.
Việc ghi nhận nguyên tắc trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong Bộ luật hình sự cũng
đồng nghĩa với việc Hà Lan từ bỏ dứt khoát nguyên tắc pháp nhân không phải chịu trách
nhiệm hình sự. Nhà làm luật ở nước này đã coi pháp nhân là một thực thể xã hội chứ không
phải là một trừu trượng pháp lý, không phải là con số cộng của các cá nhân. Thực thể xã hội
này có sự tồn tại của chính nó và với tư cách này nó phải tự chịu trách nhiệm hình sự về
những hành vi phạm tội mà nó thực hiện.
Pháp nhân với tư cách là chủ thể của tội phạm được quy định rất rộng. Nó bao gồm các
pháp nhân theo luật tư và các pháp nhân theo luật công. Tư cách pháp nhân theo Luật Dân
sự và Luật thương mại không có ý nghĩa cho việc xác định trách nhiệm hình sự của pháp
nhân.
Nguyên tắc trách nhiệm hình sự của pháp nhân được đưa vào Điều 51 Bộ luật hình sự hiện
hành là nguyên tắc chung được áp dụng đối với mọi tội phạm, có nghĩa là các tội phạm có
thể được thực hiện bởi cả cá nhân và pháp nhân.
Để quy kết tội phạm do cá nhân thực hiện cho pháp nhân phải có các căn cứ, thứ nhất là tội
phạm đã được thực hiện bởi một cá nhân và người này giữ vị trí lãnh đạo trong pháp nhân
như người đã ra lệnh hoặc là người quản lý hoặc điều hành thực tế việc thực hiện tội phạm.
Hoặc trong những trường hợp đặc biệt đó là những nhân viên bình thường, nhưng được
pháp nhân giao phó những nhiệm vụ cũng như trách nhiệm nhất định. Thứ hai là, tội phạm
được thực hiện trong khuôn khổ thẩm quyền chung cũng như trong khuôn khổ các hoạt
động của pháp nhân và nó được thực hiện trên danh nghĩa vì lợi ích của pháp nhân.

Trong Bộ luật hình sự hiện hành, nhà làm luật không quy định một chương riêng về trách
nhiệm hình sự của pháp nhân cũng như hệ thống hình phạt đối với pháp nhân mà chấp nhận
phương án chỉ quy định hệ thống điều khoản chung tại Phần chung của Bộ luật hình sự quy
định về dạng của trách nhiệm hình sự này. Điều 51 đã quy định phạm vi và điều kiện áp
dụng trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Điều 51 Bộ luật hình sự, mặc dù nhà làm luật đã
có sự điều chỉnh về chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân như đã nêu trên, nhưng vẫn
còn nhiều vấn đề chưa điều chỉnh hoặc điều chỉnh chưa triệt để như: pháp nhân nào phải
chịu trách nhiệm hình sự, pháp nhân sẽ chịu trách nhiệm với các loại tội phạm nào,... Tuy
nhiên, nghiên cứu thực tiễn xét xử và các giải pháp xây dựng chế định hệ thống hình phạt
của pháp nhân trong Bộ luật hình sự Hà Lan cho chúng ta những nhận thức, những kinh
nghiệm hay cần tham khảo trong quá trình nghiên cứu xây dựng chế định hệ thống hình phạt
của pháp nhân trong luật hình sự Việt Nam sau này.
1.3.2 Trong hệ thống pháp luật ở Việt Nam
Ở Việt Nam, nghiên cứu lịch sử PLHS cho thấy trước cách mạng tháng Tám năm 1945, vấn
đề thiết lập TNHS và hình phạt đối với pháp nhân, tổ chức cũng đã được đề cập đến trong
LHS. Ví dụ: Trong Quốc triều hình luật, Điều 62 Chương Tạp luật đã quy định: “Những
trang trại ven biển mà đón tiếp thuyền buôn, ngầm dỡ hộ hàng hóa lên bờ, thì xử biếm 3 tư,

GVHD: Nguyễn Văn Tròn

SVTH: Trần Thị Kim Soan


Hệ thống hình phạt đối với pháp nhân phạm tội trong bối cảnh sửa đổi, bổ sung BLHS – Lý
luận và giải pháp hoàn thiện
phải phạt gấp 3 tang vật để sung công; lấy một phần thưởng cho người tố giác. Người chủ
trang trại ấy mất chức giám trang”. Vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân cũng được
quy định trong pháp luật của thực dân phong kiến, như Điều 12 Dụ số 45.1088 ngày
03/5/1945 về trừng trị các vi phạm luật lệ hối đoái thì không những giám đốc, quản trị viên,
quản lý của pháp nhân bị truy tố mà chính bản thân pháp nhân cũng có thể bị tuy tố và bị

phạt bạc”.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, chính quyền của chế độ cũ ở miền Nam Việt Nam
cũng đã ban hành một số các văn bản pháp luật hình sự quy định về hình phạt đối với pháp
nhân như: Điều 33 Dụ số 10 ngày 23/6/1950 và Điều 26 Dụ số 33 ngày 16/11/1952 đều quy
định trường hợp hội buôn, hiệp hội, nghiệp đoàn hoạt động trái với những điều khoản quy
định về cách tổ chức và điều hành hội, thì các giám đốc hay quản trị viên điều có thể bị truy
tố, bị phạt bạc hay phạt giam, còn các tổ chức trên có thể bị Tòa án giải tán. Đặt biệt là trong
BLHS ngày 20/12/1972 của chính quyền Sài Gòn cũ với các điều 8, 69 và 71 cũng đã chính
thức quy định TNHS đối với pháp nhân và đặt ra hình phạt đối với pháp nhân phạm tội
trong phần nguyên tắc chung của LHS. Điều 8 quy định “Luật hình chi phối mọi các nhân
và pháp nhân cư trú trên lãnh thổ Việt Nam và mọi sự kiện xảy ra trên lãnh thổ này, kể cả
không phận và hải phận”. Điều 69 quy định: Cá nhân và pháp nhân điều có thể bị trách
nhiệm hình sự”. Theo Điều 71 thì “pháp nhân có thể bị xử phạt giải tán, phạt vạ và tịch thu
tài sản”.
Dưới chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Điều 13 Sắc lệnh số 282/SL ngày 14/12/1956 do
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký kèm theo Luật về chế độ báo chí được Quốc hội thông qua bởi
Luật số 100/SL/L002 ngày 20/05/1957 quy định: “Báo chí nào vi phạm Điều 8, sẽ bị trừng
phạt: tịch thu ấn phẩm, đình bản vĩnh viễn và bị truy tố trước Tòa án, sẽ bị phạt tiền từ 10
vạn đồng đến năm mươi vạn đồng, hoặc người có trách nhiệm bị phạt tù từ một tháng đến
một năm, hoạt cả hai hình phạt đó”. Báo chí nào vi phạm Điều 9 hoặc Điều 12 sẽ bị trừng
phạt: “tùy theo lỗi nặng, nhẹ mà bị cảnh cáo, tịch thu ấn phẩm, đình chỉ tạm thời, đình chỉ
vĩnh viễn, hoặc bị truy tố trước Tòa án, có thể bị phạt tiền từ mười vạn đồng đến một triệu
đồng hoặc người chịu trách nhiệm bị phạt tù từ một tháng đến hai năm, hoặc cả hai hình
phạt đó. Nếu xét đương sự phạm vào những luật lệ khác, Tòa án sẽ chiếu theo những luật lệ
ấy mà trừng phạt thêm”. Điều 14 quy định tiếp: “Trong mọi trường hợp vi phạm, chủ bút
chịu trách nhiệm chính, người quản lý và người viết bài cũng phải liên đới chịu trách nhiệm
về phần của mình. Nếu in những báo chí chưa có giấy phép thì chủ nhà in cũng bị liên đới
chịu trách nhiệm”.
Tuy nhiên, sau đó các văn bản PLHS cũng như hướng dẫn thi hành của Tòa án nhân dân tối
cao điều chỉ nghiêng về hình phạt đối với cá nhân, không đề cập đến hình phạt đối với pháp

nhân, tổ chức, đơn vị. Có thể nói, ở nước ta mặc dù trong một thời gian dài và cho đến ngày
nay hệ thống hình phạt đối với pháp nhân cũng đã được thiết lập trong các lĩnh vực pháp
luật khác nhau, như dân sự, kinh tế, và hành chính, nhưng trong lĩnh vực LHS, trong cả hai
lần pháp điển hóa với việc ban hành BLHS năm 1985 và 1999, nhất là gần đây với việc ban
hành Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS 1999 (Luật này có hiệu lực thi hành từ
ngày 1/1/2010), các nhà làm luật vẫn chưa chấp nhận nguyên tắc xử lý về hình sự đối với
pháp nhân. Trong báo cáo số 251/BC-UBTVQH12 ngày 23/4/2009 về việc giải trình tiếp
thu, chỉnh lý Dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS có ý kiến là: “Về đề nghị
bổ sung TNHS của pháp nhân trong một số tội phạm liên quan đến các lĩnh vực như: thuế,
môi trường, chứng khoán, UBTVQH cho rằng, đây là một vấn đề lớn, cần phải nghiên cứu
kỹ, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của TNHS, khái niệm tội phạm, hệ thống hình phạt, các
nguyên tắc áp dụng, quyền và nghĩa vụ của pháp nhân trong tố tụng hình sự,... Do đó, đề

GVHD: Nguyễn Văn Tròn

SVTH: Trần Thị Kim Soan


Hệ thống hình phạt đối với pháp nhân phạm tội trong bối cảnh sửa đổi, bổ sung BLHS – Lý
luận và giải pháp hoàn thiện
nghị Quốc hội cho tiếp tục nghiên cứu phục vụ cho vệc sửa đổi cơ bản, toàn diện BLHS
trong thời gian tới”.
Trước những đòi hỏi của công cuộc đổi mới đất nước và thực hiện các nghị quyết của Bộ
Chính trị như Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02-01-2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm
của công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48/NQ-TW về chiến lược xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị
quyết số 49/NQ-TW ngày 02-6-2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, thì việc
nghiên cứu làm sáng tỏ về mặt khoa học những vấn đề lý luận cơ bản của trách nhiệm hình
sự nói chung và trách nhiệm hình sự của pháp nhân nói riêng không chỉ có ý nghĩa về mặt
chính trị, xã hội mà còn có thể thiết thực góp phần hoàn thiện Bộ luật hình sự, bảo đảm việc

xử lý hình sự triệt để, công bằng, hiệu quả hơn, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội
phạm.
Trước tình hình trên khi việc quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân chưa được ghi
nhận trên thực tế, thì việc nghiên cứu một hệ thống hình phạt để áp dụng lên trên những
pháp nhân phạm tội cũng chưa thể đặc ra. Hiện nay trong quá trình sửa đổi, bổ sung Bộ luật
hình sự năm 1999 vấn đề trách nhiệm hình sự lại một lần nữa được đặt ra với sự quan tâm
của đông đảo nhân dân trên cả nước. Trong Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ
luật hình sự 1999 thì vấn đề trách nhiệm hình sự được quy định tại Chương XI và cũng song
song với việc quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thì không thể thiếu việc quy
định một hệ thống hình phạt để áp dụng lên trên những pháp nhân có hành vi nguy hiểm cho
xã hội. Suy cho cùng thì hình phạt cũng chỉ là một dạng của trách nhiệm hình sự nếu như
việc quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân không được đặt ra thì nhà làm luật
không thể nào quy định một loại hình phạt nào đó để áp dụng lên pháp nhân phạm tội.

GVHD: Nguyễn Văn Tròn

SVTH: Trần Thị Kim Soan



×