Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

tiểu luận Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175 KB, 24 trang )

A. MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
Nhà nước là một hiện tượng có tính chất lịch sử. Xã hội Cộng sản nguyên
thủy chưa có Nhà nước và xã hội được tổ chức theo chế độ thị tộc. Quyền lực công
cộng thuộc mọi thành viên trong xã hội, không mang tính chất chính trị, tính chất
giai cấp. Sản xuất và trao đổi phát triển đến chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và xã
hội phân chia thành các giai cấp đối kháng về lợi ích. Chế độ thị tộc bất lực. Giai
cấp chủ nô, do nắm quyền lực kinh tế mà nắm được quyền chính trị, đã tổ chức ra
Nhà nước làm công cụ để duy trì sự thống trị và bóc lột đối với giai cấp nô lệ.
Lịch sử đã có bốn kiểu Nhà nước, đó là: Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong
kiến, Nhà nước Tư sản, Nhà nước Xã hội chủ nghĩa. Nhà nước chủ nô, Nhà nước
phong kiến, Nhà nước Tư sản, mặc dù mỗi kiểu Nhà nước đó có những đặc điểm
riêng, nhưng chúng lại có những đặc điểm chung rất cơ bản, đó là: Chúng đều
được xây dựng dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, quyền lực nhà nước đều
thuộc giai cấp thống trị và đều là công cụ bạo lực để thực hiện chuyên chính của
một thiểu số đối với đa số.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước kiểu mới. Nhà nước xã hội chủ
nghĩa ra đời dựa trên những mâu thuẫn về kinh tế, chính trị-xã hội trong lòng xã
hội tư bản chủ nghĩa tự nó không thể khắc phục được, tất yếu dẫn đến cách mạng
vô sản, đập tan Nhà nước tư sản, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước
xã hội chủ nghĩa là công cụ sắc bén để nhân dân lao động trấn áp sự phản kháng
của giai cấp bóc lột và tổ chức xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân. Dưới chế độ
xã hội chủ nghĩa, lợi ích và sự nghiệp của giai cấp công nhân cũng là lợi ích và sự
nghiệp của nhân dân, mà nền tảng là giai cấp công nhân liên minh với giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Do đó, bản chất giai
cấp công nhân gắn bó chặt chẽ với tinh chất nhân dân và tính chất dân tộc. Nhà
nước xã hội chủ nghĩa thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Lần đầu tiên trong lịch sử, nhà nước không nằm trong
tay giai cấp bóc lột, mà nằm trong tay nhân dân, thực hiện dân chủ với nhân dân,
chuyên chính với các thế lực thù địch của nhân dân. Trong điều kiện hiện nay, nhà


nước xã hội chủ nghĩa nói chung và nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam nói riêng đã trở thành trụ cột, là công cụ tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực
1


của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân quản lý toàn bộ
hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Với lý do trên, nên tôi chọn đề tài “Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong
lịch sử”.
II. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ một số vấn đề có tính lý luận
về nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử và từ đó liên hệ đến nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
III. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử
bao gồm: sự ta đời, bản chất và các hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Phương pháp nghiên cứu: Tiểu luận sử dụng phương pháp logic lịch sử, gắn
lý luận với thực tiễn, phân tích, tổng hợp, thống kê và so sánh…
IV. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận
được kết cấu gồm có 3 phần:
I. Sự ra đời, cơ sở tồn tại và bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa.
II. Các hình thức của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
III. Một số vấn đề cơ bản của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Mặc dù, đã có rất nhiều nỗ lức, cố gắng trong quá trình nghiên cứu và viết
bài, nhưng đây là một mội nội dung lớn và phức tạp, nên trong nội dung vẫn còn
rất nhiều hạn chế. Em mong được sự chỉ bảo tận tình của các thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!

2



B. NỘI DUNG
I. SỰ RA ĐỜI, CƠ SỞ TỒN TẠI VÀ BẢN CHẤT NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA
1. Tính tất yếu khách quan và sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Theo các nhà kinh điển Mác – Lênin, nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà
nước cuối cùng trong lịch sử xã hội loài người. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của
nhà nước xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan, phù hợp với các quy luật vận
động và phát triển của xã hội. Sự ra đời nhà nước xã hội chủ nghĩa bắt nguồn từ
tiền đề kinh tế, chính trị - xã hội đã phát sinh trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa.
Tiền đề về kinh tế: Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ở thời kỳ đầu của sự
phát triển tư bản chủ nghĩa là quan hệ sản xuất tiến bộ so với quan hệ sản xuất
phong kiến, đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Nhưng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư nên chủ nghĩa tư bản phát triển đến
giai đoạn chủ nghĩa đế quốc thì những quan hệ sản xuất đó đã trở nên mâu thuẫn,
không còn phù hợp với lực lượng sản xuất đã phát triển đến một trình độ xã hội
hóa cao hơn. Mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất ngày càng trở
nên gay gắt và không thể điều hòa được, đòi hỏi phải có một kiểu quan hệ sản xuất
mới phù hợp, đó là kiểu quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất. Cuộc cách mạng nhằm cải biến quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa tất yếu sẽ dẫn đến sự thay thế kiểu nhà nước tư sản bằng kiểu nhà nước
xã hội chủ nghĩa.
Tiền đề về chính trị - xã hội: Quan hệ sản xuấ tư bản chủ nghĩa đã quyết
định bản chất và đặc điểm của nhà nước tư sản. Đến giai đoạn đế quốc chủ nghĩa
đã xuất hiện chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước; nhà nước trở thành công cụ
trong tay giới tư bản độc quyền. Chính vì vậy, bản chất của nhà nước tư sản ngày
càng biến đổi rõ rệt, nhà nước tư sản ngày càng sử dụng nhiều hơn những phương
pháp phản dân chủ, quan liêu và độc tài nhưng được che đậy dưới những hình thức

dân chủ. Điều đó, càng làm cho những mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp
vô sản trở nên gay gắt, tạo tiền đề cho cách mạng vô sản nổ ra.
Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo ra những điều kiện làm cho giai cấp vô
sản ngày càng phát triển nhanh về số lượng và nâng cao tính tổ chức, kỷ luật; trở
thành giai cấp tiến bộ nhất của xã hội; có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo nhân dân lao
3


động đứng lên làm cách mạng để lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản; xóa bỏ nhà
nước tư sản; xây dựng nhà nước của giai cấp mình. Trong cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản, đảng cộng sản đã được thành lập để lãnh đạo phong trào cách mạng và
trở thành nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng. Giai cấp vô sản
lấy chủ nghĩa Mác – Lênin là vũ khí tư tưởng sắc bén để nhận biết đúng đắn những
quy luật vận động và phát triển xã hội, để tiến hành cách mạng và xây dựng nhà
nước của giai cấp mình sau thắng lợi của cách mạng vô sản.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là một kết quả quả của cách mạng do giai
cấp vô sản và nhân dân lao động tiến hành dưới sự lãnh đạo của đảng tiên phong
của mình. Nhưng cách mạng của mỗi nước có những điều kiện và hoàn cảnh khác
nhau, cho nên sự ra đời của các nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng như việc tổ chức
chính quyền sau khi cách mạng thành công cũng có những đặc điểm, đặc thù riêng.
Mỗi nước sẽ chọn cho mình những phương pháp và hình thức phù hợp. Nhưng dù
ra đời trong điều kiện và hoàn cảnh nào thì nhà nước xã hội chủ nghĩa đều là
những nhà nước có chung bản chất. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong
lịch sử đã diễn ra ở những thời điểm quan trọng và được thể hiện dưới các hình
thức:
- Công xã Pari ra đời năm 1871, dù chỉ tồn tại có 72 ngày nhưng công xã
Pari đã để lại nhiều bài học quý báu cho giai cấp vô sản các nước về cách mạng và
xây dựng chính quyền của những giai cấp cần lao.
- Nhà nước Xô Viết ra đời sau Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) vĩ đại.
Theo Lênin, lần đầu tiên trong lịch sử loài người bằng các Xô viết, quyền lực chính

trị mà bao đời nay thuộc về thiểu số giai cấp thống trị đã chuyển sang đại đa số
nhân dân lao động, đứng đầu là giai cấp công nhân. Nhà nước Xô viết là sản phẩm
của cuộc cách mạng vĩ đại, nó đại diện cho lợi ích và ý chí của các tầng lớp lao
động.
- Các nước xã hội chủ nghĩa khác ra đời do kết quả của cuộc đấu tranh giải
phóng và cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân sau Chiến tranh thế giới thứ
hai ở Châu Âu (Anbani, Ba Lan, Bungari,...) và Châu Á (Việt Nam, Triều Tiên,
Trung Quốc,....).

4


2. Bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa
2.1. Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là bộ máy chính trị-hành chính, một
cơ quan cương chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế xã hội của nhân dân
lao động, nó không còn là nhà nước theo đúng nghĩa mà chỉ là “nửa nhà
nước”
Nhà nước xã hội chủ nghĩa không chỉ là bộ máy hành chính cưỡng chế mà
nó còn là một tổ chức quản lý kinh tế xã hội. Hơn nữa bộ máy hành chính cưỡng
chế của nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng có đặc điểm và bản chất khác: Đó là bộ
máy do giai cấp công nhân và nhân dân lao động tổ chức ra để trấn áp giai cấp bóc
lột và các phần tử phản động để bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững an ninh
chính trị, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế-xã hội. Lênin viết: “Cơ
quan đặc biệt, bộ máy trấn áp đặc biệt là “nhà nước” vẫn còn cần thiết, nhưng nó
đã là nhà nước quá độ, mà không còn là nhà nước theo đúng nghĩa của nó nữa... Sự
trấn áp ấy có thể dung hợp với việc mở rộng chế độ dân chủ cho tuyệt đại đa số
nhân dân khiến sự cần thiết phải có một bộ máy trấn áp đặc biệt cũng bắt đầu mất
dần” (Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátcơva, 1976, t.33, tr.111).
Để thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân lao động, nhà nước xã hội chủ nghĩa bên cạnh việc xây dựng

và củng cố bộ máy hành chính cưỡng phải đặc biệt chú ý củng cố và tăng cường bộ
máy tổ chức và quản lý kinh tế - xã hội. Theo Lênin, “chuyên chính vô sản....
không phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột và cũng không phải chủ yếu là bạo
lực. Cơ sở kinh tế của bạo lực cách mạng đó, cái bảo đảm sức sống và thắng lợi
của nó chính là việc giai cấp vô sản đưa ra được và thực hiện được kiểu tổ chức lao
động xã hội cao hơn so với chủ nghĩa tư bản. Đấy là thực chất của vấn đề. Đấy là
nguồn sức mạnh, là điều bảo đảm cho thắng lợi hoàn toàn và tất nhiên của chủ
nghĩa cộng sản” (Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátcơva, 1976, t.39, tr.15-16).
Cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới là nội dung chủ yếu và là mục tiêu
cuối cùng của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là sự nghiệp vĩ đại nhưng đồng thời
cũng là công việc cực kỳ khó khăn và phức tạp. Nó đòi hỏi nhà nước phải là bộ
máy có đầy đủ sức mạnh để trấn áp kẻ thù, đồng thời nhà nước phải có một tổ chức
có đủ năng lực để quản lý và xây dựng xã hội chủ nghĩa trong đó việc tổ chức quản
lý kinh tế là quan trọng, khó khăn và phức tạp.

5


2.2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là thuộc tính của nhà nước xã hội chủ
nghĩa
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là hình thức mới và cao của dân chủ, là nền dân chủ
thật sự đối với đa số nhân dân lao động, dân chủ được thực hiện trong thực tiễn nhưng
nó vẫn là dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: chuyên chính vô sản và dân chủ xã
hội chủ nghĩa về căn bản là thống nhất với nhau. Nên ngay trong Đại hội VII,
Đảng ta đã thống nhất cách gọi “chuyên chính vô sản” là nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Do vậy, chúng ta có thể khái quát về bản chất của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa như sau:
- Bản chất chính trị: nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp
công nhân, có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.

- Bản chất kinh tế: nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực lượng
sản xuất dựa trên cơ sở khoa học, công nghệ hiện đại nhằm thỏa mãn ngày càng cao
những nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động.
- Bản chất tư tưởng-văn hoá: nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng MácLênin làm nền tảng, chủ đạo đối với các hình thái ý thức xã hội khác. Đồng thời kế
thừa, phát huy những tinh hoa văn hoá truyền thống của các dân tộc, tiếp thu những giá
trị tư tưởng – văn hoá, văn minh, tiến bộ mà nhân loại đã tạo ra ở các quốc gia – dân tộc
trên thế giới.
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng dân chủ xã hội chủ nghĩa là một chế độ nhà
nước chứ không phải là vô chính phủ. Lênin đã chỉ rõ: “cũng như mọi nhà nước, chế độ
dân chủ là việc thi hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng bức đối với người ta....
Nhưng mặt khác chế độ dân chủ có nghĩa là chính thức thừa nhận quyền bình đẳng
giữa những người công dân, thừa nhận cho mọi người được quyền ngang nhau trong
việc xác định cơ cấu nhà nước và quản lý nhà nước” (Lênin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ,
Mátcơva, 1976, t.33, tr.123).
2.3. Nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn giữ vai trò tích cực và sáng tạo, là
công cụ để xây dựng một xã hội nhân đạo, công bằng và bình đẳng
Giai cấp vô sản sau khi giành được chính quyền, trở thành giai cấp thống trị,
nắm trong tay quyền lực nhà nước, với mục đích là cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới, xóa bỏ mọi áp bức bóc lột. Vì vậy, trong quá trình tổ chức và thực thi
6


quyền lực, giai cấp vô sản thực hiện sự liên minh với mọi lực lượng lao động của
xã hội để thiết lập những nguyên tắc và cơ chế vận hành quyền lực nhà nước dựa
trên cơ sở quyền lực nhân dân, không ngừng mở rộng dân chủ và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân.
Xuất phát từ mục đích và cách thức tổ chức quyền lực như vậy, quá trình tồn
tại và phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ luôn phù hợp với quy luật vận
động khách quan của xã hội. Vì vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn giữ vai trò

chủ động sáng tạo, là công cụ để thúc đẩy sự phát triển xã hội, xây dựng một xã
hội nhân đạo, công bằng và bình đẳng.
II. CÁC HÌNH THỨC CỦA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Khái niệm hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin: việc giành chính quyền là vấn đề
khó, việc giữ chính quyền, củng cố và phát huy hiệu lực của chính quyền là càng
khó hơn. Vì vậy, sau khi cách mạng vô sản (cách mạng xã hội chủ nghĩa) đã giành
được chính quyền thì việc giai cấp vô sản lựa chọn và áp dụng một hình thức nhà
nước phù hợp đó là vấn đề rất cơ bản – có ý nghĩa quyết định đối với việc xây
dựng và tăng cường sức mạnh hiệu lực của nhà nước.
Hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng bao gồm 3 yếu tố cấu thành là:
Hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị. Riêng về
hình thức chính thể, các nước nhà nước xã hội chủ nghĩa có chung một bản chất,
nhưng tùy vào tình hình lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia mà giai cấp vô sản có thể
lựa chọn một dạng hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa thích hợp. Lịch sử đã tồn
tại nhiều hình thức chính thể của nhà nước xã hội chủ nghĩa như: công xã Pari, nhà
nước Xô viết và Nhà nước dân chủ nhân dân.
2. Các hình thức chính thể nhà nước xã hội chủ nghĩa
2.1. Công xã Pari
Là hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trong lịch sử, ra đời trong
cuộc khởi nghĩa vũ trang ngày 18-13-1871 của công nhân thủ đô Pari, tuy chỉ tồn
tồn tại 72 ngày nhưng công xã đã giúp cho những người cộng sản tổng kết, rút ra
những kinh nghiệm, bổ sung lý luận về nhà nước của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Công xã Pari có những đặc điểm sau:
- Công xã là “một hình mẫu phát thảo” đầu tiên dưới sự lãnh đạo của giai
cấp công nhân xây dựng nên một chính quyền nhà nước đầu tiên mà ở đó nhân dân
7


lao động có thể làm chủ, quản lý xã hội, xây dựng một chế độ dân chủ kiểu mớidân chủ với đại đa số nhân dân, đập tan chế độ độc quyền viên chức của thiểu số

đối với đa số nhân dân.
- Công xã là hình thức chính thể cộng hòa dân chủ của giai cấp vô sản. Hội
đồng công xã là cơ quan quyền lực cao nhất, bao gồm các ủy viên xuất thân chủ
yếu từ thành phần công nhân, do nhân dân lao động thủ đô Pari bầu ra theo nguyên
tắc phổ thông.
- Công xã bỏ chế độ đại nghị tư sản, đập tan bộ máy cũ, xóa quân đội thường
trực và lập nên bộ mấy nhà nước, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung
dân chủ.
2.2. Hình thức Nhà nước Xô viết
Hình thức Nhà nước Xô viết là hình thức được sử dụng để tổ chức và thực
hiện chính quyền của giai cấp vô sản Nga và các nước cộng hòa khác ở Capcadơ,
vùng Ban tích. Trên cơ sở đó sau này trở thành hình thức của Nhà nước Liên bang
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết.
Hình thức Nhà nước Xô viết có những đặc điểm sau:
- Trong hình thức Xô viết không có tổ chức mặt trận đoàn kết dân tộc, không
có sự thỏa hiệp giữa các đảng trong việc cử người tham gia vào các cơ quan nhà
nước.
- Các Xô viết tạo thành hệ thống cơ quan đại diện phức tạp: các Xô viết từ
quận trở xuống thực hiện nguyên tắc bầu cử trực tiếp, từ cấp tỉnh trở lên áp dụng
hình thức đại hội Xô viết.
- Chế độ dân chủ trong Nhà nước Xô viết thể hiện tính giai cấp công khai và
không khoan nhượng. Đối với các phần tử bóc lột không những bị tước đoạt quyền
bầu cử mà còn bị hạn chế các quyền chính trị khác như cấm hội họp, cấm tự do báo
chí và ngôn luận,….
Theo Hiến pháp 1977, quyền lực của nhà nước được tổ chức như sau:
- Xô viết tối cao là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất gồm hai viện: viện
dân tộc và viện liên bang.
- Cơ quan thường trực của Xô viết tối cao là đoàn chủ tịch Xô viết tối cao.
- Chính phủ là cơ quan chấp hành và điều hành, do Xô viết tối cao bầu ra,
chịu trách nhiệm trước Xô viết tối cao.


8


- Tòa án tối cao, Viện kiểm sát tối cao là những cơ quan tư pháp do Xô viết
tối cao thành lập, trực thuộc và chịu trách nhiệm trước Xô viết tối cao.
Trong giai đoạn hiện nay khi Liên Xô tan rã, các nước Cộng hòa thuộc Liên
Xô cũ đang lâm vào khủng hoảng trầm trọng, những nguyên tắc xây dựng nhà
nước theo hình thức Xô viết bị phá vỡ. Nhà nước Xô viết với những đặc điểm đặc
thù đó trên thực tế đã không còn nữa, nhưng về mặt lý luận việc nghiên cứu để làm
sáng tỏ các vấn đề, so sánh với thực tế để giải đáp những câu hỏi về mặt lý luận
vẫn là vấn đề có nhiều ý nghĩa.
2.3. Hình thức Nhà nước dân chủ nhân dân
Hình thức Nhà nước dân chủ nhân dân ra đời sau Chiến tranh thế giới thứ
hai ở một số nước Châu Âu (Anbani, Ba Lan, Bungari, ….) và Châu Á (Việt Nam,
Triều Tiên, Trung Quốc,…).
Hình thức Nhà nước dân chủ nhân dân có những đặc điểm sau:
- Các nhà nước đều sử dụng kết hợp các phương pháp hòa bình và bạo lực
để giành và tổ chức chính quyền (trừ Việt Nam và Bungari), đều thực hiện bước
chuyển tiếp từ cách mạng dân chủ sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Các nhà nước đều tổ chức mặt trận đoàn kết dân tộc, trong đó bao gồm
nhiều đảng phái, nhiều lực lượng xã hội khác nhau. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, mặt trận giữ một vai trò quan trọng trong việc tham gia vào việc thành
lập và củng cố bộ máy nhà nước.
- Hình thức Nhà nước dân chủ nhân dân có sử dụng một số chế định pháp lý
cũ song được bổ sung nội dung mới. Đặc biệt, ở Việt Nam đặc điểm này có nét độc
đáo và đã mang lại kết quả đáng kể, phù hợp với điều kiện của đất nước ta trong
thời kỳ đầu sau khi cách mạng thành công.
Nhà nước dân chủ nhân dân có chế độ dân chủ rộng rãi hơn so với hình thức
Nhà nước Xô viết. Hình thức Nhà nước dân chủ nhân dân là chính quyền của giai

cấp công nhân và nhân dân lao động. Điều đó xuất phát từ đặc điểm thực tiễn cách
mạng là nhiều lực lượng, nhiều giai cấp khác nhau đã tham gia tích cực vào phong
trào đấu tranh giành chính quyền và tổ chức chính quyền mới. Mặt khác, tình hình
so sánh lực lượng trên trường quốc tế đã thay đổi cho phép các nhà nước dân chủ
nhân dân có thể thực hiện nhiều phương pháp và biện pháp dân chủ rộng rãi hơn.

9


III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Bản chất của nhà nước CHXHCN Việt Nam
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một dạng nhà nước xã hội
chủ nghĩa, bản chất của nhà nước do cơ sở kinh tế và cơ sở xã hội của nhà nước xã
hội chủ nghĩa quyết định. Cơ sở kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa là quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, sản phẩm
lao động xã hội và sự hợp tác, giúp đỡ thân thiện giữa những người lao động. Cơ
sở xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa là toàn thể nhân dân lao động mà nền tảng
là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân, là tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp công nhân, nông
dân, tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Tất cả các chính sách, pháp luật của nhà nước đều được xây dựng và thực
hiện xuất phát từ lợi ích của con người, cho con người và vì con người.
Bản chất bao trùm nhất chi phối mọi lĩnh vực của đời sống Nhà nước Việt
Nam hiện nay từ tổ chức đến hành động thực tiễn là tính nhân dân của Nhà nước.
Điều 2 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức”. Bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân được

cụ thể bằng những đặc trưng sau:
- Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực:
Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
được thành lập – nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Nay là nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực của Nhà nước không thuộc về một cá
nhân, một nhóm người nào mà thuộc về toàn thể nhân dân. Nhân dân là chủ thể tối
cao của quyền lực nhà nước và thực hiện nó bằng nhiều hình thức khác nhau, trong
đó hình thức cơ bản nhất là nhân dân thông qua bầu cử lập ra các cơ quan đại diện
quyền lực của mình “Nhân dân sử dụng dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc
hội và Hội đồng nhân dân các cấp là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện
vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân” (Điều
6 Hiến pháp năm 1992). Ngoài ra, nhân dân còn thực hiện quyền lực nhà nước
10


thông qua các hình thức kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước
hoặc trực tiếp đưa ra những kiến nghị của mình với các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nhà nước dân
chủ thật sự và rộng rãi:
Lịch sử hình thành và phát triển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam có thể nhận thấy rõ trong quá trình hình thành và phát triển của một chế độ
dân chủ mới. Bản chất dân chủ của Nhà nước ta thể hiện toàn diện trên các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và xã hội.
Trong lĩnh vực kinh tế: Nhà nước thực hiện chủ trương tự do, bình đẳng về
kinh tế, tạo ra những điều kiện làm cho nền kinh tế đất nước có tính năng động,
xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chủ trương phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu và nhiều hình

thức tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp. Các thành phần kinh
tế kinh doanh theo đúng pháp luật đều là những bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp
tác, cạnh tranh lành mạnh; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền
kinh tế quốc dân. Kinh tế nhà nước đang ngày càng phát huy vai trò của đạo trong
nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng
và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt;
đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất
lượng, hiệu quả kinh tế-xã hội và chấp hành pháp luật. Bảo đảm lợi ích kinh tế của
người lao động được coi là động lực, là mục tiêu của dân chủ.
Trong lĩnh vực chính trị: Nhà nước ta đã tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc,
quy định những quyền tự do dân chủ trong sinh hoạt chính trị. Nhà nước xác lập và
thực hiện cơ chế dân chủ đại diện thông qua chế độ bầu cử và bãi miễn đại biểu
nhân dân trong các cơ quan dân cử. Đồng thời, Nhà nước thiết lập và thực hiện chế
độ dân chủ trực tiếp, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia vào công việc quản lý
nhà nước, quản lý xã hội, tham gia đóng góp ý kiến, kiến nghị, thảo luận một cách
dân chủ, bình đẳng vào các vấn đề thuộc đường lối, chủ trương, chính sách các dự
11


thảo luật pháp quan trọng làm cho nhân dân thực sự là chủ thể của những chủ
trương, chính sách văn bản pháp luật đó.
Trong lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và xã hội: Nhà nước thực hiện chủ
trương tự do tư tưởng và giải phóng tinh thần, phát huy mọi khả năng của con
người; quy định toàn diện các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, học tập, tự
do tín ngưỡng,…. bảo đảm mọi người được hưởng những quyền đó. Tự do tư
tưởng, văn hóa và xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước

Việt Nam:
Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài đồng
thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Nhà nước ta luôn
coi vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc là nguyên tắc cơ bản để thiết lập chế độ
dân chủ, phát huy quyền lực nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, đồng thời tạo ra
sức mạnh của một nhà nước thống nhất. Chính sách dân tộc của nước ta thể hiện
như sau:
Thứ nhất, Nhà nước xây dựng cơ sở pháp lý vững vàng cho việc thiết lập và
củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, tạo điều kiện cho mỗi dân tộc đều có thể tham
gia vào việc thiết lập, củng cố và phát huy sức mạnh của nhà nước.
Thứ hai, công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị.
Thứ ba, các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương
trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển kinh tế- xã hội các vùng dân tộc và miền
núi, trước hết tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm
nghèo; khai thác có hiệu quả các tiềm năng thế mạnh của từng vùng đi đôi với bảo
vệ môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào
dân tộc đồng thời tăng cường sự quan tâm, hợ trợ của Trung ương và sự giúp đỡ
của các địa phương trong cả nước.
Thứ tư, chú ý tới điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng dân tộc, mỗi địa
phương, tôn trọng các giá trị văn hóa tinh thần, truyền thống của mỗi dân tộc, xây

12


dựng bản sắc riêng của Nhà nước Việt Nam với đầy đủ tính phong phú mà vẫn
đảm bảo sự nhất quán và thống nhất.
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện tính xã hội

rộng rãi: Nhà nước ta luôn coi việc giải quyết những vấn đề thuộc các chính sách
xã hội là một trong những hoạt động quan trọng trong lĩnh vực đối nội. Nhà nước
ta luôn quan tâm đặc biệt và toàn diện đến việc giải quyết những vấn đề xã hội
như: xóa đói giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe nhân dân, đầu tư phòng chống thiên
tai, xây dựng các công trình phúc lợi xã hội, giải quyết việc làm, chống thất
nghiệp,…. nhằm mục tiêu xây dựng một xã hội văn minh, đảm bảo công bằng xã
hội.
- Nhà nước thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình, hợp tác, hữu nghị:
Thực hiện nhất quán chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và
phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ
kinh tế. Chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác
quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.
2. Chức năng nhà nước xã hội chủ nghĩa
2.1. Khái niệm chức năng nhà nước xã hội chủ nghĩa
Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa là những phương diện hoạt động
chủ yếu của nhà nước, thể hiện bản chất, ý nghĩa xã hội, mục đích và nhiệm vụ của
nhà nước trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là
công cụ chủ yếu để thiết lập và tổ chức thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân lao động. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa quyết định các
chức năng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Các chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa là những mặt hoạt động được
đặt ra xuất phát từ yêu cầu khách quan, gắn liền với sự tác động và phát triển của
nhà nước. Các chức năng của nhà nước hợp thành một hệ thống thống nhất thể
hiện bản chất và những nhiệm vụ chiến lược của nhà nước trên các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, an ninh, văn hóa. Hoạt động của nhà nước rất đa dạng, phong phú bao
gồm nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Do vậy, một nhà nước có nhiều chức
năng, các nhà luật học thường phân loại các chức năng của nhà nước thành chức
năng đối nội và chức năng đối ngoại. Chức năng đối nội là những hoạt động chủ
yếu của nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa,

13


giáo dục, khoa học, công nghệ, an ninh, quốc phòng ở trong nước. Chức năng đối
ngoại là những hoạt động chủ yếu của nhà nước trong quan hệ quốc tế nhằm bảo
vệ đất nước khỏi sự xâm lược từ bên ngoài, tạo môi trường quốc tế thuận lợi để
thực hiện các chức năng đối nội.
Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ, tác động
lẫn nhau, trong đó chức năng đối nội giữ vai trò chủ đạo, quyết định đối với chức
năng đối ngoại. Việc thực hiện chức năng đối ngoại xuất phát từ yêu cầu, mục đích
của chức năng đối nội và nhằm phục vụ chức năng đối nội có hiệu quả.
2.2. Các chức năng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa
2.2.1. Chức năng đối nội
* Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế
Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế là chức năng quan trọng hàng đầu của
bất cứ nhà nước xã hội chủ nghĩa nào nhằm xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho
chủ nghĩa xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa không những là tổ chức quyền lực
chính trị, mà còn là chủ sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu, trực tiếp tổ chức và
quản lý nền kinh tế đất nước, tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ lực lượng
sản xuất, tăng năng suất lao động, thỏa mãn nhu cầu của người lao động.
Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế bao gồm những nội dung sau: củng cố,
phát huy quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; phát triển lực lượng sản xuất trên cơ
sở áp dụng những thành quả mới nhất của khoa học, kỹ thuật và công nghệ vào sản
xuất; hoàn thiện cơ chế quản lý nền kinh tế bằng những phương pháp mới như xây
dựng và thực hiện các chương trình, kế hoạch, pháp luật về phát triển nền kinh tế,
sử dụng hệ thống các đòn bẩy, các kích thích kinh tế; kiểm tra, giám sát việc thực
hiện các chính sách, pháp luật kinh tế; thực hiện việc phân phối sản phẩm lao động
theo nguyên tắc lao động; giải quyết các vấn đề xã hội có ảnh hưởng trực tiếp tới
sự phát triển kinh tế và quản lý kinh tế; mở rộng kinh tế đối ngoại. Tốc độ, mức độ,
quy mô, phạm vi thực hiện chức năng này ở mỗi nước phát triển theo con đường

xã hội chủ nghĩa có thể khác nhau do sự không giống nhau về điểm xuất phát và
khả năng vượt qua thách thức, tận dụng thời cơ.
Đối với nước ta, Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã xác định: “Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, quản lý nền
kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ
chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của nền kinh
14


tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực,
hạn chế và khắc phục măt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân
dân lao động, của toàn thể nhân dân” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2001, tr 87-88). Hoạt động
quản lý kinh tế của nhà nước hiện nay tập trung vào bốn hướng sau: phát triển kinh
tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển nền kinh tế nhiều thành phần; tiếp tục
tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
Những phương hướng hoạt động đó được thực hiện bằng các biện pháp chủ
yếu như: xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát
triển kinh tế - xã hội; tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các
doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển; khai thác hợp lý các nguồn lực
của đất nước, bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập; kiểm tra, kiểm
soát, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật; chống buôn
lậu, chống làm hàng giả, gian lận thương mại; chống tham nhũng, lãng phí, quan
liêu sách nhiễu gây phiền hà; bảo đảm tính minh bạch, công bằng trong chi ngân
sách nhà nước; phân cấp mạnh đi đôi với tăng cường trách nhiệm của chính quyền
địa phương; cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và các cam kết
quốc tế.
* Chức năng tổ chức và quản lý văn hóa, giáo dục, khoa học và công
nghệ
Thực hiện chức năng tổ chức và quản lý văn hóa, giáo dục, khoa học và

công nghệ nhằm mục đích xây dựng nền văn hóa mới, con người mới, lối sống
mới, nâng cao dân trí, đào tào và bồi dưỡng nhân tài, thiết lập nền khoa học, công
nghệ tiên tiến phục vụ đắc lực công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đây là chức năng có nội dung rất rộng với những nhiệm vụ hết sức phong phú và
phức tạp, thể hiện trên các mặt với những nội dung cơ bản sau:
Mục đích của quản lý nhà nước đối với văn hóa là nhằm hướng mọi hoạt
động văn hóa vào việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính
trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng,
lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài
hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Nội dung quản lý của nhà nước đối với
văn hóa bao gồm: bảo tồn và phát triển các di sản văn hóa dân tộc, các giá trị văn
học nghệ thuật, ngôn ngữ, chữ viết, thuần phong, mỹ tục dân tộc; tôn tạo các di
15


tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh; khai thác các kho tàng văn hóa cổ
truyền; tiếp thu tinh hoa và làm phong phú thêm nền văn hóa nhân loại; chống văn
hóa độc hại; bài trừ mê tín, hủ tục.
Nhà nước ta coi phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nội dung bao
gồm: xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách
phát triển giáo dục; ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật
về giáo dục; quy định mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục, tiêu chuẩn nhà
giáo, tiêu chuẩn trường học, việc biên soạn, xuất bản, in và phát hành sách giáo
khoa, giáo trình, thi cử và cấp văn bằng; tổ chức bộ máy quản lý giáo dục; đào tạo,
bồi dưỡng, quản lý nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; huy động, quản lý, sử
dụng các nguồn lực để phát triển giáo dục; tổ chức, quản lý nghiên cứu khoa học,
công nghệ trong ngành giáo dục; quan hệ quốc tế về giáo dục; quy định về tặng các
danh hiệu vinh dự cho người có công đối với sự nghiệp giáo dục; thanh tra, kiểm
tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi
phạm pháp luật về giáo dục.

Phát triển khoa học và công nghệ cũng được xác định là quốc sách hàng đầu.
Nội dung quản lý Nhà nước về khoa học và công nghệ bao gồm: Xây dựng và chỉ
đạo thực hiện chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế hoạch, nhiệm vụ khoa học và
công nghệ; ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về khoa
học, công nghệ; tổ chức bộ máy quản lý khoa học, công nghệ; tổ chức, hướng dẫn
đăng kí hoạt động của tổ chức khoa học, công nghệ, quỹ phát triển khoa hoc, công
nghệ; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; quy định việc đánh giá, nghiệm thu, ứng dụng
và công bố kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ, chức vụ khoa học, giải
thưởng khoa học, công nghệ và các hình thức ghi nhận công lao về khoa học, công
nghệ của tổ chức, cá nhân; tổ chức, quản lý công tác thẩm định khoa học, công
nghệ; tổ chức chỉ đạo công tác thống kê, thông tin khoa học, công nghệ; tổ chức,
chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ về khoa
học, công nghệ; tổ chức, quản lý hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ; thanh
tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về khoa học, công nghệ; giải quyết tranh
chấp, khiếu nại, tố cáo trong hoạt động khoa học, công nghệ, xử lý các vi phạm
pháp luật về khoa học, công nghệ.
* Chức năng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

16


Đây là chức năng rất quan trọng và cũng rất khó khăn phức tạp, nhất là trong
giai đoạn sau khi cách mạng vô sản thành công. Nhà nước quản lý lĩnh vực an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội nhằm giữ vững sự ổn định chính trị và bảo vệ chế
độ chính trị-xã hội xã hội chủ nghĩa để nhân dân bình an xây dựng cuộc sống mới;
kịp thời đập tan âm mưu và hành động phá hoại an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội của kẻ thù. Nội dung chức năng này bao gồm: xây dựng, tổ chức thưc hiện
chiến lược, chính sách và những văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, đồng thời kiểm tra, giám sát việc thực hiện các văn
bản đó; kịp thời xử lý nghiêm minh những vi phạm pháp luật về an ninh chính trị,

trật tự an toàn xã hội; xây dựng thế trận an ninh nhân dân vững chắc mà lực lượng
nòng cốt là các lực lượng vũ trang nhân dân; giáo dục ý thức cảnh giác cách mạng
cho toàn dân và các lực lượng vũ trang nhân dân; kết hợp, xây dựng, phát triển
kinh tế với bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và bảo vệ an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội với xây dựng, phát triển kinh tế; tăng cường cơ sở vật
chất, kỹ thuật cho các lực lượng vũ trang; nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ
quan chuyên trách bảo vệ pháp luật trong lĩnh vực an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội; hoàn thiện chính sách, pháp luật về bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội; hợp tác quốc tế trong việc bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
* Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các
quyền và lợi ích cơ bản của công dân.
Đây là chức năng có ý nghĩa quan trọng của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Các
quyền và lợi ích cơ bản của công dân là một trong những thành quả vĩ đại nhất của
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nghĩa vụ của nhà nước trong việc tôn trọng và bảo
đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân đã trở thành nguyên tắc Hiến định.
Mục đích của chức năng này nhằm bảo đảm cho pháp luật được thi hành
một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, thiết lập, củng cố và điều chỉnh hệ thống các
quan hệ xã hội, bảo đảm sự phát triển đúng hướng, phục vụ cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động.
Chức năng quan trọng này được triển khai thông qua những biện pháp sau:
xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, pháp luật về con người,
quyền con người và quyền công dân; kiểm tra, giám sát việc thực hiện chiến lược,
chính sách, pháp luật ấy; xử lý kịp thời và nghiêm minh mọi hành vi xâm hại
17


quyền con người, quyền công dân; không ngừng mở rộng các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, dân chủ; thường xuyên hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật bảo đảm các

quyền và lợi ích cơ bản của công dân; hợp tác quốc tế trong lĩnh vực con người.
2.2.2. Chức năng đối ngoại
* Chức năng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa được Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X của Đảng xác định: “Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân
dân vững mạnh toàn diện; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an
ninh xã hội; duy trì trật tự, kỹ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của
đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá,
thù địch, không để bị động bất ngờ” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.108-109).
Trên cơ sở đường lối, chính sách quốc phòng toàn dân, toàn diện của Đảng, Nhà
nước ta xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược và hệ thống pháp luật về quốc
phòng, nhằm củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân mà nòng cốt là các
lực lượng vũ trang nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả đất nước để bảo
vệ Tổ quốc; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh, quốc phòng và an
ninh với kinh tế trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế-xã
hội; phối hợp hoạt động quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại; xây dựng
quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại, xây dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ; hoàn thiện hệ
thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc, phát triển nền công nghiệp quốc phòng, trang
bị kỹ thuật hiện đại cho quân đội, công an; cải thiện đời sống vật chất và tinh thần
của các lực lượng vũ trang và của cán bộ, công nhân viên quốc phòng; thực hiện
tốt chính sách hậu phương với quân đội nhân dân và công an nhân dân.
* Chức năng mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế
và khu vực trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có
lợi; ủng hộ và góp phần tích cực vào phong trào đấu tranh của nhân dân thế
giới vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội.

18


Mục đích thực hiện chức năng này nhằm tiếp tục giữ vững môi trường hòa
bình, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm độc lập
và chủ quyền quốc gia. Đây là chức năng mang tính tổng hợp bao gồm nhiều mặt
hoạt động đối ngoại khác nhau về kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, khoa học và
công nghệ, … Đây là chức năng quan trọng của nhà nước xã hội chủ nghĩa, nó
xuất phát từ bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa phù hợp với xu hướng phát
triển chung của nhân loại. Nội dung chức năng này bao gồm những điểm cơ bản
sau:
- Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền
vững. Phát triển quan hệ với tất cả các nước, vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ
chức quốc tế theo nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa
dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hòa
bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
- Củng cố và tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng
cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Tiếp
tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền.
- Phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm “chủ động, linh
hoạt, sáng tạo và hiệu quả”. Tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động của nhân
dân thế giới. Tăng cường vận động viện trợ và nâng cao hiệu quả hợp tác với các
tổ chức phi chính phủ nước ngoài để phát triển kinh tế-xã hội.
- Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người. Sẵn sàng đối
thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân
quyền. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với
chiến lược phát triển của đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn 2020.
- Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, rà soát lại các văn bản pháp quy, sửa đổi,

bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán, ổn định
và minh bạch. Cải thiện môi trường đầu tư; thu hút các nguồn vốn FDI, ODA, đầu
tư gián tiếp, tín dụng thương mại và các nguồn vốn khác. Xác định đúng mục tiêu
sử dụng và đẩy nhanh việc giải ngân nguồn vốn ODA, cải tiến phương thức quản
lý, nâng cao hiệu quả sử dụng và có kế hoạch trả nợ đúng hạn; duy trì tỷ lệ vay nợ
nước ngoài, hợp pháp, an toàn.
19


3. Bộ máy nhà nước Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
3.1. Khái niệm bộ máy Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Bộ máy Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống các cơ
quan nhà nước từ trung ương xuống địa phương, được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc chung, thống nhất nhằm thực hiện những nhiệm vụ chiến lược và các
chức năng của nhà nước vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ văn minh. Qua định nghĩa trên về bộ máy nhà nước, chúng ta thấy bộ máy nhà
nước như là một cơ thể sống, được tạo nên bởi hệ thống các tế bào – đó là các cơ
quan nhà nước. Cơ quan nhà nước là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, gồm
1 nhóm công chức nhà nước, được thành lập và có được thẩm quyền theo quy định
của pháp luật. Đặc điểm nổi bật của cơ quan nhà nước là cho nó khác với tổ chức
khác không phải là cơ quan nhà nước là tính quyền lực nhà nước của nó. Tính
quyền lực nhà nước đó được thể hiện ở chỗ: chỉ có cơ quan nhà nước mới có quyền
nhân danh nhà nước để thực thi quyền lực nhà nước; trong phạm vi thẩm quyền
của mình.
3.2. Một số đặc điểm cơ bản của bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
Bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có một số đặc điểm
sau:
- Trong tổ chức và hoạt động luôn luôn bảo đảm tính thống nhất quyền lực
và sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các

quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp;
- Mang tính chất nhân dân, tính dân tộc, tính chất giai cấp công nhân;
- Được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung, thống nhất xuất
phát từ bản chất của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa;
- Đội ngũ cán bộ công chức nhà nước xuất phát từ nhân dân, chịu sự giám
sát của nhân dân và luôn phục vụ lợi ích của nhân dân;
- Có nhiệm vụ chiến lược và mục tiêu lâu dài là xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa;
- Luôn luôn được cải cách, hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

20


3.3. Các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Là công cụ có hiệu lực nhất để thực hiện quyền lực nhân dân ở nước ta, bộ
máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động
theo những nguyên tắc hiến định, xuất phát từ bản chất của chế độ chính trị-xã hội
xã hội chủ nghĩa, trong đó nhân dân lao động làm chủ nhà nước và xã hội dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
Bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân tổ
chức nên bộ máy nhà nước và tham gia quản lý nhà nước.
Ở Việt Nam “tất cả quyền lực nhà nước là thuộc về nhân dân mà nền tảng là
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”. Vì
vậy, bộ máy nhà nước cần được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc cơ bản, có
tính chất bao trùm là “phân công và giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” nhằm “bảo đảm và không ngừng
phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu,

nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; nghiêm trị mọi hành động xâm phạm
lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”.
Việc thực hiện tốt nguyên tắc này không những bảo đảm cho Nhà nước ta
luôn luôn là nhà nước của dân, do dân và vì dân mà còn là một biện pháp hữu hiệu
để ngăn ngừa và chống lại tệ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí
trong bộ máy nhà nước. Nhân dân tổ chức nên bộ máy nhà nước trước hết thông
quan bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín để lựa chọn những
người đủ đức đủ tài vào các cơ quan quyền lực nhà nước. Sau đó, các cơ quan
quyền lực nhà nước bầu thành lập các cơ quan chấp hành của mình với những
người lãnh đạo các cơ quan đó. Cử tri có quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của
đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân và có thể bãi miễn các đại biểu
đó khi họ không còn xứng đáng với cử tri nữa.
- Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
Nhà nước.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, là
lực lượng chính trị duy nhất có khả năng và điều kiện lãnh đạo Nhà nước và xã hội
21


Sự lãnh đạo của Đảng luôn luôn mang tính chất chính trị với những nội dung cơ
bản sau: Đảng đề ra đường lối chiến lược về đối nội và đối ngoại để nhà nước thể
chế chúng thành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật. Đảng lãnh đạo công tác
cán bộ của nhà nước, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho nhà nước, giới thiệu những
đảng viên và những người ngoài đảng đủ năng lực và phẩm chất để nhân dân bầu
vào các cơ quan quyền lực nhà nước. Đảng lãnh đạo công tác chính trị-tư tưởng,
thường xuyên giáo dục chính trị, tư tưởng cho đảng viên và quần chúng ngoài
Đảng làm việc trong bộ máy nhà nước. Đảng lãnh đạo nhà nước bằng tuyên truyền,
giáo dục, vân động, thuyết phục và bằng sự nêu gương của đảng viên. Đảng kiểm
tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước. Đảng lãnh đạo nhà nước nhưng

không làm thay nhà nước. Mọi tổ chức đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ.
Trong hoạt động của bộ máy nhà nước, cơ quan nhà nước cấp trên quyết
định và tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật quan trọng nhất về
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; kiểm tra việc chấp hành của cơ quan cấp dưới,
cơ quan cấp dưới phải phục tùng cơ quan cấp trên và trong phạm vi thẩm quyền
của mình, tự giải quyết lấy công việc hàng ngày, không được trông chờ, ỷ lại vào
cấp trên. Nguyên tắc tập trung dân chủ đòi hỏi phải thực hiện chế độ thông tin, báo
cáo và chế độ chịu trách nhiệm rõ ràng giữa cấp trên và cấp dưới; kiên quyết đấu
tranh với tệ quan tập trung quan liêu và thói tự do vô chính phủ.
- Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Trong hoạt động của bộ máy nhà nước, mọi cơ quan nhà nước, công chức
nhà nước đều phải luôn luôn tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách đầy đủ,
nghiêm chỉnh và thống nhất; chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép; phải
làm những gì mà pháp luật yêu cầu phải làm và phải chịu trách nhiệm pháp lý khi
vi phạm pháp luật, đảm bảo sự bình đẳng trước pháp luật.

22


C. KẾT LUẬN
Để duy trì và phát triển xã hội, thì vai trò của nhà nước xã hội chủ nghĩa là
cực kỳ quan trọng và ngày càng quan trọng. Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải tổ
chức và quản lý để bảo vệ được độc lập tự chủ, an ninh trật tự, đồng thời xây dựng
những điều kiện, tiền đề cho xã hội mới. Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải quản lý
để nhân dân được sống ấm no, yên bình, kinh tế phát triển với tốc độ nhanh và bền
vững. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là người dẫn đường cho dân vừa là người phục
vụ mọi hoạt động của xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải thực hiện đầy đủ cả
chức năng công quyền và chức năng phục vụ xã hội, chăm lo đời sống vật chất và

tinh thần của nhân dân; phát triển giáo dục, y tế, văn hoá thể thao, các hoạt động
cung ứng dịch vụ công cộng, phúc lợi xã hội…
Để nước ta sớm thoát khỏi tình trạng chậm phát triển, đến năm 2020 cơ bản
trở thành một nước công nghiệp. Nhà nước ta phải xây dựng, phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sử dụng và phát huy những tác động tích
cực của cơ chế thị trường để thúc đẩy phát triển kinh tế. Đồng thời, quản lý điều
khiển cơ chế thị trường, khắc phục và hạn chế những tác động tiêu cực, không để
cho thị trường vận động một cách tự phát, dẫn đến những mất cân đối về kinh tế,
những hệ quả xấu về xã hội.
Muốn thực hiện tốt những yêu cầu nhiệm vụ trên, đòi hỏi Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta phải phấn đấu nhiều hơn nữa, thực hiện tốt nhiều giải pháp, trong
đó coi giải pháp xây dựng và hoàn thiện nhà nước ta theo hướng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là một trong những
biện pháp hàng đầu và quan trọng nhất, góp phần có hiệu quả tạo nên những thành
tựu vô cùng to lớn sau hơn 20 năm đổi mới đất nước. Chúng ta tin tưởng rằng,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự nỗ lực phấn đấu bền bỉ của Nhà nước và nhân
dân ta, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân sẽ được tiếp tục xây dựng và trở thành hiện thực ở Việt Nam.

23


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
*******
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
3. Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2004.

4. Lênin: Toàn tập, tập 33, Nxb. Tiến bộ, Mátcơva, 1976.
5. Lênin: Toàn tập, tập 39, Nxb. Tiến bộ, Mátcơva, 1976.
6. PGS.TS. Nguyễn Trọng Phúc (Chủ biên), Nhà nước cách mạng kiểu mới ở Việt
Nam (1945 - 2005), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007.
7. TS Nguyễn Hữu Đồng (Chủ biên), Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong
Hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.
8. Nguyễn Đăng Dung: Nhà nước và trách nhiệm của Nhà nước, Nxb. Tư pháp, Hà
Nội, 2006.

24



×