Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Mức độ tự chủ trong quản lý của các trường dạy nghề ở thành phố hà nội, việt nam (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.21 KB, 18 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
Cộng hòa XHCN Việt Nam

ĐẠI HỌC BANG SOUTHERN LUZON
Cộng hòa Philippines

MỨC ĐỘ TỰ CHỦ TRONG QUẢN LÝ Ở CÁC TRƯỜNG DẠY NGHỀ
Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI, VIỆT NAM
NGHIÊN CỨU ĐƯỢC TRÌNH LÊN KHOA SAU ĐẠI HỌC CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC
BANG SOUTHERN LUZON - PHILIPPINES
VÀ ĐAI HỌC THÁI NGUYÊN - VIỆT NAM

ĐƯỢC THỰC HIỆN THEO YÊU CẦU CỦA BẬC HỌC TIẾN SĨ
QUẢN TRỊ KINH DOANH

Phạm Quang Vinh (Stone)
Thái Nguyên, 2013


CHƯƠNG I
THIẾT LẬP VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Giới thiệu
Quyền tự chủ của các tổ chức trong lĩnh vực giáo dục được hiểu là quyền tự quyết
định, tự chịu trách nhiệm theo pháp luật và các yêu cầu của xã hội cho tất cả các hoạt động
của tổ chức đó như tài chính, nhân sự và cơ cấu tổ chức, chương trình đào tạo, kế hoạch
chiến lược, vv.
Nâng cao quyền tự chủ không có nghĩa là buông lỏng quản lý của nhà nước. Ngược
lại, tăng cường tự chủ cho các trường học được coi là một trong những giải pháp quan
trọng nhất để mang lại động lực, sức sống mới cho các cơ sở đào tạo trên cơ sở nâng cao
hiệu quả, chất lượng giáo dục và trách nhiệm xã hội của nhà trường.
Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa - quan liêu - bao


cấp sang cơ chế thị trường định hướng XHCN. Theo đó, giáo dục - đào tạo không chỉ được
coi như một dịch vụ công ích mà cần được nhìn nhận là một ngành dịch vụ quan trọng đã
và đang đóng góp đáng kể vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế quốc dân.
Cơ sở cho vấn đề nghiên cứu
Theo Moran (2002), sự phát triển của các mô hình quản trị trong nhiều xã hội tiên
tiến đều hướng tới một mô hình quản trị được mô tả bằng cụm từ "tự trị". Tức là tại một
tiểu bang, thay vì để chính quyền bang trực tiếp ra quyết định, người ta đã trao quyền tự
quyết định nhiều hơn cho các đơn vị trực thuộc. Theo nguyên tắc chung đó, các trường dạy
nghề cũng trở nên tự chủ hơn – được tự do trong sử dụng nguồn ngân sách được cấp, kiểm
soát đầu vào, các quy định chi tiết trong chương trình đào tạo. Quyền tự chủ lớn hơn được
cân bằng bởi các cơ chế mới về trách nhiệm giải trình (Santiago và các tác giả, 2008). Do
đó, quyền tự chủ của các nhà trường bị giới hạn để việc lựa chọn các chuyên ngành đào tạo
cũng như xác định mô hình đào tạo sao cho phù hợp phù hợp với yêu cầu của thị trường lao
động và năng lực đào tạo của trường.
Hiện nay, Việt Nam còn thiếu các quy định pháp luật cụ thể khuyến khích các doanh
nghiệp và các trường dạy nghề "bắt tay / hợp tác" chặt chẽ trong đào tạo nhằm đáp ứng nhu
cầu của thị trường lao động. Hầu hết các trường vẫn còn đào tạo sinh viên theo các chương
trình mình có mà ít quan tâm đến những gì thị trường lao động đòi hỏi. Sự trì trệ, kém linh
động và hiệu quả thấp trong hoạt động đào tạo của các trường là do bị ảnh hưởng trực tiếp

4


bởi các phương thức quản lý cũ với nhiều hạn chế, yếu kém như: thiếu động lực phát triển,
sự tồn tại của các bộ máy quan liêu, các nhà quản lý và lãnh đạo chưa chuyên nghiệp.
Ngày nay, tăng cường tự chủ là xu hướng tất yếu trong định hướng chính sách phát
triển của ngành giáo dục nói chung và giáo dục nghề nghiệp nói riêng tại Việt Nam. Tự chủ
có thể được coi như một công cụ quan trọng để cải cách và chấn hưng hệ thống giáo dục
nghề nghiệp tại Việt Nam.
Nghiên cứu này cũng đề cập đến một số kinh nghiệm trong việc phát triển các chính

sách giáo dục nghề nghiệp ở một số nước tiên tiến. Trên cơ sở đó, nghiên cứu sẽ chỉ ra
những bài học hữu ích để xây dựng khung chính sách của ngành giáo dục nghề nghiệp tại
Việt Nam.
Phát biểu vấn đề nghiên cứu


Các thông tin cơ bản của người được phỏng vấn:
− Tuổi
− Trình độ giáo dục
− Vị trí trong công việc
− Giới tính
− Kinh nghiêm làm việc trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.



Hiện trạng về mức độ tự chủ trong quản lý ở các trường dạy nghề của thành
phố Hà Nội, Việt Nam trong các yếu tố sau:
− Tự chủ về tổ chức
− Tự chủ tài chính
− Tự chủ đối với nhân viên
− Tự chủ về học thuật



Những yếu tố nào có ảnh hưởng nhiều nhất hoặc ít nhất đến quyền tự chủ
trong các trường dạy nghề theo cảm nhận của người trả lời?



Những nội dung nào cần được xem xét mở rộng để tăng cường mức độ tự

chủ dựa trên các chỉ số đã được nêu ra bởi các trường dạy nghề được khảo
sát?



Những chương trình, kế hoạch cần được phát triển nhằm hỗ trợ hoạt động tự
chủ để thúc đẩy sự phát triển của các trường dạy nghề ở Hà Nội?

Giả thuyết nghiên cứu
Không có sự khác nhau đáng kể về nhận thức của các nhóm trả lời và các thông tin cơ bản
của họ về hoạt động tự chủ về quản lý trong các trường dạy nghề ở thành phố Hà Nội.

5


CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN VỀ CÁC LÝ THUYẾT VÀ NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
Chương này sẽ trình bày các khái niệm và lý thuyết có liên quan đến việc thực hiện
nghiên cứu. Xem xét các tài liệu liên quan và các nghiên cứu đã đề cập đến chủ đề nghiên
cứu. Cuối cùng sẽ đưa ra một khung lý thuyết làm căn cứ để triển khai nghiên cứu.
Các khái niệm liên quan tới vấn đề nghiên cứu


Giáo dục nghề nghiệp (giáo dục trên cơ sở nghề nghiệp hay việc làm), còn được
gọi là dạy nghề hay là giáo dục và đào tạo kỹ thuật và dạy nghề (TVET), là một lĩnh
vực giáo dục mà người học được chuẩn bị kiến thức, kỹ năng, thái độ cho một
ngành nghề cụ thể ở các cấp độ khác nhau như thương mại, thủ công, kỹ thuật viên,
kế toán, điều dưỡng, y học, kiến trúc, dược, luật… Ở Việt Nam, Giáo dục nghề
nghiệp là một hệ thống các trường Trung cấp chuyên nghiệp, Trung cấp nghề, Cao
đẳng nghề và các cơ sở đào tạo có hệ đào tạo trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp

nghề, cao đẳng nghề.



Trường dạy nghề: là trường học trong đó người học được dạy các kỹ năng cần thiết
để thực hiện một công việc cụ thể. Theo truyền thống, các trường dạy nghề đã
không tồn tại trong lĩnh vực khoa học xã hội, mà là để chỉ dạy các kỹ năng nghề cụ
thể. Như vậy, trường dạy nghề là mô hình tốt cho đào tạo nghề liên quan đến các
lĩnh vực thương mại, kỹ thuật, y tế, nghệ thuật…

Trong phạm vi luận án này,

khái niệm trường dạy nghề ở Việt Nam được hiểu là một cơ sở đào tạo thuộc hệ
thống Giáo dục nghề nghiệp.
Những vấn đề về tự chủ và tự chủ trường học


Tự chủ: Tự chủ là một nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực quản trị tổ chức (de
Boer, 2010; Jongbloed, 2010). Nó được hiểu là quyền tự đưa ra và thực hiện các
quyết định của một tổ chức. Tất nhiên quyền tự chủ phải gắn liền với trách nhiệm
giải trình của họ về hậu quả của các quyết định này với cơ quan chủ quản, với các
bên liên quan và với cộng đồng.



Hiệu quả của tự chủ: Tự chủ tạo ra môi trường cần thiết để vận hành đúng đắn mối
quan hệ tương tác giữa ba yếu tố Tự chủ - Đánh giá - Trách nhiệm giải trình trong
một tổ chức. Với một trường dạy nghề, nếu quyền tự chủ thực sự được đảm bảo, nó
sẽ trở thành động lực khai thác mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài tổ chức nhằm
nâng cao hiệu quả và chất lượng đào tạo của trường đó. Quyền tự chủ nhà trường

6


cần có một khuôn khổ pháp lý quy định bởi cơ quan quản lý nhà nước cho phép
quyền tự chủ của họ không bị cản trở, và cũng cần phải có sự đồng thuận của giáo
viên. Nếu thiếu đi những điều kiện này, tự chủ khi đó chỉ mang tính hình thức
(Arcia, Porta, và Laguna, 2004).


Tự chủ trường học:
Theo báo cáo của Ủy ban Cố vấn Nhà nước về Giáo dục của Ấn Độ (2005),
tự chủ trường học được hiểu là một hệ thống các quy định về phân cấp quản lý
trong việc ra quyết định của cấp trên cho cấp dưới để khuyến khích tính sáng tạo và
chủ động của họ để có được hiệu quả cao trong quản lý.
Nghiên cứu của Di Gropello 2004, 2006; Barrera, Fasih và Patrinos (2009)
đưa ra khái niệm tự chủ trường học như là một hình thức quản lý trường học trong
đó các trường được giao quyền tự quyết định đối với hoạt động của họ, bao gồm cả
thuê và sa thải nhân viên, đánh giá giáo viên và các hoạt động sư phạm; Vai trò của
Hội đồng trường trong việc lập và phê duyệt kế hoạch ngân sách, biểu quyết về các
quyết định nhân sự và thúc đẩy trách nhiệm giải trình của nhà trường.
Các nghiên cứu của Thomas Estermann, Terhi Nokkala và Monika Steinel
(2010) đã chỉ ra một bảng 4 yếu tố cơ bản cấu thành khái niệm tự chủ trường học
cùng với các tiêu chí cụ thể cho từng yếu tố.
Bảng 2.2: Các yếu tố cấu thành của tự chủ trường học

Tự chủ về tổ chức
1. Quy trình lựa
chọn người lãnh đạo;
2. Các tiêu chí lựa
người lãnh đạo;

3. Nhiệm kỳ của
lãnh đạo;
4. Lựa chọn và kết
nạp các thành viên
bên ngoài vào ban
lãnh đạo;
5. Khả năng quyết
định cấu trúc học
thuật;
6. Khả năng thành
lập các pháp nhân
của trường;

Tự chủ về tài chính
1. Thời hạn và loại
kinh phí công;
2. Khả năng được
giữ lại phần thặng
dư;
3. Khả năng vay
tiền;
4. Khả năng sở hữu
nhà và đất;
5. Khả năng quyết
định mức thu học
phí;

Tự chủ về nhân sự
1. Khả năng quyết
định trong quá trình

tuyển dụng;
2. Khả năng quyết
định mức lương;
3. Khả năng quyết
định sa thải nhân sự;
4. Khả năng quyết
định các chính sách
khích lệ, khen
thưởng;

Tự chủ về học thuật
1. Khả năng quyết
định quy mô đào tạo;
2. Khả năng lựa
chọn sinh viên;
3. Khả năng giới
thiệu các chương
trình đào tạo;
4. Khả năng kết thúc
chương trình đào
tạo;
5. Khả năng lựa
chọn ngôn ngữ sử
dụng trong giảng
dạy;
6. Khả năng thiết kế
nội dung các chương
trình đào tạo dài hạn;

7



Các nghiên cứu khác của Estermann & Nokkala (2009), Thomas Estermann
(2011), Hsu Yu-Ling Flora (2012) và nguồn tư liệu từ Eurydice (2007) đã chỉ rõ các
mô tả cụ thể cho từng tiêu chí được mô tả trong bảng 2.2. Nội dung cụ thể của các
mô tả này được trình bày chi tiết trong các bảng hỏi của phiếu điều tra ở phần phụ
lục A của luận án.
Tổng quan về hệ thống giáo dục quốc dân và tự chủ trường học ở Việt Nam


Cấu trúc của hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam: Được trình bày trong luận án
(trang 34-37).



Cơ sở giáo dục nghề nghiệp: Trình bày lịch sử hình thành và phát triển của các các
cơ sở giáo dục nghề nghiệp (các trường dạy nghề) từ thời Pháp thuộc cho đến nay.



Tự chủ trường học ở Việt Nam: Trình bày nội dung cơ bản của Nghị định số
43/2006/NĐ-CP, ngày 25/4/ 2006 của Chính phủ xác định quyền tự chủ, tự trách
nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, sắp xếp tổ chức, biên chế và tài chính của các trường
công lập ở ba cấp độ: (i) Tự đảm bảo chi phí hoạt động: Nhà trường có doanh thu
lớn hơn hoặc bằng với chi phí hoạt động thường xuyên; tự đảm bảo tất cả các chi
phí cho hoạt động thường xuyên; (ii) Tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động:
Trường học có thu nhập tự đảm bảo từ 10% đến dưới 100% chi phí hoạt động
thường xuyên, phần còn lại được phân bổ của nhà nước ngân sách; (iii) Phụ thuộc
hoàn toàn vào ngân sách nhà nước: các trường có nguồn thu dưới 10% chi phí hoạt
động thường xuyên, hoặc không có thu nhập; kinh phí hoạt động thường xuyên sẽ

được ngân sách nhà nước cấp toàn bộ.

Các nghiên cứu có liên quan (Được trình bày chi tiết trong luận án)

8


Khung lý thuyết
Biểu đồ 2.6. Mô hình nghiên cứu cho đánh giá mức độ tự chủ về quản lý
trong các trường dạy nghề ở thành phố Hà Nội

Các biến độc lập

Biến phụ thuộc

Tự chủ về
Tổ chức bộ máy

Tự chủ về
Tự chủ
trường
học

Tài chính

Tự chủ về

SỰ GIẢI
PHÓNG CHO
CÁC HOẠT

ĐỘNG CỦA
TRƯỜNG

Nhân sự

Tự chủ về
Học thuật

QUYỀN TỰ
CHỦ

ĐỘNG LỰC

CÁC HOẠT
ĐỘNG

9


CHƯƠNG 3
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu này chủ yếu sử dụng các công cụ và phương pháp phân tích định lượng
để đánh giá thực trạng áp dụng quyền tự chủ trong các trường dạy nghề tại thành phố Hà
Nội và đề xuất các giải pháp đổi mới nhằm nâng cao quyền tự chủ quản lý trong các trường
dạy nghề này.
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu bao gồm các trường dạy nghề công lập và tư thục ở thành
phố Hà Nội, Việt Nam. Trong đó có 184 nhà quản lý, họ là các thành viên ban lãnh đạo
trường, 355 người trả lời là giáo viên hoặc giảng viên giảng dạy tại các trường nghề đó.

Nhận thức của họ về thực trạng mức độ tự chủ trong quản lý các trường dạy nghề đã được
đánh giá, cũng như các vấn đề (khó khăn) gặp phải. Các khuyến nghị để hỗ trợ quyền tự
chủ nhằm nhằm phát triển các trường dạy nghề đã được xác định để giải quyết các vấn đề
trên.
Thống kê và xử lý số liệu điều tra
Một số tiêu chí định tính và định lượng như: giới tính, tuổi tác, bộ phận, vị trí, kinh
nghiệm làm việc đã được biến đổi theo tần suất hoặc tỷ lệ phần trăm. Bảng dưới đây cho
thấy các dữ liệu cần thiết và các công thức thống kê được sử dụng để phân tích số liệu:
Bảng 3.3. Dữ liệu cần thiết và các phương pháp thu thập, xử lý dữ liệu
Nội dung nghiên cứu
I. Thông tin nhân khẩu học của người được
phỏng vấn 
II. Nhận thức của người trả lời phỏng vấn 
III. Sự khác nhau về nhận thức của người
được phỏng vấn về thực trạng mức độ tự chủ
về quản lý trong các trường dạy nghề ở HN và
thông tin nhân khẩu học của họ
IV. Những vấn đề gặp phải trong tự chủ về
quản lý ở các trường dạy nghề tại HN

Phương pháp
Đếm tần suất,
tỷ lệ phần trăm
Trung bình có
trọng số, xếp hạng 
Phân tích phương
sai 1 chiều
(ANOVA - one
way)
Thống kê mô tả 


Dữ liệu yêu cầu
Điều tra 
Điều tra 
Điều tra  

Điều tra 

10


CHƯƠNG 4
TRÌNH BÀY CÁC PHÂN TÍCH VÀ MÔ TẢ SỐ LIỆU

Trong chương này, dữ liệu thu thập đã được trình bày, phân tích và giải thích để trả
lời các vấn đề được nêu ra trong nghiên cứu này.
Đánh giá của các nhà quản lý và các giảng viên về thực trạng mức độ tự chủ trong
quản lý ở các trường dạy nghề tại Hà Nội
Bảng 4.2.3. Thực trạng mức độ tự chủ về quản lý ở các trường dạy nghề tại Hà Nội
trong các nội dung của Tự chủ về tổ chức bộ máy

Các chỉ số 

Các trường
công lập 

Các trường
tư thục 

Đánh giá

chung 

Trung
bình 

Mô tả 

Trung
bình 


tả 

Trung
bình 


tả 

1. Thủ tục lựa chọn người người đứng đầu
điều hành 

2.96 

AV 

2.82 

AV 


2.89 

AV 

2.Tiêu chuẩn lựa chọn người đứng đầu
điều hành 

3.12 

AV 

3.05 

AV 

3.09 

AV 

3. Thực hiện việc bãi miễn người đứng
đầu điều hành 

2.86 

AV 

2.62 

AV 


2.74 

AV 

4. Nhiệm kỳ của người đứng đầu điều
hành 

3.29 

AV 

3.31 

AV 

3.3 

AV 

5. Mở rộng các thành viên bên ngoài
trường trong bộ máy quản lý 

3.09 

AV 

3.08 

AV 


3.09 

AV 

6. Khả năng quyết định cấu trúc học thuật 

3.25 

AV 

3.15 

AV 

3.2 

AV 

7. Năng lực để tạo ra tư cách pháp nhân –
đưa ra quyết định đúng theo luật định 

3.4 

HI 

3.3 

AV 

3.35 


AV 

3.09 

AV 



AV 

3.05 

AV 

Trung bình 

Quyền tự chủ tổ chức của các trường dạy nghề ở Hà Nội được đánh giá ở mức trung
bình, nhiều tiêu chí bị đánh giá thấp. Điều đó cho thấy có nhiều hạn chế trong việc mở rộng
dân chủ, tăng cường trách nhiệm giải trình và tự chủ về tổ chức bộ máy của các trường cần
được khắc phục. Cụ thể: Mở rộng phạm xem xét để lựa chọn cán bộ quản lý ở cả bên ngoài
và nội bộ của các trường ; Tăng cường vai trò của nhà trường trong quá trình ra quyết định
bổ nhiệm/ miễn nhiệm cán bộ quản lý; Bổ nhiệm/ miễn nhiệm cán bộ quản lý trường dựa
trên năng lực, chất lượng và hiệu quả của điều hành của họ; Nâng cao vai trò của Hội đồng
trường và bổ sung các thành viên bên ngoài trường vào Hội đồng trường; Trao quyền quyết

11


định cấu trúc học thuật và nâng cao trách nhiệm giải trình của các trường; Đổi mới hệ

thống quy định cho phép các trường dạy nghề thành lập các pháp nhân trong trường.
Bảng 4.2.6. Những tồn tại của mức độ tự chủ trong quản lý ở các trường dạy nghề tại Hà
Nội như trong các nội dung của tự chủ tài chính
Các chỉ số 
1.Thời hạn và các loại công quỹ 
2.Khả năng lưu giữ các khoản dư tài
chính 
3.Khả năng vay mượn tài chính 
4.Khả năng sử dụng nguồn tài chính để
xây dựng các công trình của trường
5.Khả năng tính toán để quyết định mức
học phí 
Trung bình 

Các trường
công lập

Các trường
tư thục 

Đánh giá
chung

Trung
bình


tả

Trung

bình

Mô tả 

Trung
bình 


tả

2.84

AV

3.04

AV 

2.94 

AV

2.9 

AV 

2.98 

AV 


2.94 

AV 

3.09

AV

3.07

AV 

3.08 

AV

2.91 

AV 

2.75 

AV 

2.84 

AV 

3.01 


AV 

2.94 

AV 

2.98 

AV 

2.95

AV

2.95

AV 

2.95 

AV

Tổng hợp đánh giá về các hoạt động tự chủ tài chính trong các trường dạy nghề tại
Hà Nội, cả hai nhóm được hỏi đều cho rằng các chỉ số về tự chủ tài chính chưa đáp ứng với
mong muốn của người trả lời, có nhiều nội dung cần cải thiện. Nhà nước đã có những
chính sách mới nhằm thúc tự chủ về tài chính trong các trường. Tuy nhiên vẫn còn nhiều
quy định phức tạp và bất hợp lý trong chính sách quản lý. Nhận thức của các nhà quản lý
về quyền tự chủ tài chính của các trường dạy nghề vẫn còn nhiều hạn chế. Họ chưa thực sự
hiểu làm thế nào để sử dụng hiệu quả quyền tự chủ tài chính để phát triển nhà trường. Do
đó, việc thực hiện quyền tự chủ tài chính của các trường dạy nghề ở Hà Nội vẫn chưa thành

công.
Bảng 4.2.9. Những tồn tại của mức độ tự chủ trong quản lý ở các trường dạy nghề tại Hà
Nội như trong các nội dung của tự chủ nhân sự
Các chỉ số 
1.Khả năng quyết định về thủ tục tuyển
dụng (người có học vấn cao hoặc vị trí
quản lý cấp cao) 
2. Khả năng quyết định về tiền lương
(cho người có học vấn cao hoặc quản lý
cấp cao) 
3. Khả năng quyết định bãi miễn đối với
nhân sự (với người có học vấn cao hoặc

Các trường
công lập
Trung Mô
bình
tả

Các trường
tư thục 
Trung Mô
bình
tả 

Đánh giá
chung
Trung Mô
bình 
tả


3.06 

AV 

2.86 

AV 

2.96 

AV 

2.98 

AV 

2.8 

AV 

2.9 

AV 

3.115 

AV 

3.12 


AV 

3.12 

AV 

12


quản lý cấp cao) 
4.Năng lực quyết định chính sách
khuyến khích tạo động lực (cho người có
trình độ học vấn và quản lý cấp cao)
Trung bình 

2.67 

AV 

2.76 

AV 

2.72 

AV 

3.07


AV

2.95

AV 

3.01 

AV

Hoạt động của tự chủ nhân sự tại trường dạy nghề trong các trường nghề của Hà
Nội chỉ ở mức trung bình, chưa thực sự có hiệu quả. Phần lớn các tiêu chí nêu ra được
người trả lời đánh giá ở mức trung bình. Nó cho thấy còn nhiều vấn đề hạn chế như: Các
quy định cứng nhắc của cơ quan quản lý nhà nước về việc tuyển dụng, bổ nhiệm, miễn
nhiệm nhân sự; Chính sách tiền lương trong các trường lệ thuộc nhiều vào hệ thống tiền
lương của nhà nước nên chưa tạo ra động lực tích cực cho cán bộ quản lý, giáo viên; Thiếu
các quy định cụ thể cho từng chức danh công việc dẫn đến khó đánh giá chất lượng, hiệu
quả công việc của nhân sự.
Bảng 4.2.12. Những tồn tại của mức độ tự chủ trong quản lý ở các trường dạy nghề tại Hà
Nội như trong các nội dung của tự chủ về học thuật
Các trường
công lập

Các trường
tư thục 

Trung
bình



tả

Trung
bình


tả 

Trung
bình 


tả

1.Có khả quyết định tổng số lượng sinh
viên các hệ đào tạo 

3.03 

AV 

2.95 

AV 



AV 

2.Có quyền quyết định lựa chọn sinh viên


2.59

LO

2.57

LO 

2.58 

LO

3.Có quyền được đề xuất và chấm dứt một
chương trình đào tạo 

3.09 

AV 



AV 

3.05 

AV 

4. Có quyền được lựa chọn cơ chế đảm
bảo chất lượng và các nhà cung cấp dịch

vụ 

2.76 

AV 

2.62 

AV 

2.69 

AV 

5. Có quyền thiết kế các nội dung của
chương trình đào tạo trong nhà trường

2.54 

LO 

2.41 

LO 

2.48 

LO 

Average  


2.92

AV

2.85

AV 

2.89 

AV

Các chỉ số 

Đánh giá
chung

Tự chủ về học thuật là một trong các yếu tố quan trọng của trường học tự chủ. Tuy
nhiên cả hai nhóm trường công lập và tư thục đều đánh giá không cao các tiêu chí trong nội
dung này, thậm chí một số tiêu chí bị đánh giá rất thấp. Điều đó chỉ ra thực trạng là: Cơ
quan quản lý nhà nước vẫn là người quyết định số lượng tuyển sinh hàng năm của các
trường; Hầu hết các trường dạy nghề tại Hà Nội đều đang gặp khó khăn trong tuyển sinh do
sự cạnh tranh cũng như những bất cập trong hệ thống quản lý nhà nước về dạy nghề, vì vậy
họ không có nhiều cơ hội để lựa chọn sinh viên; Các trường cũng đã có đủ quyền tự chủ
13


trong việc mở và chấm dứt các chương trình đào tạo của mình; Hệ thống đảm bảo chất
lượng trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam khá lỗi thời và kém hiệu quả. Hầu

hết các trường dạy nghề ở Hà Nội chưa xây dựng thành công cơ chế đảm bảo chất lượng
đào tạo hiệu quả; Các quy định về xây dựng chương trình đào tạo còn cứng nhắc và các
trường thiếu chuyên gia và các nguồn lực để xây dựng chương trình đào tạo đáp ứng nhu
cầu thị trường lao động.
Đánh giá mức độ quan trọng của các yếu tố tự chủ trong các trường dạy nghề
Đánh giá chung về tầm quan trọng của các nội dung hoạt động tự chủ tại các trường
dạy nghề tại Hà Nội, kết quả đã được trình bày trong bảng 4.3.5
Bảng 4.3.5. Tổng hợp sự đánh giá về vai trò của các nội dung tự chủ
trong quản lý trường dạy nghề ở Hà Nội
Các chỉ tiêu

Đánh giá chung
Số bình quân

Mô tả 

Xếp hạng



Tự chủ trong tổ chức  

3.21

AV 

2




Tự chủ về tài chính  

3.48

HI 

1



Tự chủ về nhân sự  

3.16

AV 

4



Tự chủ về học thuật  

3.18

AV 

3

3.26


AV 

Đánh giá chung 

 

Những yếu tố cần thiết cần được xem xét mở rộng để tăng cường mức độ tự chủ dựa
trên các chỉ số đã được nêu ra bởi các trường dạy nghề được khảo sát
Các trường dạy nghề ở Hà Nội nên quan tâm thêm các nội dung sau đây để phát
huy quyền tự chủ trong các hoạt động quản lý của nhà trường (xếp theo mức độ ưu tiên):
1) Hợp tác với các trường học, các cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức phi chính
thức khác;
2) Chính quyền địa phương kiểm soát việc mở các trường mới hoặc hợp nhất các
trường;
3) Quyền lực của các cơ quan quản lý nhà nước bằng luật pháp đối với các trường
học.
Sự khác biệt đáng kể giữa thông tin nhân khẩu học của các nhà quản lý và giáo viên
trong các trường dạy nghề và nhận thức của họ về mức độ tự chủ trong quản lý ở các
trường dạy nghề đó ở Hà Nội

14


Có ý sự khác biệt quan trọng trong mối quan hệ giữa vị trí làm việc của người trả lời và
nhận thức của họ về tự chủ quản lý trong các trường dạy nghề được thể hiện ở nội dung “Tự chủ
tổ chức bộ máy” (đối với cả trường công lập và tư thục).
Ở các trường công lập, có sự khác biệt đáng kể trong mối quan hệ giữa công việc được
phân công của người trả lời phỏng vấn và nhận thức của họ đối về tự chủ trường học trong nội
dung “Tự chủ nhân sự”. Còn ở các trường tư thục lại có sự khác biệt đáng kể trong mối quan
hệ giữa vị trí làm việc của người trả lời phỏng vấn với nhận thức của họ về nội dung “Tự

chủ tài chính”.

CHƯƠNG 5
NHỮNG PHÁT HIỆN, KẾT LUẬN, CÁC KHUYẾN NGHỊ

Tóm tắt
Nghiên cứu này đã sử dụng kết hợp cả hai phương pháp nghiên cứu định lượng và
định định tính để có được sự hiểu biết chung về mức độ tự chủ trong quản lý các trường
dạy nghề ở thành phố Hà Nội. Nghiên cứu đã thu thập các đánh giá (định tính) của lãnh đạo
và giáo viên / giảng viên các nhà trường ở các nội dung như: tự chủ về tổ chức, tự chủ tài
chính, tự chủ về nhân sự, và tự chủ học thuật. Sau đó sử dụng phương pháp phân tích
phương sai ANOVA một chiều để lượng hóa các yếu tố định tính thu được nói trên thành
mức độ tự chủ của các trường dạy nghề ở Hà Nội.
Từ kết quả phân tích đó, nghiên cứu đưa ra nhận định khái quát về mức độ tự chủ
trong các trường dạy nghề tại Hà Nội, đồng thời cũng nêu ra những khuyến nghị cho việc
thúc đẩy tính tự chủ nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động trong các nhà trường.
Các phát hiện chính
Căn cứ vào tất cả các dữ liệu được trình bày, phân tích và giải thích trên, nghiên
cứu đã đạt được một số phát hiện về thực trạng của mức độ tự chủ của các trường dạy nghề
tại Hà Nội:
Tự chủ về tổ chức bộ máy: 1) Việc bổ nhiệm và miễn nhiệm người lãnh đạo của các
trường dạy nghề tại Hà Nội vẫn hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của cơ quan quản lý
nhà nước nhưng chưa thực sự dựa trên năng lực và hiệu quả của những người được chọn.

15


2) Hội đồng trường chưa thực hiện đúng vai trò của mình trong việc mở rộng dân chủ, tăng
cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong các trường dạy nghề. Sự tham gia của
các thành viên bên ngoài vào Hội đồng trường là không hiệu quả, vì vậy nó không giúp

thúc đẩy mối quan hệ giữa nhà trường với các doanh nghiệp và cộng đồng. 3) Các tổ chức
pháp nhân do các trường dạy nghề tạo ra còn bị hạn chế quyền tự chủ rất nhiều 4) Các
trường dạy nghề đã được trao quyền tự chủ nhiều hơn trong việc quyết định cấu trúc học
thuật, nhưng họ chưa sử dụng nó một cách hiệu quả. 5) Hệ thống quản lý nhà nước về giáo
dục nghề nghiệp ở Việt Nam bị phân chia không hợp lý (thuộc quyền quản lý của hai bộ
MOET và MOLISA) gây chồng chéo, xung đột, lãng phí và hiệu quả thấp.
Tự chủ về tài chính: 6) Các trường dạy nghề ở Hà Nội đều quan tâm đến các khoản
vay và đầu tư dài hạn để tăng cường chất lượng và quy mô đào tạo. Tuy nhiên, họ đã gặp
rất nhiều khó khăn và rào cản khi muốn vay tiền từ các tổ chức tín dụng hoặc ngân sách
nhà nước. 7) Các quy định pháp lý hiện hành đã không khuyến khích các trường dạy nghề
tích lũy và sử dụng phần giá trị thặng dư để tái đầu tư cho mục đích phát triển nhà trường.
8) Các trường nghề công lập không phải là người sở hữu đầy đủ các bất động sản (đất và
nhà xưởng) của họ, còn hầu hết các trường tư thục chỉ là người đi thuê. Vì vậy, nhìn chung
các trường đều thiếu quyền tự chủ với bất động sản họ đang được sử dụng, dẫn đến thiếu
động lực để đầu tư và sử dụng hiệu quả các bất động sản này. 9) Chính phủ chưa có những
chính sách hữu hiệu để khuyến khích phát triển các trường dạy nghề tư thục (đất đai, hỗ trợ
tài chính…). Có sự chênh lệch trong đầu tư của nhà nước giữa các trường nghề công lập và
các trường dạy nghề tư nhân. Với mức tiền lương thấp sau tốt nghiệp của sinh viên các
trường dạy nghề như hiện nay, các trường dạy nghề tư thục không thể thu được mức phí
cao để đảm bảo chất lượng đào tạo và cạnh tranh với các trường công lập.
Tự chủ về nhân sự: 10) Quyền tự chủ về nhân sự trong các trường dạy nghề tại Hà
Nội được đánh giá ở mức trung bình. Việc áp dụng các thành tựu trong quản lý nguồn nhân
lực (HRM) ở các trường mới chỉ bắt đầu. Chính sách của họ về tuyển dụng, tiền lương,
miễn nhiệm, đánh giá, khen thưởng phụ thuộc rất nhiều vào các quy định mang tính cứng
nhắc và lỗi thời. Vì vậy, rất khó để có thể lựa chọn nhân viên thích hợp và cũng rất khó để
sa thải nhân viên, không tạo ra động lực tích cực cho người lao động
Tự chủ về học thuật: 11) Các trường dạy nghề ở Hà Nội đang phải đối mặt với khó
khăn về tuyển sinh. Họ không có nhiều cơ hội để lựa chọn sinh viên. 12) Hệ thống quản lý
chất lượng đào tạo của các trường dạy nghề còn kém hiệu quả. Mặc dù các cơ quan quản lý
nhà nước khuyến khích các trường tiếp cận với các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến,

16


nhưng có rất ít trường dạy nghề có hợp tác với các tổ chức tư vấn độc lập để xây dựng hệ
thống quản lý chất lượng đào tạo của họ. 13) Khả năng xây dựng chương trình đào tạo đáp
ứng nhu cầu thị trường lao động của các trường dạy nghề còn yếu. Họ không có đủ chuyên
gia và các nguồn lực cần thiết cũng như thiếu sự hỗ trợ của Chính phủ (số liệu thống kê,
chính sách để kết nối các trường học với thị trường lao động).
Các kết luận
Quyền tự chủ trong quản lý của các trường dạy nghề ở Việt Nam nói chung và Hà
Nội nói riêng có sự tương đồng và vẫn còn trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi.
Nó đặt ra vấn đề phải đổi mới chính sách của chính phủ và cần có các các nghiên cứu sâu
hơn để thúc đẩy quyền tự chủ của các trường dạy nghề nhằm nâng cao hiệu quả và chất
lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Đánh giá về mức độ quan trọng của các yếu tố của tự chủ trong quản lý các trường
dạy nghề ở Hà Nội: 1) Tự chủ tài chính là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong các trường
dạy nghề tại Hà Nội hiện nay vì nó là cơ sở và cũng là động lực quan trọng các trường dạy
nghề thực thi các nội dung khác của tự chủ trường học. 2) Vấn đề được quan tâm tiếp theo
là tự chủ về tổ chức bộ máy. Hiện nay, quản lý nhà nước chồng chéo trong lĩnh vực giáo
dục nghề nghiệp dẫn đến nhiều bất cập, bất công bằng, thiếu kiểm soát và kém hiệu quả
trong cả hệ thống. Vấn đề này kết hợp với những hạn chế nội tại về tổ chức bộ máy của các
trường dạy nghề đã hạn chế rất nhiều sức phát triển và hiệu quả đào tạo của các trường. 3)
Tự chủ về học thuật được cho là yếu tố quan trọng thứ ba, và cuối cùng là tự chủ về nhân
sự.
Các khuyến nghị
Tăng cường quyền tự chủ trong quản lý của các trường dạy dạy nghề ở Hà Nội
là hết sức cần thiết. Nó sẽ là một động lực quan trọng để nâng cao chất lượng, hiệu quả đào
tạo của các trường, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Trên cơ sở các kết quả nghiên
cứu luận án đề xuất một số giải pháp cần thực hiện để cải thiện mức độ tự chủ trong quản
lý ở các trường dạy nghề ở Hà Nội như sau:

Tự chủ về tổ chức bộ máy: 1) Chính phủ cần thống nhất quản lý nhà nước và và cải
tiến hệ thống các quy định trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp để giúp các trường dạy
nghề có điều kiện phát triển thuận lợi. Các trường cần được trao quyền tự chủ nhiều hơn
trong việc thành lập các pháp nhân thuộc trường để nâng cao năng lực và hiệu quả các hoạt
động của nhà trường. 2) Các trường dạy nghề phải bổ nhiệm/ miễn nhiệm cán bộ quản lý
17


dựa trên kinh nghiệm, năng lực và hiệu quả công tác quản lý của họ. Các trường cũng cần
mở rộng phạm vi tìm kiếm cả trong và ngoài trường để chọn được cán bộ quản lý phù hợp.
3) Các trường dạy nghề cần đề cao vai trò của Hội đồng trường để mở rộng dân chủ, tăng
quyền tự chủ đi đôi với trách nhiệm giải trình, trách nhiệm xã hội của trường; Bổ sung các
thành viên từ bên ngoài vào Hội đồng trường. 4) Chính phủ cần giao quyền quyết định về
cấu trúc và nội dung học thuật cho các trường dạy nghề trên cơ sở khung trình độ quốc gia.
Tự chủ tài chính: 5) Cho phép các trường công lập huy động vốn từ các tổ chức tín
dụng, các quỹ và ngân sách nhà nước để đầu tư phát triển quy mô và nâng cao chất lượng
đào tạo. Tạo điều kiện thuận lợi cho các trường tư thục dễ dàng tiếp cận với các khoản tín
dụng ưu đãi đầu tư dài hạn cho lĩnh vực đào tạo. 6) Cần có chính sách khuyến khích các
trường dạy nghề tích lũy và tái đầu tư nâng cao chất lượng đào tạo. 7) Cho phép các trường
công lập toàn quyền sở hữu và sử dụng bất động sản đã giao cho họ vì mục đích giáo dục –
đào tạo. Hỗ trợ các trường tư thục mua hoặc thuê nhà/ đất dài hạn với giá ưu đãi để khuyến
khích phát triển dạy nghề. 8) Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ công bằng giữa trường
công và trường tư căn cứ vào chất lượng và hiệu quả đào tạo của mỗi trường. Phải từng
bước tăng thu nhập cho lao động trong nước đã qua đào tạo nghề và tăng cường xuất khẩu
lao động kỹ thuật cao ra nước ngoài.
Tự chủ về nhân sự: 9) Trao quyền cho người đứng đầu để gắn mọi quyết định của
họ với trách nhiệm giải trình cũng như chất lượng và hiệu quả quản lý của họ. Áp dụng các
công cụ quản lý nguồn nhân lực (HRM) để xây dựng các chính sách của trường trong tuyển
dụng, đào tạo, trả lương, đánh giá năng lực, khen thưởng nhân viên dựa trên năng lực, chất
lượng và hiệu quả công việc của họ.

Tự chủ về học thuật: 10) Chính phủ cần điều chỉnh các chính sách hướng nghiệp để
tăng cường nguồn tuyển sinh cho các trường dạy nghề; Tăng cường đầu tư nâng cao năng
lực và chất lượng đào tạo của nhà trường để thu hút nhiều sinh viên theo học hơn. Thu hút
đầu tư FDI để khuyến khích sản xuất trong nước, tạo thêm việc làm có thu nhập cao hơn
cho sinh viên sau tốt nghiệp. 11) Chính phủ cần đẩy nhanh tiến trình hoàn thiện hệ thống
quản lý chất lượng dạy nghề quốc gia. Theo đó, phải hoàn thiện các quy định về kiểm soát
chất lượng của các trường dạy nghề, khuyến khích xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng
của các trường đáp ứng nhu cầu của tiêu chuẩn quốc gia. 12) Tăng cường hợp tác quốc tế:
trao đổi học thuật, trao đổi giảng viên – sinh viên, hợp tác đào tạo với các nước tiên tiến
trong khu vực và trên thế giới. Chính phủ cần khuyến khích các doanh nghiệp hợp tác và

18


tài trợ cho các trường dạy nghề và phát triển hệ thống dữ liệu thống kê quốc gia để dự báo
xu hướng phát triển và nhu cầu của thị trường lao động.
Kế hoạch thực hiện: Các trường dạy nghề phải thực hiện tốt việc xây dựng kế hoạch
chiến lược phát triển nhà trường, trong đó trở thành một trường học tự chủ là một mục tiêu
không thể thiếu. Quyền tự chủ vừa là mục tiêu, vừa là một giải pháp nâng cao chất lượng,
hiệu quả đào tạo, cũng chính là để nâng cao giá trị thương hiệu của nhà trường. Từ đó, căn
cứ hoàn cảnh thực tiễn, có thể được chia quá trình xây dựng trường dạy nghề tự chủ thành
hai giai đoạn:
Giai đoạn 1: Tăng cường năng lực tự chủ tài chính ở mức cao nhất và cải thiện một
phần khả năng tự chủ về học thuật của các trường dạy nghề ở Hà Nội.
Giai đoạn 2: Hoàn thiện năng lực tự chủ về học thuật và triển khai xây dựng và hoàn
thiện mô hình tự chủ về tổ chức bộ máy và nhân sự.
Mục tiêu này sẽ hoàn toàn thất bại nếu các quy định của Nhà nước đối với các trường
dạy nghề không thay đổi.

LÝ LỊCH KHOA HỌC


Họ và tên: PHẠM QUANG VINH
Ngày, tháng , năm sinh: 02 - 01 -1972
Quá trình Đào tạo:
Cấp độ

Năm tốt
nghiệp

Trường tốt nghiệp, nước

Chuyên ngành
tốt nghiệp

Cao đẳng

1992

Cao đẳng Sư phạm Hà Nội

Toán

Đại học

1997

Đại học Mở Hà Nội

Toán – Tin học


Cao Học/ CK1/
CK2

2006

Học viện Kỹ thuật quân sự

Khoa học máy
tính

Tiến sĩ
Tiến sĩ khoa học

19


Chức danh khoa học: Giáo viên cao cấp (2013)
-

Trình độ ngoại ngữ (bằng hoặc chứng chỉ cao nhất của các ngoại ngữ): B2

-

Đơn vị công tác hiện tại: Trường Trung cấp Kinh tế - Kỹ thuật Bắc Thăng Long

-

Chức vụ hiện tại:

Hiệu trưởng


-

Địa chỉ liên hệ:

xóm Tây, thôn Bầu, Kim Chung, Đông Anh, Hà Nội

-

Điện thoại:

0913.537.881 / 0978.899.199

-

Email:



Các lĩnh vực nghiên cứu và giảng dạy:
Môn học giảng dạy: Cơ sở dữ liệu; Cấu trúc dữ liệu và giải thuật; Mạng máy tính; Cấu
trúc máy tính
Các công trình khoa học
1. Sách, giáo trình đã xuất bản:
-

Các sách chủ biên: Giáo trình Tin học văn phòng, 1999 (lưu hành nội bộ).

2. Đề tài, chương trình, dự án KH&CN đã chủ trì:
2.1. Đề tài KH&CN các cấp đã chủ trì:

-

Đề tài cấp ngành: “Vận dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO
9001:2000 vào quản lý chất lượng đào tạo tại các trường Trung cấp chuyên nghiệp
Hà Nội”, nghiệm thu năm 2008 loại xuất sắc.

2.2. Chương trình, dự án KH&CN đã chủ trì:
3. Các bài báo, báo cáo khoa học:
-

Báo cáo “Những khó khăn trong việc triển khai mô hình đào tạo TCCN chất lượng
cao và giải pháp khắc phục trong giai đoạn hiện nay” tại hội thảo “Vấn đề và giải
pháp gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng lao động của xã hội” do Hiệp hội các trường
CĐ-TCCN Kinh tế - Kỹ thuật (ATEC) tổ chức ngày 30/3/2012 tại TP Hồ Chí Minh.

-

Báo cáo “Một số kinh nghiệm triển khai xây dựng mụ hình đào tạo TCCN
chất lượng cao tại trường TC KT-KT Bắc Thăng Long từ 2006 đến 2010” tại hội
thảo “Phát triển mô hình dịch vụ giáo dục đào tạo trình độ cao, chất lượng cao ở Hà
Nội” do Sở Giáo dục – Đào tạo Hà Nội tổ chức tháng 11 năm 2010

-

Báo cáo “Mô hình dịch vụ đào tạo nghề chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị
trường lao động Thủ đô Hà Nội đến 2005”, tại Hội thảo khoa học: “Mô hình cơ
sở dịch vụ giáo dục trình độ cao, chất lượng cao: thực trạng và giải pháp” do
Sở Giáo dục – Đào tạo Hà Nội tổ chức ngày 23/12/2008.

4. Sản phẩm KHCN:

Hoạt động đào tạo
1. Đào tạo sau Đại học:
2. Tham gia giảng dạy tại nước ngoài:

20



×