Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

QUAN ĐIỂM CỦA LÊNIN VỀ CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT - PHẦN CÁC TP KINH ĐIỂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.29 KB, 22 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Công tác kiểm tra, giám sát và bảo vệ Đảng là một bộ phận quan
trọng của công tác xây dựng Đảng, là nội dung và phương thức lãnh đạo
của Đảng, là nhân tố quan trọng cấu thành toàn bộ công tác xây dựng
Đảng, đan xen, hoà quyện vào các lĩnh vực lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức
thực hiện đường lối của Đảng. Công tác kiểm tra, giám sát là một phương
thức hữu hiệu để xây dựng và hình thành nhân cách người cán bộ, đảng
viên, hạn chế những sai lầm khuyết điểm. Bảo vệ Đảng là chống lại sự phá
hoại Đảng của các thế lực thù địch; là loại trừ những nhân tố cản trở sự
phát triển của Đảng nảy sinh trong nội bộ nhằm giữ cho Đảng trong sạch,
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xứng đáng là người lãnh đạo,
tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng. Ở bất cứ thời kỳ cách mạng nào,
công tác kiểm tra, giám sát và bảo vệ Đảng đều có vai trò quan trọng đặc
biệt; nó như là một quy luật và là phương thức hành động không thể thiếu
để thực hiện mục đích. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, cùng với công
tác cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát và bảo vệ Đảng trở thành công việc
then chốt, trọng tâm nhất.
Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, Đảng ta phải không ngừng
chú trọng công tác xây dựng, củng cố nội bộ Đảng. Hiện nay, sự suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên đang trở nên nghiêm trọng, làm suy giảm niềm tin của nhân
dân, ảnh hưởng đến sự sống còn của Đảng, tồn vong của chế độ. Thực
trạng này đã diễn ra từ lâu, tuy vậy vẫn chưa có giải pháp hiệu quả để ngăn
chặn và đẩy lùi. Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI “Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay” xác định sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức lối sống là một trong ba vấn đề cấp bách của Đảng ta hiện nay
cần tập trung giải quyết. Mặt khác, cùng với tình trạng suy thoái về chính
trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí ngày thêm nghiêm trọng hiện
nay; thì những biểu hiện xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” có chiều hướng ngày thêm phức tạp. Các thế lực thù địch


tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử
dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ
chính trị ở nước ta… Trên thực tế, không ít tổ chức cơ sở đảng cũng như
cấp uỷ ở một số cơ quan, đơn vị chưa nhận thức đầy đủ tính chất xảo
quyệt, nguy hiểm của âm mưu "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù
địch; nhiều cán bộ đảng viên còn mơ hồ, mất cảnh giác, có người còn bị kẻ
địch lợi dụng; tình trạng tham nhũng, lãng phí, các tệ nạn xã hội có chiều
hướng gia tăng, đã trở thành những cơ hội để các thế lực thù địch lợi dụng
tiến hành “diễn biến hoà bình” hòng chống phá Đảng.
Trong thời kỳ đất nước hội nhập, phát triển, công tác kiểm tra, giám
sát và bảo vệ Đảng có vị trí, vai trò quan trọng trong việc góp phần đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng; giữ vững các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng;
giáo dục rèn luyện đạo đức, lối sống, phẩm chất và năng lực đội ngũ cán
bộ, đảng viên; đấu tranh mạnh mẽ, kiên quyết nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tệ
quan liêu, tham nhũng, thoái hoá, biến chất, để xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh.
Qua học tập, nghiên cứu một số tác phẩm kinh điển của V.I.Lênin
viết trước và sau cách mạng tháng Mười, từ thực tiễn đặt ra hiện nay, tôi
thấy việc tiếp tục nghiên cứu để nắm vững và vận dụng đầy đủ, đúng đắn
những quan điểm, tư tưởng của Lênin về công tác kiểm tra, giám sát và
bảo vệ Đảng vào quá trình lãnh đạo cách mạng hiện nay là rất cần thiết,
cần trở thành hoạt động thường xuyên của toàn Đảng, của mọi cấp uỷ, tổ
chức đảng và đảng viên. Với những lý do như nêu trên, tôi mạnh dạn lựa
chọn nội dung: “Quan điểm, tư tưởng của V.I.Lênin về công tác kiểm
tra, giám sát và bảo vệ Đảng qua các tác phẩm; ý nghĩa của việc nghiên
cứu những quan điểm, tư tưởng đó hiện nay” làm chủ đề tiểu luận học
phần V.I.LÊNIN VỀ ĐẢNG VÀ XÂY DỰNG ĐẢNG QUA CÁC TÁC
PHẨM KINH ĐIỂN.
I- NHỮNG QUAN ĐIỂM, TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN VỀ

CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT VÀ BẢO VỆ ĐẢNG
1- Những quan điểm, tư tưởng về công tác kiểm tra, giám sát:
V.I.Lênin đã xác định công tác kiểm tra, kiểm soát là một công cụ
hữu hiệu và là một nội dung lãnh đạo quan trọng đối với tổ chức đảng, cơ
quan Nhà nước. Theo Lênin, kinh tế là nội dung vật chất của chính trị, còn
bao giờ chính trị cũng là biểu hiện tập trung của kinh tế. Mục tiêu đấu
tranh của Đảng là dùng bạo lực cách mạng lật đổ giai cấp tư sản thống trị
phản động, giành lấy chính quyền. Đây là nhiệm vụ khó khăn, song sau
khi giành được chính quyền từ tay giai cấp tư sản thì việc giữ chính quyền
và xây dựng chính quyền vững mạnh, xây dựng và phát triển kinh tế còn
khó khăn gấp bội. Muốn làm tốt các việc này, Lênin đã khẳng định: Để
chính quyền vô sản non trẻ đứng vững và phát triển thì những người cộng
sản phải nắm chắc công cụ kiểm tra, kiểm soát. Coi đó như là: “Những
nghiệp vụ đã trở thành tự nhiên đối với những người xã hội chủ nghĩa sau
khi giành được chính quyền”. Người còn nhấn mạnh: “Mọi ý kiến và lời
chỉ dẫn mặc dầu rất quan trọng, nhưng không thể thiếu được việc tổ chức
kiểm tra trong thực tiễn để biến lời nói thành hành động”.
Trước cách mạng tháng Mười, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
là hết sức quan trọng, trong điều kiện Đảng cầm quyền nhiệm vụ này càng
quan trọng hơn. Theo V.I.Lênin: Một trong những biện pháp để chống bọn
2
quan liêu lề mề là kiểm tra việc các địa phương chấp hành các đạo luật và
chỉ thị của Trung ương. Tất cả nghị quyết của Đại hội và tất cả các cuộc
bầu cử do đại hội tiến hành đều là những quyết định của Đảng, toàn thể
các tổ chức đảng nhất thiết phải chấp hành. Bất kỳ người nào cũng không
thể hiện ra bất kỳ lý do gì để phản đối nghị quyết đó, các nghị quyết đó chỉ
có thể bị bãi bỏ hoặc được sửa đổi bởi các lần đại hội sau mà thôi. Theo
V.I.Lênin khi mục đích và nhiệm vụ đã được xác định, nghị quyết đã được
thông qua thì nhiệm vụ tổ chức phải được đặt lên hàng đầu: Điều chủ yếu
là chuyển trọng tâm từ việc soạn thảo các sắc lệnh và mệnh lệnh sang việc

lựa chọn người và kiểm tra việc thực hiện.
Lênin nhấn mạnh việc kiểm tra nhân viên công tác và kiểm tra việc
chấp hành thực tế công tác - mấu chốt của toàn bộ công tác, của toàn bộ
chính sách là ở đây, vẫn ở đấy và chỉ có ở đấy, đó không phải là việc làm
trong vài tháng, hay một năm mà là một việc làm trong nhiều năm. Người
cho rằng cần phải tiến hành kiểm tra, thực hiện trên thực tế “công việc”
một. Đó là điều quan trọng nhất và cần thiết nhất. Phải nêu kết quả từng
lần kiểm tra; cần phải thường xuyên càng tốt căn cứ vào các sự kiện chính
trị mới mà kiểm tra lại các nghị quyết và sách lược đã được thông qua
trước đây. Người phê phán các cơ quan, cán bộ chỉ “bù đầu, bù tai vào
những vấn đề vụn vặt” chìm ngập trong cái bể giấy tờ và vũng lầy chủ
nghĩa quan liêu, không hề quan tâm đến việc lựa chọn người, thiết lập chế
độ cá nhân đối với công việc kiểm tra, công việc thực tế. V.I.Lênin kết
luận: Mấu chốt của toàn bộ công tác là ở việc lựa chọn người và kiểm tra
việc chấp hành. Kiểm tra như thế là cần thiết cả về mặt lý luận cũng như
về mặt thực tiễn: về lý luận là căn cứ vào mặt thực tế, vào kinh nghiệm mà
biết chắc được rằng các nghị quyết đã được thông qua có đúng hay không
và đúng đến mức nào, cần phải sửa đổi những gì, do có sự kiện chính trị
xảy ra sau khi đã có nghị quyết, đòi hỏi phải tiến hành - về mặt thực tiễn là
để học tập cho biết cách tuân theo các nghị quyết ấy một cách thực sự, học
để biết coi các nghị quyết ấy là những chỉ thị cần được áp dụng trực tiếp
và ngay lập tức vào thực tế. Trong giai đoạn xây dựng kinh tế, theo Lênin
cần phải tổ chức kiểm tra nghiêm ngặt các công tác thực tế, kiểm tra trên
quan điểm của nền kinh tế quảng đại quần chúng, Người cũng chỉ ra rằng
chúng ta phải tổ chức kiểm tra nghiêm ngặt công tác của chúng ta, không
phải kiểm tra theo kiểu những cơ quan kiểm tra do chính những người
cộng sản lập lên dù cho những cơ quan đó có tuyệt vời đi nữa và dù cho
các cơ quan kiểm tra đã có trong hệ thống cơ quan xô-viết cũng như trong
hệ thống tổ chức của đảng, dù cho những cơ quan hầu như lý tưởng đi nữa
cũng thế; sự kiểm tra như thế đứng trên giác độ nhu cầu thực tế của nền

kinh tế nông dân mà xét thì chỉ là một điều chế giễu. Hiện nay chúng ta
đang thành lập cơ quan kiểm tra đó, nhưng không nói đến sự kiểm tra như
vậy mà là kiểm tra trên quan điểm kinh tế quảng đại quần chúng.
3
Trong công tác kiểm tra, giám sát cần tuyển lựa những người ưu tú
nhất trong giai cấp công nhân, nhân dân lao động, những người có uy tín
nhất, trình độ năng lực nhất.
Về vị trí, vai trò và tính tất yếu của công tác kiểm tra, kiểm soát;
trong di sản lý luận và thực tiễn hoạt động, Lênin rất coi trọng công tác
kiểm tra, kiểm soát, xác định đó là công cụ hữu hiệu và là một nội dung
lãnh đạo quan trọng. Người đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò công tác kiểm
tra, kiểm soát sau khi giành được chính quyền. Vì nhiệm vụ trọng tâm đã
chuyển từ tước đoạt của kẻ đi tước đoạt, sang nhiệm vụ tổ chức, quản lý
xây dựng chính quyền, đặc biệt trung tâm là phát triển kinh tế nâng cao
năng suất lao động. Đây là nhiệm vụ khó khăn gấp bội, như Lênin đã
thường nói, giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền càng khó hơn.
V.I.Lênin còn chỉ ra rằng: “Từ nay cho đến khi giai đoạn ‘cao’ của
chủ nghĩa cộng sản xuất hiện, những người xã hội chủ nghĩa yêu cầu xã
hội và nhà nước kiểm soát thật nghiêm ngặt mức độ lao động và mức độ
tiêu dùng”
(1)
. Ngay sau khi lật đổ được giai cấp tư sản, vấn đề kiểm kê và
kiểm soát là vấn đề căn bản đối với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa:
“Nếu nhà nước không tiến hành kiểm kê và kiểm soát toàn diện đối với
việc sản xuất và phân phối các sản phẩm, thì chính quyền của những
người lao động, nền tự do của họ, sẽ không thể nào duy trì được và nhất
định họ sẽ phải sống trở lại dưới ách của chủ nghĩa tư bản”
(2)
. “Không có
chế độ kế toán và kiểm soát trong sự sản xuất và phân phối sản phẩm, thì

những mầm mống của chủ nghĩa xã hội sẽ bị tiêu diệt, thì có nghĩa là ăn
cắp quốc khố (vì tất cả của cải đều thuộc về quốc khố mà quốc khố ở đây
lại chính là Chính quyền xôviết, chính quyền của đa số những người lao
động); cẩu thả đối với việc kiểm kê và kiểm soát là trực tiếp giúp sức cho
bọn Coócnilốp Đức và Nga, là những kẻ chỉ có thể lật đổ chính quyền của
những người lao động, nếu chúng ta không giải quyết được nhiệm vụ kiểm
kê và kiểm soát”
(3)
. Công tác kiểm tra của Đảng như là một công cụ quan
trọng, một nguyên tắc lãnh đạo của công tác xây dựng đảng; là một
phương tiện nhằm đảm bảo vai trò lãnh đạo, vai trò tiên phong của Đảng;
là một phương tiện có hiệu quả để giải quyết những vấn đề trong quan hệ
nội bộ Đảng. Theo Lênin việc kiểm tra, xem xét những đối tượng xin vào
Đảng, ngay từ ban đầu cần phải được tiến hành kỹ lưỡng, thận trọng từng
bước để tránh kết nạp vào trong hàng ngũ những đảng viên không đủ tiêu
chuẩn, không thật sự là người cộng sản chân chính.
Lênin luôn xác định công tác kiểm kê, kiểm tra, kiểm soát là một
công cụ hữu hiệu và là một trong những nội dung lãnh đạo quan trọng đối
1
()
V.I.Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva 1976, tập 33, trang 119.
2
()
V.I.Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva 1977, tập 36, trang 224.
3
()
V.I.Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva 1977, tập 36, trang 225-226.
4
với các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước. Lênin cho rằng muốn thực hiện
tốt nhiệm vụ chính trị đã đề ra thì những người cộng sản phải nắm chắc

công cụ kiểm kê, kiểm tra, kiểm soát, coi đó như là “những nhiệm vụ đã
trở thành tự nhiên đối với những người xã hội chủ nghĩa sau khi đã giành
được chính quyền”
Về nội dung, nhiệm vụ, ý nghĩa của kiểm tra, kiểm soát; công tác
kiểm tra, kiểm soát tập trung trước hết là kiểm tra “việc” và kiểm tra
“người”. Theo V.I.Lênin, nhiệm vụ chủ yếu trong công tác kiểm tra, kiểm
soát là biết sửa chữa, uốn nắn công việc, ngăn ngừa thiếu sót, sai lầm. Điều
đó cho thấy tính chủ động, tính nhân văn của công tác kiểm tra, kiểm soát
của Đảng. Tìm ra lỗi lầm ở người phụ trách chỉ là một phần rất nhỏ của
công việc; kiểm tra, kiểm soát nhằm xây dựng tinh thần trách nhiệm và kỷ
luật cao của mỗi cán bộ, đảng viên. Sau cách mạng tháng Mười, trọng tâm
của cuộc cách mạng lúc này đã chuyển sang lĩnh vực quản lý đất nước, đặc
biệt là quản lý kinh tế, trong đó bao gồm hai nhiệm vụ quan trọng là: tổ
chức kiểm kê, kiểm soát việc sản xuất, phân phối sản phẩm và nâng cao
năng suất lao động. Theo V.I.Lênin: “…nếu nhà nước không tiến hành
kiểm kê và kiểm soát toàn diện đối với việc sản xuất và phân phối các sản
phẩm, thì chính quyền của những người lao động, nền tự do của họ, sẽ
không thể nào duy trì được và nhất định họ sẽ phải sống trở lại dưới ách
của chủ nghĩa tư bản”
(4)
.
Về phương pháp và hình thức kiểm tra, kiểm soát, V.I.Lênin yêu cầu
phải tổ chức sự phối hợp việc kiểm tra, kiểm soát từ dưới lên và từ trên
xuống, đặc biệt coi trọng vai trò của quần chúng. Theo Lê nin: “Không có
gì ngu dại hơn là biến các xôviết thành một cái gì cứng đờ, thành một cái
gì độc lập tự tại. Ngày nay, chúng ta càng cương quyết chủ trương phải có
một chính quyền thẳng tay cứng rắn, phải thi hành chế độ chuyên chính cá
nhân trong những quá trình công tác nào đó, trong những chức năng
thuần túy có tính chất thực hành nào đó, thì những hình thức và những
phương pháp kiểm tra từ dưới lên, càng phải hết sức muôn vẻ để làm tê

liệt mọi khả năng, dù nhỏ đến đâu, dẫn tới xuyên tạc chính quyền xôviết,
để tiếp tục và trừ cho tiệt cái thứ cỏ dại chủ nghĩa quan liêu”
(5)
.
Người cũng chỉ rõ, chỉ có thu hút đông đảo quần chúng công - nông
vào việc quản lý đất nước và giám sát rộng rãi mọi cơ quan quản lý mới
xóa nhòa được những thiếu sót của bộ máy, mới loại trừ được tệ quan liêu.
Người lãnh đạo giỏi là người biết phối hợp các cơ quan kiểm tra, thanh tra,
kiểm soát, các ban, ngành; “không nên tự mình làm tất cả, làm quá sức mà
vẫn không kịp, làm một lúc cả hàng hai chục việc mà không được một việc
nào cho ra trò”; điều quan trọng là “phải kiểm tra công việc của hàng
4
()
V.I.Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva 1977, tập 36, trang 224.
5
()
V.I.Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva 1977, tập 36, trang 253-254.
5
chục, hàng trăm người phụ giúp, tổ chức kiểm tra công việc của họ từ
dưới lên trên, nghĩa là tổ chức sự kiểm tra của quần chúng chân chính”
(6)
.
Kiểm tra phải thường xuyên, kiểm tra hằng tháng, kết hợp với “từng
thời gian (mỗi tuần một lần, một tháng hay hai tháng một lần), tùy tính
chất và tầm quan trọng của công việc, rồi sau đó thì bất thình lình…”
(7)
.
Tính liên tục, theo Lênin là đều đặn, tránh đánh trống bỏ dùi, kiểm tra lấy
lệ, Người đã nêu rõ “Không quên kiểm tra đi, kiểm tra lại nhiều lần, mà
sáng tạo ra một cái gì thực sự không chê trách được, một cái gì có thể làm

cho tất cả và từng người phải tôn trọng”. Khi kiểm tra, kiểm soát phải kết
hợp các phương pháp trực tiếp, không nên tuyệt đối hóa một phương pháp
nào. Người nhấn mạnh kiểm tra, kiểm soát thực tế, chứ không phải trên
giấy tờ, sổ sách, lời nói chung chung.
Về xây dựng cơ quan chuyên trách kiểm tra của Đảng, V.I.Lênin
nêu ý kiến - cần thiết phải có một cơ quan trung ương có thể bảo đảm sự
đúng đắn của chính sách vô sản xã hội chủ nghĩa. Trong “Dự thảo nghị
quyết về nhiệm vụ trước mắt của công tác xây dựng Đảng”, trình bày tại
Hội nghị IX toàn Nga, ngày 24/11/1924 có ghi “Thừa nhận sự cần thiết
phải thành lập Ban Kiểm tra song song với Ban Chấp hành Trung ương,
thành phần ban này phải gồm những đồng chí có trình độ nhất định trong
lĩnh vực công tác Đảng, có kinh nghiệm nhất, không thiên vị và có khả
năng thực hiện công tác kiểm tra hoàn toàn theo tinh thần của Đảng. Là
một cơ quan do Đại hội bầu ra, Ban Kiểm tra phải được quyền thu nhận
mọi đơn thư khiếu tố và xem xét các đơn thư ấy, trao đổi ý kiến với Ban
Chấp hành Trung ương, trong trường hợp cần thiết, thì tổ chức những
phiên họp chung, liên tịch với Ban Chấp hành Trung ương hoặc chuyển
vấn đề cho Đại hội Đảng giải quyết”.
Trong tác phẩm “Thà ít mà tốt” V.I.Lênin đề nghị hợp nhất bộ máy
kiểm tra đảng với bộ máy kiểm tra chính quyền: “làm thế nào có thể kết
hợp được một cơ quan đảng với một cơ quan chính quyền xôviết? Như
vậy, có phải là không có cái gì không thể dung nạp được hay sao? Thật
vậy, tại sao lại không thể kết hợp hai loại cơ quan đó lại khi lợi ích của
công việc đòi hỏi phải làm như thế?”
(8)
; “tại sao đối với cơ quan ấy lại
không thừa nhận là có thể hợp nhất một cách độc đáo bộ máy kiểm tra của
đảng với bộ máy kiểm tra của chính quyền?”.
Xuất phát từ vai trò to lớn của công tác kiểm tra, kiểm soát, Lênin
cũng đòi hỏi cán bộ kiểm tra phải là những người mẫu mực nhất, “không

thể chê trách được”; vì vậy, người cán bộ đó phải được lựa chọn cẩn thận,
sát hạch, thanh tra kỹ, được “đặc biệt tin cẩn và được huấn luyện rất công
6
()
V.I.Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva 1978, tập 43, trang 293.
7
()
V.I.Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva 1978, tập 53, trang 215.
8
()
V.I.Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva 1978, tập 45, trang 452.
6
phu”, “họ sẽ phải có khả năng công tác cao, phải được thanh tra một cách
cẩn thận, phải là người đặc biệt tin cẩn”
(9)
. Người cũng yêu cầu cán bộ
kiểm tra phải tiếp nhận rất phong phú, toàn diện các kiến thức: “Họ cũng
có nhiệm vụ phải học lý luận, nghĩa là lý luận tổ chức công tác mà họ có ý
định chuyên làm; họ cũng sẽ phải thực tập dưới sự lãnh đạo hoặc của
những đồng chí có kinh nghiệm, hoặc của những giáo sư các viện nghiên
cứu cao cấp về tổ chức lao động”
(10)
.
2- Những quan điểm, tư tưởng về bảo vệ đảng:
Đảng cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân có tổ chức
và tổ chức cao nhất, trong toàn bộ đời sống và hoạt động của Đảng được
xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa cộng sản khoa học, do đó Đảng
phải được tổ chức chặt chẽ và được bảo vệ nghiêm ngặt.
V.I.Lênin đã kế thừa, phát triển tư tưởng của C.Mác và Ăngghen về
vai trò quan trọng của công tác bảo vệ Đảng trong điều kiện chủ nghĩa tư

bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, đã đấu tranh quyết liệt, vạch trần bản
chất cơ hội, phản động của các lãnh tụ và các đảng của Quốc tế II thời kỳ
đó, xây dựng học thuyết về chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Trong tác phẩm “Một bước tiến, hai bước lùi”; V.I.Lênin chỉ ra nhiệm vụ
của Đảng là phải nghiên cứu kỹ các phe phái chủ yếu nhất đã lộ rõ tại đại
hội trong các vấn đề khác nhau, và căn cứ theo những tài liệu chính xác
của tập biên bản mà vẽ lại bộ mặt chính trị của từng nhóm chủ yếu trong
đại hội.
Công tác bảo vệ Đảng, theo Lênin, phải gắn liền với cuộc đấu tranh
của những người cách mạng để bảo vệ Đảng chống các thế lực bên ngoài
và bọn phản động bên trong Đảng, nhằm làm cho Đảng đủ khả năng lãnh
đạo, dẫn dắt phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân.
Một trong những biện pháp để bảo vệ vững chắc hoạt động của
Đảng, V.I.Lênin cho rằng sự thống nhất về tư tưởng trong đảng là một nền
tảng lý luận khoa học, sẽ tạo điều kiện cho mọi thành viên của Đảng, mỗi
tổ chức của đảng đoàn kết thống nhất nhằm thực hiện mục tiêu lý tưởng
của Đảng. Sự thống nhất tư tưởng của giai cấp vô sản dựa trên cơ sở
những nguyên lý chủ nghĩa Mác được củng cố bằng sự thống nhất vật chất
của tổ chức tập hợp hàng triệu người lao động thành một đạo quân của giai
cấp công nhân.
Bảo vệ Đảng thông qua công tác tổ chức là công tác quan trọng và
cần thiết cho Đảng, cho nhân dân một khi cách mạng nổ ra. V.I.Lênin
khẳng định không một phong trào cách mạng nào mà lại vững chắc được
nếu không có một tổ chức ổn định. Nếu giai cấp vô sản không quan tâm
9
()
V.I.Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva 1978, tập 45, trang 438.
10
()
V.I.Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva 1978, tập 45, trang 450.

7
đến công tác tổ chức và tổ chức cho quần chúng đấu tranh cách mạng thì
bọn mị dân sẽ lôi cuốnđược những tầng lớp lạc hậu trong quần chúng…
Trong điều kiện chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc,
V.I.Lênin khẳng định: “Đảng không thể tồn tại, nếu nó không bảo vệ sự
tồn tại của nó, nếu nó không kiên quyết đấu tranh chống những kẻ thủ tiêu
nó, hủy bỏ nó, không thừa nhận nó, từ bỏ nó”
(11)
. Như vậy, công tác bảo vệ
Đảng là một vấn đề quan trọng, quan hệ đến sự sống còn của Đảng và sự
nghiệp của cách mạng. “Làm gì” là một tác phẩm mẫu mực về đấu tranh
chống chủ nghĩa cơ hội trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận và tổ chức. Ở trang
bìa của tác phẩm, Lênin đã trích thư của Látxan gửi cho Mác (ngày
24/6/1852) rằng “…đấu tranh trong đảng đem lại cho đảng sức mạnh và
sinh khí; bằng chứng lớn nhất về sự yếu đuối của đảng, đó là ở chỗ đảng
ở vào tình trạng mơ hồ và thiếu những ranh giới phân định rõ rệt, đảng
mạnh lên bằng cách thanh trừ những phần tử xấu…”.
Qua tác phẩm “Một bước tiến, hai bước lùi” đã cho ta thấy bản lĩnh
của Lênin trong việc đấu tranh với chủ nghĩa cơ hội trong đảng về tổ chức,
sự kiên quyết bảo vệ quan điểm mácxít của Người về những nguyên tắc tổ
chức của đảng kiểu mới. Lênin khẳng định, đảng vô sản phải là cố kết,
được tổ chức một cách rõ ràng và có kỷ luật; đảng là một bộ phận của giai
cấp công nhân, đội tiền phong của giai cấp công nhân, không thể lẫn lộn
đảng với toàn thể giai cấp. Đảng chỉ có thể hoàn thành được vai trò của nó
nếu được tổ chức thành một đội ngũ chung, thống nhất của giai cấp công
nhân, một đội ngũ cố kết bởi ý chí thống nhất, hành động, kỷ luật thống
nhất. Đảng chỉ có thể vững mạnh và đoàn kết nếu nó được xây dựng theo
nguyên tắc tập trung dân chủ. Vấn đề này được Lênin chỉ rõ: “…tôi muốn
trình bày một cách tuyệt đối rõ ràng và chính xác rằng tôi muốn và tôi đòi
hỏi đảng, đội tiên phong của giai cấp, phải hết sức có tổ chức, rằng đảng

chỉ nên thu nhận những phần tử ít nhất cũng phải chấp nhận một tính tổ
chức tối thiểu”
(12)
. Lênin chỉ rõ sự cần thiết phải tiến hành ở trong Đảng
“công tác tự phê bình của mình và tiếp tục bóc trần một cách không khoan
nhượng những thiếu sót của bản thân mình”
(13)
.
Lênin cũng đề ra những quy định nghiêm khắc trong sinh hoạt đảng,
như triệt để thực hiện những nguyên tắc tổ chức của một đảng kiểu mới và
việc tất cả đảng viên phải tuân thủ hết sức nghiêm ngặt những yêu cầu đòi
hỏi trong điều lệ đảng. Người cũng nhấn mạnh, mối quan hệ trong đảng
không thể dựa trên quan hệ bạn bè hoặc trên lòng tín nhiệm: “Mối quan hệ
trong Đảng không thể và không được dựa trên hai điều ấy, mà phải dựa
trên điều lệ chính thức đã được thảo ra “một cách quan liêu”, và chỉ có
11
()
V.I.Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva 1980, tập 23, trang 84.
12
()
V.I.Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva 1979, tập 8, trang 286.
13
()
V.I.Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva 1979, tập 8, trang 220.
8
sự chấp hành nghiêm chỉnh điều lệ đó mới giúp chúng ta tránh được sự
độc đoán và tùy hứng biểu hiện trong các tiểu tổ, tránh được những sự cãi
vã ở tiểu tổ, những sự cãi vã mà người ta gọi là “quá trình” tự do của
cuộc đấu tranh tư tưởng”
(14)

.
V.I.Lênin đã chỉ rõ bản chất và những biểu hiện của chủ nghĩa cơ
hội, giúp cho việc nhận diện chủ nghĩa cơ hội - một căn bệnh rất nguy
hiểm cần đặc biệt chú ý trong công tác bảo vệ Đảng “Khi nói đến đấu
tranh chống chủ nghĩa cơ hội thì không bao giờ quên được đặc điểm của
tất cả chủ nghĩa cơ hội hiện đại trong mọi lĩnh vực đó là: nó mang tính
chất không rõ ràng, lờ mờ mà không thể nào hiểu nổi được ”
(15)
.
Lênin cũng rất quyết liệt và đặc biệt chú trọng vấn đề thanh Đảng
nhằm mục đích đuổi cổ bọn cơ hội, ăn cắp đang ẩn nấp ở trong Đảng; từ
đó sẽ nâng cao chất lượng đội ngũ đảng. Trong quá trình xây dựng và phát
triển Đảng, Lênin coi trọng việc thanh Đảng để loại bỏ những phần tử cơ
hội, thoái hóa biến chất ra khỏi Đảng và xác định đó là vấn đề nghiêm túc,
đặc biệt quan trọng và vấn đề cần thiết là thông qua cơ sở, thông qua quần
chúng, qua thực tiễn hoạt động thì mới chính xác được. Lênin cũng đặc
biệt coi trọng chất lượng đảng viên, theo Người: “chúng ta cần có những
đảng viên mới không phải để quảng cáo mà là để làm việc thật sự. Những
người đó, chúng ta kêu gọi họ vào hàng ngũ của Đảng ta”
(16)
.
Công tác bảo vệ Đảng cũng như công tác kiểm tra là rất quan trọng:
“Đảng là một khối tự nguyện, nếu như nó không tẩy sạch khỏi bản thân nó
những đảng viên tuyên truyền quan điểm chống Đảng, thì nó không thể
tránh khỏi tan rã, trước tiên tan rã về tư tưởng, sau sẽ tan rã cả về vật
chất”
(17)
. Công tác bảo vệ Đảng, Đảng phải thống nhất từ tư tưởng đến
hành động. V.I.Lênin cho rằng: “Tuần lễ đảng không phải được chúng ta
tiến hành để phô trương đâu. Những đảng viên hữu danh vô thực thì cho

không chúng ta cũng không cần. Đảng độc nhất nắm chính quyền trên thế
giới quan tâm đến việc nâng cao chất lượng đảng viên, đến việc thanh trừ
“bọn luồn lọt vào Đảng” ra khỏi hàng ngũ mình, chứ không phải là quan
tâm làm tăng thêm số lượng đảng viên, đó chính là đảng chúng ta, đảng
của giai cấp công nhân cách mạng”
(18)
. Biện pháp để thanh trừ những phần
tử cơ hội ra khỏi đảng một cách hiệu quả là dùng biện pháp động viên
người ra mặt trận và tham gia những ngày thứ bảy cộng sản; khi đó sẽ loại
bỏ được những kẻ muốn trốn tránh trách nhiệm và không dám hy sinh bản
thân để phục vụ chủ nghĩa cộng sản.
14
()
V.I.Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản CTQG, Hà Nội 2005, tập 8, trang 462.
15
()
V.I.Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva 1979, tập 8, trang 476-477.
16
()
V.I.Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva 1977, tập 39, trang 256.
17
()
V.I.Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva 1979, tập 12, trang 125-126.
18
()
V.I.Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva 1977, tập 39, trang 255.
9
Theo V.I.Lênin: Thanh Đảng là một hình thức cần thiết để làm trong
sạch đội ngũ đảng viên, bởi thanh đảng cho phép khai trừ hàng loạt những
đảng viên thuộc những tầng lớp không đáng tin cậy, không còn đáp ứng được

yêu cầu nhiệm vụ mới, nhanh chóng thu hẹp đảng đến mức có thể kiểm soát
được. Lênin cho rằng Đảng không thể phát triển nếu như đảng dung thứ
trong hàng ngũ của mình những kẻ phá hoại của công, cần phải trừng trị
nghiêm khắc để nêu cao tính chiến đấu trong Đảng. Muốn xây dựng Đảng tất
yếu phải tin dân, dựa vào dân, đoàn kết công nông, giữ mối quan hệ Đảng
với dân. V.I.Lênin nêu rõ thái độ của cán bộ, đảng viên với khuyết điểm, phải
mạnh dạn sửa chữa, mẫu mực phê bình. Người chỉ rõ, kẻ thù chính của đảng
cầm quyền là “tính kiêu ngạo cộng sản, nạn mù chữ và nạn hối lộ” loại trừ kẻ
thù đó làm cho đảng mạnh và nội lực để bảo vệ Đảng.
II- Ý NGHĨA VIỆC NGHIÊN CỨU TƯ TƯỞNG CỦA LÊNIN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Đối với các đảng cộng sản và công nhân quốc tế: Những tư tưởng và
quan điểm của V.I.Lênin về kiểm tra, giám sát và bảo vệ Đảng đến nay
vẫn còn nguyên giá trị và có ý nghĩa vô cùng to lớn. Dựa trên những tư
tưởng đó, để vận dụng vào thực tiễn công tác xây dựng đảng ở mỗi đảng.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng ta khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
mọi hành động. Trên cơ sở những quan điểm của Lênin, Đảng ta đã vận
dụng vào công tác xây dựng Đảng, đồng thời bổ sung, phát triển cho phù
hợp với điều kiện lịch sử mới.
1- Giúp cho người nghiên cứu có cách nhìn hệ thống, khoa học
và đầy đủ hơn trong thực tiễn vận dụng của Đảng ta:
Qua nghiên cứu chúng ta thấy: Kế thừa những tư tưởng, quan điểm
của V.I.Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng quan tâm và đánh giá rất cao
vai trò của công tác kiểm tra, giám sát và bảo vệ Đảng; Người khẳng định:
“Khi đã có chính sách đúng thì sự thành công hay thất bại của chính sách
đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm
tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”
(19)
. “Nếu

tổ chức việc kiểm tra cho chu đáo thì cũng như có ngọn đền “pha”. Bao
nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm, khuyết điểm, bao nhiêu cán bộ chúng
ta đều thấy rõ. Có thể nói rằng: Chín phần mười khuyết điểm trong công
việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra”
(20)
.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng từ khi thành lập cho đến
nay, Đảng ta luôn coi trọng công tác kiểm tra, giám sát và bảo vệ Đảng.
Ngay trong báo cáo sửa đổi Điều lệ Đảng toàn quốc lần thứ III (1960) đã
xác định: “Phải tăng cường kiểm tra và giám sát của Đảng đối với cán bộ
19
()
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002, t.5, tr.520.
20
()
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội 1985, t.5, tr.154, 156.
10
và cơ quan Nhà nước, giữ gìn kỷ luật nghiêm minh, xử lý thích đáng đối
với những phần tử quan liêu gây tác hại nghiêm trọng cho Đảng và cho
Nhà nước”. Đảng đã xác định: kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh
đạo của Đảng, một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng
Đảng; tổ chức đảng phải tiến hành công tác kiểm tra, giám sát; tổ chức
đảng và đảng viên phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng; không kiểm
tra coi như không lãnh đạo. Những năm qua Đảng ta đã có nhiều nỗ lực
trong việc bổ sung, phát triển, hoàn thiện các quan điểm, nguyên tắc và
phương pháp của công tác này. Đồng thời đã tăng cường chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của uỷ ban kiểm tra các cấp để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Trong nhiệm kỳ khoá X, Trung ương,
Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành 34 văn bản, hình thành một hệ thống
tương đối đồng bộ các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành

kỷ luật trong Đảng. Đặc biệt, Ban Chấp hành Trung ương khoá X đã ra
Nghị quyết về “Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng” và Bộ
Chính trị ban hành Kết luận về “Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng đến năm 2020” để giải quyết những vấn đề vừa trước mắt, vừa
lâu dài trong công tác này của toàn Đảng
Giai đoạn hiện nay, nhận thức về vai trò, ý nghĩa của công tác kiểm
tra, giám sát và bảo vệ Đảng đã có chuyển biến rõ rệt: Kiểm tra, giám sát
được tiến hành một cách thường xuyên, đúng nguyên tắc sẽ góp phần bảo
vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng được xác định đúng, quán triệt đầy đủ và được tổ chức thực hiện tốt.
Kiểm tra, giám sát vừa góp phần nâng cao chất lượng lãnh đạo, vừa làm
cho sự lãnh đạo của Đảng gắn với thực tiễn hơn; đảm bảo tính thống nhất
tuyệt đối giữa nghị quyết và sự chấp hành, giữa lời nói và việc làm; giúp
cho các cấp lãnh đạo và Đảng khắc phục có hiệu quả bệnh quan liêu, chủ
quan, duy ý chí, thiếu trách nhiệm… Công tác kiểm tra, giám sát và bảo vệ
Đảng được tiến hành có nền nếp, đúng quy trình sẽ góp phần ngăn ngừa
các biểu hiện mất đoàn kết, vô kỷ luật; đảm bảo cho nguyên tắc tập trung
dân chủ được thực hiện nghiêm túc; khắc phục tình trạng suy thoái về
phẩm chất chính trị, đạo đức và lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng
viên, kể cả lãnh đạo quản lý đã diễn ra khá nghiêm trọng ở nhiều cấp
ngành, nhiều tổ chức đảng hiện nay cũng như sớm phát hiện, ngăn ngừa
các biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa trong một số đảng viên, sự chống
phá của các thế lực thù địch hòng chia rẽ Đảng với nhân dân, phá hoại làm
biến chất Đảng của chúng ta.
Tuy nhiên, xét trên thực tế chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra
chưa cao, chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của các ngành, các lĩnh
vực trong công tác kiểm tra; chưa coi trọng kiểm tra phòng ngừa, phát huy
nhân tố tích cực; nhiều khuyết điểm, sai lầm của đảng viên và tổ chức
đảng chậm được phát hiện và khắc phục, cụ thể là: Một số cấp uỷ, tổ chức
11

đảng các cấp nhận thức chưa đầy đủ, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, chưa
chủ động tiến hành công tác kiểm tra; chưa gắn vai trò lãnh đạo với trách
nhiệm thực hiện nhiệm vụ kiểm tra. Thiếu chủ động trong nắm bắt tình
hình và thực hiện nhiệm vụ kiểm tra để chủ động phòng ngừa sai phạm,
khuyết điểm; còn bị động, chạy theo vụ việc nổi cộm, dư luận đang quan
tâm. Nhiều cuộc kiểm tra còn mang tính hình thức, thiếu chiều sâu, kém
hiệu quả. Chưa gắn kiểm tra với xử lý vi phạm, với giáo dục nâng cao ý
thức tổ chức, kỷ luật, ý thức tự giác chấp hành Điều lệ Đảng, nhiệm vụ
đảng viên… làm hạn chế chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra.
Nhiều nơi, các ban của cấp uỷ, ban cán sự đảng, đảng đoàn các cấp
chưa chủ động tiến hành kiểm tra theo chức năng, nhiệm vụ của mình.
Công tác kiểm tra của nhiều tổ chức đảng, nhất là ban cán sự đảng, đảng
đoàn còn mang tính hình thức, chất lượng, hiệu quả thấp. Tổ chức đảng
trong các cơ quan Trung ương, tỉnh, thành phố, huyện, quận, thị xã và các
doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp chưa coi trọng công tác kiểm tra, chưa đưa
công tác kiểm tra trở thành chế độ, nền nếp; chưa thật quan tâm, chăm lo
xây dựng và tạo điều kiện cho uỷ ban kiểm tra hoạt động. Năng lực, trình
độ, phong cách công tác của một bộ phận cán bộ kiểm tra chưa đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ. Một số uỷ ban kiểm tra vẫn chưa hoặc chậm phát hiện
các dấu hiệu vi phạm lớn, nghiêm trọng để kiểm tra và xử lý, chất lượng
kiểm tra thấp. Còn thiếu sự chủ động phối hợp thường xuyên giữa uỷ ban
kiểm tra với cơ quan có liên quan để nắm bắt thông tin và xác minh, xử lý
kịp thời, chính xác, ngăn chặn có hiệu quả các khuyết điểm, vi phạm.
Trong giải quyết tố cáo, vẫn còn tâm lý e ngại, nể nang, hữu khuynh, né
tránh, nhất là với cán bộ chủ chốt. Có sự việc kiểm tra, xác minh chưa chu
đáo, kết luận chưa chính xác, hoặc xử lý chưa nghiêm minh, dẫn đến tố
cáo vượt cấp, nhiều nơi, kéo dài, gây phức tạp tình hình.
Nếu đánh giá về tình hình thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và
việc thực hiện nhiệm vụ công tác bảo vệ Đảng của Đảng ta có thể nói đã có
rất nhiều cố gắng và nhìn chung đã bám sát theo chỉ dẫn; tuy nhiên so sánh

với quan điểm và cách làm của Lênin ta thấy còn cần phải tiếp tục xem xét,
học tập ở Người nhiều điều, cụ thể như: Trong việc thanh Đảng, Lênin chỉ
đạo rất quyết liệt, không e dè nể nang nhưng đối với chúng ta đây là một
vấn đề hết sức khó khăn. Đảng ta cũng đã có nhiều chủ trương thể hiện sự
quyết tâm trong việc củng cố nội bộ Đảng, gần đây là Nghị quyết Hội nghị
lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) “những vấn đề cấp bách
về xây dựng Đảng hiện nay” mặc dầu vậy, quá trình triển khai thực hiện
nhìn chung còn rất hạn chế và chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
Trong chỉ đạo xử lý nhiều vụ việc vi phạm còn chưa nhận được sự đồng
tình cao của dư luận; không ít cán bộ, đảng viên có khuyết điểm, làm thất
thoát, chiếm đoạt nhiều tỷ đồng của Nhà nước không được xử lý thích đáng;
nhiều cán bộ lãnh đạo yếu trong lãnh đạo quản lý chưa sớm được xem xét thay
12
thế. Tình trạng kết nạp đảng viên hiện nay của chúng ta cũng có những bất
cập, nhiều nơi khoán chỉ tiêu kết nạp dẫn đến ảnh hưởng tới chất lượng; một
số trường hợp được đứng trong hàng ngũ của Đảng nhưng chưa trải qua nhiều
thử thách do phải chịu sự thúc ép về số lượng Những vấn đề đó hoàn toàn
không đúng theo quan điểm của Lênin về hoạt động phát triển đảng.
Tổ chức bộ máy của UBKT các cấp đã được quan tâm kiện toàn về
số lượng, tuy nhiên chất lượng còn rất hạn chế. Việc lựa chọn cán bộ về
công tác tại cơ quan UBKT một số nơi chưa được coi trọng đúng mức và
chặt chẽ; còn gặp nhiều khó khăn do thiếu cơ chế và chính sách thu hút
những cán bộ ưu tú, có trình độ năng lực về ngành kiểm tra; cán bộ kiểm
tra, nhất là ở cấp tỉnh trở xuống còn thiếu kinh nghiệm thực tiễn, thiếu
những đồng chí có chuyên môn sâu nhất là chuyên môn về quản lý kinh tế,
quản lý đất đai, tài chính kế toán, xây dựng nên thường gặp nhiều khó
khăn hoặc phải trưng tập cán bộ có chuyên môn để tham gia kiểm tra.
Mặc dù hoạt động của UBKT nhất là từ cấp huyện trở lên đã có
tính độc lập và thẩm quyền khá lớn, bước đầu đã tạo được sự chủ động,
linh hoạt trong quá trình tổ chức kiểm tra, giám sát song trên thực tế hoạt

động vẫn còn phải chịu nhiều sự ràng buộc. Nguyên nhân chính xuất phát
từ việc UBKT do cấp ủy bầu ra, chịu sự chỉ đạo của cấp ủy. Nếu người
cán bộ làm công tác kiểm tra, lãnh đạo UBKT không có bản lĩnh, lập
trường quan điểm vững vàng sẽ dễ dẫn tới bị chi phối, tác động làm ảnh
hưởng tới kết quả công tác kiểm tra, giám sát. Việc UBKT do đại hội bầu
đã được Lênin đề cập và thực hiện, song Đảng ta chưa nghiên cứu cụ thể
để áp dụng nhằm phát huy cao nhất vai trò của cơ quan này trên thực tiễn.
Về hoạt động chống phá của các thế lực thù địch đối với nước ta,
chúng tiến hành với những âm mưu và thủ đoạn chủ yếu đó là: Tập trung
phủ định Chủ nghĩa Mác-Lênnin, tư tưởng Hồ Chí Minh và mục tiêu, lý
tưởng, bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa; công kích, phản bác
tiến tới loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thúc đẩy sự
tự diễn biến làm suy yếu hệ thống chính trị, hình thành đa nguyên, đa
đảng, tiến tới làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Lợi dụng
chính sách mở cửa, đổi mới của ta, núp dưới danh nghĩa “dân chủ”, “nhân
quyền”, “tôn giáo”, “dân tộc” để chống phá với thủ đoạn là dùng chính
sách “ngoại giao nhân quyền”, lợi dụng các diễn đàn quốc tế để tuyên
truyền xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước ta vi phạm dân chủ, nhân quyền,
đàn áp tôn giáo, dân tộc để cô lập Việt Nam trên trường quốc tế; lợi dụng
các lực lượng phản động trong các dân tộc ít người thực hiện ly khai, tự trị
trên từng khu vực; lật đổ chế độ XHCN khi có điều kiện và thời cơ.
Trong công tác bảo về Đảng, bảo vệ chế độ, Đảng ta đã quan tâm
tuyên truyền để nhân dân thế giới hiểu rõ hơn về Việt Nam và những mục
tiêu mà Đảng hướng tới; thấy được bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ
13
nghĩa mà chúng ta đang thực hiện, đồng thời qua đó vạch trần những âm
mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch. Trong nước, Đảng ta đã
tích cực đẩy mạnh giáo dục truyền thống yêu nước, yêu quê hương; quan
tâm nâng cao dân trí, xóa đói giảm nghèo nhất là đối với đồng bào vùng
dân tộc, vùng sâu vùng xa, đồng bào công giáo; giáo dục để nhân dân thấy

rõ được âm mưu thủ đoạn của kẻ thù để kịp thời đấu trranh, ngăn chặn.
Ngoài ra, trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ của Đảng, Đảng đã ban
hành Quy định số 57-QĐ/TW của Bộ Chính trị và Hướng dẫn số 11-
HD/BTCTW của Ban Tổ chức Trung ương về “Quy định một số vấn đề về
Bảo vệ chính trị nội bộ Đảng”, Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 14/02/2005 của
Bộ Chính trị về “bảo vệ bí mật của Đảng trong phát ngôn và sử dụng,
quản lý thông tin, tài liệu trong tình hình mới”.
2- Thông qua nghiên cứu, qua xem xét thực tiễn để kịp thời đề
xuất các giải pháp vận dụng trong thực tiễn.
Việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, công
tác bảo vệ Đảng là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Từ những yếu kém, thiếu
sót trong quá trình tổ chức thực hiện; với những chỉ dẫn của V.I.Lênin,
nhằm phát huy có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và bảo vệ Đảng
thời gian tới cần thực hiện một số giải pháp chính sau:
2.1- Nâng cao nhận thức và quyết tâm biến nhận thức thành hành
động cụ thể của toàn Đảng.
Cần có nhận thức đầy đủ, thống nhất và xuyên suốt quan điểm:
Kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng và là nhiệm vụ
của toàn Đảng, mọi tổ chức đảng và đảng viên, dù ở cương vị nào cũng
phải chấp hành và phục tùng sự kiểm tra, giám sát của Đảng. Công tác
kiểm tra, giám sát có vị trí cực kỳ quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh
đạo của Đảng, là khâu quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng,
biện pháp hiệu nghiệm để khắc phục bệnh quan liêu, tham nhũng, lãng
phí Các tổ chức đảng, trước hết là các cấp ủy Đảng phải xác định công
tác kiểm tra, giám sát là nhiệm vụ trực tiếp và thường xuyên, gắn liền với
sự lãnh đạo của mình. Điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ “Kiểm tra, giám sát là những chức
năng lãnh đạo của Đảng. Tổ chức đảng và đảng viên tiến hành công tác
kiểm tra, giám sát. Tổ chức đảng và đảng viên phải chịu sự kiểm tra, giám
sát của Đảng. Các cấp ủy đảng lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát và tổ

chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng và đảng viên
chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của
Đảng. Đây là cơ sở pháp lý cao nhất để các tổ chức đảng, cấp ủy lãnh đạo
công tác kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám
sát của đảng bộ mình. Kiểm tra, giám sát là công việc khó khăn, phức tạp,
đòi hỏi tổ chức đảng, đảng viên phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có
14
quyết tâm cao và lòng nhiệt tình, có tâm trong sáng. Nhận thức phải biến
thành quyết tâm, thành chương trình, kế hoạch cụ thể. Các cấp ủy đảng,
đặc biệt là người đứng đầu tổ chức phải biến quyết tâm của mình thành
quyết tâm của tổ chức, khi đó tính chủ động trong kiểm tra, giám sát tăng
lên sẽ góp phần ngăn ngừa được các lỗi phạm; kiểm tra và tự kiểm tra sẽ
gắn quyện với nhau làm cho đối tượng được kiểm tra, giám sát tự giác
nhận thấy sai lầm và quyết tâm khắc phục, sửa chữa, tiến bộ, trưởng thành.
2.2- Đổi mới và tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra,
giám sát của các cấp ủy đảng
Trong lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát, các cấp ủy cần quan tâm
và coi trọng việc nghiên cứu lý luận và tổng kết phương pháp lãnh đạo đối
với công tác kiểm tra, giám sát nhất là công tác giám sát; tiếp tục tổ chức
tốt việc quán triệt, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của toàn Đảng về vị
trí, vai trò tầm quan trọng, hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát trong
xây dựng Đảng và trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát là nhiệm vụ thường xuyên,
trực tiếp của các cấp ủy đảng. Cần đổi mới phương pháp lãnh đạo của các
cấp ủy đảng từ khâu xây dựng, ban hành đến việc lãnh đạo tổ chức thực
hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định về công tác kiểm tra, giám sát và
thực hiện tốt dân chủ trong nội bộ Đảng. Hiện nay, sự lãnh đạo của cấp ủy
về công tác kiểm tra, giám sát cần tập trung vào đổi mới phương thức lãnh
đạo đổi với các nội dung chủ yếu là: Triển khai, quán triệt Điều lệ Đảng,
các quy định của Trung ương, của cấp ủy cấp trên và của cấp mình cho các

tổ chức đảng, đảng viên trong toàn đảng bộ về công tác kiểm tra, giám sát;
xây dựng phương hướng, nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch, quy chế, quy
trình kiểm tra, giám sát của đảng bộ và cấp ủy cấp mình trong nhiệm kỳ,
đồng thời phân công, tổ chức lực lượng thực hiện chương trình, kế hoạch,
quy chế đó nhằm bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của tập thể đối với cá
nhân, của tổ chức đối với tổ chức, của cá nhân đối với cá nhân và tổ chức,
kể cả đối với người lãnh đạo chủ chốt và tổ chức cấp trên nhằm mở rộng
dân chủ trong Đảng; lãnh đạo và chỉ đạo ủy ban kiểm tra cùng với các ban
của cấp ủy các cơ quan nhà nước có liên quan trong việc xây dựng và tổ
chức thực hiện các quy chế phối hợp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát
theo quy định của Điều lệ Đảng và quy định, hướng dẫn của Trung ương
Đảng; lãnh đạo, chỉ đạo kiện toàn tổ chức, tăng cường cán bộ có năng lực,
cải thiện điều kiện, phương tiện làm việc cho ủy ban kiểm tra của cấp ủy
nhằm tạo thuận lợi nhất cho ủy ban kiếm tra hoạt động đúng Điều lệ Đảng
và tham mưu tốt đối với cấp ủy về công tác kiểm tra, giám sát.
Trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, các cấp ủy cần
xây dựng và thực hiện chương trình, kế hoạch và quy trình kiểm tra, giám
sát đối với từng nhiệm vụ, nội dung và đối tượng cụ thể, nhằm đưa hoạt
15
động kiểm tra, giám sát của cấp ủy vào nền nếp, thành chế độ, coi đó là
nhiệm vụ tự nhiên, là nhu cầu không thể thiếu đối với mỗi cấp ủy. Đích
thân người đứng đầu các cấp ủy cần trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra,
giám sát; không được “khoán trắng” cho ủy ban kiếm tra. Việc tổ chức
thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của các cấp ủy có nội dung và phạm
vi rất rộng, trên tất cả các lĩnh vực, nhưng hiện nay cần tập trung vào kiểm
tra, giám sát các tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Trung
ương, của cấp ủy, nhất là về lĩnh vực kinh tế, các dự án và công trình trọng
điểm sử dụng ngân sách lớn; công tác cán bộ; xây dựng Đảng; phẩm chất,
đạo đức và lối sống của cán bộ, đảng viên, làm cho quá trình tổ chức thực

hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, của cấp ủy đều được kiểm tra, giám
sát với hình thức, phương pháp, cơ chế và chế tài thích hợp.
Cần đưa lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của cấp ủy thành một trong những tiêu chí
đánh giá phân loại cấp ủy và cấp ủy viên hằng năm.
2.3- Đổi mới công tác kiểm tra đồng thời với xây dựng cơ chế
giám sát của ủy ban kiểm tra các cấp
Hiện nay ủy ban kiểm tra các cấp có chức năng tham mưu cho cấp
ủy về công tác kiểm tra, giám sát, thực hiện nhiệm vụ cụ thể do cấp ủy
giao; và chức năng vừa kiểm tra, vừa giám sát theo Điều lệ Đảng. Nhiệm
vụ của ủy ban kiểm tra các cấp rất nặng, khó khăn và phức tạp, nhất là
nhiệm vụ: “Giám sát cấp ủy viên cùng cấp, cán bộ diện cấp ủy cùng cấp
quản lý và tổ chức đảng cấp dưới về việc thực hiện chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, nghị quyết của cấp ủy và đạo đức, lối sống theo quy
định của Ban Chấp hành Trung ương”. Để ủy ban kiểm tra các cấp thực
hiện có chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của mình, cần
tăng thẩm quyền và trách nhiệm của ủy ban kiểm tra các cấp; củng cố, kiện
toàn cơ quan giúp việc ủy ban kiểm tra; nâng cao bản lĩnh chính trị và
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ kiểm tra, giám sát, bảo
đảm công tâm trong sạch, đủ năng lực, kể cả năng lực kiểm tra, giám sát
việc chấp hành đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
đây là nhân tố có tính quyết định trực tiếp đến nâng cao hiệu quả công tác
kiểm tra, giám sát; Cần nhận thức và phân biệt rằng công tác kiểm tra,
giám sát của ủy ban kiểm tra các cấp chỉ là bộ phận cấu thành quan trọng
của công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Vì vậy, trong quá trình hoạt
động, ủy ban kiểm tra các cấp phải nắm vững chức năng, nhiệm vụ của
mình được giới hạn trong Điều lệ Đảng để thực hiện đúng thẩm quyền và
trách nhiệm của mình; đồng thời chủ động tranh thủ sự lãnh đạo của cấp
ủy, sự chỉ đạo của ủy ban kiểm tra cấp trên để tạo sự đồng thuận và ủng hộ
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình. Trong tình hình hiện nay, ủy

ban kiểm tra các cấp cần tập trung vào thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tổ
16
chức đảng cấp dưới, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, nhiệm vụ cấp ủy
giao và nhiệm vụ giám sát. Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên
khi có dấu hiệu vi phạm là nhiệm vụ trọng tâm của ủy ban kiểm tra các cấp
đã thực hiện hơn mười lăm năm (từ nhiệm kỳ Đại hội VIII), nhưng nhiều
khuyết điểm, sai phạm của tổ chức đảng và đảng viên chậm được khắc
phục và phát hiện; chưa chủ động phát hiện dấu hiệu vị phạm để ngăn
chặn kịp thời Ủy ban kiểm tra các cấp cần phải tổng kết thực tiễn dưới
hình thức chuyên đề về những dấu hiệu vi phạm thường gặp ở cán bộ,
đảng viên, tổ chức đảng trong một số lĩnh vực trọng điểm, ngành đặc thù,
từ đó rút ra những nguyên nhân, bài học kinh nghiệm để phổ biến rộng
rãi Đối với nhiệm vụ giám sát của ủy ban kiểm tra các cấp, đây là nhiệm
vụ mới. Do đó, cần xác định rõ phạm vi, đối tượng, nội dung, thẩm quyền
giám sát của ủy ban là kiểm tra. Chú trọng việc xây dựng quy chế, hình
thức và phương pháp giám sát là cụ thể đối với từng đối tượng, từng nội
dung; tổ chức lực lượng và phân công cán bộ thực hiện nhiệm vụ giám sát,
trong đó quy định rõ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cán bộ giám sát.
Cán bộ giám sát phải thấm nhuần tư tưởng chỉ đạo và phương pháp cơ bản
của công tác kiểm tra, giám sát, biết vận dụng vào thực tiễn, đồng thời
phải có kiến thức nhất định và nắm chắc các quy định của Đảng, của các
cấp ủy và Nhà nước để đối chiếu so sánh thì mới phát hiện được đảng
viên, tổ chức đảng có thực hiện đúng những quy định hiện hành hay
không. Trong quá trình giám sát cần phối hợp chặt chẽ với giám sát của
các cơ quan chức năng nhà nước và giám sát của nhân dân.
2.4- Phải thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ và các
phương pháp cơ bản của công tác kiểm tra, giám sát đảng
Chỉ khi nào công tác kiểm tra, giám sát chấp hành được thực hiện
nghiêm chỉnh và thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ thì mới
không bị chệch hướng về chủ trương đường lối, không bị chi phối bởi sự

độc đoán cá nhân hoặc bị sức ép của dân chủ cực đoan, vô chính phủ
Kiểm tra, giám sát đảng là công tác đảng, là sinh hoạt nội bộ Đảng, được
tiến hành trong hệ thống tổ chức đảng, nên có đặc thù cơ bản: đối tượng
kiểm tra, giám sát là tổ chức đảng, đảng viên khi được kiểm tra, giám sát
thì vừa là đối tượng vừa là chủ thể. Chính đặc thù này quyết định bản chất,
phương thức hoạt động và phương pháp cơ bản của công tác kiểm tra,
giám sát đảng, đó là: dựa vào tổ chức đảng; phát huy tinh thần tự giác tự
phê bình và phê bình của tổ chức đảng, đảng viên; phát huy trách nhiệm
xây dựng Đảng của nhân dân thực hiện tốt việc thẩm tra, xác minh; kết
hợp chặt chẽ công tác kiểm tra, giám sát đảng với công tác thanh tra nhà
nước, thanh tra nhân dân, công tác kiểm tra, giám sát của các đoàn thể
chính trị - xã hội, nghề nghiệp và phối hợp các ban ngành liên quan. Đây
là các phương pháp cơ bản của công tác kiểm tra, giám sát đảng đã được
đúc kết qua nhiều nhiệm kỳ hoạt động và mang lại hiệu quả thiết thực. Vì
17
vậy, trong quá trình tiến hành hoạt động kiểm tra, giám sát có thể sử dụng
linh hoạt các phương pháp đối với từng đối tượng cụ thể, nhưng không
được xa rời các phương pháp cơ bản đó.
Công tác kiểm tra, giám sát đảng phải được tiến hành công khai, dân
chủ, tập thể và có lãnh đạo, chỉ đạo không một cá nhân nào dù giữ bất cứ
cương vị công tác nào, được quyền đứng ngoài hoặc đứng trên tổ chức
đảng để áp đặt kiểm tra, giám sát; không được dùng biện pháp bí mật điều
tra trong Đảng, càng không được dùng thủ đoạn đối với tổ chức đảng,
đảng viên đang là đối tượng kiểm tra, giám sát. Bởi phương pháp tiến hành
công tác kiếm tra, giám sát đảng khác về bản chất với các phương pháp
hoạt động thanh tra nhà nước và phương pháp điều tra của các cơ quan bảo
vệ pháp luật. Nhưng trong tình hình hiện nay, khi còn một số tổ chức đảng
giảm sút tính chiến đấu, nhiều đảng viên kém tự giác, nhiều lúc và nhiều
nơi phê bình và tự phê bình chỉ còn là hình thức thức cần chú trọng đến
việc phối hợp với các cơ quan thanh tra, điều tra, nhất là trong các vụ việc

nổi cộm.
2.5- Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong
công tác kiểm tra, giám sát đảng
Phát huy vai trò giám sát của nhân dân đối với tổ chức đảng, đảng
viên; kết hợp chặt chẽ giám sát trong Đảng với giám sát của Nhà nước và
giám sát của nhân dân; coi trọng việc xây dựng hệ thống phản biện xã hội
đối với hoạt động lãnh đạo của Đảng. Trong điều kiện Đảng ta là đảng duy
nhất cầm quyền, lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội thì việc phản
biện xã hội của mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân
dân đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định,
lớn của Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và
cán bộ, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Thông qua hệ thống phản biện xã
hội chính thống mà Đảng mới biết được đường lối, chủ trương, chính sách
của mình có đúng, có phù hợp và khả thi hay không; đây còn là một trong
những điều kiện cơ bản để mở rộng dân chủ trong xã hội. Muốn vậy, Đảng
phải có quy chế cụ thể và biết lắng nghe ý kiến phản biện, dù đó là ý kiến
trái chiều. Qua phản biện xã hội để điều chỉnh chính sách, đổi mới phương
thức lãnh đạo cho phù hợp với thực tiễn và các quy luật khách quan của tự
nhiên, chính trị, kinh tế và xã hội trên cơ sở giữ vững các nguyên lý của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và nguyên tắc của Đảng.
Muốn có ý kiến chính xác thì các thành viên trong hệ thống phản biện phải
tăng cường giám sát, kiểm tra để nắm thật chắc tình hình thực tế. Bất kỳ
một chế độ chính trị nào cũng chỉ tồn tại và phát triển vững bền khi nó có
khả năng tập hợp, đoàn kết được quảng đại quần chúng nhân dân. Vì thế,
khi nhân dân thật sự giám sát được tổ chức đảng và đảng viên sẽ chính là
giúp cho Đảng củng cố được mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Lênin đã
chỉ rõ: Một trong những nguy cơ lớn nhất và đáng sợ nhất đối với một
18
đảng cầm quyền là đảng bị cắt đứt mối liên hệ với quần chúng nhân dân;
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng căn dặn: cách xa dân chúng, không liên

hệ chặt chẽ với dân chúng cũng như đứng lơ lửng giữa trời nhất định thất
bại. Nếu Đảng xa dân, tách khỏi dân thì Đảng không thể tồn tại, Đảng
không có dân thì cũng như cá không có nước đảng viên khó trở thành
“người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”; tổ chức
đảng và đảng viên dễ trở nên quan liêu, biến sứ mệnh cầm quyền cao cả
của Đảng thành đảng lạm quyền, lộng quyền, thậm chí còn dẫn đến thoái
hóa biến chất. Nhận thức rõ vai trò của nhân dân trong lịch sử nói chung
và trong xây dựng Đảng nói riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương
Đảng đã có nhiều chỉ thị kêu gọi nhân dân tích cực tham gia xây dựng và
giám sát Đảng, nhưng trên thực tế hiện nay nhân dân chưa thật sự giám sát
được tổ chức đảng và đảng viên.
2.6- Cần làm rõ và nhận thức đúng, đầy đủ về hiệu quả công tác
kiểm tra, giám sát đảng
Hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát đảng có thể được hiểu là những
kết quả kiểm tra, giám sát đã ảnh hưởng tích cực đến việc thực hiện nhiệm
vụ chính trị và xây dựng đảng trong từng giai đoạn nhất định hoặc tác
động tích cực, trực tiếp đến từng tổ chức đảng, đảng viên qua mỗi cuộc
kiểm tra, giám sát. Như vậy, khi đánh giá hiệu quả công tác kiểm tra, giám
sát đảng phải chú trọng đến hiệu quả chính trị - xã hội. Nghĩa là qua kiểm
tra, giám sát phải giúp tổ chức đảng, đảng viên thấy rõ thiếu sót khuyết
điểm để khắc phục; thấy sai phải sửa ngay để không xảy ra vi phạm hoặc
không để từ vi phạm nhỏ dẫn đến vi phạm nghiêm trọng, từ vi phạm của cá
nhân trở thành vi phạm của cả tổ chức Đồng thời chỉ ra những ưu điểm
để phát huy; Từ đó, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh;
bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất, tăng cường dân chủ trong Đảng; đổi mới
phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng; phát huy và mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội; củng cố
lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh; Về hiệu quả kinh tế, làm tốt công tác kiểm tra,

giám sát Đảng sẽ, góp phần thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển
đúng định hướng, làm cho nền kinh tế quốc dân phát triển ổn định, bền
vững. Trong những cuộc kiểm tra, giám sát cụ thể còn có thể kiến nghị thu
hồi được những thất thoát, lãng phí cho ngân sách, vừa tiết kiệm thời gian,
công sức của cán bộ kiểm tra, vừa không làm ảnh hưởng đến hoạt động
của tổ chức đảng, đảng viên được kiểm tra, giám sát.
Công tác kiểm tra, giám sát đảng có những nét mang tính đặc thù là
tổ chức đảng và đảng viên không phải chờ đến khi có kết luận, xử lý hoặc
kết thúc cuộc kiểm tra mới khắc phục khuyết điểm mà đòi hỏi hiệu quả
phải phát huy tác dụng ngay từ đầu và trong suốt quá trình tiến hành kiểm
19
tra, giám sát. Sự chuyển biến về tính tự giác, tự phê bình, tự sửa chữa sai
lầm, khuyết điểm của đối tượng và tính giáo dục là những chỉ tiêu hiệu quả
của công tác kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, đảng viên. Hiệu quả giáo
dục, không chỉ đối với tổ chức đảng, đảng viên đang là đối tượng, kiểm
tra, giám sát mà còn cho cả các tổ chức đảng và đảng viên khác; không chỉ
giáo dục, cảnh báo, răn đe về những lỗi phạm mà hiệu quả giáo dục còn ở
chỗ thức tỉnh lương tâm, khơi dậy bản chất người cộng sản, tính tiên
phong gương mẫu của một tổ chức đảng và đảng viên để tự giác rèn luyện,
phấn đấu vươn lên. Ngoài ra hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát đảng còn
thể hiện ở sự định hướng cho sự phát triển đối với đối tượng được kiểm
tra, giám sát cũng như các tổ chức đảng và đảng viên có liên quan. Nhận
thức đúng hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát có ý nghĩa quan trọng trong
việc nâng cao toàn diện hiệu quả công tác này.
2.7- Công tác bảo vệ Đảng cần được thực hiện thường xuyên,
thận trọng, là nhiệm vụ của toàn Đảng.
Công tác bảo Vệ Đảng là toàn bộ hoạt động của cấp uỷ, của các tổ
chức Đảng từ Trung ương đến cơ sở; của các cơ quan, lực lượng bảo vệ
Đảng chuyên trách; của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị
nhằm bảo vệ quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng; bảo đảm sự

trong sạch về chính trị của đội ngũ cán bộ đảng viên; ngăn chặn kịp thời
âm mưu thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch hòng mua chuộc dụ dỗ,
khống chế cán bộ, đảng viên làm tay sai cho chúng, cài cắm người của
chúng vào nội bộ Đảng để phá hoại.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã xác định phương hướng công
tác bảo vệ Đảng trong thời gian tới tập trung vào những vấn đề cơ bản:
Trong tình hình mới cần phải hết sức chú trọng công tác bảo Vệ Đảng cả
về chính trị và tổ chức. Bảo vệ Đảng là trách nhiệm của toàn Đảng, trước
hết là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng. Bảo vệ Đảng phải trên cơ sở chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng,
trên nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Bảo vệ Đảng là bảo vệ sự
đoàn kết thống nhất trong đảng, bảo vệ cán bộ, đảng viên. Nhiệm vụ Đảng
xác định trong giai đoạn hiện nay là: Thường xuyên giáo dục cho cán bộ,
đảng viên nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên định lập trường, tư
tưởng, bảo vệ Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng; đấu tranh phê phán
những quan điểm sai trái; thực hiện nghiêm ngặt các chế độ, thủ tục, quy
chế quản lý cán bộ, đảng viên, kỷ luật phát ngôn, kỷ luật bảo vệ tài liệu
mật và kỷ luật quan hệ với người nước ngoài; nghiên cứu phát hiện và đề
nghị xử lý kịp thời những phần tử thoái hoá biến chất bị địch mua chuộc
cài cắm vào nội bộ. Thẩm tra và kết luận số đảng viên, cán bộ có nghi vấn
về lịch sử chính trị mà chưa được xác minh…
20
3- Trách nhiệm trong việc đấu tranh bảo vệ và tiếp tục tuyên
truyền các quan điểm, tư tưởng của V.I.Lênin về Đảng và xây dựng
Đảng nói chung và công tác kiểm tra, giám sát, bảo vệ Đảng nói riêng.
Việc nghiên cứu làm rõ tư tưởng, quan điểm của V.I.Lênin về Đảng
và xây dựng Đảng nói chung và về công tác kiểm tra, giám sát và bảo vệ
Đảng nói riêng giúp cho các tổ chức đảng, mọi cán bộ đảng viên thấy rõ
những giá trị lớn lao kể cả về mặt lý luận lẫn tính thực tiễn. Trong sự
nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đổi mới tư duy lý

luận là một yêu cầu quan trọng. Với bản chất cách mạng và khoa học của
Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, với những nguyên lý về
đảng và xây dựng đảng đã được thực tiễn kiểm nghiệm đã trở thành chân
lý, Đảng ta khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng. Chúng ta không
những phải nắm vững những nguyên lý chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, nắm vững những quan điểm cơ bản về đảng và xây dựng
đảng mà còn phải tiếp tục phát triển sáng tạo trong điều kiện lịch sử mới.
Ý nghĩa của việc học tập, nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của
V.I.Lênin giúp chúng ta thấy rõ hơn nhiều quan điểm, tư tưởng và chỉ dẫn
của Người vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục là định hướng cho các đảng
cộng sản hiện nay nghiên cứu, vận dụng sáng tạo trong điều kiện và hoàn
cảnh mới. Nhất là những quan điểm và tư tưởng về đảng và xây dựng
đảng, trong đó quan điểm về công tác kiểm tra, giám sát và bảo vệ đảng có
một giá trị lớn lao; nó đặc biệt có ý nghĩa khi mà trong giai đoạn hiện nay
Đảng ta đang đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn
Đảng, kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết hội
nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương “một số vấn đề cấp bách về
xây dựng Đảng hiện nay”.
Cùng với đó, qua nghiên cứu các tác phẩm của V.I.Lênin, đặt ra cho
mỗi chúng ta trách nhiệm phải tiếp tục tuyên truyền ngày một sâu rộng
hơn nữa những nội dung khoa học và cách mạng của nó; đồng thời phải
đấu tranh quyết liệt với những thế lực thù địch nhằm bôi đen, phủ nhận
chủ nghĩa Mác-Lênin, phủ nhận đường lối, những quan điểm, nền tảng tư
tưởng mà Đảng ta đã lựa chọn.
21
KẾT LUẬN
Thực tiễn hơn 82 năm qua, Đảng ta luôn luôn trung thành và vận
dụng đúng đắn, sáng tạo những tư tưởng, quan điểm về Đảng và xây dựng
Đảng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đảng ta đã trưởng thành qua bao thử

thách, có những bổ sung, phát triển lý luận về xây dựng đảng phù hợp với
thực tiễn cách mạng Việt Nam trong điều kiện mới. Đồng thời, kiên quyết
đấu tranh chống mọi thủ đoạn, luận điệu xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh
đạo của Đảng đối với xã hội của các thế lực thù địch; chống mọi biểu hiện
xa rời những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về Đảng và xây dựng Đảng. Với bản lĩnh của một đảng cách mạng chân
chính, dày dạn kinh nghiệm, luôn nêu cao dũng khí tự phê bình và phê
bình, gắn bó máu thịt với nhân dân, Đảng ta đã lãnh đạo, tổ chức và phát
huy sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đưa đất nước
giành được nhiều thắng lợi vĩ đại, vững bước trên con đường xã hội chủ
nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang đẩy mạnh thực
hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, nhằm thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đưa đất nước vững
bước tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp cách mạng trong giai
đoạn mới đòi hỏi Đảng ta phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn để
luôn luôn xứng đáng là một đảng “đạo đức”, một đảng “văn minh”, luôn
luôn ngang tầm nhiệm vụ, sống mãi trong lòng dân tộc. Muốn vậy, một
trong những giải pháp quan trọng đó là cần tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu,
học tập, quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo những quan điểm, tư
tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh về Đảng và
xây dựng Đảng nói chung, về công tác kiểm tra, giám sát và bảo vệ Đảng
nói riêng. Việc nghiên cứu, làm rõ quan điểm của Lênin về công tác kiểm
tra, giám sát và bảo vệ Đảng là rất cần thiết, cùng với tư tưởng Hồ Chí
Minh đề xuất vào thực tế đổi mới phương thức kiểm tra, giám sát của
Đảng trong giai đoạn cách mạng mới nhằm nâng cao chất lượng, hiệu lực,
hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng, cũng như bảo vệ Đảng
góp phần đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều
kiện Đảng ta là đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính
trị và toàn xã hội./.

22

×