Tải bản đầy đủ (.pdf) (214 trang)

Tiểu luận phát triển công nghiệp hỗ trợ xây dựng dân dụng tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.45 MB, 214 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Ngày nay các nhà sản xuất lớn trên thế giới, các tập đoàn đa quốc gia chỉ
nắm giữ các hoạt động như nghiên cứu và triển khai, xúc tiến thương mại, phát triển
sản phẩm, còn các công đoạn sản xuất, những phần công việc trước đây vẫn nằm
trong dây chuyền sản xuất hoàn chỉnh, hầu hết được giao cho các doanh nghiệp bên
ngoài. Như vậy, các sản phẩm công nghiệp không còn được sản xuất tại một không
gian, địa điểm, mà được phân chia thành nhiều công đoạn, ở các địa điểm, các quốc
gia khác nhau. Thuật ngữ công nghiệp hỗ trợ là cách tiếp cận sản xuất công nghiệp
trong bối cảnh mới này.
Việt Nam đang trên đà đổi mới và phát triển. Sau 20 năm đổi mới kể từ Đại
hội Đảng VI năm 1986, đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế, đạt được tốc độ tăng trưởng
nhanh, tăng cường cơ sở vật chất và tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Tuy vậy, tỷ lệ gia tăng trong giá trị sản xuất công nghiệp lại đang có dấu
hiệu đi xuống. Theo Bộ Công Thương (2013), năm 1995 VA/GO toàn ngành công
nghiệp là 42,5%; đến năm 2000 tỷ lệ này chỉ còn 38,45%; năm 2005 còn 29,63%;
năm 2007 đạt 26,3%; năm 2010 đạt 23,4%; năm 2013 đạt 21,7%. Một trong những
lý do quan trọng của tình trạng này, là sự yếu kém của các ngành CNHT.
Đến năm 2011 ở Việt Nam đã xuất hiện thuật ngữ “Công nghiệp hỗ trợ” do
Chính phủ đưa ra, đã được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam. Đã có nhiều chuyển biến
đáng kể trong nhận thức cũng như trong hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất
Việt Nam. Cấp độ khoa học công nghệ và tốc độ phát triển của các ngành đã tăng
nhanh. Mặc dù đã có rất nhiều nỗ lực từ phía các doanh nghiệp, sự trợ giúp của
Chính phủ, các cơ quan chức năng có liên quan, nhưng trình độ phát triển công
nghiệp hỗ trợ của Việt Nam còn thấp xa so với kỳ vọng và so với yêu cầu. Việc tìm
ra nguyên nhân đích thực của tình trạng này, từ đó, đề xuất định hướng và giải pháp



2

phát triển hợp lý công nghiệp hỗ trợ vừa là nhiệm vụ cấp thiết, vừa là nhiệm vụ cơ
bản để công nghiệp Việt Nam phát triển.
Trong điều kiện toàn cầu hóa và khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ,
xuất hiện hàng loạt các yếu tố đòi hỏi phải tính đến, để bảo đảm tính hợp lý, phát
triển bền vững công nghiệp hỗ trợ. Trong đó có yếu tố liên kết khu vực và toàn cầu
là hết sức cần thiết. Về lý thuyết, cho đến nay những vấn đề này vẫn chưa được giải
quyết rõ ràng, về thực tế hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về phát triển
công nghiệp hỗ trợở những nước đang trong quá trình công nghiệp hóa như Việt
Nam. Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ cần phải phù hợp với xu hướng toàn
cầu hóa và hội nhập có hiệu quả vào đời sống kinh tế quốc tế.
Trước những bối cảnh đó, phát triển công nghiệp hỗ trợ, nhất là những ngành
đòi hỏi phải sử dụng khoa học và công nghệ cao đang là thách thức lớn đặt ra cho
Việt Nam. Nhằm cụ thể và thực tiễn hóa các nội dung nghiên cứu, đề tài được giới
hạn vào công nghiệp hỗ trợ ngành xây dựng dân dụng, như là một trường hợp
nghiên cứu điển hình. Xây dựng dân dụng là ngành có tính đại diện cao cho một
quốc gia đang phát triển có dân số đông, nhu cầu nhà ở là hết sức cần thiết. Cùng
với việc nâng cao trình độ khoa học và công nghệ vào sản xuất, phát triển bền
vững...nền công nghiệp hỗ trợ phát triển sẽ là yếu tố mạnh nhất để thúc đẩy và thu
hút các nhà đầu tư nước ngoài một cách bền vững.
Trước thực tế đó, đề tài “ Phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành xây dựng dân
dụng ở Việt Nam” đã được tác giả lựa chọn nghiên cứu làm luận án tiến sĩ của mình.

2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Mục tiêu chung của luận án là trên cơ sở khoa học và hệ thống các chỉ tiêu
nghiên cứu, phân tích thực trạng phát triển CNHT ngành XDDD Việt Nam, từ đó đề
xuất các giải pháp nhằm phát triển CNHT ngành XDDD Việt Nam.


2.2. Mục tiêu cụ thể
(1) Lý luận những vấn đề cơ bản về CNHT, trên cơ sở đó vận dụng, làm rõ được
các khía cạnh về phát triển CNHT ngành XDDD ở Việt Nam.


3

(2) Nghiên cứu các kinh nghiệm nước ngoài về phát triển CNHT XDDD để áp dụng
thực tiễn ở Việt Nam.
(3) Nghiên cứu mô hình và xây dựng hệ thống các chỉ tiêu đánh giá phát triển
CNHT ngành XDDD ở Việt Nam.
(4) Đánh giá thực trạng phát triển CNHT ngành XDDD ở Việt Nam giai đoạn
2009 -2013.
(5) Đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế, khó khăn và các nhân tố ảnh
hưởng đến phát triển bền vững CNHT ngành XDDD Việt Nam.
(6) Đề xuất những giải pháp để phát triển CNHT ngành XDDD ở Việt Nam đến
năm 2020.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu những vấn đề về phát triển
CNHT ngành XDDD Việt Nam.

3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi không gian
Đề tài được nghiên cứu là các doanh nghiệp CNHT ngành XDDD trên địa
bàn cả nước: DN sản xuất xi măng, DN sản xuất vật liệu xây, DN sản xuất vật liệu
lợp, DN sản xuất vật liệu ốp lát, DN kính xây dựng, Tư vấn – thiết kế và Giám sát.
- Phạm vi thời gian

Số liệu thứ cấp: Thu thập trong giai đoạn 2000-2013
Số liệu sơ cấp: Thu thập dữ liệu khảo sát của 300 DN CNHT ngành XDDD
và phỏng vấn sâu 20 cán bộ lãnh đạo ngành XDDDtrên cả nước trong giai đoạn
2010 -2012.
Các giải pháp được nghiên cứu và đề xuất đến năm 2020.
- Phạm vi nội dung
Đánh giá thực trạng phát triển CNHT ngành XDDD
Một số giải pháp cơ bản giúp phát triển CNHT ngành XDDD ở Việt Nam.


4

4. Câu hỏi nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu đề ra, tác giả xác định những mục tiêu
nghiên cứu và được cụ thể hóa bằng các câu hỏi nghiên cứu như sau:
(1) Dựa trên những tổng quan nghiên cứu nào để tìm (khoảng trống) hướng nghiên
cứu của tác giả?
(2) Dựa trên cơ sở lý thuyết nào để xây dựng cơ sở lý luận về phát triển CNHT
ngành XDDD?
(3) Lựa chọn mô hình/ khung phân tích nào để đánh giá sự phát triển bền vững
CNHT ngành XDDD?
(4) Áp dụng những nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm quốc tế về phát triển CNHT
XDDD vào điều kiện thực tế ở Việt Nam?
(5) Đánh giá thực trạng phát triển CNHT ngành XDDD VN qua khung phát triển
và hệ thống các chỉ tiêu như thế nào?
(6) Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển bền vững CNHT ngành XDDD ?
(7) Qua thực trạng phát triển CNHT ngành XDDD ở VN đã có những thuận lợi,
gặp những khó khăn gì? Những yếu tố nào ảnh hưởng?
(8) Cần có những giải pháp gì để phát triển CNHT ngành XDDD ở VN đến năm 2020?



5

Cơ sở lý luận về CNHT

Phát triển CNHT ngành XDDD

Các chỉ tiêu đánh giá phát triển
CNHT ngành XDDD

Các nhân tố
gián tiếp

Các nhân tố
trực tiếp

Các chỉ tiêu theo chiều
rộng
Cấp độ
phát triển

Các nhân tố tác động đến
PT CNHT ngành XDDD

Tốc độ
Phát triển

Các chỉ tiêu theo chiều sâu

Tăng

TFP

Tỷ trọng giá trị
SP công nghệ cao

Lành mạnh hóa hệ
thống tài chính DN

Phát triển BV CNHT ngành
XDDD dựa trên 3 trụ cột chính

Kinh tế

Môi trường

Xã hội

Đánh giá thực trạng phát triển CNHT
ngành XDDD ở Việt Nam

Giải pháp phát triển CNHT
ngành XDDD ở VN
Sơ đồ 1: Phương pháp nghiên cứu


6

5. Đóng góp mới của luận án
Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận:
Thứ nhất: Trên cơ sở lý thuyết về công nghiệp hỗ trợ (CNHT), tác giả đưa ra

quan điểm về CNHT ngành XDDD là bao gồm tất cả các ngành sản xuất vật liệu
xây dựng và tư vấn, thiết kế, giám sát xây dựng; quan điểm về phát triển CNHT
ngành XDDD (phát triển CNHT ngành XDDD theo chiều sâu và phát triển CNHT
ngành XDDD theo chiều rộng).
Thứ hai: Tác giả đưa ra hai nhóm chỉ tiêu để đánh giá phát triển CNHT
ngành XDDD đó là: Phát triển theo chiều rộng (Cấp độ phát triển của các doanh
nghiệp CNHT ngành XDDD; Tốc độ phát triển doanh nghiệp CNHT ngành XDDD
trong một thời gian nhất định) và chỉ tiêu phát triển theo chiều sâu (Tăng năng suất
các yếu tố tổng hợp(TFP); Tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm
ứng dụng công nghệ cao trong giá trị sản xuất công nghiệp vật liệu xây dựng; Mức
độ phát triển bền vững CNHT ngành XDDD; Mức độ phát triển hệ thống tài chính
lành mạnh trong các doanh nghiệp CNHT ngành XDDD).
Những phát hiện, đề xuất mới rút ra được từ kết quả nghiên cứu, khảo sát
của luận án:
Thứ nhất: Qua phân tích, đánh giá cho thấy TFP ngành XD: giai đoạn đoạn
2001-2005 là 4,33%, giai đoạn 2006 -2008 chiếm 3,73%; giai đoạn 2008 -2010
chiếm 3,74%; giai đoạn 2010-2013 chiếm 4,47%. Kết quả này cho thấy mức độ tác
động của các yếu tố lao động, vốn đầu tư trong xây dựng có xu hướng giảm dần.
Thứ hai: Kết quả điều tra, khảo sát về cấp độ phát triển khoa học và công
nghệ của các doanh nghiệp CNHT ngành XDDD: Doanh nghiệp đánh giá các cấp
độ tăng lên, chủ yếu ở cấp độ 3,4,5 ( bao gồm công đoạn gia công + lắp ráp+ chế
tạo + thiết kế) và cán bộ lãnh đạo ngành XDDD đánh giá các cấp độ chủ yếu ở cấp
độ 1,2,3 (bao gồm gia công thô + gia công chính + lắp ráp một phần).
Thứ ba: Hàm hồi quy biểu diễn các tác động của các nhân tố phát triển bền
vững CNHT ngành XDDD:


7

PTBV CNHT ngành XDDD = 0.372*Vốn + 0.371*KHCN + 0.352* Thị

trường + 0.318* Chính sách phát triển + 0.308* Nguồn nhân lực + 0.304* Cơ sở
hạ tầng+ 0.241* Chính trị văn hóa+ 0.208* Điều kiện tự nhiên+ 0.201* Quan hệ
liên kết.
Kết quả này cho thấy phát triển bền vững CNHT ngành XDDD chịu tác
động lớn của mức vốn đầu tư, khoa học và công nghệ. Các yếu tố điều kiện tự
nhiên, quan hệ liên kết có tác động nhỏ nhất.

6. Kết cấu của luận án
Tên luận án: Phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành xây dựng dân dụng ở Việt Nam.
Bố cục luận án: Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục bảng biểu, danh mục các chữ
viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục phụ lục thì luận án gồm có 4 chương:
Chương 1: Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan và phương pháp
nghiên cứu.
Chương 2: Cơ sở lý luận về công nghiệp hỗ trợ và phát triển công nghiệp hỗ trợ
ngành xây dựng dân dụng.
Chương 3: Thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành xây dựng dân dụng ở
Việt Nam.
Chương 4: Giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành xây dựng dân dụng ở
Việt Nam.

CHƯƠNG 1


8

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu
1.1.1.Các công trình nghiên cứu trong nước

- Quyết định 12/2011/QĐ-TTg về “Hỗ trợ phát triển một số ngành công
nghiệp hỗ trợ”[ 47]. Các dự án sản xuất sản phẩm CNHT được khuyến khích phát
triển thị trường, khuyến khích về hạ tầng cơ sở, khuyến khích về khoa học công
nghệ và đào tạo nguồn nhân lực...,khả năng cung ứng tại VN về nguyên liệu và linh
kiện phục vụ cho các lĩnh vực CNHT chỉ đạt mức 28,7%, trong khi của Thái Lan là
53%, Trung Quốc là 59,7%. Để phát triển CNHT ở trong nước cần có sự nỗ lực
hơn nữa từ: Chính sách phát triển một số ngành CNHT. Bộ Công thương phối hợp
với các bộ, ngành, hiệp hội liên quan rà soát lại các quy định nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho các DN hơn nữa trong việc vay vốn, thuê mặt bằng sản xuất, nhập
khẩu vật tư, nguyên liệu trong nước chưa sản xuất được. DN VN hiện có hai hạn
chế đó là: Vẫn còn quen với môi trường bao cấp, coi đây là việc của Nhà Nước,
phải có hỗ trợ ở hầu hết các mặt từ vốn, sản xuất, tiêu thụ và hiệu quả, sức cạnh
tranh thấp, trong khi các DN có yêu cầu lại ngại đầu tư, ham nhập ngoại, vì giá rẻ,
không phải đầu tư...Nghị quyết này đã được triển khai vào tháng 10 năm 2012 do
Bộ Công Thương chủ trì hợp tác với Nhật Bản, Hàn Quốc thực hiện một số dự án
về phát triển CNHT, cụm CNHT tại Hải Phòng, Vũng Tàu, vườn ươm công nghệ
CNHT tại Cần Thơ.
- Hoàng Văn Châu, “Chính sáchphát triển công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam”
[15]. CNHT được xem là giải pháp thiết thực để thực hiện theo hướng chủ động của
hoạt động kinh tế tránh nhập siêu, CNHT phát triển sẽ giúp DN lựa chọn được chiến
lược phát triển phù hợp với chuỗi giá trị gia tăng của ngành trong phạm vi quốc gia
và quốc tế. Bên cạnh đó phát triển CNHT còn tạo cơ hội cho DN nhỏ và vừa phát


9

triển mạnh mẽ tạo nên mạng sản xuất kinh doanh đa dạng và rộng khắp. Đây chính
là nền tảng để phát triển một nền CN tự chủ, hiện đại. Song tác giả chỉ nêu ra những
chính sách phát triển CNHT cho VN một cách khái quát, chưa đi vào phân tích cụ
thể các chính sách phát triển CNHT ngành XDDD ở VN.

- Nguyễn Kế Tuấn,“Phát triển công nghiệp phụ trợ trong chiến lược phát
triển công nghiệp Việt Nam”[23] đã đề cập tổng quát: Khái niệm, vai trò, các nhân
tố tác động đến phát triển CNHT, đề xuất một số chính sách chủ yếu về phát triển
CNHT, đặc biệt là quan điểm để lựa chọn xây dựng chính sách phát triển CNHT
cho VN.
- Trần Văn Thọ, trong“Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hoá
Việt Nam”[40] đã phân tích con đường phát triển CN ở VN theo hướng toàn cầu hoá,
thông qua phát triển CNHT như là lĩnh vực của hệ thống DN nhỏ và vừa (DNNVV).
- Phan Đăng Tuất với bài viết“Trở thành nhà cung cấp cho các doanh
nghiệp Nhật Bản – Con đường nào cho Việt Nam”, trong “Kế hoạch hành động về
phát triển CNHT Việt Nam” tại diễn đàn liên kết hội nhập cùng phát triển năm
2008 và trong “CNHT, vấn đề trọng đại”[33] đăng trên Báo Công Thương số Tết
2009, đã khẳng định các vai trò quan trọng của CNHT đối với nền kinh tế, yêu cầu
về DNNVV và sự hợp tác với Nhật Bản trong phát triển CNHT ở Việt Nam.
- Chính Phủ đã phê duyệt “Quy hoạch phát triển CNHT Việt Nam đến năm
2010, tầm nhìn đến 2020”, do Bộ Công nghiệp (cũ) soạn thảo[49]. Trong quy hoạch
này, lần đầu tiên khái niệm CNHT được chính thức hoá ở VN. Theo quy hoạch này,
kế hoạch và các giải pháp phát triển CNHT: Tạo dựng môi trường đầu tư, phát triển
khoa học công nghệ, phát triển cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực, liên kết
doanh nghiệp đã được đề xuất cho 5 ngành CN ưu tiên: Điện tử tin học, dệt may, da
giày, sản xuất lắp ráp ô tô, Cơ khí chế tạo.
- Ohno, “Xây dựng các ngành CNHT ở Việt Nam”[31], đã trình bày các kết
quả khảo sát về thực trạng các ngành CNHT trong chương 1 “CNHT Việt Nam dưới
góc nhìn của các nhà sản xuất Nhật Bản”.


10

- Trương Thị Chí Bình “Phát triển CNHT ngành điện tử gia dụng ở Việt
Nam”[35]. Tác giả đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về ngành CNHT nói chung và

ngành CNHT ngành điện tử gia dụng nói riêng. Thực trạng và triển vọng phát triển
ngành CNHT điện tử gia dụng ở VN cũng như đã đưa ra giải pháp phát triển CNHT
ngành điện tử gia dụng ở VN. Phạm vi nghiên cứu luận án chỉ dừng lại ở ngành
CNHT điện tử gia dụng và các ngành như cơ khí, nhựa, xe máy, ô tô.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
- Mirian Picinini Méxas , Osvaldo Luiz Gonçalves Quelhas, Helder Gomes
Costa, “Prioritization of enterprise resource planning systems criteria: Focusing on
construction industry” [65]. Nhóm tác giả sử dụng hệ thống ERP (Enterprise
Resource Planning). Đầu tiên, dựa trên việc xem xét các tài liệu liên quan đến việc
thực hiện và áp dụng các mô hình đa tiêu chuẩn đánh giá của các hệ thống ERP, tập
hợp các tiêu chí lựa chọn được đề xuất cho các ứng dụng ERP cho các công ty trong
ngành XDDD ở Brazil, nơi có sự thiếu hụt của loại hệ thống này. Sau khi xác nhận
của các tiêu chí này bởi một nhóm các thành viên công nghệ thông tin, các chuyên
gia trong ngành XDDD, 79 người trả lời chủ yếu từ ngành CNXD và công nghệ
thông tin tham gia vào một nghiên cứu thực địa để kiểm tra nhận thức của họ về tầm
quan trọng của các tiêu chí này. Nghiên cứu cho thấy rằng, các tiêu chí kinh doanh
và phần mềm tài chính là quan trọng nhất đối với người trả lời. Ngoài ra, tầm quan
trọng của từng nhóm tiêu chí cũng được đánh giá và để hỗ trợ các nhà sản xuất
quyết định khi lựa chọn hệ thống ERP.
- I.M. Horta, A.S. Camanho, “Company failure prediction in the construction
industry”[61]. Bài viết này đề xuất mô hình mới để dự đoán sự thất bại của công ty
trong ngành công nghiệp xây dựng. Mô hình bao gồm ba khía cạnh sáng tạo lớn. Việc
sử dụng các biến chiến lược phản ánh đặc trưng quan trọng của các công ty XD, đó là
lý do quan trọng để giải thích sự thất bại của công ty. Đề xuất mô hình đã được thực
nghiệm sử dụng tất cả các nhà thầu ở Bồ Đào Nha hoạt động trong năm 2009.
- Zahir Irani, Muhammad Mustafa Kamal “Intelligent Systems Research in
the Construction Industry”[74]. Với sự phức tạp ngày càng tăng của các vấn đề



11

trong ngành công nghiệp xây dựng. Do đó, mục đích nghiên cứu của bài viết này là
để phân tích hệ thống thông minh trong CNXD nhằm tìm kiếm giải pháp thích hợp.
Vì vậy, để theo dõi các ứng dụng của hệ thống thông minh để nghiên cứu trong
ngành CNXD, một cách tiếp cận hồ sơ được sử dụng để phân tích 514 ấn phẩm
được chiết xuất từ các cơ sở dữ liệu Scopus. Giá trị chính và độc đáo của bài viết
này nhằm phân tích và biên soạn tài liệu xuất bản hiện có bằng cách kiểm tra các
biến (ấn phẩm hàng năm, vị trí địa lý của mỗi ấn phẩm…). Những đóng góp của bài
viết này cung cấp một sự so sánh giữa hai thập kỷ và cung cấp cái nhìn sâu vào các
xu hướng sử dụng các loại hệ thống thông minh khác nhau trong ngành CNXD. Các
phân tích trong bài viết đã xác định được nghiên cứu hệ thống thông minh đã đóng
góp vào sự phát triển và tích lũy của cải tiến trí tuệ đối với các khu vực hệ thống
thông minh trong ngành CNXD.
- C.M Tam , Vivian W.Y Tam , W.S Tsui, “Green construction assessment
forenvironmental management in the construction industry of Hong Kong”[58].
Đánh giá môi trường (EA), một công cụ để xem xét, theo dõi, kiểm tra và đánh giá
hiệu quả môi trường cho ngành CNXD đã được ủng hộ. Mặc dù có rất nhiều các
công cụ đánh giá môi trường, hầu hết trong số họ không được thiết kế XD. Bài viết
này đề xuất một hệ thống gọi là “Đánh giá công trình xanh”(GCA) cho XD. Hai
loại chỉ số môi trường được chấp nhận: Chỉ số hoạt động quản lý (MPIs) và các chỉ
số hiệu suất hoạt động (OPIS). Sử dụng một hệ thống quyết định đa tiêu chuẩn, hệ
thống phi kết cấu mờ hỗ trợ quyết định (NSFDSS), các trọng số cho mỗi tiêu chí và
ít yếu tố này được phát triển, sản xuất là một thước đo để đánh giá hiệu quả hoạt
động môi trường đối với hoạt động XD.
-Nannan Wang, “The role of the construction industry in China's sustainable
urban development”[67]. Ngành XD là một ngành tiêu hao năng lượng lớn và
lượng carbon phát thải lớn. Mặc dù Chính phủ Trung Quốc đã có chính sách phát
triển bền vững cho ngành XD. Nhưng trong những năm gần đây, ngành
CNXDTrung Quốc đã dường như đáp ứng chậm hơn so với các ngành khác. Kết

quả là ngành CNXD Trung Quốc bị cạnh tranh thấp trên thị trường, thiếu kỹ năng


12

toàn cầu và thiếu sáng kiến hướng tới đổi mới công nghệ. Nghiên cứu này xem xét
vai trò của ngành CNXD phát triển đô thị bền vững của Trung Quốc. Các tác động
xã hội, kinh tế và môi trường của ngành XD ở Trung Quốc, kết quả cho thấy rằng
việc XD ở Trung Quốc đóng cả hai vai trò tích cực và tiêu cực trong phát triển đô
thị bền vững của Trung Quốc. Gợi ý bao gồm thiết lập các biện pháp tiêu chuẩn,
đổi mới kỹ thuật và khuyến khích sự hợp tác giữa các ngành CNXD và giáo
dục…sẽ góp phần vào sự phát triển tương lai của ngành CNXD ở Trung Quốc.
- Năm 1990, “Công nghiệp liên quan và hỗ trợ” đã được M. Porter nhắc đến
trong lợi thế cạnh tranh của các quốc gia”(The competitive advantage of nations,
Harvard business review 1990)[73].Trong đó, cụm từ này đã được phân tích như là
một trong năm yếu tố quyết định đến lợi thế cạnh tranh của một quốc gia. Nhưng
các nghiên cứu về CNHT nhiều nhất vẫn là ở các quốc gia Đông Á, đặc biệt là Nhật
Bản, nơi ra đời khái niệm CNHT. Tình hình thuê ngoài và các nhà cung ứng cho các
doanh nghiệp sản xuất của Nhật Bản đã được phân tích trong “Chi nhánh các nhà
lắp ráp Nhật Bản ở châu Á” (Japanese-Affiliated Manufactures in Asia), JETRO
thực hiện năm 2003 và “Báo cáo khảo sát các bộ phận ở nước ngoài của các công
ty lắp ráp Nhật Bản” (Survey report on overseas business operations by Japanese
manufacturing companies) do ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC) xuất bản
năm 2004. Báo cáo chỉ ra rằng, chi nhánh các tập đoàn Nhật Bản ở Châu Á, đặc biệt
là Thái Lan, Malaysia, Indonesia đã sử dụng hệ thống thầu phụ được hình thành với
vai trò mạnh mẽ của các DN sản xuất linh kiện có vốn đầu tư từ Nhật Bản.

1.1.3. Khoảng trống các nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo của tác giả
- Một số nghiên cứu đề cập đến phát triển CNHTcụ thể cho mỗi ngành như:
Điện tử; Dệt may; Da giày…nhưng chưa có nghiên cứu nào cho phát triển CNHT

ngành XDDD.
- Một số nghiên cứu chỉ xem xét phát triển CNHT trên góc độ năng lực
cạnh tranh khoa học và công nghệ, nhưng chưa đề cập đến các cấp độ khoa học và
công nghệ hiện tại trong các DN CNHT.


13

- Một số nghiên cứu có xem xét đến tác động của TFP trong phát triển
ngành, nhưng chưa có nghiên cứu cụ thể nào về tác động của TFP trong phát triển
CNHT ngành XDDD.
- Một số nghiên cứu về phát triển bền vững như: Phát triển thương mại bền
vững; công nghiệp bền vững…Nhưng chưa có nghiên cứu cụ thể nào về phát triển
bền vững CNHT ngành XDDD.
- Một số nghiên cứu về phát triển CNHT dựa trên các chỉ tiêu đánh giá
khác nhau, nhưng chưa có nghiên cứu nào dựa trên các chỉ tiêu đánh giá theo chiều
rộng và chiều sâu.
Tất cả các “khoảng trống” trên đây sẽ là hướng nghiên cứu chính của luận án này.

1.2. Phương pháp nghiên cứu
1.2.1. Phương pháp thu thập dữ liệu
1.2.1.1. Dữ liệu thứ cấp
Việc xác định các tiêu thức dùng để nghiên cứu về sự phát triển CNHT ngành
XDDD ở VN dựa trên cơ sở tham khảo các tài liệu, sách, bài báo, trang web, số liệu
tổng cục thống kê, Bộ XD,Vụ Vật liệu XD, các công trình nghiên cứu có liên quan
đến đề tài, các báo cáo tài chính của các DN CNHT như Kính XD, Xi măng, Vật liệu
xây, Vật liệu lợp, Vật liệu ốp lát, Tư vấn – Thiết kế - Giám sát XD…

1.2.1.2. Dữ liệu sơ cấp
Để đánh giá khả năng phát triển của hoạt động sản xuất kinh doanh VLXD

trong thời gian tới, cũng như xem xét các yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển này, tác
giả đã tiến hành khảo sát lấy ý kiến đánh giá của các cán bộ lãnh đạo tại 350 DN
sản xuất, kinh doanh VLXD, tư vấn –thiết kế-giám sát XD trên thị trường hiện nay,
nhằm thu thập ý kiến của đội ngũ này cho các vấn đề trên. Công việc khảo sát được
thực hiện tại ba khu vực: Miền Bắc từ Ninh Bình trở ra, số lượng DN khảo sát là
140; miền Nam từ Bình Thuận trở vào, số lượng DN khảo sát là 120; miền Trung là
khu vực còn lại, số lượng DN khảo sát là 90. Kết quả thu về, số phiếu khảo sát là
350, tuy nhiên số phiếu hợp lệ là 300 phiếu. Dữ liệu thu được từ 300 phiếu gồm có


14

116 phiếu của khu vực phía Bắc, 105 phiếu của khu vực phía Nam và 79 phiếu của
khu vực miền Trung. Và phỏng vấn sâu 20 cán bộ lãnh đạo ngành XDDD. Dữ liệu
này được xử lý sơ bộ bằng phần mềm Excel trước khi đưa vào thành dữ liệu của
phần mềm SPSS16 để tiến hành phân tích.
Bảng 1.1: Vị trí khảo sát và số phiếu khảo sát

Số phiếu/ Khu vực

Số phiếu phát ra

Số phiếu thu về hợp lệ

Miền Bẵc

140

116


Miền Trung

90

79

Miền Nam

120

105

Tổng cộng

350

300

Bảng 1.2: Doanh nghiệp được khảo sát

Ngành
Xi
măng

VL
xây

VL
Lợp


VL
ốp lát

Kính
XD

Tư vấn &thiết
kế, giám sát

Miền Bắc

20

22

24

28

15

7

Miền Trung

11

12

16


23

8

9

Miền Nam

15

17

18

22

17

16

Tổng cộng

46

51

58

73


40

32

Khu vực

1.2.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp dữ liệu
1.2.2.1. Phương pháp phân tích số dữ liệu thứ cấp
Trong quá trình nghiên cứu, các thông tin báo cáo về tình hình hoạt động
phát triển CNHT ngành XDDD được tác giả thu thập dưới dạng các báo cáo tổng
hợp được Bộ XD, Tổng cục thống kê, Vụ Vật liệu xây dựng,Bộ kế hoạch và đầu tư,
báo cáo tài chính của các DN CNHT. Trong đó có các nội dung về vốn đầu tư,
GDP, lao động, doanh thu, chi phí, lợi nhuận…của các DN CNHT ngành XDDD.
Các số liệu trên được tác giả chọn lọc, xử lý và đưa vào nghiên cứu này dưới dạng
các bảng biểu, biểu đồ. Nội dung phân tích các số liệu này bao gồm phân tích so
sánh giá trị giữa các giai đoạn, ở đây là theo từng năm, từng giai đoạn.


15

1.2.2.2.Phương pháp phân tích dữ liệu sơ cấp
Phương pháp thống kê mô tả
Thống kê mô tả cho phép các nhà nghiên cứu trình bày các dữ liệu thu được
dưới hình thức cơ cấu và tổng kết (Huysamen, 1990). Các thống kê mô tả sử dụng
trong nghiên cứu này để phân tích, mô tả dữ liệu bao gồm các tần số, tỷ lệ, giá trị
trung bình và độ lệch chuẩn. Trong nghiên cứu này, sau khi tiến hành khảo sát đối
tượng làm việc tại các vị trí lãnh đạo như Ban Giám đốc hay Trưởng/ Phó phòng tại
các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh VLXD, Các công ty Tư vấn-Thiết kế-Giám
sát XD, tác giả tiến hành công việc tổng hợp dữ liệu và sử dụng phần mềm phân

tích thống kê SPSS16 để thực hiện công việc phân tích.
Nghiên cứu này sử dụng thang đo Likert 5 điểm. Do vậy để thuận tiện cho
việc nhận xét khi sử dụng giá trị trung bình (mean) đánh giá mức độ hài lòng đối
với từng yếu tố ảnh hưởng phát triển bền vững CNHT ngành XDDD và đánh giá về
sự phát triển bền vững CNHT ngành XDDD, tác giả quy ước:
- Mean < 3.00:

Mức thấp

- Mean = 3.00 – 3.24: Mức trung bình
- Mean = 3.25 – 3.49: Mức trung bình khá
- Mean = 3.50 – 3.74: Mức khá cao
- Mean = 3.75 – 3.99: Mức cao
- Mean > 4.00:

Mức rất cao

Thống kê suy luận: cho phép các nhà nghiên cứu suy luận dữ liệu từ mẫu
nghiên cứu khi phân tích mối quan hệ giữa hai biến, sự khác biệt trong một biến
giữa các nhóm mẫu khác nhau và giải thích mối liên hệ giữa biến độc lập và biến
phụ thuộc (Sekaran, 2000).Nghiên cứu này cũng sử dụng thống kê suy luận để kiểm
định các giả thuyết nghiên cứu.
Phương pháp hệ số tin cậy Cronbach Alpha
Độ tin cậy là mức độ mà thang đo được xem xét là nhất quán và ổn định
(Parasuraman, 1991). Hay nói cách khác, độ tin cậy của một phép đo là mức độ mà
phép đo tránh được sai số ngẫu nhiên. Trong nghiên cứu này, để đánh giá độ tin cậy


16


(reliability) của từng thang đo, đánh giá độ phù hợp của từng mục hỏi (items) hệ số
tương quan alpha của Cronbach (Cronbach’s Coefficient Alpha) được sử dụng.
- Hệ số Cronbach’s alpha là một phép kiểm định thống kê về mức độ chặt chẽ
mà các mục hỏi trong thang đo tương quan với nhau (Hoàng Trọng & Chu Nguyễn
Mộng Ngọc, 2005), hệ số này đánh giá độ tin cậy của phép đo dựa trên sự tính toán
phương sai của từng item và tính tương quan điểm của từng item với điểm của tổng
các items còn lại của phép đo.
- Nhiều nhà nghiên cứu đồng ý rằng hệ số alpha của từng thang đo từ 0.8 trở lên
đến gần 1 thì thang đo lường là tốt, từ 0.7 đến gần 0.8 là sử dụng được. Cũng có
nhà nghiên cứu đề nghị rằng hệ số alpha từ 0.6 trở lên là có thể sử dụng được trong
trường hợp khái niệm đang nghiên cứu là mới hoặc mới đối với người trả lời trong
bối cảnh nghiên cứu (Nunnally, 1978; Peterson, 1994; Slater, 1995 dẫn theo Hoàng
Trọng & Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2005).Vì vậy, đối với nghiên cứu này thì hệ số
alpha từ 0.6 trở lên là chấp nhận được.
- Khi đánh giá độ phù hợp của từng item, những item nào có hệ số tương quan
biến tổng (item-total correlation) lớn hơn hoặc bằng 0.3 được coi là những item có
độ tin cậy bảo đảm (Nguyễn Công Khanh, 2005), các item có hệ số tương quan biến
tổng nhỏ hơn 0.3 sẽ bị loại bỏ ra khỏi thang đo.
Phương pháp phân tích nhân tố khám phá EFA (Exploratory Factor Analysis)
Được sử dụng để kiểm tra tính đơn hướng của các thang đo (Hoàng Trọng &
Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2005) và độ giá trị cấu trúc của phép đo (Nguyễn Công
Khanh, 2005).
- Tính đơn hướng của thang đo được định nghĩa là sự tồn tại của chỉ một khái
niệm (construct) trong một tập biến quan sát (Garver & Mentzer, 1999) đó là mức độ
mà một tập biến quan sát biểu thị cho một và chỉ một khái niệm tiềm ẩn duy nhất.
- Độ giá trị cấu trúc (construct validity) gồm hai thành phần là độ giá trị hội tụ
(convergent validity) và độ giá trị phân biệt (discriminant validity). Độ giá trị hội tụ
liên quan đến câu hỏi “ Các biến đo lường dùng để đo một khái nhiệm tiềm ẩn có



17

hội tụ về mặt thống kê hay không?” (Garver & Mentzer, 1999), Độ giá trị phân biệt
biểu thị phạm vi đo lường những khái niệm khác nhau thì khác nhau.
- Trong nghiên cứu này, phân tích EFA sử dụng phương pháp principal
components với phép varimax và điểm dừng khi trích các yếu tố có eigenvalue ≥ 1
được sử dụng. Trong quá trình phân tích EFA các items, thang đo không đạt yêu
cầu sẽ bị loại. Tiêu chuẩn chọn là các item phải có hệ số tải nhân tố (factor loading)
>0.4, tổng phương sai trích ≥ 50% (Gerbing & Anderson, 1998 dẫn theo Trần Thị
Kim Loan, 2009), hệ số của phép thử KMO (Kaiser-Meyer-Olkin of Sampling
Adeqacy) có giá trị từ 0.5 trở lên (Othman & Owen, 2000) và phép thử Bartlett
(bartlett Test of Sphericity) phải ở mức có ý nghĩa.
Phân tích hồi quy
Sau khi thang đo của các yếu tố được kiểm định, bước tiếp theo sẽ tiến hành
chạy hồi quy tuyến tính và kiểm định với mức ý nghĩa 5% theo mô hình :
Y = β0 + β1*X1 + β2*X2 + β3*X3+ … + βi*Xi
Trong đó :
Y: Đánh giá về khả năng phát triển bền vững CNHT ngành XDDD trong
tương lai
Xi: Các yếu tố tác động đến sự phát triển bền vững CNHT ngành XDDD
β0: hằng số
βi: các hệ số hồi quy (i > 0)
Kết quả từ mô hình sẽ giúp ta xác định được yếu tố ảnh hưởng quan trọng
đến sự phát triển bền vững CNHT cho ngành XDDD hiện tại, từ đó lựa chọn các
giải pháp hợp lý để có thể đẩy mạnh sự phát triển trong tương lai.


18

CHƯƠNG 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ
VÀ PHÁT TRIỂNCÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ NGÀNH
XÂY DỰNG DÂN DỤNG
2.1. Cơ sở lý luận về công nghiệp hỗ trợ
2.1.1. Khái niệm về công nghiệp hỗ trợ
Cụm từ “Supporting Industry” (công nghiệp hỗ trợ) xuất hiện lần đầu tiên
trong “Sách trắng về Hợp tác kinh tế năm 1985” của Bộ công thương Nhật Bản
(MITI, nay là Bộ Kinh tế, Công nghiệp và Thương mại, METI)[2]. Trong tài liệu
này, CNHT được dùng để chỉ các DN có đóng góp cho việc phát triển cơ sở hạ tầng
CN ở các nước Châu Á, hay các công ty sản xuất linh phụ kiện. Năm 1987, MITI
tiếp tục giới thiệu về thuật ngữ này với định nghĩa chính thức là các ngành cung cấp
những gì cần thiết như nguyên vật liệu thô, linh phụ kiện và hàng hoá, cho các
ngành CN lắp ráp. Khái niệm CNHT ra đời và được Chính phủ Nhật Bản chính
thức sử dụng vào khoảng thời gian này, bởi sự phát triển mang tính lịch sử của nền
kinh tế những năm đó. Sự tăng giá của đồng tiền Nhật Bản đã làm cho các DN Nhật
Bản giảm xuất khẩu các sản phẩm cuối cùng và do vậy phải chuyển các cơ sở sản
xuất sang các nước có chi phí nhân công rẻ hơn. Tuy nhiên các nhà lắp ráp Nhật
Bản ở nước ngoài vẫn phải nhập khẩu linh phụ kiện từ các DNNVV Nhật Bản, Italy
do các DN nội địa tại nước sở tại không thể đáp ứng. Thuật ngữ CNHT lúc đó được
dùng để chỉ sự thiếu hụt các ngành CN như vậy ở các nước này. Sau đó, thuật ngữ
này đã được phổ biến đến các nước Châu Á khác cùng với các chương trình hỗ trợ
của Nhật Bản như New Aid Plan năm 1987, chương trình phát triển CNHT Châu Á
năm 1993.
Trần Văn Thọ [40] cho rằng, CNHT chỉ toàn bộ những sản phẩm công
nghiệp có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất các thành phẩm chính. Cụ thể là những
linh kiện, phụ liệu, phụ tùng, sản phẩm bao bì, nguyên liệu để sơn, nhuộm…Và


19


cũng có thể bao gồm cả những sản phẩm trung gian, những nguyên liệu sơ chế. Nếu
kể các sản phẩm tương tự thì phạm vi sẽ rất rộng nhưng nếu thêm một đặc tính nữa
sẽ thấy phạm vi rõ ràng hơn: Sản phẩm CNHT thường được sản xuất với quy mô
nhỏ, thực hiện bởi các DNNVV ngành này.
Như vậy, có thể thấy rằng CNHT là một khái niệm rộng, có tính chất tương
đối. Dù có rất nhiều cách định nghĩa, các khái niệm CNHT đều có các điểm chung
như sau:
Thứ nhất, đó là việc cung ứng các linh phụ kiện cho mục đích sản xuất sản
phẩm cuối cùng.
Thứ hai, các ngành CNHT bao gồm các công đoạn chủ yếu để sản xuất các
linh kiện kim loại, nhựa và cao su, điện và điện tử, nhằm phục vụ một số ngành CN
chế tạo như xe máy, ô tô, điện tử, chế tạo máy móc.
Thứ ba, việc cung ứng này chủ yếu được đáp ứng bởi hệ thống DNNVV có
trình độ công nghệ cao, tạo ra những sản phẩm có độ chính xác lớn, thực hiện các
cam kết hợp đồng với khách hàng một cách chuẩn mực.
Thứ tư, khách hàng cuối cùng của các ngành CNHT là nhà lắp ráp, do vậy,
thị trường của CNHT không rộng như sản xuất sản phẩm cho người tiêu dùng cuối
cùng. Thị trường hàng hoá của họ thu hẹp hơn, có những nhóm sản phẩm nằm ở
phần thị trường rất hẹp và chỉ dành cho một số khách hàng nhất định. Đây chính là
khó khăn lớn nhất của phát triển CNHT. Mặc dù vậy, sản xuất CNHT lại trở nên
hấp dẫn và tương đối ổn định nếu DN phụ trợ đó tìm được khách hàng dài hạn, hoặc
tìm được thị trường “ngách” cho mình.
Ở VN, cụm từ “công nghiệp phụ trợ” bắt đầu được nhắc tới một cách tương
đối rộng rãi từ năm 2003. Tuy nhiên, thuật ngữ “công nghiệp hỗ trợ” đã được chính
thức hoá để chỉ vấn đề này, lần đầu ở VN từ năm 2007, trong “Quy hoạch tổng thể
phát triển các ngành CNHTVN đến 2010, tầm nhìn đến 2020” do Bộ CN (cũ), nay
là Bộ Công thương soạn thảo và Thủ Tướng phê duyệt. Trong đó, CNHT được định
nghĩa “hệ thống CNHT là hệ thống các nhà sản xuất (sản phẩm) và công nghệ sản



20

xuất có khả năng tích hợp theo chiều ngang, cung cấp nguyên vật liệu, linh kiện,
phụ tùng…cho khâu lắp ráp cuối cùng”[1]. Trong bản quy hoạch này, CNHT được
phân chia thành hai thành phần chính, phần cứng liên quan đến sản xuất và phần
mềm là hệ thống dịch vụ CN và marketing. Năm nhóm ngành đã được Chính phủ
chỉ định ưu tiên phát triển CNHT và được hoạch định kế hoạch phát triển cụ thể, đó
là: Điện tử, cơ khí chế tạo, ô tô, dệt may, da giày…
Như vậy, có thể thấy khái niệm về “công nghiệp hỗ trợ” ở VN có nét khác
biệt so với các khái niệm ở các quốc gia khác:
Thứ nhất: CNHT được xác định rộng hơn, từ khâu sản xuất nguyên vật liệu
đến cả các dịch vụ CN. Có thể thấy khái niệm này làm cho các ngành CNHT mở
rộng ra rất nhiều, không chỉ bao gồm một số lĩnh vực CN, không chỉ tập trung các
DN nhỏ và vừa mà cả các DN lớn và điều này đồng nghĩa với việc rất khó có thể
tạo ra được trọng tâm trong CNHT.
Thứ hai: Các ngành CNHT ở đây được xác định trên cơ sở các ngành CN hạ
nguồn (ngành lắp ráp như ô tô, cơ khí, dệt may, da giày, điện tử) chứ không xác
định trên đặc thù sản phẩm của ngành sản xuất phụ trợ (cơ khí chế tạo, nhựa, điện
tử…). Khái niệm này cũng được định nghĩa chưa thật rõ ràng, cụ thể đối với DN
hoặc những đối tượng ngoài lĩnh vực nghiên cứu.
Ngoài ra, cùng với thuật ngữ “công nghiệp hỗ trợ”, có một vài khái niệm
khác cũng được sử dụng để chỉ ngành CN chuyên cung cấp đầu vào như:
Công nghiệp liên quan và hỗ trợ: Thuật ngữ này được M.Porter sử dụng như
là yếu tố quyết định của lợi thế cạnh tranh quốc gia. Trong đó, CNHT được định
nghĩa như khu vực tạo ra yếu tố đầu vào được sử dụng rộng rãi, còn CN liên quan là
những ngành trong đó DN có thể phối hợp và chia sẽ các hoạt động trong cùng
chuỗi giá trị khi họ cạnh tranh với nhau, hoặc là những ngành sản xuất ra các sản
phẩm có tính chất bổ sung cho nhau.
Thầu phụ: Thuật ngữ này được sử dụng khá lâu trong CN nhưng không được
định nghĩa cụ thể. Theo cơ quan Phát triển CN Liên hợp quốc (UNIDO) thì thầu



21

phụ là “thỏa thuận giữa hai bên là nhà thầu chính và nhà thầu phụ. Nhà thầu chính
giao cho một hoặc một vài DN sản xuất linh phụ kiện hoặc cụm linh kiện và/ hoặc
cung cấp dịch vụ CN cần thiết cho việc sản xuất sản phẩm cuối cùng của mình. Nhà
thầu phụ thực hiện công việc tuân theo sự chỉ định của nhà thầu chính”. Hình thức
thầu phụ khá phổ biến tại Nhật Bản và các quốc gia NEC trong những năm 1950 –
1970. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do áp lực kinh doanh và tồn tại. Các
DN thầu phụ đang có khuynh hướng chuyển sang ngành CNHT[56].
Công nghiệp phụ thuộc: Thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi ở Ấn Độ từ
những năm 1950, trong Luật CN năm 1951, CN phụ thuộc được hiểu là hoạt động
trong lĩnh vực CN có liên quan đến hoặc có dự định liên quan đến việc chế tạo hoặc
sản xuất linh kiện, phụ tùng, cụm linh kiện, công cụ hoặc hàng hóa trung gian, hoặc
cung cấp dịch vụ. Có thể thấy rằng CN phụ thuộc là một phần của CNHT dưới hình
thức các hoạt động CN quy mô nhỏ. Với đặc tính như vậy, rất khó có thể tìm ra một
chính sách độc lập để thúc đẩy sự phát triển của ngành CN này[56].
Công nghiệp linh phụ kiện: Thuật ngữ này được hiểu là ngành CN sản xuất
phụ tùng, linh kiện, được sử dụng rộng rãi trong ngành CN lắp ráp như xe máy, ô
tô, điện và điện tử. Đây là thuật ngữ có phạm vi hẹp, nó không bao gồm các yếu tố
đầu vào khác trong CNHT như dịch vụ, công cụ, máy móc và nguyên liệu.
Nhà cung cấp: Cũng giống như “CN linh phụ kiện”, thuật ngữ này không
được định nghĩa cụ thể, nó được sử dụng rộng rãi ở Malaysia và các nước Nam Á.
Không giống với CNHT, nhà cung cấp dùng để chỉ các DN đơn lẻ, là một bộ phận
của CNHT, nhân tố quan trọng cho sự phát triển của ngành CN này[56].
Đến năm 2011, VN mới có khái niệm chính thức về CNHT, khái niệm này
được đưa ra trong quyết định số 12/2011/QĐ-TTg ban hành ngày 24/02/2011 của
Thủ tướng Chính Phủ, cụ thể như sau: CNHT là các ngành công nghiệp sản xuất
vật liệu, phụ tùng, linh kiện, phụ kiện, bán thành phẩm để cung cấp cho ngành

CN sản xuất, lắp ráp các sản phẩm hoàn chỉnh từ tư liệu sản xuất hoặc sản
phẩm tiêu dung [47].


22

Như vậy, CNHT là một thực thể kinh tế được hình thành từ thực tế phát triển
CN của các quốc gia. Dưới sự tác động của sự thay đổi cấu trúc CN, các nhà hoạch
định chính sách nhận thấy tầm quan trọng của một khu vực kinh tế và cần phải có
chính sách để thúc đẩy sự phát triển của khu vực này. Khái niệm CNHT được nhìn
nhận từ nhiều góc nhìn và quan điểm khác nhau, phụ thuộc vào mục tiêu qui hoạch
cũng như thiết lập chính sách CN đặc thù của các quốc gia. Có thể rút ra một số kết
luận quan trọng liên quan đến các vấn đề lý luận của CNHT:
Thứ nhất: CNHT là một khái niệm của CN hiện đại, được kế thừa từ những
khái niệm có liên quan và nhấn mạnh đến tầm quan trọng của các ngành CN cung
cấp các yếu tố trung gian đầu vào cũng như các yếu tố hỗ trợ cho các ngành CN
then chốt, có giá trị kinh tế cao và quá trình sản xuất phức tạp.
Thứ hai: Khái niệm chung về CNHT tương đối đồng nhất, tuy nhiên tùy vào
mục đích sử dụng mà mỗi quốc gia có sự giới hạn phạm vi của ngành này ở một số
ngành cụ thể.
Thứ ba: Ngành CNHT không được xem xét trên hệ thống phân loại ngành
kinh tế theo quan điểm truyền thống (theo lĩnh vực sản xuất) mà chỉ được xem xét
như một ngành CN với sự tái định nghĩa các ngành CN theo cấu trúc dọc (theo hoạt
động sản xuất) dưới áp lực của chuyên môn hóa quy trình và tái cấu trúc DN CN.
Thứ tư: Đối với các quốc gia đang phát triển, CNHT đóng vai trò quan trọng
trong việc tạo ra sản phẩm xã hội, thúc đẩy tăng trưởng của các ngành CN mũi nhọn,
thu hút ĐTNN và nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia, của vùng địa phương.
Thứ năm: Việc xác lập phạm vi của ngành CNHT phải căn cứ trên điều kiện
đặc thù cũng như hoạch định chính sách CN của mỗi quốc gia, không nên sử dụng
chung định nghĩa của các quốc gia khác nhau, vì như vậy có thể tạo ra sự phát triển

không ổn định cũng như đánh mất tính chủ động và độc lập của nền kinh tế đất nước.

2.1.2. Đặc điểm của ngành công nghiệp hỗ trợ
Có nhiểm của ngành công nghiệp hỗ trợhải căn cứ trên điều kiện đặc thù
cũng như hoạch định chính sách CN của mỗi quốc gia, không nên sử dụng chung
định nghĩa của ừ cấu trúc tới đặc điểm phát triển của ngành.


23

Thứ nhất: Sự phát triển của CNHT là tất yếu của quá trình phân công lao
động xã hội.
Tại các nước phát triển, khi quy mô sản xuất cũng như sự phức tạp hóa của
sản phẩm xã hội đạt đến một mức độ nhất định, quá trình phân loại các hoạt động
lắp ráp và sản xuất linh kiện thành những công đoạn độc lập sẽ hình thành, chuyên
môn hóa sẽ xuất hiện. Quá trình này là tất yếu và gắn liền với sự thay đổi trong
phân công lao động theo hướng chuyên môn hóa này là sự ra đời của các ngành
CNHT. Còn tại các nước đang phát triển, với sự đầu tư của các nước phát triển
trong ngành CN lắp ráp như ô tô, xe máy, điện, điện tử…sẽ kéo theo sự phát triển
ngành CNHT.
Thứ hai: CNHT là ngành phức tạp và rộng lớn.
Khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, các sản phẩm sản xuất ra ngày càng
tinh vi hơn, mỗi sản phẩm lại có vô số các chi tiết hợp thành. Một DN dù lớn đến
mức nào cũng không thể và không nên tự mình sản xuất khép kín một sản phẩm.
Lợi thế cạnh tranh và quá trình chuyên môn hóa sản xuất không cho phép làm điều
đó. Do vậy, để sản xuất một loại sản phẩm hoàn chỉnh cần sự tham gia của nhiều
DN, nhiều ngành khác nhau. Điều đó dẫn đến CNHT có phạm vi rất rộng, cả về mặt
liên kết ngành hay địa lý.
Thứ ba: CNHT góp phần tạo nên“ chuỗi giá trị” khi một ngành CN sản xuất
hay lắp ráp một sản phẩm nhất định phát triển, cần có một hệ thống các ngành

CNHT để cung cấp các chi tiết sản phẩm đó. Đến lượt nó, các DN được coi là hỗ trợ
cho sản phẩm đó lại cần các DN khác hỗ trợ cho mình. Cứ như vậy, để có hệ thống
các ngành CNHT, ngoài việc phải phát triển các ngành CN cơ bản, cần có sự phát
triển của các ngành CNHT khác nữa. Như vậy, chỉ với một sản phẩm, chuỗi giá trị
đã kéo dài và mở rộng ra hầu hết các ngành CN cơ bản và tạo ra giá trị cho nhiều
ngành CN khác.
Thứ tư: CNHT không phải là ngành “công nghiệp phụ”.
Nói đến CNHT người ta thường nghĩ đến các ngành sản xuất phụ tùng, linh
kiện, nguyên phụ liệu cho các ngành lắp ráp như ô tô, xe máy, điện, điện


24

tử…(ngành được xem là CN chính). Chính vì vậy, trên thực tế CNHT thường bị coi
là ngành CN phụ. Tuy nhiên, điều này hoàn toàn không hợp lý. Về mặt lý luận
CNHT có thể được hiểu là ngành đối xứng với ngành CN lắp ráp, có vai trò như
những ngành CN khác. Ngành CN chính, chỉ có thể phát triển khi ngành CNHT
phát triển và ngược lại, khi ngành CN chính đã phát triển sẽ tạo động lực thúc đẩy
phát triển CNHT.
Thứ năm: Thu hút số lượng lớn DN, nhất là các DNNVV
Một đặc điểm của CNHT là nó thu hút một số lượng DN lớn, với nhiều qui
mô khác nhau trong đó có một số lượng lớn các DNNVV. Do tính chất đa cấp và
phát triển theo hình cây của hệ thống CNHT, số lượng các DN ở các cấp thấp rất
lớn, đa phần là các DNNVV.

2.1.3. Phân loại công nghiệp hỗ trợ
Phân loại CNHT có thể được phân thành các tiêu thức sau:
Thứ nhất: Phân loại theo ngành nghề sản xuất ra sản phẩm cuối cùng
Theo cách tiếp cận về CNHT là một hệ thống bao trùm chuỗi giá trị sản xuất
ra một sản phẩm, một chủng loại sản phẩm cụ thể, CNHT có thể phân thành các

ngành phù hợp với các sản phẩm cuối cùng như: Cơ khí, tin học, dệt may…
Cách phân loại CNHT trong này được sử dụng khá phổ biến cả trong thực tế
và trong nghiên cứu, nhất là nghiên cứu từng ngành sản xuất riêng lẻ. Ưu điểm của
nó là xác định rõ ràng các đối tượng tham gia một hệ thống ngành CN, đóng góp
vào chuỗi giá trị để sản xuất ra sản phẩm cuối cùng. Khi đã xác định rõ ràng các đối
tượng tham gia vào ngành CNHT của từng ngành, các chính sách trở nên trực tiếp
và xu hướng có hiệu quả nhanh chóng.
Tuy vậy, cách phân loại này gặp phải khó khăn khi DN CNHT tham gia vào
nhiều ngành sản xuất khác nhau thì khó có thể xác định nhà sản xuất này tham gia
vào một ngành đơn nhất nào đó. Chính sự giao thoa này làm hạn chế khả năng tiếp
cận DN CNHT, kể cả về mặt nghiên cứu và chính sách.
Thứ hai: Phân loại theo ngành/ công nghệ sản xuất linh phụ kiện


25

Đây là cách phân loại căn cứ vào chủng loại sản phẩm DN sản xuất hoặc
công nghệ mà DN đó sử dụng.
Với cách tiếp cận phân loại này, có thể phân loại CNHT theo các ngành sản
xuất liên quan tới các vật liệu điển hình: Linh kiện nhựa, gia công kim khí, linh kiện…
Cách phân loại này khắc phục phần nào nhược điểm của cách phân loại thứ
nhất khi một DN cung cấp tham gia vào nhiều ngành sản xuất sản phẩm cuối cùng
khác nhau. Nhược điểm của cách phân loại này là nó không bao trùm hết toàn bộ
ngành CNHT, các nhà cung cấp trực tiếp cho các nhà sản xuất lắp ráp sản phẩm
cuối cùng thường là những nhà sản xuất những cụm linh kiện với nhiều chi tiết khác
nhau như nhựa, kim loại…Cách phân loại này theo qui trình công nghệ hay gia
công nguyên liệu hạn chế khả năng tiếp cận những nhà cung cấp trên.
Tuy nhiên, với lịch sử phát triển của thuật ngữ CNHT, có thể nói ngành này
là một trong những đối tượng ưu tiên tronng chính sách hợp tác phát triển của các
nước đang phát triển với các nước phát triển, nhất là Nhật Bản. Bản thân khái niệm

CNHT cũng từ yêu cầu XD chính sách phát triển liên kết CN mà ra. Đứng từ góc
nhìn từ các nhà đầu tư nước ngoài, đối tượng các nhà cung cấp mà họ thường nhắm
tới là những nhà sản xuất với các công nghệ và sản phẩm cụ thể như rèn, dập,
đúc…Việc phân loại CNHT theo công nghệ sản xuất cho phép các DN mà người
lập chính sách tại các nước đang phát triển xác định đúng đối tượng ưu tiên trong
chính sách của mình.

2.1.4. Vai trò của công nghiệp hỗ trợ
2.1.4.1. CNHT là nền tảng cho nền kinh tế
Trong phát triển CN, các ngành CNHT thường được ví như chân núi, tạo
phần cứng để hình thành nên thân núi và đỉnh núi chính là ngành CN sản xuất và
lắp ráp sản phẩm CN. Như vậy, CNHT có một số vai trò nổi bật đối với các ngành
CN cũng như đối với nền kinh tế.
Bảo đảm tính chủ động cho nền kinh tế. Việc cung ứng nguyên vật liệu, linh
kiện, các bán thành phẩm ngay trong nội địa làm cho nền CN chủ động, không bị lệ


×