Tải bản đầy đủ (.pdf) (188 trang)

Tiểu luận về khả năng đảm bảo tài chính cho bảo hiểm xã hội ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 188 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Bảo hiểm xã hội là một trụ cột quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội quốc
gia, góp phần ổn định xã hội, thực hiện công bằng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Đây là một trong những nội dung quan trọng trong hệ thống chính sách xã hội mà
Đảng và Nhà nước ta hết sức chú trọng phát triển. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ “Từng bước mở rộng vững chắc hệ thống
BHXH và ASXH, tiến tới áp dụng chế độ BHXH cho mọi người lao động, mọi tầng
lớp nhân dân”. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX
trình Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X nêu: “Xây dựng hệ thống ASXH đa dạng
phát triển mạnh hệ thống BHXH, BHYT, tiến tới BHYT toàn dân”. Tại báo cáo
chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa X trình Đại
hội Đảng lần thứ XI nêu rõ: “Bảo đảm ASXH, tiếp tục sửa đổi hoàn thiện hệ thống
BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt,
có khả năng bảo vệ giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là những đối tượng
yếu thế, dễ bị tổn thương”.
Chính sách BHXH Việt Nam ra đời từ rất sớm với Nghị định 218/CP ngày
27/12/1961, đến năm 1995 đã được đổi mới bằng nghị định số 12/CP ngày 16/1/1995
với 3 nội dung quan trọng là: phạm vi thực hiện chính sách BHXH từ chỗ chỉ bó hẹp
trong khu vực Nhà nước đã được mở rộng sang khu vực ngoài Nhà nước; đối tượng
tham gia BHXH bắt buộc không chỉ là cán bộ, công nhân viên chức nhà nước, mà bao
gồm tất cả các lao động có hợp đồng từ 3 tháng trở lên đến không thời hạn; chính sách
BHXH từ chỗ mang nặng tính bao cấp, dựa chủ yếu vào ngân sách nhà nước được
chuyển dần sang hạch toán và tiến tới tự bảo đảm cân đối thu, chi ngân quỹ.
Thực tiễn những năm qua cho thấy chính sách BHXH và việc quản lý, tổ
chức thực hiện chính sách này đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, đánh dấu sự
phát triển mới về hệ thống an sinh xã hội của đất nước. Hàng năm, ngành BHXH đã
giải quyết chế độ và chi trả trợ cấp hưu trí và trợ cấp thường xuyên cho hơn 2 triệu
người, giải quyết các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp




2

cho cho hàng triệu lượt người, chi trả chi phí khám chữa bệnh cho hàng chục triệu
lượt người, giúp cho người lao động và gia đình họ ổn định cuộc sống khi gặp phải
các rủi ro xã hội trong phạm vi chính sách BHXH góp phần đảm bảo sự công bằng
trong phân phối lại thu nhập và đảm bảo an sinh xã hội bền vững.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, BHXH Việt Nam vẫn đang
đứng trước những khó khăn, thách thức. Mặc dù số đối tượng tham gia BHXH đã
tăng nhưng mức độ bao phủ của BHXH trên tổng số lao động xã hội vẫn còn rất
thấp, nhất là khu vực phi chính thức. Tỷ lệ tuân thủ BHXH chưa cao. Mức độ tác
động của chính sách BHXH đến đời sống của người tham gia BHXH còn thấp.
Công tác thu, chi BHXH vẫn còn tồn tại những hạn chế, tình trạng trốn đóng, nợ
đóng BHXH cho NLĐ của các chủ sử dụng lao động vẫn còn khá phổ biến. Các đối
tượng lao động lợi dụng những kẽ hở của pháp luật BHXH để trục lợi BHXH làm
thất thoát quỹ BHXH, dẫn đến sự mất công bằng đối với các đối tượng BHXH.
Hoạt động đầu tư quỹ BHXH đạt hiệu quả chưa cao....chính là những thách thức về
mặt tài chính đối với BHXH, nhất là trong bối cảnh hiện nay, trước xu hướng toàn
cầu hóa, biến đổi khí hậu và tốc độ già hóa dân số đang diễn ra nhanh chóng.
Xuất phát từ thực tế đó tác giả đã chọn đề tài "Đảm bảo tài chính cho bảo
hiểm xã hội Việt Nam" để nghiên cứu và làm luận án tiến sĩ của mình.

2. Mục đích nghiên cứu của luận án
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về BHXH, tài chính BHXH và luận
giải về đảm bảo tài chínhcho BHXH.
- Phân tích thực trạng đảm bảo tài chính cho bảo hiểm xã hội Việt Nam
trong thời gian qua. Qua đó rút ra những kết quả đạt được cũng như những hạn chế
và nguyên nhân của của những kết quả, hạn chế đó.
- Đề xuất quan điểm, phương hướng và giải pháp nhằm đảm bảo tài chính

cho bảo hiểm xã hội Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đảm bảo tài chính cho bảo hiểm xã hội.
Phạm vi nghiên cứu:


3

- Về không gian: BHXH Việt Nam (bao gồm cả BHXH bắt buộc và BHXH tự
nguyện, BHTN, không bao gồm bảo hiểm y tế)
- Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu thực trạng đảm bảo tài chính cho
bảo hiểm xã hội Việt Nam từ sau đổi mới chính sách BHXH đến nay. Trong đó tập trung
phân tích giai đoạn sau năm 2007 tức là khi luật BHXH được thực thi và đi vào cuộc
sống, chỉ ra những kết quả đã đạt được cũng như những hạn chế còn tồn tại trên cơ sở đó
đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo tài chính cho BHXH Việt Nam.

4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận
án sử dụng các phương pháp chung như: thu thập thông tin, phân tích, tổng hợp,
thống kê, so sánh đối chứng để phân tích về tài chính BHXH và đảm bảo tài
chính cho BHXH như đảm bảo thu, đảm bảo chi, đảm bảo quỹ BHXH có khả
duy trì sự cân đối ổn định trong dài hạn và đảm bảo công bằng đối với các đối
tượng tham gia.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Trên cơ sở những kiến thức đã tích lũy
được về tài chính BHXH, kết hợp với việc tham khảo các tài liệu trong và ngoài nước
về lĩnh vực này. Tác giả đã phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa thành những vấn đề lý
luận chung về tài chính BHXH và đảm bảo tài chính cho BHXH.
- Phương pháp thống kê, so sánh đối chiếu: Luận án phân tích, so sánh, đối
chiếu các số liệu thống kê về tình hình thu chi của quỹ BHXH, về hiệu quả đầu tư

quỹ qua các giai đoạn. Từ đó đề xuất những phương án phù hợp nhằm bảo đảm tài
chính cho BHXH Việt Nam.
- Phương pháp thu thập thông tin.
+ Nguồn thu thập các số liệu thứ cấp: Niên giám thống kê, các báo cáo tài
chính của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, các số liệu thu thập từ các Bộ, Ban ngành có
liên quan đến BHXH như Bộ Tài chính, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội.
+ Nguồn thu thập các dữ liệu sơ cấp: Trực tiếp phỏng vấn các đối tượng của
BHXH và các cơ quan quản lý BHXH, gửi phiếu điều tra đến các đối tượng BHXH
của cả khu vực chính thức và khu vực phi chính thức và cơ quan quản lý BHXH (xem
phụ lục)


4

Tác giả đã gửi phiếu điều tra và trực tiếp phỏng vấn các đối tượng BHXH
thuộc 2 khu vực chính thức và phi chính thức.
Đối với khu vực chính thức, tác giả đã khảo sát thực trạng tham gia BHXH tại
một số đơn vị kinh tế thuộc khu vực hành chính sự nghiệp, các đơn vị kinh doanh thuộc
khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân, trực tiếp phỏng vấn và phát phiếu điều tra.
Đối với khu vực phi chính thức, trực tiếp phỏng vấn những người lao động tự
do tại nơi tác giả sinh sống. Ngoài ra tác giả cũng gửi phiếu điều tra đến một số người
lao động thuộc khu vực nông thôn để điều tra khảo sát về tình hình tham gia BHXH tự
nguyện của khu vực này (xem phụ lục).

5. Những đóng góp mới của Luận án
Những đóng góp mới về mặt học thuật
Luận án đã nghiên cứu và đưa ra khái niệm đảm bảo tài chính cho bảo hiểm
xã hội (BHXH) dưới góc độ kinh tế chính trị học và luận giải nội dung đảm bảo tài
chính cho BHXH bao gồm các vấn đề: đảm bảo thu; đảm bảo chi; đảm bảo duy trì sự
cân đối và ốn định quỹ BHXH trong dài hạn; đảm bảo sự công bằng đối với các đối

tượng tham gia BHXH
Luận án đưa ra các tiêu chí để đánh giá đảm bảo tài chính cho BHXH bao
gồm: mức độ bao phủ của hệ thống BHXH; mức độ tuân thủ BHXH; mức độ thụ
hưởng của người lao động phân theo chế độ BHXH, theo khu vực kinh tế và giới
tính; mức độ bền vững về tài chính BHXH.
Luận án cũng đưa ra những điều kiện để đảm bảo tài chính cho BHXH bao
gồm: lựa chọn mô hình BHXH phù hợp, vai trò của nhà nước đối với BHXH và mối
quan hệ giữa tài chính BHXH với ngân sách nhà nước, tài chính doanh nghiệp, tài
chính hộ gia đình các tài chính trung gian.
Những đề xuất mới rút ra từ kết quả nghiên cứu.
1. Trên cơ sở những tiêu chí đánh giá đảm bảo tài chính cho BHXH, luận án
đã làm rõ những kết quả và những hạn chế về đảm bảo tài chính cho BHXH Việt
Nam, nguyên nhân của những hạn chế.


5

2. Để đảm bảo tài chính cho BHXH Việt Nam, luận án đề xuất 8 giải pháp,
trong đó các giải pháp mới tập trung vào:
- Tăng cường vai trò của nhà nước đối với BHXH
- Phát triển rộng rãi loại hình BHXH tự nguyện, nhất là BHXH tự nguyện
cho nông dân tạo điều kiện để mọi người dân thuộc mọi thành phần kinh tế đều
được tham gia.
- Thực hiện cải cách trong chính sách BHXH như: quy định lại căn cứ đóng,
mức đóng, mức hưởng, điều kiện hưởng các chế độ BHXH; cải cách cách tính
lương hưu; tăng tuổi nghỉ hưu; xây dựng chế độ bảo hiểm hưu trí bổ sung bằng tài
khoản cá nhân.
- Luận án cũng cho rằng mô hình BHXH theo cơ chế thị trường có đóng, có
hưởng và có sự tham gia của Nhà nước là mô hình BHXH phù hợp với nước ta, tuy
nhiên trong thời gian tới cần nghiên cứu và chuyển dần mô hình đóng- hưởng với

mức hưởng xác định (PAYG - Pay as you go) sang hệ thống BHXH theo chương
trình tài khoản cá nhân danh nghĩa dựa trên mức đóng xác định (NDC- Notional
Defined contribution).
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tài chính BHXH với ngân sách nhà nước,
tài chính doanh nghiệp, tài chính hộ gia đình và các tài chính trung gian cũng là giải
pháp quan trọng góp phần đảm bảo tài chính cho BHXH Việt Nam

6. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục...Luận án
được kết cấu thành 4 chương.
Chương 1:Tổng quan những nghiên cứu liên quan đến đảm bảo tài chính cho
bảo hiểm xã hội và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
Chương2: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về đảm bảo tài chính cho
bảo hiểm xã hội.
Chương 3:Thực trạng đảm bảo tài chính cho Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Chương 4: Phương hướng và giải pháp đảm bảo tài chính cho Bảo hiểm xã
hội Việt Nam.


6

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐẢM BẢO TÀI CHÍNH CHO BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan những nghiên cứu liên quan đến đảm bảo tài chính cho
BHXH
Về đảm bảo tài chính cho bảo hiểm xã hội, theo như nghiên cứu sinh được
biết, cho đến nay trên thế giới và trong nước, chưa có công trình khoa học, luận án
tiến sĩ nào đề cập đến. Chỉ có các công trình khoa học, các luận án tiến sĩ đề cập đến

các vấn đề liên quan đến đảm bảo tài chính cho BHXH như: vấn đề thu, chi, cân
đối thu, chi quỹ, đầu tư quỹ BHXH, cơ chế tài chính BHXH..v..v

1.1.1. Những nghiên cứu về thu bảo hiểm xã hội
1. Luận án tiến sĩ của Phạm Trường Giang (2010), Hoàn thiện cơ chế thu
bảo hiểm xã hội ở Việt Nam. Luận án đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản
về cơ chế thu BHXH, nghiên cứu sự phối hợp giữa các bộ phận trong hệ thống thu
BHXH, từ đó phát hiện ra những tồn tại, bất cập. Trên cơ sở phân tích thực trạng
công tác thu BHXH ở Việt Nam, luận án đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện
cơ chế thu bảo hiểm xã hội ở Việt Nam. Như vậy, đối tượng nghiên cứu của luận án
là cơ chế thu BHXH. Phạm vi nghiên cứu của luận án chỉ tập trung nghiên cứu loại
hình bảo hiểm xã hội bắt buộc (không nghiên bảo hiểm tự nguyện). Số liệu nghiên
cứu tập trung trong giai đoạn 2004-2008. Như vậy, những vấn đề tài chính BHXH
khu vực phi chính thức (BHXH tự nguyện) và bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) chưa
được luận án đề cập đến.
2. Đề tài khoa học cấp Bộ doTS Dương xuân Triệu làm chủ nhiệm (2000),
Cơ sở khoa học hoàn thiện quy trình quản lý thu bảo hiểm xã hội. Mục đích nghiên
cứu của đề tài hoàn thiện quy trình quản lý thu bảo hiểm xã hội. Đề xuất các biện
pháp quản lý thu BHXH phù hợp với từng loại đối tượng tham gia BHXH. Thông


7

qua việc nghiên cứu kinh nghiệm thu bảo hiểm xã hội của một số nước như Nhật
Bản, Indonexia, Mỹ, Singapo và thực trạng công tác quản lý thu bảo hiểm xã hội
của Việt Nam qua các thời kỳ, tác giả đãđưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện
quy trình quản lý thu bảo hiểm xã hội như: hoàn thiện các quy định thu BHXH bao
gồm mức thu, tiền lương tối thiểu, đăng ký lao động tham gia BHXH; hoàn thiện
quy trình thu bảo hiểm xã hội theo từng loại đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội; áp
dụng quản lý thu bảo hiểm xã hội bằng công nghệ tin học.Nội dung của đề tài tập

trung vào hoạt động tác nghiệp của cơ quan thực hiện chính sách BHXH

1.1.2. Những nghiên cứu về chi bảo hiểm xã hội
1. Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Chính(2010), Hoàn thiện hệ thống tổ chức
và hoạt động chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội.Luận án làm rõ những vấn đề lý
luận liên quan đến công tác tổ chức và hoạt động chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội
cho người lao động. Phân tích thực trạng hệ thống tổ chức và hoạt động chi trả các
chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động ở Việt nam.
- Trong hoạt động chi trả bảo hiểm xã hội, luận án đã phân tích và rút ra
những vấn đề còn tồn tại như: việc lập kế hoạch chi còn có những sai sót, báo cáo
quyết toán chậm, công tác hướng dẫn kiểm tra còn chưa sâu sát, phương tiện vận
chuyển và bảo quản tiền mặt còn thiếu, mạng lưới thông tin chưa được phủ khắp
các tỉnh, thành, lệ phí chi trả thấp, còn một bộ phận người sử dụng lao động chưa
làm tròn trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động… từ đó làm ảnh
hưởng đến hoạt động chi trả và quyền lợi của các đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội.
Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống chi trả các chế
độ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam trong thời gian tới. Đối tượng nghiên cứu của luận
án là công tác tổ chức chi trả BHXH. Phạm vi nghiên cứu của luận án là quỹ BHXH
bắt buộc ở Việt Nam. Loại hình BHXH tự nguyện và BHTN không được đề cập đến
trong luận án.
2. Tiểu đề án, Hoàn thiện quy chế chi bảo hiểm xã hội (2005) do TS Trần
Đức Nghiêu làm chủ nhiệm. Tiểu đề án đã tổng hợp khá đầy đủ các văn bản pháp
luật liên quan đến quy chế chi BHXH, trình bày những nội dung cụ thể về chi trả


8

lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng, chi trả trợ cấp BHXH 1 lần, chi trả trợ cấp
ốm đau, thai sản và nghỉ dưỡng sức, quy trình chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH
hàng tháng, quy trình chi trả trợ cấp 1 lần. Tiểu đề án cũng nói lên những ưu, nhược

điểm của quy trình hiện hành về quản lý chi BHXH. Thông qua đó đưa ra những
biện pháp để khắc phục. Tuy nhiêu tiểu đề án cũng chỉ tập trung nghiên cứu quy
trình về quản lý chi BHXH, và cũng mới chỉ nghiên cứu BHXH bắt buộc khu vực
chính thức, chưa nghiên cứu BHXH tự nguyện, khu vực phi chính thức.
3. Đề tài khoa học cấp Bộ do TS Dương Xuân Triệu chủ nhiệm (1998), Hoàn
thiện phương thức tổ chức chi trả các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp cho người tham gia bảo hiểm xã hội.
Đề tài đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ bản về các chế độ BHXH như:
ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cả trước và sau khi BHXH đi
vào hoạt động. Đề tài đã phản ánh được quá trình tổ chức chi trả các chế độ BHXH
theo cơ chế cũ cũng như từ khi BHXH Việt Nam ra đời, đã phân tích được những
mặt mạnh, mặt yếu, những tồn tại do các văn bản pháp luật về BHXH gây ra. Qua
đó đưa ra những kiến nghị làm cơ sở cho việc sửa đổi các văn bản pháp luật hiện
hành để đáp ứng các yêu cầu đổi mới cơ chế, chính sách về BHXH.
4. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (1996), Thực trạng và định hướng
hoàn thiện tác nghiệp chi trả chế độ BHXH hiện nay, mã số 96-03-03/ĐT do TS
Dương Xuân Triệu làm chủ nhiệm.
Đề tài đã khái quát những vấn đề lý luận về BHXH và quỹ BHXH. Phân tích
thực trạng hoạt động chi trả BHXH ở Việt Nam giai đoạn 1995-1996 thông qua việc
phân tích các mặt như: cơ sở vật chất phục vụ công tác chi trả, quản lý đối tượng chi
trả, đồng thời qua việc phân tích các phương thức chi trả BHXH, những ưu, nhược
điểm của từng phương thức chi trả. Từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện
tác nghiệp chi trả các chế độ BHXH cho người lao động như: hoàn thiện các văn
bản quy định có liên quan đến quản lý đối tượng, quản lý tài chính, tạo hành lang
pháp lý để cho BHXH các cấp có cơ sở thực hiện; xây dựng hệ thống tổ chức bộ
máy chi trả BHXH từ trung ương đến cơ sở, tính toán mức phí chi trả, giữa các


9


vùng, các khu vực cho hợp lý hơn; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát tài
chính trong khâu nghiệp vụ chuyên môn.

1.1.3. Những nghiên cứu về đầu tư quỹ BHXH
1. Luận án tiến sĩ của Nguyễn Trọng Thản (2005), Giải pháp nâng cao hiệu
quả đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam. Luận án đã hệ thống hóa những vấn
đề lý luận về bản chất của quỹ bảo hiểm xã hội và các mô hình tổ chức quỹ BHXH.
Những cơ sở lý thuyết của hoạt động đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội. Đánh giá toàn
diện về quá trình tạo lập và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam cũng như sự
định lượng và sử dụng quỹ trong hoạt động đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội. Từ đó xây
dựng các quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội.
Về phạm vi nghiên cứu, luận án cũng tập trung vào nghiên cứu BHXH bắt
buộc (vào thời điểm này chính sách BHXH tự nguyện chưa được triển khai). Về
không gian luận án nghiên cứu BHXH giai đoạn 1995- 2003.
Những nghiên cứu của luận án một mặt góp phần hoàn thiện những vấn đề lý
luận và thực tiễn về đầu tư tài chính bảo hiểm xã hội và hiệu quả đầu tư tài chính
BHXH. Luận án cũng đóng góp những ý tưởng khoa học để xây dựng hệ thống các
định chế pháp lý liên quan đến hoạt động tài chính của ngành bảo hiểm xã hội. Góp
phần trực tiếp vào việc xác định những chiến lược đầu tư tài chính bảo hiểm xã hội
trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Như vậy, luận án mới chỉ nghiên cứu đầu tư quỹ BHXH bắt buộc, các vấn đề tài
chính của quỹ BHXH tự nguyện và quỹ BHTN chưa được luận án đề cập đến.
2. Luận án tiến sĩ của Vũ Thành Hưng (1999), Những giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động bảo hiểm hưu trí ở Việt Nam. Luận án hệ thống hóa những
vấn đề lý luận về BHXH và chế độ bảo hiểm hưu trí, tài chính và các nguồn hình
thành, chi trả của chế độ bảo hiểm hưu trí. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt
động bảo hiểm hưu trí. Luận án cũng đưa ra một số mô hình đánh giá tính bền
vững, hiệu quả của quỹ bảo hiểm hưu trí, các nhân tố ảnh hưởng đến tài chính bảo
hiểm hưu trí. Trên cơ sở phân tích thực trạng quỹ bảo hiểm hưu trí của Việt Nam



10

giai đoạn 1995- 1998. Luận án đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
đầu tư quỹ bảo hiểm hưu trí như: hoàn thiện và nâng cao hiệu quả công tác thu
BHXH để đảm bảo thu đúng, thu đủ và thu kịp thời đối với các đơn vị, cá nhân
tham gia BHXH; tổ chức có hiệu quả quá trình chi trả lương hưu và các khoản chi
trả khác liên quan đến người về hưu đúng quy định và mức về thời gian chi trả;
quản lý và đảm bảo sự an toàn và phát triển quỹ bảo hiểm hưu trí; xây dựng và hoàn
thiện phương án thu để hình thành quỹ hưu trí đủ trang trải cho mọi chi phí cho
chế độ hưu trí; phương thức hình thành quỹ; các yếu tố hình thành và chi dùng quỹ;
tăng cường kiểm tra, giám sát quá trình thu- chi, quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm
xã hội; tăng cường công tác phân tích, dự bảo tài chính, đặc biệt là thẩm định tài
chính đối với các phương án đầu tư của quỹ. Tăng cường quản lý và giám sát cơ chế
đầu tư tăng trưởng quỹ.
Ngoài ra, nghiên cứu về vấn đề này còn có một số nghiên cứu khác như: bài
viết của tác giả Phạm Đình Thành, Thực trạng quản lý, sử dụng quỹ bảo hiểm xã
hội và những vấn đề về bảo toàn, đầu tư tăng trưởng quỹ, Hội thảo về cân đối quỹ
bảo hiểm xã hội, tháng 3/2013; bài viết của tác giả Đặng Như lợi; Một số ý kiến về
cân đối và chính sách đầu tư bảo toàn, tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội, Hội thảo
về cân đối quỹ bảo hiểm xã hội tháng 4/2013.
Những công trình nghiên cứu trên đã hệ thống hóa những cơ sở lý thuyết của
hoạt động đầu tư quỹ BHXH. Đánh giá một cách toàn diện về quá trình tạo lập và sử
dụng quỹ BHXH ở Việt Nam cũng như sự định lượng và sử dụng quỹ trong hoạt động
đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội. Nghiên cứu góp phần hoàn thiện những vấn đề lý luận và
thực tiễn về đầu tư tài chínhBHXH và hiệu quả đầu tư tài chính BHXH.Đóng góp
những ý tưởng khoa học để xây dựng hệ thống các định chế pháp lý liên quan đến hoạt
động tài chính của ngành BHXH. Góp phần trực tiếp vào việc xác định những chiến
lược đầu tư tài chính BHXH trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam.


1.1.4. Những nghiên cứu về cân đối quỹ BHXH
1. Đề án của TS Đỗ Văn Sinh (2011), Đánh giá hoạt động qũy bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế; tính toán dự báo cân đối quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đến


11

năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Mục đích của đề án là đánh giá tình hình
hoạt động của quỹ BHXH, BHYT trong thời gian qua. Dự báo cân đối quỹ BHXH,
BHYT đến năm 2020 và tầm nhìn 2030, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp cân đối,
tăng trưởng bền vững cho quỹ BHXH, BHYT.
2. Đề tài khoa học cấp bộ 2007-01-02, Các giải pháp đảm bảo cân đối quỹ
bảo hiểm xã hội bắt buộc khi thực hiện Luật bảo hiểm xã hội, do TS Phạm Đỗ Nhật
Tân làm chủ nhiệm. Mục đích của đề tài làm rõ cơ sở lý luận các yếu tố tác động
đến thu - chi và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội. Đánh giá thực trạng quỹ bảo hiểm
xã hội và khả năng cân đối của quỹ trong dài hạn thông qua việc phân tích các tác
động từ những quy định mới về chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc theo
Luật bảo hiểm xã hội và sự tác động mới của việc điều chỉnh tiền lương, tiền công
của Nhà nước. Đề tài cũng làm rõ vai trò, trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà
nước trong việc giám sát, quản lý hoạt động thu, chi và sử dụng quỹ bảo hiểm xã
hội bắt buộc. Đề xuất một số giải pháp đảm bảo cân đối quỹ bảo hiểm xã hội bắt
buộc khi thực hiện luật bảo hiểm xã hội.
3. Luận án tiến sĩ của Đỗ Văn Sinh (2005), Hoàn thiện quản lý quỹ bảo hiểm
xã hội ở Việt Nam.Mục đích nghiên cứu của luận án là hệ thống hóa cơ sở lý luận
khảo sát, tổng kết, thưc tiễn, đề xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện quản lý
quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam. Làm rõ cơ sở lý luận về bảo hiểm xã hội và quản
lý quỹ bảo hiểm xã hội. Phân tích đánh giá thực trạng quản lý quỹ bảo hiểm xã hội,
đề xuất giải pháp góp phần hoàn thiện quản lý quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam như;
hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về chế độ hình thành và sử dụng quỹ bảo
hiểm xã hội;hoàn thiện hoạt động nghiệp vụ quản lý quỹ bảo hiểm xã hội; giải pháp

đổi mới công tác kiểm tra, giám sát đối với toàn bộ hoạt động quản lý quỹ bảo hiểm
xã hội.
4. Đề tài khoa học cấp bộ (2001), Quỹ bảo hiểm xã hội đảm bảo sự cân đối
ổn định giai đoạn 2000- 2020do TS Đỗ Văn Sinh làm chủ nhiệm. Đề tài đã hệ
thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về BHXH và quỹ BHXH; phân tích thực
trạng về quản lý quỹ và cân đối quỹ BHXH ở Việt Nam qua hai giai đoạn (trước


12

năm 1995 và giai đoạn từ năm 1995 đến năm 2001); có những đánh giá về chính
sách BHXH và tổ chức thực hiện hành chính BHXH nói chung. Thông qua sự phân
tích đánh giá, đề tài đã đưa ra các quan điểm, giải pháp, quản lý và cân đối quỹ
BHXH Việt Nam giai đoạn 2000-2020.
Ngoài ra còn có các bài viết: Hệ thống hưu trí Việt Nam- Hiện trạng và
những thách thức trong điều kiện già hóa dân số của tác giả Giang Thanh Long,
tháng 4/2004 tại Diễn đàn phát triển Việt nam. Bài viết của tác giả Yves Guesard,
FSE, FCIA, HonFIA, Ph.D, Các lộ trình toán tài chính đối với các chế độ bảo hiểm
xã hội, tại hội thảo CSA –PIAP về chính sách bảo hiểm xã hội, tháng 4/2005. Bài viết
cũng của tác giả Yves Guesard, FSE, FCIA, HonFIA, Ph.D; Quản lý tài sản của các
quỹ bảo hiểm xã hội, tại hội thảo CSA –PIAP về chính sách bảo hiểm xã hội tháng
4/2005.
Các bài viết trên đã làm rõ cơ sở lý luận và các yếu tố tác động đến thu- chi
và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội. Tính cân đối, bền vững của quỹ BHXH chịu
tác động của các nhân tố như; xu hướng già hóa dân số, những biến động về nhân
khẩu học, những cú sốc về kinh tế vĩ mô. Các tác giả cho rằng cần xóa bỏ sự phân
biệt đối xử khác nhau trong chính sách của Nhà nước đối với các đối tượng của
BHXH thuộc các khu vực kinh tế khác nhau. Đề xuất một số giải pháp đảm bảo cân
đối quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc khi thực hiện luật bảo hiểm xã hội. Các định
hướng cải cách nhằm tiến tới đảm bảo tính bền vững trong dài hạn của bảo hiểm xã

hội. Để đảm bảo tính cân đối, bền vừng của quỹ bảo hiểm xã hội, hầu hết các tác giả
đều đưa ra gợi ý kiến nghị nên đổi mới mô hình quỹ BHXH.

1.1.5. Những nghiên cứu về cơ chế tài chính BHXH
Các công trình nghiên cứu về cơ chế tài chính BHXH bao gồm: Đề tài khoa
học cấp Bộ (2007), Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện cơ chế vận hành và mô
hình tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hộido TS Nguyễn Thị Lan Hương chủ
nhiệm; Đề tài khoa học cấp Bộ (2003), Cơ chế và chính sách tài chính đối với hệ
thống an sinh xã hội ở Việt Nam, do Dương Đăng Chinh và Vũ Đình Ánh đồng chủ
nhiệm; Đề tài khoa học cấp Bộ (1997), Vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện


13

chính sách BHXH của TS Bùi Văn Hồng. Ngoài ra còn có các bài viết của các tác
giả, Agenda for Social security: Challenges for the new congress and the new
administration, Social Secutity Advisory Board, Febbruary 2001, Margaret S.Malon
(2001). - Facing reality about social security (Đối mặt với những vấn đề của
ASXH) The CPA Journal, May 2005, Louis Grumets.YiFeang (1999), Zhigang Xu,
RanTao(2004); Nghiên cứu về hệ thống ASXH ở Trung Quốc.
Các nghiên cứu trên đã phân tích, đánh giá và chỉ ra những ưu điểm, cũng như
những nhược điểm của từng cơ chế tài chính BHXH đó đề xuất những kiến nghị cần
đổi mới và hoàn thiện cơ chế tài chính BHXH.

1.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu về đảm bảo tài chính cho bảo
hiểm xã hội.
Từ tổng quan những công trình nghiên cứu trên có thể thấy, các tác giả đã hệ
thống được rất nhiều vấn đề học thuật liên quan đến đảm bảo tài chính cho BHXH.
Cách tiếp cận của các công trình nghiên cứu trên đều đứng trên góc độ quản lý quỹ
BHXH và đi sâu phân tích những vấn đề như thu, chi và đầu tư quỹ BHXH, cân đối

quỹ BHXH, cơ chế tài chính BHXH nhằm đảm bảo thu phải đủ chi và có kết dư quỹ.
Đến nay chưa có công trình khoa học nào đưa ra được đầy đủ khái niệm
đảm bảo tài chính cho BHXH và nghiên cứu một cách có hệ thống đảm bảo tài chính
cho BHXH dưới góc độ Kinh tế chính trị học. Đó là vấn đề thu và sử dụng quỹ
BHXH như thế nào để vừa đảm bảo duy trì sự cân đối, ổn định và tăng trưởng của
quỹ BHXH, vừa đảm bảo sự công bằng đối với các đối tượng tham gia BHXH, góp
phần thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội; các điều kiện để thực đảm bảo tài chính
cho BHXH. Đó là những khoảng trống để nghiên cứu sinh tiếp tục nghiên cứu.
Về phạm vi nghiên cứu, các công trình trình nghiên cứu từ trước đến nay mới
chỉ tập trung vào loại hình BHXH bắt buộc, chưa đề cập nhiều đến BHXH tự nguyện
và BHTN. Đây sẽ là một khoảng trống để luận án tiếp tục khảo sát, nghiên cứu.
Như vậy, có thể khẳng định những nghiên cứu của luận án không trùng lặp
với những công trình nghiên cứu trước.


14

CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ
ĐẢM BẢO TÀI CHÍNH CHO BẢO HIỂM XÃ HỘI
2.1. Những vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội và tài chính bảo hiểm xã hội.
2.1.1. Bảo hiểm xã hội: Khái niệm, bản chất và chức năng
2.1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội
Con người muốn tồn tại và phát triển, trước hết phải có cái ăn, mặc, ở, đi lại...
Để thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu đó, họ phải lao động để tạo ra của cải vật chất.
Khi sản phẩm tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và
hoàn thiện, xã hội càng văn minh hơn. Việc thỏa mãn những nhu cầu sinh sống và
phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng thực
tế không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi
điều kiện sinh sống bình thường, mà trái lại có rất nhiều trường hợp khó khăn, bất lợi,

ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất khả năng lao động
như ốm đau, TNLĐ-BNN hoặc khi về già không còn khả năng lao động, khi chẳng
may người lao động bị chết, con cái mất nơi nương tựa. Mặt khác, để bảo toàn nòi
giống, duy trì lực lượng lao động trong tương lai cho xã hội, những người phụ nữ
còn phải làm nhiệm vụ sinh và nuôi con, nghỉ chăm sóc lúc con đau ốm. Hơn nữa,
trong nền kinh tế thị trường với quy luật cạnh tranh, có đơn vị kinh tế bị đình trệ
sản xuất hoặc phá sản, người lao động thất nghiệp. Lúc này các nhu cầu cần thiết
trong cuộc sống không vì thế mà mất đi thậm chí còn tăng lên và xuất hiện một số
nhu cầu mới như cần được khám chữa bệnh, tai nạn thương tật cần có người chăm
sóc.... Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống con người đã tìm ra nhiều biện
pháp khác nhau như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong cộng đồng, đi vay, đi xin
hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước.v..v.. Tuy nhiên, những cách này hoàn toàn
thụ động và không chắc chắn.
Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển, việc thuê mướn nhân công trở lên phổ
biến, lúc đầu người chủ sử dụng lao động chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về


15

sau đã phải cam kết cả việc đảm bảo cho người làm thuê có một số thu nhập nhất
định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, thai sản...
Trong thực tế các trường hợp trên có thể không xảy ra và người chủ sử dụng lao động
không phải chi đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ một lúc phải
bỏ ra những khoản tiền lớn dù không muốn. Điều này tất yếu dẫn đến mâu thuẫn giữa
chủ và thợ, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ phải thực hiện cam kết. Cuộc đấu
tranh này diễn ra ngày càng gay gắt trên quy mô rộng và có tác động xấu đến nhiều
mặt của đời sống kinh tế- xã hội.
Để khắc phục tình trạng trên, Nhà nước đã đứng ra đóng vai trò trung gian
trong việc điều hòa mâu thuẫn bằng cách huy động sự đóng góp cả từ phía chủ và
thợ, bản thân Nhà nước cũng tham gia hỗ trợ một phần để hình thành nên một quỹ tài

chính với mục đích bảo vệ quyền lợi của cả giới chủ và giới thợ. Đây chính là lý do
dẫn đến sự ra đời của hình thức đóng góp, san sẻ rủi ro đầu tiên trong xã hội. Như
vậy, việc tạo lập một quỹ BHXH là cần thiết để đảm bảo nền kinh tế- xã hội phát
triển bình thường. Có nhiều khái niệm về BHXH theo các góc độ khác nhau như.
Từ giác độ pháp luật: BHXH là một định chế bảo vệ NLĐ sử dụng nguồn
đóng góp của mình, đóng góp của NSDLĐ (nếu có) và được sự tài trợ, bảo hộ của
Nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho NLĐ được bảo hiểm và gia đình họ trong
trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thường do ốm đau, tai nạn lao động
hoặc hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật hoặc NLĐ bị chết.
Dưới giác độ tài chính: BHXH là quá trình san sẻ rủi ro và san sẻ tài chính
giữa những người tham gia BHXH theo quy định của pháp luật.
Theo tổ chức lao động quốc tế ILO (International Labour Organization):
BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ và gia đình
họ khi NLĐ tham gia BHXH bị giảm hoặc mất thu nhập từ lao động do các sự kiện
bảo hiểm xảy ra, trợ giúp các dịch vụ việc làm, chăm sóc y tế cho họ trên cơ sở quỹ
BHXH do các bên tham gia đóng góp, nhằm góp phần ổn định đời sống cho NLĐ
và gia đình họ, đảm bảo an sinh xã hội.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 1: BHXH xét về chính trị, kinh tế là
sự thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu


16

nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệptàn tật, thất
nghiệp, tuổi già, tử tuất. Dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các
bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật nhằm bảo đảm an
toàn đời sống cho NLĐ và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
Theo Luật BHXH Việt Nam 2006 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2007): BHXH
là sự đảm bảo thay thể hoặc bù đắp một phần thu nhập củaNLĐ khi họ bị giảm hoặc
mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp,

hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng góp vào quỹ BHXH.
Như vậy, mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về BHXH nhưng tất cả các
khái niệm đều có một điểm chung đó là: mục đích của BHXH là góp phần đảm bảo
ổn định cuộc sống cho NLĐ khi gặp rủi ro; đối tượng tham gia là NLĐ và NSDLĐ;
quỹ BHXH được hình thành từ đóng góp của đối tượng tham gia BHXH và sự hỗ
trợ của Nhà nước.
Để có một khái niệm thống nhất trong việc nghiên cứu BHXH tại Việt Nam
trên phương diện lý thuyết, BHXH được khái quát như sau: BHXH là quá trình tổ
chức, sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích dần do sự đóng góp của các
bên tham gia BHXH dưới sự quản lý, điều tiết của Nhà nước, nhằm đảm bảo thay
thế hoặc bù đặp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những
rủi ro, những biến cố làm giảm hoặc mất thu nhập theo lao động nhằm góp phần
đảm bảo an toàn đời sống của người lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an
toàn xã hội. [39, tr.50]

2.1.1.2. Bản chất của bảo hiểm xã hội
Bản chất của BHXH là quá trình quản lý và chia sẻ sẻ rủi ro cho thu nhập
của NLĐ, thực hiện mục tiêu góp phần đảm bảo đời sống cho họ và gia đình họ,
thông qua đó đảm bảo an toàn xã hội nói chung. Bản chất của BHXH được thể hiện
ở những nội dung chủ yếu sau:
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là
trong xã hội mà sản xuất hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ
thuê mướn lao động phát triển đến một mức nào đó. Kinh tế càng phát triển thì


17

BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH
hay BHXH không vượt quá khỏi trạng thái kinh tế của mỗi nước. [39, tr.50]
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao

động và diễn ra giữa ba bên: bên tham gia BHXH; bên BHXH và bên được BHXH.
Bên tham gia BHXH chỉ có thể là NLĐ hoặc cả NLĐ và NSDLĐ. Bên BHXH (bên
nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ quan chuyên trách do nhà nước lập ra và
bảo trợ. Bên được BHXH là NLĐ và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc
cần thiết. [39,tr.51]
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong
BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người
như:ốm đau, TNLĐ-BNN... hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không
hoàn toàn ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản... Đồng thời những biến cố đó có thể
diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động [39,tr.51]
- Phần thu nhập của NLĐ bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố,
rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích
lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn có sự
hỗ trợ từ phía nhà nước [39, tr.51].

2.1.1.3. Chức năng của bảo hiểm xã hội
BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách an sinh xã hội, vì vậy
BHXH có những chức năng cơ bản sau đây:
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ tham gia BHXH khi họ bị
giảm hoặc mất thu nhập do mất hoặc giảm khả năng lao động, do mất việc làm. Sự
bảo đảm thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng, mọi NLĐ khi
hết tuổi lao động đều mất khả năng lao động. Trường hợp mất việc làm hoặc mất khả
năng lao độngtạm thời dẫn đến làm giảm hoặc mất thu nhập thìNLĐ cũng sẽ được
hưởng trợ cấp BHXH theo quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, quyết
định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động BHXH. [39,tr.52]
- Thực hiện phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Tham
gia BHXH bao gồm cả người NLĐ và NSDLĐ. Các bên tham gia đều phải đóng
góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một số NLĐ tham gia BHXH khi



18

họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Số lượng người này thường chiếm tỷ lệ nhỏ trong
tổng số những người tham gia đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít
BHXH thực hiện việc phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang.
Phân phối lại thu nhập giữa những NLĐ có thu nhập cao và thấp, giữa những người
khỏe mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc... Với chức năng
này, BHXH đã góp phần thực hiện công bằng xã hội [39,tr.52]
- Góp phần kích thích NLĐ hăng hái lao động sản xuất, nâng cao năng suất
lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi tham gia lao động sản xuất,
NLĐ được chủ sử dụng lao động trả lương hoặc trả công. Khi họ bị ốm đau, thai
sản, TNLĐ-BNN, hoặc khi về già đã có BHXH trợ cấp, thay thế hoặc bù đắp một
phần thu nhập đã bị mất. Vì thế, cuộc sống của họ và gia đình họ được đảm bảo ổn
định, làm cho NLĐ luôn yên tâm gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm việc. Từ
đó họ tích cực lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế.
Chức năng này được coi như là một đòn bẩy kinh tế, kích thích NLĐ nâng cao năng
suất lao động cá nhân và do đó năng suất lao động xã hội cũng tăng theo. [39,tr.52]
- Gắn bó lợi ích giữa NLĐ với NSDLĐ, giữa NLĐ với xã hội. Trong thực tế
lao động sản xuất, NLĐ và NSDLĐ vốn có mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền
lương, tiền công, thời gian lao động...Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó sẽ
được điều hòa và giải quyết. Đặc biệt cả hai giới này đều thấy nhờ có BHXH mà
mình có lợi và được bảo vệ. Điều này giúp họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích với
nhau hơn. Đối với Nhà nước và xã hội, chi BHXH là cách thức phải chi ít nhất mà
vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho NLĐ và gia đình họ, góp phần ổn
định kinh tế, chính trị, xã hội [39, tr .52].

2.1.2. Tài chính bảo hiểm xã hội: Khái niệm, đặc điểm và chức năng
2.1.2.1. Khái niệm về tài chính bảo hiểm xã hội.
Tài chính BHXH là tổng thể các quan hệ thu và chi của hệ thống BHXH do
Nhà nước thực hiện và được thể chế hóa bằng quy đinh của pháp luật. [54, tr 213]

Theo nghĩa hẹp, tài chính BHXH là tổng thể tài sản của BHXH tính bằng tiền bao
gồm quỹ thực hiện việc chi trả BHXH và các cơ sở vật chất được tạo lập từ quỹ
BHXH. Thông thường, hệ thống tài chính quốc gia trong một nền kinh tế thị trường


19

bao gồm ba bộ phận cấu thành, đó là NSNN, tài chính doanh nghiệp và các khâu tài
chính trung gian. NSNN là một thể chế tài chính thể hiện tổng thể các quan hệ thu,
chi phát sinh và cân đối thu, chi của Nhà nước trong một giai đoạn nhất định nhằm
trang trải chi phí của bộ máy nhà nước, thực hiện các chức năng và nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội theo kế hoạch của Nhà nước trong giai đoạn đó. Tài chính doanh
nghiệp là tổng thể quan hệ thu, chi và cân đối thu, chi trong một chu kỳ sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, do doanh nghiệp thực hiện theo quy định của luật pháp. Tài
chính BHXH là khâu tài chính trung gian, thực hiện nhiệm vụ của khu vực công
nhưng với nguồn tài chính riêng, không nằm trong phạm vi hoạt động của NSNN. Tài
chính BHXH được hình thành chủ yếu từ đóng góp của các thành viên được bảo
hiểm, nhằm phục vụ lợi ích của người tham gia BHXH và thực hiện mục tiêu đảm
bảo xã hội của Nhà nước cho NLĐ. [54, tr. 214]
Tài chính BHXH có hạt nhân là quỹ BHXH. Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc
lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước. Quỹ có mục đích và chủ thể riêng. Mục
đích tạo lập quỹ là dùng để chi trả cho người lao động, góp phần giúp họ ổn định cuộc
sống khi gặp các biến cố hoạc rủi ro. Chủ thể của quỹ chính là những người tham gia
đóng góp hình thành nên quỹ bao gồm NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước. Quỹ BHXH được
hình thành từ 2 nguồn đó là: Nguồn đóng góp của các đối tượng thuộc diện tham gia
BHXH bắt buộc và nguồn đóng góp từ các đối tượng tự nguyện. Về hình thức hai
nguồn này tuy khác nhau về phạm vi, đối tượng và mức độ đóng góp, song nội dung
kinh tế - xã hội lại tương đối đống nhất với nhau, đó là: có chung mục đích hình thành
quỹ BHXH để chi trả các chế độ BHXH; các nội dung về thu nộp và chi trả cho các
chế độ BHXH đều do Nhà nước quy định, quỹ BHXH được quản lý độc lập theo

nguyên tắc có thu mới có chi, thu trước, chi sau, phần thiếu hụt được NSNN cấp bù. Vì
vậy quỹ BHXH vừa mang nội dung kinh tế vừa mang tính xã hội rất đậm nét; phần quỹ
tạm thời nhàn rỗi được phép đầu tư phát triển kinh tế- xã hội. Các hoạt động đầu tư
phải tuân thủ theo quy định của Nhà nước và được Nhà nước bảo lãnh [39,tr98]
Nguồn quỹ BHXH bắt buộc được hình thành từ, đóng góp của NLĐ và NSDLĐ,
Nhà nước đóng góp với tư cách là người sử dụng lao động và hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH.


20

Nguồn quỹ BHXH tự nguyện được hình thành do người tham gia BHXH đóng
góp. Do không nằm trong nhóm đối tượng tham gia BHXH bắt buộc nên người dân có
thể lựa chọn tham gia BHXH tự nguyện theo các nội dung và mức độ khác nhau tùy
theo nhu cầu và khả năng tài chính của mình.
Quỹ BHXH được sử dụng cho mục đích sau: Chi trợ cấp cho các chế độ
BHXH; chi cho sự nghiệp quản lý BHXH; chi cho đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH; chi
dự phòng và chi khác. Trong đó chi trợ cấp cho các chế độ BHXH là khoản chi lớn
nhất và quan trọng nhất. Khoản chi này được thực hiện theo luật định và phụ thuộc vào
phạm vi trợ cấp của từng hệ thống BHXH. [39,tr105]

2.1.2.2. Đặc điểm của tài chính bảo hiểm xã hội.
Tài chính BHXH được thể chế hóa và thực hiện trên cơ sở luật pháp. Các hoạt
động tài chính BHXH không nhằm mục đích lợi nhuận mà nhằm ổn định xã hội và
phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững. Tài chính BHXH
tổng hợp toàn bộ các khâu liên quan đến nguồn hình thành tài chính và sử dụng tài
chính của hệ thống BHXH theo nguyên tắc cân đối thu - chi tài chính và đảm bảo duy
trì hoạt động và phát triển của hệ thống BHXH.
Tài chính BHXH với tư cách là khâu tài chính trung gian gắn với nền kinh tế thị
trường và phát triển của thị trường các nhân tố sản xuất, đặc biệt là thị trường lao động
và thị trường vốn. Mặc dù, về cơ bản tài chính BHXH hoạt động theo những nguyên

tắc chung nhưng nội dung và kết quả tài chính BHXH có thể khác nhau tùy thuộc vào
chính sách BHXH của mỗi nước. Ví dụ, nội dung và hoạt động của tài chính BHXH
của hệ thống BHXH có chi phí dựa trên nguyên tắc mức hưởng xác định trước có thể
khác với hệ thống BHXH hoạt động theo nguyên tắc tài khoản cá nhân hoặc nguyên
tắc chi phí kết hợp cả hai hệ thống. [54, tr. 215]

2.1.2.3. Chức năng của tài chính bảo hiểm xã hội
Tài chính BHXH là công cụ để thực hiện các chức năng sau.
- Thực hiện chức năng chuyên môn bao gồm các hoạt động thu, chi và cân
đối thu - chi theo kế hoạch và các chi phí phát sinh. Thực hiện chức năng này,
nhiệm vụ của tài chính BHXH là dự báo các nguồn thu, các khoản chi nhằm cân đối
thu, chi và đánh giá, dự báo tính bền vững tài chính của hệ thống.


21

- Thực hiện chức năng điều tiết, cụ thể là điều tiết mức trợ cấp theo chính
sách BHXH của Nhà nước trên cơ sở các chỉ số về phát triển kinh tế - xã hội. Chức
năng này thể hiện bản chất của tài chính BHXH là khâu tài chính trung gian, tức là
có sự điều chỉnh và can thiệp của Nhà nước. Ở một số trường hợp, các khoản phát
sinh do điều chỉnh trợ cấp và thay đổi chính sách BHXH được lấy từ nguồn NSNN.
- Thực hiện chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nước. BHXH là một chính
sách xã hội nhằm thực hiện mục tiêu góp phần đảm bảo ổn định cuộc sống cho
NLĐ trong thời gian lao động và sau khi nghỉ hưu, mất sức. Đây là một mục tiêu
quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong mọi thời kỳ. Thông qua tài chính
BHXH, các dòng thu và chi, cân đối thu - chi sẽ giúp cho Nhà nước đánh giá tình
hình thực hiện chính sách BHXH và yêu cầu về điều chỉnh, sửa đổi chính sách
nhằm đạt mục tiêu đảm bảo và ổn định xã hội.
- Tài chính BHXH cũng là một công cụ phục vụ xây dựng chính sách xã hội
nói chung và góp phần lành mạnh hóa hệ thống tài chính quốc gia nói riêng. Đó là

chính sách BHXH do Nhà nước thực hiện nhưng nguồn thu chính để thực hiện các
khoản chi và hoạt động tài chính là đóng góp của NLĐ.Nếu hệ thống BHXH mất
cân đối về tài chính, hay thu không đủ bù chi thì Nhà nước sẽ phải sử dụng ngân
sách để cấp bù. Vì vậy, các dự báo cân đối thu - chi của tài chính BHXH là rất cần
thiết cho các nhà hoạch định chính sách kinh tế - xã hội trong dài hạn. Ở hầu hết các
nước phát triển thường việc công khai hóa tài chính BHXH hàng năm là bắt buộc
nhằm cung cấp thông tin cho các cơ quan chuyên trách và các nhà hoạch định chính
sách. [54, tr. 215]

2.2. Một số vấn đề cơ bản về đảm bảo tài chính cho bảo hiểm xã hội
2.2.1. Khái niệm và tiêu chí đánh giá đảm bảo tài chính cho bảo hiểm xã hội
2.2.1.1. Khái niệm đảm bảo tài chính cho BHXH
Cho đến nay trên thế giới cũng như trong nước vẫn còn rất ít các công trình
khoa học nghiên cứu về đảm bảo tài chính cho BHXH cũng như chưa có tác giả
nào đưa ra khái niệm thế nào là đảm bảo tài chính cho BHXH.
Theo tác giả vấn đề đảm bảo tài chính cho BHXH có thể xem xét dưới hai
góc độ sau:


22

- Dưới góc độ quản lý quỹ BHXH thì đảm bảo tài chính cho BHXH là đảm
bảo sự cân đối trong quan hệ thu và chi của quỹ BHXH.
Đảm bảo sự cân đối quan hệ thu và chi của quỹ BHXH tùy thuộc vào đặc
điểm của quỹ BHXH song luôn đảm bảo nguyên tắc: thu phải đảm bảo chi và có kết
dư quỹ. Theo đó.
Đối với quỹ BHXH ngắn hạn mô hình cân đối quỹ hàng năm là
Tổng thu

=


trong năm

Tổng chi các chế độ
ngắn hạn trong
+
năm

Chi quản lý (có
cả lệ phí thu chi)

+

Dự phòng
1-2 tháng

(2.1)

Hiện nay ở nhiều nước cũng quy định, quỹ phải có dự phòng 1-2 tháng mới
gọi là cân đối quỹ. Nước ta cũng cần thiết phải áp dụng mô hình này.
Đối với quỹ BHXH dài hạn (hưu trí, tử tuất..) mô hình cân đối quỹ là.
Tổng thu của
các chế độ
dài hạn
trong năm

+

Tổng số tiến tích
tũy (vốn và lãi

đầu tư) tính đến
năm đó

>

Tổng chi
các chế độ
trong năm

+

Chi quản lý
(có cả lệ
phí thu chi
trong năm

+

Chi
khác

(2.2)

Đối với các chế độ BHXH dài hạn, thời gian cân đối quỹ thường kéo dài 3040 năm. Nhưng ít nhất trong khoảng thời gian 20 năm đầu số thu của quỹ phải luôn
luôn lớn hơn số chi, vì trong thời gian đầu số người đủ điều kiện nghỉ hưu còn ít. Số
tiền thu lớn hơn số chi được qũy BHXH tích lũy lại, sau 20 năm NLĐ đủ số năm
đóng BHXH và đủ tuổi đời, quỹ có sẵn tiền để chi trả cho những người về hưu. Như
vậy, do đặc điểm của quỹ BHXH dài hạn sẽ không có tính liên thông giữa tính cân
đối và mất cân đối của quỹ, trong suốt thời gian cân đối quỹ phải luôn đảm bảo quan
hệ tỷ lệ các nguồn thu của quỹ trong năm phải lớn hơn số chi trong năm đó. Khi

nguồn thu nhỏ hơn nguồn chi vào năm thứ 21 trở đi thì quỹ bị coi là mất cân đối.
Mô hình này được áp dụng phổ biến ở các nước đang phát triển, các nước
trong khu vực. Tuy nhiên đối với các nước có nền kinh tế phát triển như Cộng hòa
Liên bang Đức và một số nước Đông Âu lại áp dụng mô hình cân đối quỹ ngắn hạn
hàng năm đối với các chế độ dài hạn. Vì ở các nước này, ngân sách nhà nước có điều
kiện sẵn sàng cấp bù phần thiếu hụt của quỹ để đảm bảo đời sống của người về hưu.


23

- Dưới góc độ Kinh tế chính trị học, đảm bảo tài chính cho BHXH là đảm bảo
quan hệ thu, chi tuân thủ đúng quy định pháp luật BHXH để quỹ BHXH có khả năng duy
trì được sự cân đối, ổn định trong dài hạn nhằm đáp ứng quyền thụ hưởng của người
tham gia BHXH một cách công bằng, góp phần thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội.
Như vậy, đảm bảo tài chính cho BHXH trước hết là đảm bảo thu đúng, thu đủ,
tránh tình trạng trốn đóng, nợ đóng BHXH của các đơn vị sử dụng lao động ảnh
hưởng đến quyền lợi về BHXH của NLĐ. Mức đóng BHXH phải phù hợp với khả
năng chi trả của đa số NLĐ tham gia, phù hợp với khả năng tài chính của NSDLĐ.
Bởi vì mức đóng BHXH là một nhân tố quyết định sự tham gia của NLĐ, NSDLĐ và
cân đối thu, chi quỹ BHXH.
Tiếp theo là đảm bảo chi trả kịp thời, đầy đủ các chế độ BHXH. Mức hưởng
trợ cấp các chế độ BHXH phải phải đảm bảo chi tiêu trung bình, đảm bảo mức sống
tối thiểu cho NLĐ góp phần ổn định cuộc sống cho NLĐ khi họ chẳng may gặp rủi ro
làm giảm thu nhập hoặc mất khả năng lao động, khi hết tuổi lao động, khi thất
nghiệp. Đảm bảo chi đúng đối tượng, tránh tình trạng lạm dụng, trục lợi BHXH làm
thất thoát quỹ dẫn đến sự mất công bằng giữa các đối tượng tham gia.
Mặt khác, đảm bảo tài chính cho BHXH phải đảm bảo hoạt động đầu tư quỹ
BHXH, sao cho luôn được an toàn và có sinh lợi nhuận nhằm bảo toàn và tăng trưởng
cho quỹ, đảm bảo được nguồn tài chính bền vững.
Cuối cùng, đảm bảo tài chính cho BHXH phải đảm bảo công bằng trong phân

phối quỹ BHXH, qua đó thực hiện ASXH bền vững, được thể hiện ở tỷ lệ bao phủ
của BHXH, tỷ lệ tuân thủ BHXH và mức thụ hưởng BHXH của NLĐ.
Qua trên ta thấy, đảm bảo tài chính cho BHXH có một ý nghĩa rất to lớn đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội, cụ thể.
- Góp phần điều hòa mâu thuẫn giữa NSDLĐ và NLĐ. Trong thực tế lao động
sản xuất, NLĐ và NSDLĐ vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền
lương, tiền công, thời gian làm việc. Nếu NSDLĐ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và trách
nhiệm BHXH đối với NLĐ sẽ giúp NLĐ yên tâm làm việc, gắn bó với công việc và
nơi làm việc.Ngược lại nếu chủ sử dụng không quan tâm đến quyền lợi của NLĐ về
BHXH, cố tình vi phạm pháp luật, không đóng BHXH cho NLĐ, khiến cho họ không


24

yên tâm, và đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến đình công, làm cho
sản xuất bị ngưng trệ.
- Góp phần tăng năng suất lao động xã hội. Nhờ có sự đảm bảo, thay thế, bù
đắp thu nhập kịp thời, đồng thời hỗ trợ NLĐ được nghỉ ngơi, nâng cao sức khỏe,
người lao động sẽ nhanh chóng phục hồi sức khỏe, ổn định cuộc sống để tiếp tục lao
động, tạo ra sản phẩm cho xã hội. Khi NLĐ yên tâm làm việc, gắn bó với công việc
thì chất lượng công việc mới cao.
- Góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Với tư cách là một
quỹ tiền tệ, quỹ BHXH có vai trò huy động vốn cho nền kinh tế thông qua hoạt động
đầu tư quỹ BHXH. Hoạt động đầu tư quỹ BHXH đạt hiệu quả cao sẽ đảm bảo được sự
bền vững về tài chính, đây cũng chính là nguồn vốn quan trọng đối với nền kinh tế.
- Đảm bảo phân phối lại thu nhập công bằng, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo
trong xã hội, phát triển ASXH bền vững.

2.2.1.2. Tiêu chí đánh giá đảm bảo tài chính cho BHXH
Thứ nhất, độ bao phủ của bảo hiểm xã hội.

Mức độ bao phủ của hệ thống BHXH phản ánh mức độ tham gia và hưởng lợi
của người dân (không phân biệt khu vực kinh tế) vào hệ thống BHXH. Mức độ bao
phủ BHXH càng rộng thì mức độ an toàn cho người lao động khi tuổi già hoặc khi gặp
rủi ro càng cao. Mặt khác nó cũng phản ánh sự tiến bộ xã hội về mặt an sinh xã hội.
Xu hướng chung là an sinh xã hội đều hướng tới đảm bảo an toàn cho mọi thành viên
trong xã hội, phòng ngừa giảm thiểu và khắc phục rủi ro. Để phản ánh mức độ bao phủ
của BHXH người ta dựa vào chỉ tiêu về tỷ lệ lao lao động tham gia BHXH trên tổng
số lao động xã hội. Tỷ lệ lao động tham gia BHXH trên tổng số lao động là tỷ lệ tính
theo phần trăm giữa số người lao động tham gia BHXH với tổng số lao động xã hội từ
15 tuổi trở lên không phân biệt là khu vực tư nhân hay khu vực Nhà nước. [28, tr.82]
Công thức
Sbhxh
Cbhxh =

100 (%)
Dlđ

(2.3)


25

Trong đó: Cbhxh là tỷ lệ lao động tham gia BHXH
Sbhxh là số lao động tham gia BHXH
Dlđ Dân số trong độ tuổi từ 15 trở lên, không phân biệt khu vực tư
nhân hay Nhà nước.
Tỷ lệ lao động tham gia vào hệ thống BHXH cao cũng đồng nghĩa với khả năng
phòng ngừa rủi ro của dân số cao, vì đa số người dân chủ động tiết kiệm được được số
tiền cần thiết để phòng ngừa rủi ro và nhờ đó mức độ an toàn của họ sẽ cao hơn.
Mặt khác, tỷ lệ dân số tham gia BHXH cao sẽ góp phần tăng nguồn thu cho

quỹ BHXH góp phần đảm bảo chi trả các khoản trợ cấp BHXH.
Thứ hai, mức độ tuân thủ bảo hiểm xã hội phản ánh việc thu, chi BHXH đảm
bảo tuân thủ các quy định của pháp luật BHXH, và đảm bảo được sự công bằng đối với
các đối tượng BHXH, mức độ tuân thủ BHXH được biểu hiện ở các chỉ tiêu sau:
Một là, tỷ lệ lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc trên tổng số lao động
thuộc diện BHXH bắt buộc là tỷ lệ tính theo phần trăm giữa số người lao động tham
gia BHXH bắt buộc với tổng số lao động thuộc diện BHXH bắt buộc
Ktt =

Ltg

100 (%)

(2.4)

Lbb
Trong đó: Ktt là tỷ lệ lao động tham gia BHXH bắt buộc
Ltg là số lao động đang tham gia BHXH bắt buộc
Lbb là tổng số lao động thuộc diện BHXH bắt buộc
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ tuân thủ pháp luật BHXH của NSDLĐ trong
việc thực hiện nghĩa vụ về BHXH đối với NLĐ.
Hai là, tỷ lệ hoàn thành thu BHXH:
Là tỷ lệ tính theo phần trăm giữa tổng số thu BHXH bắt buộc trên tổng số tiền
BHXH phải thu trong năm.
Công thức tính
Đbhxh
Ktt =

100(%)
Tbhxh


(2.5)


×