Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

136 Giải pháp đảm bảo cân đối Quỹ Bảo hiểm xã hội ở Việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.18 MB, 101 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm xã hội ở nước ta là một trong những chính sách lớn của Đảng
và Nhà nước đối với người lao động. Ngay từ những ngày đầu thành lập
nước, Nhà nước ta đã ban hành chính sách về BHXH. Trong quá trình thực
hiện, chế độ chính sách về BHXH không ngừng được bổ sung, sửa đổi để phù
hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước nhằm đảm bảo quyền lợi đối với
người tham gia BHXH và góp phần ổn định thu nhập cho nhân dân lao động.
Quỹ BHXH là một công cụ quan trọng trong chính sách BHXH, nó vừa
mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội cao và là điều kiện, cơ sở vật chất
quan trọng để đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. Ý
nghĩa và vai trò của Quỹ BHXH ngày càng trở nên quan trọng và gắn bó mật
thiết với nền kinh tế - xã hội hơn khi đời sống nhân dân ta ngày càng được cải
thiện, nhu cầu về an sinh xã hội đang trở thành một trong những vấn đề quan
trọng đối với một quốc gia như Việt nam chúng ta.
Theo quy định hiện hành, Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp
của người lao động; người sử dụng lao động; Nhà nước đóng và hỗ trợ; lãi từ
hoạt động đầu tư tăng trưởng và một số nguồn thu khác. Quỹ BHXH dùng để
chi trả các chế độ BHXH cho người được thụ hưởng, chi quản lý hoạt động,
chi đầu tư và chi khác. NSNN đảm bảo đủ nguồn chi cho những đối tượng
đang hưởng các chế độ BHXH từ 1/1/1995 trở về trước. Quỹ BHXH đảm bảo
chi trả cho những người hưởng các chế độ BHXH từ 1/1/1995 trở đi.
Trong những năm qua, mặc dù số dư của Quỹ BHXH ngày càng tăng,
nhưng nếu đứng trên góc độ quản lý vĩ mô và theo tính toán gia tăng số học,
ta có thể thấy rằng Quỹ BHXH đang tiềm ẩn những nguy cơ bị mất cân đối
trong dài hạn. Theo số liệu thống kê trong giai đoạn 2000 - 2004, thu BHXH
có tỷ lệ tăng bình quân là 20,7%, trong khi tỷ lệ chi BHXH bình quân 5 năm
là 38,1%, tăng gấp 1,84 lần so với tỷ lệ tăng thu BHXH; bên cạnh đó là xu
hướng tăng chi chế độ BHXH do số người lao động thuộc diện Quỹ BHXH
phải đảm bảo nghỉ hưu ngày càng nhiều.
Để đảm bảo nguồn kinh phí chi trả chế độ BHXH cho hàng triệu người


đang tham gia và hưởng các chế độ BHXH thì việc duy trì ổn định cân đối
Quỹ BHXH và tăng số kết dư của Quỹ BHXH là thực sự cần thiết. Việc
nghiên cứu đề tài với nội dung "Giải pháp đảm bảo cân đối Quỹ Bảo hiểm xã
hội ở Việt nam" là hết sức cần thiết, làm cơ sở khoa học cho việc tính toán,
cân đối Quỹ BHXH; góp phần duy trì và ổn định cân đối dài hạn Quỹ BHXH
trong tương lai.
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài.
- Hệ thống và làm rõ thêm những vấn đề cơ bản về Quỹ BHXH và cân
đối Quỹ BHXH;
- Đánh giá thực trạng cân đối Quỹ BHXH ở Việt nam;
- Đề xuất những giải pháp, kiến nghị để góp phần đảm bảo ổn định cân đối
Quỹ BHXH ở Việt nam.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Quỹ BHXH có ba Quỹ thành phần là: Quỹ khám chữa bệnh bắt buộc,
Quỹ Khám chữa bệnh tự nguyện và Quỹ Hưu trí và tử tuất. Song đề tài chỉ tập
trung vào nghiên cứu tính cân đối dài hạn của Quỹ Hưu trí và tử tuất (Quỹ có
tính chất dài hạn) trong giai đoạn từ năm 2000 trở về sau.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Tác giả Luận văn đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử, hệ thống, khái quát, đối chiếu và so sánh, thống kê để đánh giá và làm
sáng tỏ các vấn đề cần quan tâm.
5. Kết cấu của đề tài.
- 2 -
Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, đề tài được kết cấu thành 3 chương, cụ thể
CHƯƠNG I: Các vấn đề cơ bản về đảm bảo cân đối Quỹ BHXH
CHƯƠNG II: Thực trạng cân đối Quỹ BHXH ở Việt Nam.
CHƯƠNG III: Giải pháp đảm bảo cân đối Quỹ BHXH lâu dài.
- 3 -
CHƯƠNG I
CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẢM BẢO CÂN ĐỐI

QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của Quỹ Bảo hiểm xã hội :
• Khái niệm Bảo hiểm xã hội và Quỹ Bảo hiểm xã hội:
Đến nay, hầu như chưa có một định nghĩa chính thống về BHXH. Mặc
dù gần đây, trong một số tài liệu nghiên cứu về BHXH, các tác giả đã đề cập
đến khái niệm này. Đã hơn 100 năm nay, các nước trên thế giới có xu hướng
chung là thực hiện hệ thống an sinh xã hội mà trong đó BHXH là một trong
các tầng an sinh xã hội chủ yếu và được phân biệt với các nội dung khác trong
hệ thống thông qua những đặc trưng cơ bản của BHXH.
Trong tuyên ngôn nhân quyền do Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông
qua ngày 10/12/1948 có nêu: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của
xã hội có quyền hưởng BHXH. Quyền đó đặt trên cơ sở sự thoả mãn các quyền
về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát triển của con
người ...”.
Theo Tổ chức lao động thế giới gọi tắt là ILO, BHXH được hiểu là sự
bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt biện
pháp công cộng (bằng pháp luật, trách nhiệm của Chính phủ) để chống lại
tình trạng khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm thu nhập
gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già, tàn tật, chết; thêm vào đó
BHXH bảo vệ việc chăm sóc y tế, sức khoẻ và trợ cấp cho các gia đình.
BHXH được định nghĩa như vậy phản ánh tổng quát về mục tiêu, bản
chất và chức năng của sự nghiệp này. BHXH có mục đích cuối cùng là hướng
tới sự phát triển của mỗi cá nhân và toàn xã hội, thể hiện sự gắn kết quyền lợi
- 4 -
và trách nhiệm của các cá nhân trong cộng đồng và của toàn xã hội với mỗi
người.
BHXH là một trong những quyền cơ bản của con người trong một xã
hội hiện đại và mục tiêu cao cả nhất của nó là vì sự an toàn, phòng tránh được
hậu quả về những tổn thất gây ra bởi những rủi ro trong cuộc sống hay trong

quá trình lao động. BHXH hướng tới sự phát triển, sự đảm bảo tốt nhất cho
con người, góp phần quan trọng vào tạo lập sự ổn định và thịnh vượng của xã
hội.
Như vậy ta có thể hiểu: BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một
phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm
hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm thông qua sự hình thành và sử
dụng một quỹ tài chính độc lập, tập trung do sự đóng góp của người chủ sử
dụng lao động và người lao động, nhằm đảm bảo sự an toàn đời sống cho
người lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
Để có nguồn lực vật chất bảo đảm hoặc thay thế thu nhập cho người lao
động tham gia BHXH khi họ gặp phải rủi ro làm giảm, mất khả năng lao động
hoặc chết, nhằm đảm bảo đời sống cơ bản cho bản thân người lao động và gia
đình họ cần phải có một quỹ tiền tệ tập trung được hình thành từ sự đóng góp
của các bên tham gia BHXH - đó chính là quỹ BHXH.
Như vậy có thể hiểu quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung, được hình
thành chủ yếu từ đóng góp của các bên tham gia BHXH (người lao động, chủ
sử dụng lao động và Nhà nước), sử dụng để bù đắp, hoặc thay thế thu nhập
cho người lao động khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm suy giảm sức
khoẻ, mất khả năng lao động, mất việc làm, chết; nhằm đảm bảo mức sống cơ
bản cho bản thân người lao động và những người ruột thịt của người lao động
trực tiếp phải nuôi dưỡng, góp phần đảm bảo an toàn xã hội và phát triển kinh
tế của đất nước.
• Đặc điểm của Quỹ bảo hiểm xã hội:
- 5 -
Quỹ BHXH có những đặc điểm sau:
- Mục đích của Quỹ BHXH là nhằm huy động sự đóng góp của người
lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước tạo lập quỹ tài chính để phân
phối sử dụng nó bảo đảm bù đắp một phần thu nhập nhất định nào đó cho
người lao động khi có những sự cố bảo hiểm xuất hiện như: tai nạn, ốm đau,
hưu trí,.... làm giảm hoặc mất hẳn các khoản thu nhập thường xuyên từ lao

động nhằm duy trì và ổn định cuộc sống của họ. Điều đó có nghĩa là mục đích
của Quỹ BHXH là lấy một phần thu nhập trong thời gian lao động bình
thường để dành (bảo hiểm) bảo đảm cho cuộc sống trong những ngày không
lao động không có thu nhập. Như vậy, hoạt động của quỹ BHXH không phải
vì mục tiêu lợi nhuận mà vì phúc lợi, quyền lợi của người lao động, của cả
cộng đồng. Phạm vi, đối tượng BHXH là thu nhập của người lao động làm
công ăn lương.
- Phân phối Quỹ BHXH vừa mang tính hoàn trả, vừa mang tính chất
không hoàn trả. Tính chất không hoàn trả được thể hiện ở chỗ người lao động
là đối tượng tham gia và đóng góp BHXH, đồng thời họ cũng là đối tượng
được nhận trợ cấp, được chi trả từ Quỹ BHXH cho dù chế độ, thời gian trợ
cấp và mức trợ cấp của mỗi người có khác nhau tùy thuộc vào những biến cố
hoặc rủi ro mà họ gặp phải, cũng như mức đóng góp và thời gian đóng BHXH
của họ. Tính không hoàn trả được thể hiện ở chỗ, cùng tham gia và đóng góp
BHXH nhưng có người được hưởng trợ cấp nhiều lần và nhiều chế độ khác
nhau, nhưng cũng có những người được ít lần hơn, thậm chí không được
hưởng. Chính từ đặc điểm này nên một số đối tượng được hưởng trợ cấp từ
Quỹ BHXH thường lớn hơn nhiều so với mức đóng góp của họ và ngược lại.
Điều đó thể hiện tính chất xã hội của toàn bộ hoạt động BHXH.
- Quá trình tích luỹ để bảo tồn giá trị và bảo đảm an toàn về tài chính đối
với Quỹ BHXH là một vấn đề mang tính nguyên tắc. Đặc điểm này xuất phát
từ chức năng cơ bản nhất của BHXH là bảo đảm an toàn về thu nhập cho
người lao động. Vì vậy, đến lượt mình, BHXH phải tự bảo vệ mình trước
- 6 -
nguy cơ mất an toàn về tài chính. Nhiều nhà kinh tế cho rằng: Quỹ BHXH là
"của để dành" của người lao động phòng khi ốm đau, tai nạn hoặc tuổi già,...
Nguồn thu này được đóng góp và tích luỹ lại trong suốt quá trình lao động.
Nếu xem xét tại một thời điểm cụ thể nào đó, Quỹ BHXH luôn tồn tại một
lượng tiền nhàn rỗi để chi trả trong tương lai. Lượng tiền này có thể biến động
tăng và cũng có thể biến động giảm do mất an toàn, giảm giá trị do yếu tố lạm

phát. Do đó, bảo tồn giá trị và tăng trưởng Quỹ BHXH đã trở thành yêu cầu
mang tính nguyên tắc trong quá trình hoạt động của BHXH.
- Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Quỹ BHXH phụ thuộc vào trình độ
phát triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia và điều kiện lịch sử trong từng
thời kỳ nhất định của đất nước. Kinh tế - xã hội càng phát triển thì càng có
điều kiện thực hiện các chế độ BHXH, người lao động và người sử dụng lao
động có thu nhập cao hơn, do đó họ càng có điều kiện tham gia và đóng góp
BHXH,...
- Quá trình phân phối quỹ BHXH gắn liền chặt chẽ với chức năng kiểm
tra giám đốc bằng đồng tiền đối với quá trình tạo lập và sử dụng quỹ thực
hiện chế độ BHXH nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động, người sử
dụng lao động và ổn định sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.
1.1.2. Nguồn thu của Quỹ BHXH: Quỹ BHXH được hình thành chủ
yếu từ các nguồn sau:
- Người lao động đóng góp: Đây là nguồn tài chính quan trọng để hình
thành quỹ BHXH, hầu như các nước trên thế giới đều quy định mọi người lao
động khi tham gia BHXH đều phải có trách nhiệm đóng góp một phần thu
nhập của mình vào quỹ BHXH, đây chính là sự “tiết kiệm bắt buộc” của mọi
người lao động khi họ còn có khả năng lao động, còn có thu nhập để bù đắp
cho chính mình khi gặp phải rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất
việc làm tạm thời hoặc chết.
- 7 -
- Người sử dụng lao động đóng góp: Các nước trên thế giới đều có quy định
mọi người sử dụng lao động phải có trách nhiệm đóng góp hình thành quỹ
BHXH, để bảo đảm đời sống cho người lao động và gia đình họ khi người lao
động được hưởng quyền lợi về BHXH do pháp luật quy định.
- Nhà nước với tư cách là chủ sử dụng lao động của mọi người lao động,
là người nhận trách nhiệm về tổ chức, đảm bảo toàn bộ đời sống xã hội của
một đất nước. Chính vì vậy, trong trường hợp quỹ BHXH không có đủ nguồn
lực tài chính để đảm bảo cuộc sống cho người lao động và gia đình họ thì nhà

nước phải hỗ trợ (hoặc đóng góp theo luật định).
- Nguồn lãi từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH: Quỹ BHXH tạm
thời nhàn rỗi sẽ tham gia hoạt động đầu tư. Đây là một nguồn vốn trong nước
rất quan trọng để tham gia đầu tư, một mặt góp phần phát triển kinh tế xã hội
của đất nước; mặt khác để bảo toàn quỹ (tránh sự trượt giá) và tăng trưởng
quỹ góp phần làm cho nguồn lực của quỹ ngày càng lớn, đảm bảo mọi nhu
cầu chi BHXH cho người được hưởng chế độ BHXH.
- Các nguồn tài chính khác như: tài trợ, viện trợ...
Từ sự tìm hiểu các nguồn hình thành quỹ BHXH, nếu xét trên góc độ
phân phối các nguồn lực tài chính của toàn bộ nền kinh tế thì thấy rằng quỹ
BHXH được hình thành từ kết quả của cả hai quá trình phân phối lần đầu và
phân phối lại thu nhập quốc dân. Đây là một đặc điểm đặc thù của quỹ BHXH
so với những quỹ tiền tệ khác trong hệ thống tài chính quốc gia.
Ở nước ta hiện nay, nguồn tài chính hình thành quỹ BHXH gồm có:
- Người sử dụng lao động đóng.
- Người lao động đóng.
- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ
BHXH đối với người lao động.
- Lãi đầu tư tăng trưởng và các khoản thu khác.
- 8 -
- Các nguồn thu khác như từ viện trợ, tài trợ, đánh giá lại tài sản của
quỹ...
1.1.3. Chi của Quỹ BHXH: Xét theo mục đích sử dụng có thể chia
thành 2 nhóm nguồn chi chủ yếu sau:
Nhóm 1: Nguồn tài chính dùng để chi trả các chế độ BHXH. Nguồn tài
chính này chiếm đại bộ phận trong việc sử dụng quỹ BHXH. Các chế độ
BHXH được áp dụng đối với người lao động nhiều hay ít, mức độ hưởng thụ
của từng loại chế độ cao hay thấp phụ thuộc vào chính sách BHXH do mỗi
nhà nước quy định bằng pháp luật. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) ban hành
công ước số 102 ngày 4/6/1952 về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội, trong

đó quy định chế dộ trợ cấp đó là: chăm sóc y tế; trợ cấp ốm đau; trợ cấp thất
nghiệp; trợ cấp tuổi già (hưu bổng); trợ cấp trong trường hợp tai nạn lao động
hoặc bệnh nghề nghiệp; trợ cấp gia đình; trợ cấp thai sản; trợ cấp tàn tật và trợ
cấp tiền tuất.
Đối với nước ta hiện nay, đang áp dụng các loại chế độ sau:
- Chế độ trợ cấp ốm đau
- Chế độ trợ cấp thai sản
- Chế độ trợ cấp TNLĐ, bệnh nghề nghiệp
- Chế độ hưu trí
- Chế độ tử tuất
- Chế độ nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ
- Chế độ khám, chữa bệnh
Nhóm 2: Nguồn tài chính dùng để chi cho hoạt động quản lý sự nghiệp
BHXH. Đó là những khoản chi cho hoạt động của bộ máy làm công tác quản
lý sự nghiệp BHXH và khoản chi phí cho hoạt động đầu tư quỹ BHXH.
Nguồn chi này chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số chi từ quỹ BHXH.
- 9 -
1.1.4. Vai trò của quỹ BHXH trong hệ thống tài chính của Nhà nước ta:
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, hệ thống tài chính của nước
ta gồm có các khâu tài chính là: NSNN, Tài chính doanh nghiệp, Tín dụng,
Bảo hiểm, Tài chính hộ gia đình và tổ chức xã hội. Các khâu tài chính được
đặc trưng bởi sự vận động và chuyển hoá qua lại giữa các nguồn tài chính
thuộc các khâu tài chính, phản ánh tổng thể các mối quan hệ kinh tế trong quá
trình phân phối các nguồn lực tài chính của xã hội được thể hiện thông qua
việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ tập trung để phục vụ cho nhu cầu
tiêu dùng hay tích luỹ của các chủ thể trong xã hội. Các khâu tài chính luôn
vận động và có mối quan hệ tác động trực tiếp với nhau và có liên hệ với thị
trường tài chính. Có thể khái quát hệ thống tài chính của nước ta như sau:
* NSNN là quỹ tiền tệ của Nhà nước, là một khâu tài chính rất quan
trọng trong hệ thống tài chính của nước ta. NSNN được tạo lập từ các nguồn

tài chính trong xã hội dưới các hình thức như: thu bắt buộc (thuế và lệ phí);
tiền lãi thu được từ phần đóng góp vốn của Nhà nước ở các doanh nghiệp;
- 10 -
Ngân sách Nhà
nước
Tài chính
doanh nghiệp
Tài chính hộ
gia đình và tổ
chức xã hội
Bảo hiểm Tín dụng
Thị trường
tài chính
tiền thu bán hoặc cho thuê tài sản của Nhà nước; tiền thu do thực hiện xuất
khẩu lao động; thu từ viện trợ, vay nợ...
Bất kỳ một nhà nước nào cũng sử dụng NSNN như là một công cụ quan
trọng để điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, xã hội của đất nước, mặt khác sử dụng
NSNN để phục vụ cho việc thực hiện chức năng quản lý của Nhà nước: duy
trì bộ máy quản lý nhà nước, bảo đảm về mặt quốc phòng, an ninh, ngoại
giao; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; đảm bảo an ninh xã hội...
Tóm lại: “Ngân sách Nhà nước được đặc trưng bằng sự vận động của
các nguồn tài chính tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước - Quỹ ngân
sách - để phục vụ cho việc thực hiện chức năng của Nhà nước. NSNN phản
ánh hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể trong xã hội
phát sinh do NSNN tạo lập, phân phối và sử dụng các nguồn tài chính quốc
gia nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng và quản lý kinh tế, xã hội
của Nhà nước theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu”.
* Tài chính doanh nghiệp.
“ Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm

mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh ”.
Tài chính doanh nghiệp là 1 khâu quan trọng trong hệ thống tài chính
quốc gia, sự vận động và chuyển hoá các nguồn lực tài chính của doanh
nghiệp luôn gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
nhằm đạt mục tiêu cuối cùng là tìm kiếm lợi nhuận tối đa.
Dù cho tồn tại ở bất cứ loại hình sở hữu và tổ chức doanh nghiệp như thế
nào (Nhà nước, Doanh nghiệp tư nhân, Doanh nghiệp cổ phần,...) thì hoạt
động tài chính của doanh nghiệp đều có chung một số đặc điểm sau:
Một là, tạo lập, thu hút vốn: để có đủ điều kiện tiến hành sản xuất, kinh
doanh, bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần phải có vốn. Muốn có được, doanh
- 11 -
nghiệp cần thiết phải thực hiện các quan hệ tài chính như vay vốn, hùn vốn,
phát hành trái phiếu, cổ phiếu.
Hai là, thực hiện đầu tư, sử dụng vốn để kinh doanh: trên cơ sở lựa chọn
phương án đầu tư tối ưu, doanh nghiệp phải tiến hành phân phối nguồn vốn
thu hút, tạo lập được để tạo ra cơ cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp hợp
lý, có hiệu quả. Theo đó sẽ hình thành nên các quỹ chuyên dùng là: vốn cố
định, vốn lưu động, quỹ tiền lương, quỹ dự trữ, quỹ khấu hao....., mỗi một
quỹ đều có một mục đích sử dụng riêng phục vụ mục tiêu cuối cùng là sử
dụng nguồn vốn của doanh nghiệp một cách có hiệu quả, đem lại lợi nhuận
nhiều nhất.
Ba là, hoạt động phân phối kết quả kinh doanh: hoạt động này liên quan
đến nhiều chủ thể như: nộp thuế cho Nhà nước, lãi suất cho ngân hàng (khi
vay vốn), chia lãi cho các cổ đông, lập các quỹ tích luỹ để đầu tư mở rộng sản
xuất, kinh doanh....
Tóm lại: “Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các luồng chuyển dịch giá
trị, các luồng vận động của những nguồn tài chính trong quá trình tạo lập hoặc
sử dụng quỹ tiền tệ hoặc vốn hoạt động của doanh nghiệp nhằm đạt tới mục
tiêu doanh lợi trong khuôn khổ của pháp luật. Tài chính doanh nghiệp phản
ánh các quan hệ kinh tế đa dạng trong các quá trình đó của hoạt động kinh

doanh của doanh nghiệp”.
* Tài chính hộ gia đình và các tổ chức xã hội.
Các quỹ tiền tệ của các hộ gia đình được hình thành từ những khoản thu
nhập, tiền công của các thành viên trong gia đình, từ những của cải tài sản kế
thừa, quà biếu, tặng ... Các hộ gia đình sử dụng các quỹ tiền tệ này để phục vụ
cho nhu cầu tiêu dùng từ cuộc sống. Phần quỹ còn dư có thể đem đầu tư kinh
doanh để kiếm lời, hoặc tham gia vào thị trường tài chính (cho vay, mua kỳ
phiếu, trái phiếu, cổ phiếu...) để tăng thêm thu nhập. Ngoài ra các hộ gia đình
còn phải sử dụng một phần quỹ tiền tệ của mình để làm nghĩa vụ đối với Nhà
- 12 -
nước (nộp thuế, lệ phí..), làm công ích; tham gia các loại hình bảo hiểm để
bảo đảm an toàn cuộc sống, sinh hoạt của mỗi hộ gia đình.
Các quỹ tiền tệ của các tổ chức xã hội được tập hợp từ sự đóng góp phí
của các hội viên, sự quyên góp, ủng hộ của cá nhân, tổ chức trong và ngoài
nước cũng như sự hỗ trợ của Chính phủ. Các tổ chức xã hội sử dụng các quỹ
này để chi tiêu phục vụ nhu cầu hoạt động của xã hội. Tuy nhiên, khi chưa có
nhu cầu (hoặc chưa đến kỳ chi tiêu) thì các quỹ này cũng được các tổ chức xã
hội sử dụng để đầu tư vào thị trường tài chính để bảo toàn và tăng trưởng quỹ.
* Tín dụng
Tín dụng là một trung gian tài chính, là một khâu tài chính của hệ thống
tài chính quốc gia. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các đơn vị,
tổ chức và cá nhân thường có những nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi chưa
sử dụng đến; những nguồn tài chính này được tập hợp lại thành quỹ tín dụng;
quỹ này được sử dụng theo nguyên tắc có hoàn trả và sinh lãi - đó là một loại
dịch vụ tài chính đặc biệt được gọi là tín dụng. Như vậy, thực chất của tín
dụng là một loại hoạt động dịch vụ thực hiện thu gom, tập hợp các nguồn tài
chính tạm thời chưa dùng đến của một bộ phận dân cư, tổ chức, đơn vị trong
xã hội hình thành một quỹ tiền tệ tập trung, sau đó sử dụng quỹ tiền tệ đó
chuyển cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng nguồn tài chính đó theo nguyên
tắc có hoàn trả và phải trả lãi (lợi tức).

* Bảo hiểm: Là một khâu tài chính trong hệ thống tài chính của nước ta.
Quỹ bảo hiểm (bao gồm cả BHXH và BHTM) được hình thành chủ yếu từ sự
đóng góp của đối tượng tham gia bảo hiểm, được sử dụng để bù đắp, bồi
thường tổn thất cho những đối tượng được hưởng quyển lợi về bảo hiểm.
Thực chất của bảo hiểm là những mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá
trình phân phối các nguồn lực tài chính thông qua việc tạo lập và sử dụng quỹ
bảo hiểm để bù đắp, bồi thường những tổn thất xảy ra đối với các đối tượng
- 13 -
tham gia bảo hiểm nhằm duy trì, đảm bảo an toàn cho sản xuất kinh doanh và
đời sống của người tham gia bảo hiểm.
Từ đó cho chúng ta thấy rằng bảo hiểm nói chung (BHTM và BHXH) và
BHXH nói riêng là một khâu tài chính không thể thiếu được trong hệ thống
tài chính của Nhà nước ta. Quá trình vận động của các nguồn tài chính để
hình thành quỹ BHXH, cũng như việc sử dụng quỹ BHXH cho mục đích
riêng của nó, có liên quan đến sự vận động các nguồn tài chính của các khâu
tài chính khác trong hệ thống tài chính của nước ta và ngược lại. Chẳng hạn
như khi Nhà nước tăng tiền lương sẽ trực tiếp tác động đến cả nguồn tài chính
làm tăng và giảm quỹ BHXH. Khi Nhà nước tăng lương thì mọi đơn vị, cá
nhân phải tăng mức đóng vào quỹ BHXH; đồng thời quỹ BHXH phải tăng
tiền chi chế độ bảo hiểm cho những người được hưởng.
Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ lớn, có thời gian tạm thời nhàn rỗi dài; vì
vậy khi dùng quỹ BHXH để đầu tư, hoạt động kinh doanh - tức là cung ứng
vốn vào nền kinh tế sẽ tạo ra những biến đổi về cung và cầu vốn trong nền
kinh tế. Theo đó sẽ có tác động đến hướng vận động, chuyển dịch các nguồn
tài chính trong nền kinh tế, tất yếu sẽ làm thay đổi các quỹ tiền tệ của các chủ
thể khác theo các quy luật của các thị trường; góp phần kích thích, thúc đẩy
nền kinh tế - xã hội phát triển tạo ra nhiều của cải vật chất và tinh thần nhằm
phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu đời sống và sinh hoạt của mọi người trong
xã hội.
1.2. Đảm bảo cân đối Quỹ BHXH

1.2.1. Khái niệm cân đối Quỹ BHXH:
Để thực hiện vai trò của BHXH trong nền kinh tế và xã hội, với chức
năng và nhiệm vụ của mình, Quỹ BHXH thường xuyên trong trạng thái vận
động bởi các "luồng tiền vào" và các "luồng tiền ra" của Quỹ. Các "luồng tiền
vào" là những nguồn thu của Quỹ BHXH mà thực chất là những nhân tố làm
- 14 -
tăng Quỹ BHXH; còn những luồng tiền ra là những nguồn thực hiện nhiệm vụ
chi của Quỹ BHXH thực chất là những nhân tố tác động giảm quỹ BHXH.
Trên thực tế, không phải bất cứ lúc nào Quỹ BHXH cũng có trạng thái
thu vào Quỹ bằng số chi ra của Quỹ BHXH mà ngược lại, Quỹ luôn vận động
không ngừng và nó phụ thuộc vào số lượng đối tượng tham gia BHXH, đối
tượng hưởng chế độ BHXH, các chế độ chính sách về tiền lương, chế độ phụ
cấp và chế độ BHXH.
Đến nay, cũng chưa có một định nghĩa cụ thể nào về cân đối quỹ BHXH,
tuy nhiên, qua nghiên cứu chính sách thu, chi quỹ BHXH ở một số nước và
thực trạng thu chi của quỹ BHXH của Việt nam, ta có thể hiểu: cân đối quỹ
BHXH là một trạng thái của quỹ BHXH mà tại đó các nguồn thu vào của quỹ
BHXH đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ chi của quỹ BHXH.
Quỹ BHXH sẽ ở trạng thái bị mất cân đối nếu số thu vào của quỹ thấp
hơn so với số chi ra của quỹ BHXH, trong trường hợp này cần phải tìm thêm
nguồn thu hoặc có biện pháp để tăng nguồn thu để bù đắp số thiếu hụt của
quỹ BHXH nhằm đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả BHXH cho các đối
tượng theo quy định.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến đảm bảo cân đối quỹ BHXH:
1.2.2.1. Những nhân tố tác động đến nguồn thu của Quỹ BHXH:
Một là, tổng mức đóng góp vào quỹ của người lao động và chủ sử dụng
lao động. Trong nền kinh tế - xã hội có nhiều dạng, loại hình tổ chức lao
động, nhưng xét trên góc độ quan hệ giữa chủ sử dụng lao động và người lao
động có 2 dạng là: chủ sử dụng lao động và người lao động là 2 cá thể hoàn
toàn tách rời, độc lập với nhau; chủ sử dụng lao động đồng thời là người lao

động họ là một cá thể. Nhưng dù ở bất kỳ dạng nào thì theo quy định hiện
hành việc đóng góp vào quỹ BHXH do chủ sử dụng lao động trực tiếp quan
hệ với cơ quan BHXH, nhưng chỉ có người lao động được hưởng nguồn tài
- 15 -
chính do quỹ chi trả. Đây là một đặc điểm cần lưu ý đến trong quá trình tổ
chức thu và quản lý chi BHXH.
Thông thường mức đóng góp của chủ sử dụng lao động và người lao
động vào quỹ được xác định theo tỷ lệ (%) trên thu nhập hàng tháng của
người lao động. Như vậy tổng mức đóng góp của chủ sử dụng và người lao
động vào quỹ BHXH do bốn yếu tố sau đây quyết định đó là: số lượng người
lao động tham gia BHXH, mức thu nhập hàng tháng của người lao động, thời
gian đóng BHXH và tỷ lệ (%) trích đóng BHXH. Tổng mức đóng vào quỹ
BHXH tỷ lệ thuận vào các yếu tố đó.
Ta có công thức:
TMT= ∑ TN
i
x TGĐ
i
x TLĐ
i
TMT: Tổng mức đóng góp vào quỹ BHXH của chủ sử dụng lao động và
người lao động.
i

: Người lao động thứ i trong đơn vị sử dụng lao động.
TN
i
: Thu nhập hàng tháng của người lao động thứ i.
TGĐ
i

: Thời gian đóng vào quỹ BHXH của người lao động thứ i.
TLĐ
i
: Tổng tỷ lệ đóng góp của cả chủ sử dụng lao động và người lao
động.
Tổng mức đóng góp của chủ sử dụng lao động và người lao động là nhân
tố quan trọng nhất, chủ yếu nhất tác động làm tăng quy mô quỹ BHXH.
Hai là, nguồn lãi từ hoạt động đầu tư quỹ BHXH. Quỹ BHXH được thiết
kế theo mô hình tồn tích thì đây là một quỹ tiền tệ tập trung rất lớn, đặc biệt là
trong điều kiện cụ thể của nước ta, lực lượng lao động còn đang ở độ tuổi trẻ,
số lượng lao động tham gia BHXH còn chiếm tỷ lệ thấp so với tổng số lao
động trong xã hội. Nếu hoạt động đầu tư quỹ BHXH đạt hiệu quả cao, không
bị rủi ro, thất thoát thì chắc chắc nguồn lãi từ hoạt động đầu tư đem lại là một
khoản tiền không nhỏ, sẽ là nguồn tài chính bổ sung làm tăng quy mô quỹ
- 16 -
n
i=1
BHXH. Đây là nhân tố không thể thiếu được, cần đặc biệt quan tâm trong
hoạt động quản lý và sử dụng quỹ BHXH.
Ba là, sự hỗ trợ của nhà nước. Trong trường hợp cần thiết, khi nhà nước
có những điều chỉnh chế độ đóng góp hay mức hưởng đối với chủ sử dụng lao
động và người lao động sẽ ảnh hưởng đến quy mô quỹ, làm cho quỹ mất cân
đối, thu không đủ chi thì buộc NSNN phải hỗ trợ để đảm bảo nhu cầu chi trả
cho các đối tượng. Hầu hết các nước trên thế giới đang tìm mọi cách để điều
chỉnh chính sách, chế độ BHXH sao cho giảm tối đa sự hỗ trợ của NSNN cho
quỹ BHXH.
Bốn là, chính sách tiền lương của Chính phủ: Khi Chính phủ có sự điều
chỉnh về chính sách tiền lương như việc tăng mức tiền lương tối thiểu, điều
chỉnh lương nói chung, làm cho thu nhập của người lao động nhìn chung là
tăng lên, đặc biệt là nhóm đối tượng làm việc trong khu vực hành chính sự

nghiệp của Nhà nước, dó đó làm tăng nguồn thu của Quỹ BHXH.
Năm là, việc tuân thủ chính sách BHXH bắt buộc của Nhà nước: Thu
BHXH phụ thuộc vào số lượng người tham gia BHXH. Nếu tỷ lệ người năm
trong diện phải tham gia BHXH bắt buộc mà không tham gia BHXH vàng lớn
thì thất thu BHXH sẽ càng cao. Tỷ lệ này phụ thuộc vào tính hấp dẫn của
chính sách BHXH; các chế tài đối với các tổ chức, cơ quan, đơn vị trốn tham
gia BHXH; việc thực hiện chính sách BHXH của các tổ chức BHXH;...
Sáu là, nhận thức của người lao động về BHXH: Nếu người lao động có
sự hiểu biết và nhận thức cao về tầm quan trọng và ý nghĩa của BHXH thì họ
sẽ tự giác tham gia vào hệ thống BHXH, làm tăng thu BHXH.
1.2.2.2. Những nhân tố tác động đến chi Quỹ BHXH:
Một là, tổng mức chi các chế độ BHXH cho người được hưởng. Mức chi
các chế độ BHXH cho người thụ hưởng được xây dựng theo nguyên tắc:
người lao động đóng góp càng nhiều vào quỹ BHXH (mức đóng, thời gian
đóng) thì sẽ được hưởng mức cao do nguồn quỹ chi trả. Mức hưởng các chế
- 17 -
độ còn phụ thuộc vào tình trạng suy giảm sức khoẻ và tuổi đời của người
tham gia bảo hiểm. Mức trợ cấp thường thấp hơn thu nhập khi còn đang làm
việc.
Thông thường mức hưởng các chế độ BHXH của người lao động được
xác định trên cơ sở thu nhập bình quân trước thời điểm người lao động được
hưởng các chế độ BHXH nhân với tỷ lệ phần trăm (%). Tuy nhiên cũng có 1
số chế độ được quy định mức hưởng tuyệt đối chung cho mọi người có đủ
điều kiện được hưởng. Như vậy có thể khái quát công thức chung để tính tổng
mức chi cho người được hưởng các chế độ BHXH như sau:
TMC = ∑ TN
i
x TGH
i
x TLH

i

TMC: Tổng mức chi các chế độ BHXH cho người được hưởng.
i : Người được thụ hưởng thứ i.
TN
i
: Thu nhập bình quân của người lao động trước thời điểm họ được
hưởng chế độ BHXH.
TGH
i
: Thời gian người lao động được hưởng các chế độ.
TLH
i
: Tỷ lệ được hưởng của người được thụ hưởng.
Tổng mức chi các chế độ BHXH cho người được hưởng là nhân tố quyết
định, chiếm đại bộ phận trong tổng số chi của quỹ BHXH.
Hai là, chi cho hoạt động của bộ máy quản lý và chi phí cho hoạt động
đầu tư quỹ BHXH. Nguồn chi này chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn chi từ
quỹ. Tuy nhiên nếu tiết kiệm đến mức tối đa nguồn chi này thì cũng có nghĩa
là sẽ làm tăng nguồn để chi BHXH.
1.2.2.3. Ngoài nhân tố ảnh hưởng đến thu và chi của Quỹ BHXH, còn có
những nhân tố tác động trực tiếp đến công tác quản lý cân đối Quỹ BHXH và
nó có tác động gián tiếp đến cân đối Quỹ BHXH như: công tác tổ chức quản
lý Quỹ BHXH, năng lực và trình độ của cán bộ BHXH hệ thống thông tin
quản lý, cơ sở vật chất kỹ thuật quản lý,...Những nhân tố này nếu được tổ
- 18 -
n
i=1
chức quản lý và thực hiện tốt sẽ đem lại hiệu quả cao trong công tác quản lý
thu và chi BHXH; đặc biệt là việc cải cách hành chính trong công tác thu và

chi quỹ BHXH, từ đó tiết kiệm được các khoản chi không cần thiết từ quỹ
BHXH, đóng góp tích cực vào trạng thái cân đối Quỹ BHXH.
Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật, các chế độ chính sách về BHXH, sự
phối kết hợp giữa cơ quan, ban ngành; sự ổn định, phát triển kinh tế - xã hội;
dân trí; sự phát triển của thị trường tài chính;... cũng là những nhân tố mang
tính khách quan tác động đến tình hình cân đối quỹ BHXH. Nếu cơ chế, chính
sách về BHXH được thực hiện đồng bộ và có những định chế rõ ràng, phù
hợp với nền kinh tế - xã hội thì sẽ nhận được sự đồng tình của toàn xã hội và
sẽ làm gia tăng số người lao động tham gia BHXH và làm tăng thu cho quỹ
BHXH. Thị trường tài chính phát triển sẽ là môi trường hấp dẫn để thu hút
vốn đầu tư phát triển nền kinh tế, hàng hóa trên thị trường tài chính sẽ ngày
càng phong phú hơn và ngày càng có nhiều phương án đầu tư hơn để chọn lựa
đầu tư vừa đem lại hiệu quả cao lại rủi ro thấp rất phù hợp cho các khoản đầu
tư từ lượng tiền tạm thời nhàn rỗi của quỹ BHXH chưa sử dụng đến.
1.3. Khái quát về mô hình Quỹ BHXH của một số nước trên thế giới
và một số kinh nghiệm đối với nước ta về quản lý và cân đối Quỹ BHXH
1.3.1. Khái quát về mô hình quỹ BHXH.
Quá trình hình thành phát triển và hoàn thiện chính sách BHXH của các
nước trên thế giới đều gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, điều
kiện lịch sử và chế độ chính trị của từng nước. Chính vì vậy, hầu hết ở các
nước trên thế giới tuy đã ban hành chính sách chế độ BHXH, nhưng ở mỗi
nước chính sách, chế độ BHXH đều có đặc thù riêng; việc triển khai tổ chức
thực hiện các chế độ BHXH do nhiều tổ chức (tổ chức của Nhà nước và tư
nhân) cùng thực hiện. Thậm chí ngay một chế độ BHXH cũng do nhiều tổ
chức đảm nhận thực hiện. Nhưng phần lớn các nước đều đặc biệt quan tâm
đến chế độ hưu trí (trợ cấp tuổi già), vì thế chế độ này thường do tổ chức của
- 19 -
nhà nước thực hiện. Quỹ trợ cấp hưu trí cũng được nhiều quốc gia chú trọng,
không chỉ bởi nó là một quỹ thành phần chiếm tỷ trọng rất lớn trong toàn bộ
quỹ BHXH của quốc gia, mà nó là nguồn lực tài chính quan trọng để đảm bảo

chi trả lương hưu cho người được bảo hiểm trong khoảng thời gian dài. Sau
khi nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách BHXH, đi sâu vào lĩnh vực quỹ
BHXH của các nước như: Canađa, Pháp, Phần Lan, Thuỷ Điển, Đức, Đan
Mạch, Mỹ, Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêsia, Nhật, Ấn Độ... đưa ra một số
nhận xét sau:
Một là: để có nguồn lực tài chính chi trả các chế độ BHXH cho người
được bảo hiểm, hầu hết các nước đều quy định, mọi người lao động và chủ sử
dụng lao động phải đóng góp vào quỹ BHXH. Nhà nước với tư cách là Người
tổ chức, quản lý xã hội, đồng thời là chủ sử dụng lao động của mọi người lao
động có trách nhiệm đóng góp hoặc hỗ trợ trong trường hợp quỹ BHXH mất
cân đối (thu < chi).
Hai là: để được hưởng các chế độ BHXH, người được bảo hiểm phải đạt
được một số điều kiện nhất định như: có thời gian đóng góp vào quỹ BHXH,
mức độ suy giảm sức khoẻ, tuổi đời. Mức trợ cấp BHXH thường thấp hơn
mức thu nhập khi còn đang làm việc (trừ mức trợ cấp cho chế độ thai sản).
Ba là: về cân đối quỹ BHXH có hai loại hình chủ yếu sau đây:
Thứ nhất là quỹ BHXH được cân đối thu - chi trong từng năm; có nghĩa
là mọi nguồn thu để hình thành quỹ BHXH dùng để chi cho người được
hưởng các chế độ BHXH ngay trong năm đó, quỹ BHXH không có kết dư.
Trường hợp thu BHXH của chủ sử dụng lao động và người lao động không
đủ chi thì NSNN sẽ cấp bù.
Thứ hai là quỹ BHXH được cân đối dài hạn trong nhiều năm. Trong loại
hình này các quốc gia đặc biệt quan tâm đến quỹ trợ cấp hưu trí. Để đảm bảo
cân đối được quỹ hưu trí, cũng có hai mô hình quản lý và sử dụng quỹ để chi
trả cho người thụ hưởng:
- 20 -
* Mô hình chi trả lương hưu 1 lần: Người lao động hội tụ đủ các điều
kiện để hưởng chế độ hưu trí, ngay sau khi họ nghỉ làm việc để hưởng chế độ
hưu trí thì được cơ quan BHXH chi trả 1 lần bằng toàn bộ số tiền mà người
lao động và chủ sử dụng lao động đã đóng góp trước đây (được lưu giữ trong

một tài khoản cá nhân) cùng với số tiền lãi phát sinh hàng năm. Thực hiện mô
hình này, thì quỹ trợ cấp hưu trí không bao giờ mất cân đối; nhưng sẽ làm mất
tính chất bảo hiểm, mà chỉ mang tính chất “tiết kiệm bắt buộc”. Mô hình này
có ở các nước như: Nhật Bản, Ấn Độ, Inđônêsia.
* Mô hình chi trả lương hưu hàng tháng: Phần lớn các nước trên thế giới
thực hiện chi trả lương hưu hàng tháng cho người được bảo hiểm. Căn cứ vào
thời gian đóng góp vào quỹ, mức đóng góp hàng năm vào quỹ và tuổi đời của
họ để cơ quan BHXH xác định mức chi trả tiền lương hưu hàng tháng cho
người được hưởng. Các nước thực hiện quản lý quỹ và chi trả lương hưu theo
mô hình này đang gặp phải khó khăn là quỹ trợ cấp hưu trí đang có xu hướng
bị mất cấn đối do tuổi thọ bình quân của người hưởng lương hưu có xu hướng
ngày càng tăng, trong khi mức đóng góp và tuổi nghỉ hưu không điều chỉnh
tăng lên được.
1.3.2. Một số nhận xét qua khảo sát tình hình quản lý và sử dụng quỹ
BHXH của các nước trên thế giới.
- Nhà nước với tư cách là người tổ chức, quản lý xã hội, là chủ sử dụng
lao động của mọi người lao động, có trách nhiệm quản lý và tổ chức triển khai
chính sách BHXH đối với mọi người lao động. Chủ động điều chỉnh mức
đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động để hình thành quỹ
BHXH có đủ nguồn lực để chi trả kịp thời các chế độ BHXH cho người được
hưởng. Nhà nước cũng là người bảo hộ, đảm bảo sự cân đối cho quỹ BHXH
(đóng và hỗ trợ trong trường hợp quỹ BHXH bị mất cấn đối thu < chi).
- Hầu hết mọi quốc gia đều đặc biệt quan tâm đến quỹ trợ cấp hưu trí. Áp
dụng hình thức bảo hiểm bắt buộc đối với mọi người lao động thực hiện chế
- 21 -
độ bảo hiểm hưu trí. Nhà nước đứng ra tổ chức quản lý và thực hiện chế độ
bảo hiểm hưu trí đối với mọi người lao động. Quỹ trợ cấp hưu trí chủ yếu
được xây dựng theo mô hình tồn tích và dùng để chi trả lương hưu hàng tháng
cho người được thụ hưởng, điều đó thể hiện tính cộng đồng, trách nhiệm của
từng cá nhân với chính bản thân mình và với mọi người trong xã hội.

- Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung lớn, các quốc gia đều cho phép
sử dụng quỹ này để tham gia hoạt động đầu tư một mặt để phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước, mặt khác để bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH.
- Những nước thiết kế mô hình quỹ BHXH cân đối thu - chi trong từng
năm, gặp phải khó khăn là: nhu cầu chi từ quỹ BHXH luôn luôn có xu hướng
tăng (do nhiều nguyên nhân: yêu cầu tăng về sinh hoạt và đời sống, tăng tuổi
thọ...) trong khi việc điều chỉnh tăng nguồn thu gặp phải sự phản ứng của cả
chủ sử dụng lao động và người lao động. Chính vì vậy mà NSNN phải cấp bù
cho quỹ BHXH ngày càng tăng. Trong trường hợp có điều chỉnh tăng mức
đóng góp của chủ sử dụng lao động thì sẽ kéo theo phản ứng dây chuyền tác
động xấu tới sản xuất kinh doanh, dịch vụ của xã hội.
- Những nước thiết kế quỹ BHXH theo mô hình tồn tích, gặp phải khó
khăn là: thông thường các chế độ BHXH do nhiều tổ chức (của cả Nhà nước
và tư nhân) đảm nhận thực hiện. Chính vì thế mà quỹ BHXH không được
quản lý tập trung, thống nhất. Hình thành nhiều quỹ thành phần do nhiều tổ
chức quản lý, điều hành; các quỹ thành phần không điều tiết cho nhau được.
Do đời sống xã hội và điều kiện làm việc của người lao động ngày càng được
cải thiện, dẫn đến tuổi thọ của con người được nâng cao, đã xuất hiện tình
trạng quỹ trợ cấp hưu trí có xu thế bị mất cân đối nghiêm trọng; trong khi các
quỹ trợ cấp khác (quỹ trợ cấp ốm đau, tai nạn lao động...) thì lại dư thừa. Một
số nước trên thế giới có xu hướng muốn nhập các quỹ thành phần lại thành
một quỹ BHXH tập trung, thống nhất nhưng lại mắc phải sự phản ứng mạnh
mẽ của các tổ chức đang đảm nhận thực hiện các chế độ BHXH vì làm ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi ích của họ - chỉ là một bộ phận trong xã hội.
- 22 -
1.3.3. Một số kinh nghiệm cần tham khảo trong quá trình tổ chức quản lý và
cân đối quỹ BHXH đối với nước ta là:
- Nhà nước là người duy nhất quản lý và tổ chức thực hiện chính sách
BHXH đối với mọi người lao động. Thành lập tổ chức của Nhà nước để thực
hiện thống nhất tất cả các chế độ BHXH đối với người lao động. Từng bước

thực hiện các chế độ BHXH bắt buộc đối với tất cả mọi người lao động.
- Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ sự đóng góp của người lao
động, người sử dụng lao động và lãi từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ. Quỹ
BHXH được quản lý tập trung, thống nhất, hạch toán độc lập với NSNN,
được Nhà nước bảo hộ, hỗ trợ trong trường hợp quỹ bị mất cân đối (thu <
chi). Trong bất kỳ hoàn cảnh và thời gian nào, quỹ BHXH cũng phải có đủ
nguồn lực tài chính để chi trả đầy đủ kịp thời các chế độ BHXH cho người
được hưởng.
- Quỹ BHXH được thiết kế theo mô hình tồn tích chuyển giao sử dụng
không chỉ giữa những người cùng tham gia BHXH mà còn qua các thế hệ.
Quỹ BHXH dùng để chi trả cho người được thụ hưởng chỉ khi họ đạt được
một số điều kiện nhất định như đã có thời gian đóng góp vào quỹ BHXH, bị
suy giảm sức khoẻ và tuổi đời. Thực hiện chi trả tiền lương hưu cho người
được thụ hưởng hàng tháng, không thực hiện chi trả 1 lần như một số nước đã
làm. Cân đối quỹ BHXH phải được tính toán kế hoạch hoá trong thời gian dài
(từ 20 - 30 năm), trên cơ sở đó xác định được mức đóng góp của các bên tham
gia BHXH hình thành quỹ và quy định các chế độ BHXH, điều kiện để được
hưởng và mức hưởng của từng chế độ cho từng người được hưởng.
- Quỹ BHXH tạm thời nhàn rỗi được tham gia đầu tư để bảo toàn và tăng
trưởng quỹ nhưng phải đảm bảo hạn chế rủi ro, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội.
- 23 -
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ĐẢM BẢO CÂN ĐỐI QUỸ
BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
2.1. KHÁI QUÁT VỀ QUỸ BHXH Ở VIỆT NAM
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Quỹ BHXH ở Việt nam:
Quỹ BHXH ở nước ta được hình thành và phát triển qua các thời kỳ khác
nhau, nhưng nhìn chung có thể chia thành 2 thời kỳ chính là: thời kỳ trước
năm 1995 và thời kỳ từ năm 1995 đến nay.
• Thời kỳ trước năm 1995:

Ngay từ khi thành lập chính quyền và suốt trong thời kỳ kháng chiến,
mặc dù gặp nhiều khó khăn về mọi mặt, song Nhà nước ta đã quan tâm chăm
lo cải thiện đời sống của nhân dân lao động nói chung và công nhân, viên
chức Nhà nước nói riêng. Ngoài việc ban hành chế độ tiền lương, Chính phủ
đã ban hành các chế độ về phụ cấp, trợ cấp xã hội như: trợ cấp ốm đau, sinh
đẻ, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, trợ cấp già yếu, trợ cấp cho cá nhân
và gia đình công nhân, viên chức khi chết và xây dựng các khu an dưỡng,
điều dưỡng, bệnh viện, nhà trẻ,.... Cụ thể, Chính phủ đã ban hành các Sắc
lệnh: số 29/SL ngày 13/3/1947; số 76/SL ngày 20/5/1950 về quy chế công
chức và số 77/SL ngày 22/5/1950 về quy chế công nhân;
Các văn bản nói trên đã quy định những nội dung có tính nguyên tắc về
BHXH. Song do hoàn cảnh đất nước có chiến tranh và kinh tế còn khó khăn
nên Nhà nước chưa nghiên cứu chi tiết và thực hiện được đầy đủ các quyền
lợi về BHXH cho công nhân viên chức, mà các chế độ chủ yếu mang tính
cung cấp, bình quân với tinh thần đồng cam cộng khổ.
Ngày 14/12/1961, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 218/CP ngày
27/12/1961 kèm theo Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công
- 24 -
nhân viên chức Nhà nước. Nội dung chủ yếu của Điều lệ này là: mở rộng
thêm đối tượng tham gia BHXH; quy định mức đãi ngộ căn cứ vào sự cống
hiến và thời gian công tác, điều kiện làm việc, tình trạng mất sức lao động;
quy định 6 chế độ BHXH là: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất; mỗi chế độ đã được quy định cụ
thể về điều kiện hưởng, tuổi đời, mức hưởng... Nguồn kinh phí đảm bảo chi
trợ cấp do Quỹ BHXH của Nhà nước đài thọ từ NSNN.
Tiếp đó, Chính phủ đã ban hành một số Nghị định, Quyết định điều
chỉnh hoặc quy định rõ hơn về Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định
218/CP nói trên. Cụ thể là: Quyết định 219-CP ngày 29/5/1981 quy định các
cơ quan, đoàn thể, xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường trích nộp
hàng tháng vào Quỹ BHXH 4,7% so với tổng Quỹ tiền lương của công nhân

viên chức, trong đó 3,7% do Tổng công đoàn Việt nam quản lý để chi trả cho
3 chế độ BHXH ngắn hạn là: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp; 1% do Bộ Lao động (nay là Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội)
quản lý để chi cho 3 chế độ BHXH dài hạn là: mất sức lao động, hưu trí và tử
tuất; Quyết định 131-HĐBT ngày 30/10/1986 của Hội đồng Bộ trưởng về việc
sửa đổi tỷ lệ trích nộp kinh phí BHXH do Tổng công đoàn Việt nam quản lý,
theo đó, nâng tỷ lệ trích nộp BHXH do các cơ quan, đoàn thể, xí nghiệp, công
trường, nông trường, lâm trường nộp hàng tháng vào Quỹ BHXH do Tổng
công đoàn quản lý từ 3,7% lên 5% so với tổng Quỹ tiền lương của công nhân
viên chức; Quyết định 40-HĐBT ngày 16/03/1988 của Hội đồng Bộ trưởng về
việc sửa đổi tỷ lệ trích nộp kinh phí BHXH do Bộ Lao động thương binh và xã
hội quản lý, theo Quyết định này, nâng mức trích tỷ lệ trích nộp BHXH hàng
tháng vào Quỹ BHXH do Bộ Lao động - thương binh và xã hội quản lý từ 1%
lên 10% so tổng Quỹ tiền lương của công nhân viên chức.
Đối với hoạt động quản lý cân đối Quỹ BHXH: Trong thời kỳ này, có
nhiều văn bản pháp quy của Nhà nước quy định việc hình thành và sử dụng
quỹ BHXH như:
- 25 -

×