Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

bệnh ở dạ cỏ của gia súc nhai lại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.27 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
PHÒNG QUẢN LÝ SAU ĐẠI HỌC

BÀI THI
Môn: NỘI KHOA GIA SÚC
Hình thức thi: VIẾT TIỂU LUẬN

Chủ đề:

“BỆNH Ở DẠ CỎ CỦA GIA SÚC NHAI LẠI”

Giảng viên: TS. Phan Thị Hồng Phúc
Học viên: Nguyễn Thị Hồng vân
Lớp: Cao học Thú y K22

Thái Nguyên, tháng 9 năm 2015


I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong những năm gần đây, ngành chăn nuôi nước ta phát triển khá mạnh
góp phần quan trọng vào việc ổn định đời sống nhân dân và phát triển kinh tế xã hội. Trong đó, chăn nuôi trâu, bò có vai trò không thể thiếu trong việc giải
quyết nhu cầu thực phẩm, sức cày kéo và tăng thêm thu nhập cho nguời chăn nuôi.
Tuy nhiên, ngành chăn nuôi trâu, bò vẫn đang phải đối mặt với không ít khó khăn,
trong đó có vấn đề dịch bệnh. Ngoài các bệnh truyền nhiễm thì bệnh ký sinh trùng
thì bệnh nội khoa cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm năng suất chăn
nuôi. Một trong những bệnh nội khoa thường xảy ra và gây tác hại lớn đối với đàn
trâu, bò là bệnh ở dạ cỏ gia súc nhai lại. Để hiểu rõ hơn chúng ta cùng tìm hiểu
chuyên đề “Bệnh ở dạ cỏ của gia súc nhai lại”
II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Cấu tạo dạ dày động vật nhai lại Ở động vật nhai lại (động vật ăn cỏ) dạ dày


có cấu tạo gồm 4 ngăn (4 túi) là dạ cỏ, dạ tổ ong, dạ lá sách, dạ múi khế. Ba túi
trước được gọi là dạ dày trước tiêu hoá chủ yếu nhờ hệ vi sinh vật dạ cỏ, còn dạ múi
khế có chức năng tiêu hoá hoá học tương tự như ở dạ dày đơn.
1. Đặc điểm tiêu hoá ở dạ cỏ
1.1. Môi trường dạ cỏ và khu hệ vi sinh vật
a. Môi trường dạ cỏ
Môi trường dạ cỏ với các đặc điểm thiết yếu cho sự lên men vi sinh vật đó là:
Có độ ẩm cao (85-90%), độ pH cao (6,4-7,0), luôn luôn được đệm bởi
bicarbonate và phosphates của nước bọt, nhiệt độ khoảng 39 - 40 0C, luôn luôn được
nhào trộn bởi sự co bóp của dạ cỏ, dòng dinh dưỡng lưu thông liên tục: Sản phẩm
cuối cùng của quá trình lên men ra khỏi dạ cỏ và các cơ chất được nạp vào thông
qua thức ăn ăn vào hàng ngày, có sự chế tiết vào dạ cỏ những chất cần thiết cho
VSV phát triển và khuyếch tán ra ngoài những sản phẩm tạo ra trong dạ cỏ. Ðiều
này làm cho áp suất thẩm thấu của dạ cỏ luôn ổn định. Thời gian thức ăn tồn lưu
trong dạ cỏ kéo dài tạo điều kiện cho vi sinh vật công phá. Những điều kiện đó là lý


tưởng cho sự phát triển của vi sinh vật dạ cỏ. Ðiều này được đánh giá bởi sự phong
phú về chủng loại và mật độ vi sinh vật.
Môi trường dạ cỏ được kiểm soát và điều khiển bởi nhiều yếu tố như: Số
lượng và chất lượng thức ăn ăn vào; Nhào trộn theo chu kỳ thông qua co bóp dạ cỏ;
Nước bọt và nhai lại; Khuyếch tán và chế tiết vào dạ cỏ; Hấp thu dinh dưỡng từ dạ
cỏ; Chuyển dịch các chất xuống bộ máy tiêu hóa.
b. Hệ vi sinh vật dạ cỏ
Hệ sinh vật dạ cỏ rất phức tạp và phụ thuộc nhiều vào khẩu phần. Nó gồm
các loại: vi khuẩn, Protozoa, nấm. Tất cả đều là vi sinh vật yếm khí và sống chủ yếu
bằng năng lượng sinh ra từ quá trình lên men các chất dinh dưỡng
- Nấm (Phycomycetes) Nấm dạ cỏ đóng vai trò tiên phong trong việc công
phá xơ. Cơ chế thâm nhập được tóm tắt như sau: Ðầu tiên các bào tử nấm dính vào
chất xơ trong thức ăn mới ăn vào và thâm nhập vào bên trong mô thực vật. Sau đó

chúng nẩy mầm và mọc xuyên qua cấu trúc thực vật ra ngoài. Bằng cách đó, chúng
làm giảm độ dai của mẩu thức ăn và nhờ vậy tăng khả năng công phá vật lý khi thức
ăn này được nhai lại. Một vai trò quan trọng của nấm trong quá trình tiêu hóa
Cellulose là nó tạo ra những vùng tổn thương trên bề mặt các mẫu thức ăn thực vật,
tạo ra các "cửa mở" cho vi khuẩn dễ dàng chui vào bên trong để tiếp tục quá trình
công phá. Vì lẽ đó nếu không có đủ một quần thể nấm mạnh trong dạ cỏ, pha chậm
của quá trình tiêu hóa xơ bị kéo dài do vi khuẩn mất nhiều thời gian để thâm nhập
vào trong cấu trúc thực vật của thức ăn.
- Vi khuẩn (Bacteria) Vi khuẩn có mặt trong dạ cỏ có số lượng lớn nhất so
với các ví sinh vật khác. Hầu hết các tài liệu cho biết số lượng vi khuẩn trong dạ cỏ
dao động từ 1010 - 1011 tế bào trong 1 ml dịch dạ cỏ ghi nhận rằng ở cả cừu con và
bê , trong dạ cỏ được xâm nhập bởi một số lượng lớn và đa dạng vi khuẩn ngay
ngày đầu sau khi sinh. Mật độ vi khuẩn tăng dần trong những tuần đầu và sau đó
tồn tại ở mức ổn định. Preston và Leng (1987) chia vi khuẩn thành 4 nhóm chính:
+ Nhóm vi khuẩn tự do trong dịch dạ cỏ (chiếm khoảng 30% so với tổng số)
+ Nhóm vi khuẩn kết dính vào các mẩu thức ăn (khoảng 70%)
+ Nhóm vi khuẩn trú ngụ vào các nếp gấp biểu mô


+ Nhóm vi khuẩn bám vào Protozoa (chủ yếu là loại sinh khí metan). Thức
ăn liên tục chuyển khỏi dạ cỏ cho nên phần lớn vi khuẩn bám vào thức ăn sẽ bị tiêu
hóa đi. Vì vậy số lượng vi khuẩn tự do trong dịch dạ cỏ rất quan trọng để xác định
tốc độ công phá và lên men thức ăn. Vi khuẩn là nhóm vi sinh vật có vai trò chính
trong quá trình tiêu hóa các vật liệu thành vách tế bào thực vật. Vi khuẩn sản xuất ra
enzyme (kết lại thành mảng enzyme trong dạ cỏ) có khả năng công phá cellulose,
hemicellulose, phức chất pectin ... thành cellobiose, glucose và acid béo bay hơi. Ðể
có thể thực hiện được chức năng này, vi khuẩn phải thâm nhập vào bên trong mẫu
thức ăn, thông thường là ở các vị trí đã phá sẵn bởi sự xâm thực của nấm.
-Protozoa Protozoa là thành phần có kích thước lớn nhất trong khu hệ vi sinh
vật dạ cỏ. Protozoa có mặt trong dạ cỏ biến động từ 105- 106 cá thể trong 1 ml dịch

dạ cỏ. Số lượng Protozoa tùy thuộc vào khẩu phần thức ăn. Ở các khẩu phần giàu
tinh bột thì lượng Protozoa có thể lên tới 4-5 triệu trong 1ml dịch dạ cỏ, nhưng
ngược lại ở khẩu phần giàu xơ (rơm rạ...) thì số lượng Protozoa chỉ có 4-5 ngàn cá
thể trong 1 ml dịch dạ cỏ. Protozoa sử dụng vi khuẩn, các tiểu phần protein, tinh bột
làm nguồn dinh dưỡng của chúng, một vài loại Protozoa có khả năng phân giải
cellulose, nhưng cơ chất chính của chúng vẫn là tinh bột và đường. Các loại này sẽ
được Protozoa nuốt nhanh chóng và dự trữ dưới dạng poly-dextrin (dextrin phân tử
lớn), nhờ vậy mà Protozoa tham gia vào quá trình điều tiết pH dạ cỏ ở những khẩu
phần có hàm lưọng tinh bột cao. Phần lớn thảo phúc trùng là bám chặt vào các vật
liệu thực vật trong thức ăn và chúng có thể đóng góp đến 30-40% tổng quá trình
tiêu hóa xơ bằng vi sinh vật. Protozoa có thể phân hủy và tiến hành phân hóa các
protein lớn, hydratecarbon, lipid trong thức ăn. Hầu hết Protozoa có khả năng phân
hủy xơ bởi vậy chúng có vai trò tích cực trong quá trình tiêu hóa ở dạ cỏ. Protozoa
được xem là con vật săn mồi trong hệ sinh thái dạ cỏ. Chúng có thể ăn những mảnh
thức ăn nhỏ, các bào tử nấm hay là vi khuẩn, điều đó dẫn đến số lượng Protozoa
càng nhiều nhưng số lượng nấm và vi khuẩn càng giảm. Protozoa không thích ứng
với NH3 mà nguồn nitơ chủ yếu của chúng là vi khuẩn và các tiểu phần protein.
Ðiều đáng tiếc là Protozoa không dễ dàng di chuyển xuống phần dưới của ống tiêu
hóa để biến thành nguồn cung cấp dinh dưỡng cho vật chủ mà nó có khuynh hướng


bám chặt, trú ngụ lâu dài và tiêu biến trong dạ cỏ. Như vậy, kết quả là Protozoa
"ăn" quá nhiều nhưng không trở thành nguồn dinh dưỡng cho động vật nhai lại, mặt
khác sự phát triển của Protozoa đã ảnh hưởng đến số lượng nấm và vi khuẩn nên
đã ảnh hưởng gián tiếp đến quá trình tiêu hóa vi sinh vật trong dạ cỏ.
1.2. Quá trình tiêu hóa và trao đổi chất trong dạ cỏ
a,Tiêu hóa carbohydrate
Quá trình lên men Carbohydrate trong dạ cỏ bao gồm hai giai đoạn: Giai
đoạn 1: Carbohydrate được phân giải đến đường đơn giản, giai đoạn này xẩy ra bên
ngoài màng tế bào vi sinh vật. Giai đoạn 2: là giai đoạn sử dụng những đường đơn

giản này cho quá trình trao đổi chất xẩy ra bên trong tế bào vi sinh vật, để tạo thành
các sản phẩm lên men cuối cùng. Enzyme được tiết ra bởi vi sinh vật tiêu hóa xơ sẽ
tấn công phá vỡ cấu trúc phức tạp của cellulose thành cellobiose, sau đó cellobiose
được phân hủy tiếp tục để hoặc tạo thành glucose hoặc glucose - 1 phosphate. Quá
trình lên men Carbohydrate có cấu trúc bắt đầu sau pha chậm. Trong pha chậm này
vi khuẩn bám chặt vào các thành phần không hòa tan của thức ăn và các enzyme
được tổng hợp. Một lượng nhỏ carbohydrate hòa tan trong khẩu phần có vai trò thúc
đẩy quá trình phân giải carbohydrate không hòa tan bằng cách thúc đẩy sự tăng
sinh khối vi khuẩn. Carbohydrate không có cấu trúc không đòi hỏi pha chậm và quá
trình lên men với tốc độ nhanh, diễn ra ngay sau khi ăn vào. Ðường tự do đưọc xem
như bị phân hủy ngay lập tức. Mặc dù tỷ lệ phân giải tiềm tàng cao, nhưng một số
carbohydrate như là tinh bột, fructose được thoát qua dạ cỏ. Nhìn chung khoảng
90% của tổng số cellulose, hemicellulose, pectin và đường tự do được phân hủy ở
dạ cỏ. Phần còn lại được xem như được tiêu hóa ở ruột già. Sản phẩm cuối cùng của
quá trình lên men là: Các acid béo bay hơi (VFA), chủ yếu là acid acetic, propionic,
và butyric. Tỷ lệ giữa các acid này tùy thuộc rất lớn vào cấu trúc của khẩu phần ăn.
Ngoài ra quá trình lên men còn tạo ra các loại khí: carbonic, metan. Các acid béo
bay hơi được sản xuất trong quá trình lên men trong dạ cỏ được hấp thu vào dòng
máu lưu thông qua vách dạ cỏ. Ðó chính là nguồn năng lượng cho động vật nhai lại,
nó cung cấp khoảng 70 - 80% tổng số năng lượng được hấp thu bởi gia súc nhai lại
(Vermorel, 1978).


b- Quá trình tiêu hóa các hợp chất chứa nitơ trong dạ cỏ
Protein thô có thể được phân thành loại hòa tan và loại không hòa tan. Cả hai
loại đều chứa protein thực và ni tơ phi prôtêin (NPN). Cũng giống như
carbonhydrate loại hòa tan được phân giải hầu như hoàn toàn và ngay lập tức sau
khi ăn vào. Loại prôtêin không hòa tan chứa cả phần được phân giải và phần không
được phân giải tại dạ cỏ. Tốc độ phân giải phụ thuộc vào nhiều yếu tố như loại thức
ăn, khẩu phần và thời gian lưu lại trong dạ cỏ, các yếu tố này tùy thuộc vào mức độ

nuôi dưỡng và kích thước của thức ăn. Cả vi khuẩn và Protozoa đều có khả năng
thủy phân mạch peptid trong phân tử prôtêin cho sản phẩm là các acid amin, đây
chính là nguồn nguyên liệu cho quá trình tổng hợp nên đại phân tử prôtêin của sinh
khối vi sinh vật. Mặt khác vi sinh vật còn khử nhóm amin của các acid amin và
mạch carbon còn lại sẽ được chuyển thành VFA, CO2, CH4 và H2O, Một số ATP,
một số acid béo mạch ngắn cũng được hình thành từ con đường này.
c - Quá trình phân giải lipid trong dạ cỏ
Lipid trong thức ăn của gia súc nhai lại thường có hàm lượng thấp (thường
từ 4-6%). Các dạng lipid là triglycerid, galactolipid (thành phần chính lipid trong
các loại thức ăn xơ) và phospholipid. Enzyme của cây cỏ và của vi khuẩn đều liên
quan đến quá trình phân giải lipid. Có nhiều bằng chứng rõ ràng của quá trình trao
đổi lipid diễn ra ở dạ cỏ là phản ứng tách ghép hydro của lipid thức ăn, và quá trình
tạo lipid mới cho tế bào vi sinh vật. Một khía cạnh khác của quá trình trao đổi lipid
trong dạ cỏ của động vật nhai lại là quá trình hóa hợp hydro vào acid béo không no.
Như chúng ta đều biết, mỡ mô của loài nhai lại có độ no cao hơn nhiều so với động
vật dạ dày đơn. Nguyên nhân, mà đến nay được chấp nhận một cách rộng rãi là quá
trình sinh hydro diễn ra ngay tại dạ cỏ chứ không phải tại mô bào như ở động vật dạ
dày đơn. Trước khi quá trình tạo hydro xẩy ra có quá trình thủy phân acid béo khỏi
mạch liên kết este của chúng. Hiệu suất thực của quá trình sinh và hợp hóa hydro là
các chuổi acid béo mạch dài, là nguồn lipid chủ yếu được hấp thu ở ruột, trong đó
phần lớn là acid stearic tự do. Một vấn đề quan trọng nữa là nếu hàm lượng lipid
cao trong khẩu phần của gia súc nhai lại có thể tạo ra ảnh hưởng âm tính đến khu hệ
vi sinh vật dạ cỏ, vì thế có thể ảnh hưởng đến quá trình thủy phân lipid và quá trình


no hóa các acid béo trong dạ cỏ. Nhiều ý kiến cho rằng mức độ cao của lipid trong
khẩu phần có thể gây độc cho Protozoa trong dạ cỏ.
d - Quá trình tổng hợp trong dạ cỏ
Quá trình tăng sinh khối vi sinh vật dạ cỏ đòi hỏi nguồn năng lượng và
nguyên liệu ban đầu cho các phản ứng hóa sinh tổng hợp nên các đại phân tử. Trong

đó quan trọng nhất là prôtêin, acid nucleic, polysaccaride và lipid. Các vật chất ban
đầu và năng lượng cho quá trình phát triển của vi sinh vật từ quá trình phân giải vật
chất trong dạ cỏ. Nhiều tác giả đã chứng minh rằng sự phát triển của khu hệ sinh vật
dạ cỏ tùy thuộc rất lớn vào nguồn năng lượng sẵn có như ATP cho các phản ứng
hóa sinh. Vì lý do vậy nên hiệu suất sinh trưởng vi sinh vật được diễn đạt bằng gam
vật chất khô (VCK) vi sinh vật hoặc là prôtêin vi sinh vật / đơn vị năng lượng sẵn

2. BỆNH DẠ CỎ Ở GIA SÚC NHAI LẠI
2.1. Bệnh bội thực dạ cỏ
2.1.1. Đặc điểm
- Tích thức ăn trong dạ cỏ: do trong dạ cỏ chứa nhiều thức ăn khó tiêu hóa
làm cho thể tích dạ dày tăng lên gấp bội, vách dạ dày căng.
- Thức ăn tích lại lâu trong dạ cỏ thường kế phát viêm ruột và gây rối loạn hô
hấp, cơ thể bị nhiễm độc và con vật chết.
- Trâu, bò hay mắc (chiếm 40% trong các bệnh ở dạ dày 4 túi).
- Bệnh tiến triển chậm (thường xảy ra sau khi ăn từ 6-9 giờ)
2.1.2. Nguyên nhân gây bệnh
- Do ăn quá no. Trâu, bò ăn quá no các loại thức ăn thô như rơm, cỏ khô, cây
họ đậu, bã đậu, hoặc do nhịn đói lâu ngày đột nhiên ăn no, ăn xong uống nhiều
nước lạnh ngay đều có thể dẫn đến dạ cỏ bội thực.
- Do chăm sóc kém hoặc thay đổi thức ăn đột ngột, trâu, bò cày kéo mắc
bệnh thường do làm việc quá mệt nhọc, ăn xong đi làm ngay, bò sữa mắc bệnh do
thiếu vận động.
- Do cơ thể trâu, bò suy yếu, bộ máy tiêu hóa hoạt động kém hoặc do kế phát
từ bệnh khác như nghẽn dạ lá sách, liệt dạ cỏ, viêm dạ tổ ong do ngoại vật, và dạ
múi khế biến vị.
- Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm (bệnh cúm, bệnh tụ huyết trùng,...)


2.1.3. Cơ chế phát bệnh

Hoạt động của dạ cỏ do hệ thần kinh thực vật chi phối vì vậy những nhân tố
gây bệnh ở bên ngoài hay trong cơ thể đều làm trở ngại hoạt động của thần kinh mê
tẩu, làm giảm vận động của dạ cỏ, cuống hạ vị co thắt làm cho thức ăn tích lại ở dạ
cỏ. Thức ăn lên men, thối rữa sinh ra nhiều hơi và các sản vật phân giải như các loại
khí và axit hữu cơ. Những chất này kích thích vào vách dạ cỏ, làm cho dạ cỏ co giật
từng cơn, con vật đau đớn không yên. Nếu hơi sinh ra nhiều sẽ gây ra chướng hơi,
hơn nữa thức ăn trong quá trình lên men sẽ trương to làm căng vách dạ dày dẫn tới
dãn dạ dày. Bệnh tiến triển làm cơ trơn co bóp yếu dần, bệnh nặng thêm, vách dạ cỏ
bị kích thích gây viêm hoại tử, chất phân giải trong dạ cỏ ngấm vào máu gây trúng
độc.
2.1.4. Triệu trứng của bệnh
- Bệnh mới phát: Con vật giảm ăn hay không ăn, ngừng nhai lại, hơi ợ ra có
mùi chua, chảy dãi, con vật đau bụng tỏ vẻ không yên, khó chịu.
- Đuôi quất mạnh vào thân, đi xoay quanh cọc buộc, lấy chân sau đạp bụng,
đứng nằm không yên (có khi chống 4 vó giẫy giụa) khi dắt đi nhìn thấy vật của
động cứng nhắc, hai chân dạng ra.
- Mé trái bụng con vật phình to, sờ nắn thấy chắc, ấn tay vào có dạng bột
nhão, con vật đau, cho tay vào trực tràng sờ vào dạ cỏ thấy chắc như sờ vào túi bột,
con vật rất khó chịu.
- Gõ vào vùng dạ cỏ thấy âm đục tương đối lẫn lên vùng âm bùng hơi. Vùng
âm đục tuyệt đối lớn và chiếm cả vùng âm đục tương đối. Tuy vậy nếu có vật
chướng hơi kế phát thì khi gõ thì khi gõ vẫn có âm bùng hơi.
- Khi nghe thấy có âm nhu động dạ cỏ giảm hay ngừng hẳn, nếu bệnh nặng
thì vùng bụng trái chướng to, con vật thở nhanh, nông, tim đập mạnh, chân đi loạng
choạng, run rẩy, mệt mỏi, cũng có khi nằm mê mệt không muốn dậy.
- Có thể gây viêm ruột kế phát, lúc đầu con vật đi táo, sau khi đi ỉa chảy sốt
nhẹ.
2.1.5. Chẩn đoán
Trâu, bò mắc bệnh này thường có những đặc điểm sau:



- Bụng trái căng to, sờ vào chắc, ấn tay vào vùng dạ cỏ để lại vết tay, trâu, bò
không ăn, nhai lại giảm. Để chẩn đoán cần phân biệt với các bệnh:
+ Dạ cỏ trướng hơi: Bệnh phát ra nhanh, vùng bụng trái căng to, sờ vào dạ cỏ
căng như quả bóng, gia súc khó thở, chết nhanh.
+ Liệt dạ cỏ: Nắn vùng bụng cảm thấy thức ăn nát như cháo, nhu động dạ cỏ
căng như quả bóng, gia súc khó thở, chết nhanh.
+ Viêm dạ tổ ong ngoại vật: Con vật có triệu chứng đau khi khám vùng dạ tổ
ong.
2.1.6. Tiên lượng
- Nhẹ sau 3 – 5 ngày sẽ khỏi
- Nếu kế phát gây chướng hơi, viêm ruột hay nhiễm độc thì có thể chết
2.1.7. Điều trị
Nếu bệnh nhẹ, không kế phát bệnh khác thì sau 3 - 5 ngày sẽ khỏi, nếu kế
phát chướng hơi, viêm ruột hay nhiễm độc thì có thể chết.
Nếu ở bệnh nặng phải làm hồi phục và tăng cường nhu động dạ cỏ, tìm cách
thải thức ăn tích lâu ngày trong dạ cỏ:
- Cho gia súc nhịn ăn 2 - 3 ngày (không hạn chế uống nước) tăng cường xoa
bóp vùng dạ cỏ, dắt cho gia súc vận động để tăng cường cơ năng vận động của dạ
cỏ.
- Những ngày sau cho gia súc ăn một ít thức ăn mềm, dễ tiêu và cho ăn làm
nhiều lần trong ngày, đồng thời có thể thụt ruột cho gia súc bằng nước ấm.
- Để tống chất chứa trong dạ cỏ ra ngoài cho uống:
+ Sulfat natri: 300 - 500 g/con trâu, bò;
+ Dầu thầu dầu: 400 - 500ml;
+ Dùng pilocarpin: 0,1 - 0,2g tiêm dưới da cho trâu, bò.
- Nếu bệnh chuyển biến tốt, dùng HCl 10 - 12ml hòa vào 1 lít nước cho uống
ngày 2 - 3 lần.
Đề phòng thức ăn lên men dùng ichthyol 20 - 30g cho 1 trâu bò, cho uống
hoặc dùng formol hòa thành dung dịch 1% cho uống 10 - 15ml đối với trâu bò.



- Có thể dùng lý liệu pháp để kích thích nhu động dạ cỏ, nếu bệnh nặng phải
can thiệp bằng phẫu thuật ngoại khoa: mổ dạ cỏ lấy thức ăn ra.
- Nếu trâu, bò có hiện tượng suy tim, dùng cafein hoặc long não để trợ tim.
- Nếu bội thực dạ cỏ có kế phát chướng hơi cấp tính phải dùng troca chọc
thoát hơi.
Trong thực tế lâm sàng có thể chữa bằng cách cho trâu, bò uống dung dịch
gồm: 100g muối ăn, giã với tỏi hòa vào 1 lít nước cho uống. Dùng biện pháp moi
phân hay thụt ruột để kích thích nhu động dạ cỏ.
Nên dùng hyđroxit amon 10% pha vào 1 - 1,5 lít nước cho trâu bò uống để
hạn chế lên men dạ cỏ và kích thích tiêu hóa, ngày uống 1 - 2 lần;
2.2. Bệnh liệt dạ cỏ
2.2.1. Đặc điểm
Bệnh làm cho dạ cỏ co bóp kém và dẫn đến liệt, thức ăn trong dạ cỏ, dạ múi
khế
không được xáo trộn và tống về đằng sau.
- Thức ăn tích lại trong dạ cỏ, dạ tổ ong, dạ múi khế và bị thối rữa, lên men
sinh ra chất độc, làm cho cơ thể bị trúng độc và hại cho hệ thống thần kinh thực
vật.
- Làm trở ngại cơ năng vận động của dạ cỏ, làm gia súc gi ảm ăn, giảm nhai
lại và thường kế phát viêm ruột, cuối cùng con vật trúng độc chết.
- Trâu, bò hay mắc; ở dê cừu ít mắc.
2.2.2. Triệu chứng
Do cơ thể suy nhược (chiếm khoảng 40%), thường gặp ở những trường hợp
sau:
+ Do thức ăn khan hiếm, gia súc bị đói, ăn rơm bị mốc, thối nát nên thi ếu
sinh tố.
+ Do gia súc bị


các bênh tim, gan, thân, rối loạn trao đổi chất, hay mắc

những bênh mạn tính khác.
- Do chăm sóc nuôi dưỡng gia súc không đúng phương pháp


+ Cho ăn lâu ngày những thức ăn hạn chế nhu động cơ trơn (trâu bò ăn nhiều
thức ăn
tinh, kém thức ăn thô xanh).
+ Cho ăn thức ăn có tính kích thích mạnh làm cho nhu động dạ cỏ quá hưng
phấn, đến
giai đoạn sau sẽ làm giảm trương lực của cơ nhu động dạ cỏ giảm sau đó liệt
+ Do cho ăn những thức ăn quá đơn điệu hay thay đổi thức ăn quá đột ngột.
+ Do chế độ quản lý gia súc không hợp lý, gia súc làm việc quá sức, thay đổi
đi ều kiện chăn thả.
- Do kế phát của một số bệnh khác
+ Kế phát từ một số bênh nội khoa (dạ cỏ bội thực, dạ cỏ chướng hơi, viêm
dạ tổ ong do ngoại vât, viêm phúc, mạc),
+ Kế phát từ một số BTN (bênh cúm, bênh tụ huyết trùng)
+ Kế phát từ một số bệnh KST (sán lá gan, ký sinh trùng đường máu) hoặc
do trúng độc cấp tính
2.2.3. Cơ chế
Tác động bênh lý → trở ngại tới hoạt động của hệ thần kinh trung ương, thần
kinh thực vật → trở ngại sự hoạt động của tiền vị làm cho cơ dạ cỏ giảm nhu động
và dẫn đến liệt.
- Khi dạ cỏ bị liêt, những thức ăn tích lại trong dạ cỏ, dạ lá sách lên men,
thối rữa sinh ra các chất độc và được hấp thụ vào máu gây ảnh hưởng đến tiêu hoá
và trạng thái toàn thân của con vât (do những sản phẩm phân giải từ dạ cỏ hấp phụ
vào máu, làm giảm cơ năng thải độc của gan, lượng glycozen trong gan giảm dần
dẫn đến chứng xêton huyết, lượng kiềm dự trữ trong máu giảm dẫn tới trúng độc

toan. Đồng thời do thức ăn lên men, các sản phẩm sinh ra kích thích vào vách dạ
dày gây nên chứng viêm hoại tử ở dạ dày, viêm cata ở dạ múi khế và ruột → bênh
trở nên nặng thêm).
- Do quá trình lên men đã làm thay đổi pH của dạ cỏ: từ kiềm yếu chuyển
sang toan (do lượng axit hữu cơ đột ngột tăng lên trong dạ cỏ) gây bất lợi cho sự
sống của các vi sinh vât phân giải xellulo và infusoria trong dạ cỏ, mặt khác những


sản vât sinh ra ở dạ cỏ còn kích thích tới sự cảm thụ hoá học ở vách dạ dày nên
sinh ra những cơn co giât ở dạ dày. Những dịch lỏng trong dạ dày, chảy vào dạ múi
khế và ruột làm ảnh hưởng đến nhu động của dạ dày và ruột và làm cho dạ lá sách
căng to (do thức ăn chưa được làm mềm, theo dịch thể tràn vào dạ lá sách). Những
kích thích bênh liên tục truyền đến hê thần kinh trung ương, làm tế bào thần kinh
mêt mỏi, con vât rơi vào trạng thái bị ức chế.
2.2.4. Triệu chứng
Thể cấp tính
+ Con vật gi ảm ăn, thích ăn thức ăn thô hơn thức ăn tinh, khát nước,
+ Nhai lại giảm hoặc ngừng hẳn, nhu động dạ cỏ kém hoặc mất.
+ GS hay ợ hơi, hơi có mùi hôi thối.
+ GS thích nằm, mệt m ỏi, niêm mạc miệng khô.
+ Sờ nắn vùng dạ cỏ qua trực tràng thấy thức ăn như cháo đặc,
+ Vùng bụng trái sưng to, con vât khó thở.
+ Phân lỏng lẫn chất nhầy, khi kế phát viêm ruột thì phân loãng và thối.
+ Nếu bệnh nặng con vât có cơn co giât, sau đó con vât chết.
- Thể mạn tính
+ GS ăn uống thất thường, nhai lại giảm,
+ GS ợ hơi thối,
+ Dạ cỏ giảm nhu động nên thường chướng hơi nhẹ,
+ Phân lúc táo, lúc lỏng,
+ Không sốt nếu không kế phát bệnh khác

+ GS gầy dần, sau đó suy nhược rồi chết.
2.2.5. Bệnh tích
- Thể tích của dạ cỏ và dạ múi khế tăng, vùng dạ cỏ trũng xuống
- Thức ăn trong dạ lá sách khô l ại
- Dạ cỏ chứa đầy dị ch nhầy có mùi thối
- Niêm mạc dạ dày viêm hoặc xuất huyết
2.2.6. Chẩn đoán


- Triệu chứng lâm sàng: nhu động dạ cỏ giảm, hoặc ngừng hẳn, nhai lại
giảm, kém ăn, thỉnh thoảng chướng hơi, lúc đầu đi táo, sau đó iả chảy, thức ăn trong
dạ cỏ nát như cháo.
- Chẩn đoán phân biệt với các bệnh:
+ Dạ cỏ chương hơi: Bệnh phát ra đột ngột, vùng bụng trái phồng to, căng
như quả bóng,
con vât ngạt thở, niêm mạc tím bầm, nếu can thiệp không kịp thời con vât sẽ
chết.
+ Viêm dạ dày- ruột cấp tính: Gia súc hơi sốt, trong dạ cỏ không tích hơi và
đọng lại thức ăn, nhu động ruột tăng, ỉa chảy.
+ Viêm dạ to ong ngoại vật: Con vât cũng liệt dạ cỏ, thay đổi tư thế đứng,
dạng 2 chân trước khi xuống dốc, đau, nghiến răng, phù yếm. Bệnh thường gây
viêm phúc mạc, viêm ngoại tâm mạc kế phát
2.2.7. Tiên lượng
Bệnh mới phát thì sau khi điều trị 3-5 ngày con vật bình phục trở lại. Bệnh ở
dạng mạn tính tiên lượng xấu.
2.2.8. Điều trị
Nguyên tắc điều trị : làm tăng nhu động dạcỏ, làm giảm chất chứa.
- Dùng thuốc điều trị :
+ Dùng thuốc làm tăng cường nhu động dạ cỏ:
+) Magiesulfat: 300 g/trâu, bò; 200 g/bê, nghé. Hòa với 1 lít nước cho con

vật uống 1
lần trong ngày đầu điều trị .
+) Pilocacpin 3%: trâu, bò (3-6 ml/con); bê, nghé (3ml/con). Tiêm bắp ngày
1lần.
+) NaCl 10%: trâu, bò (200 - 300ml/con); bê, nghé (200ml/con). Tiêm chậm
vào tĩnh
mạch ngày 1 lần.
+ Dùng thuốc ức chế lên men sinh hơi của dạ cỏ
+ Điều chỉnh hệ thần kinh, tránh những kích thích bệnh lý


Dùng thuốc trợ sức, trợ l ực, nâng cao sức đề kháng và táng cường giải độc
Glucoza 20%
Cafein natribenzoat 20%
Canxi clorua 10%
Urotropin 10%
Vitamin C 5% 20
Tiêm chậm vào tĩnh mạch ngày 1 lần.
- Trường hợp viêm mạn tính dùng nước muối nhân tạo cho uống
- Nếu liệt dạ cỏ do thần kinh giao cảm quá hưng phấn:
Novocain 0,25% 20 - 40ml phong bế vùng bao thận.
- Để tăng cường quá trình tiêu hoá:
HCl 0,5% 500ml cho uống;
Rượu tỏi 40 - 60ml cho uống.
- Nếu chướng hơi dạ cỏ kế phát: Cho uống thuốc để ức chế lên men trong dạ
cỏ.
- Nếu kế phát ỉa chảy: Cho uống tanin và thuốc kháng sinh chống nhiễm
khuẩn đường ruột cho nhịn 1-2 ngày (không hạn chế uống nước) sau đó cho ăn thức
ăn dễ tiêu, cho ăn
ít và nhiều lần trong ngày.

- Xoa bóp vùng dạ cỏ (ngày từ 1-5 lần, mỗi lần khoảng 10-15 phút), cho gia
súc vận động nhẹ. Trường hợp gia súc đau nhiều không nên xoa bóp vùng dạ cỏ.
2.3. Chướng hơi dạ cỏ cấp tính
2.3.1. Đặc điểm
- Do gia súc ăn nhiều thức ăn dễ lên men, sinh ra nhiều hơi tích trong dạ cỏ
→ dạ cỏ chướng hơi phình to, ép vào cơ hoành làm trở ngại tới hô hấp và tuần hoàn
→ gia súc khó thở hay ngạt thở.
- Ở nước ta bệnh hay xảy ra vào vụ đông xuân, lúc cỏ non đang mọc và còn
nhiều sương giá
2.3.2. Nguyên nhân


Do gia súc ăn nhiều thức ăn dễ lên men, sinh hơi (thức ăn xanh chứa nhiều
nước, những cây họ đâu, thân cây ngô non, lá dâm bụt,...) hoặc gia súc ăn phải
những thức ăn đang lên men dở (cây, cỏ, rơm mục).
- Do gia súc ăn phải thức ăn có chứa chất độc (chất độc hợp chất phospho
hữu cơ)
- Do gia súc làm việc quá sức hoặc do thời tiết thay đổi quá đột ngột làm ảnh
hưởng tới bộ máy tiêu hoá.
- Bệnh phát sinh còn do kế phát từ bệnh liệt dạ cỏ, viêm dạ tổ ong, viêm
phúc mạc, liệt thực quản, tắc thực quản hay do gia súc nằm liệt lâu ngày.
- Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm (cúm, tụ huyết trùng,...).
- Do gia súc bị trúng độc Carbamid.
- Bê, nghé mắc bệnh thường do bú sữa không tiêu
2.3.3. Cơ chế
Do thức ăn lên men chứa nhiều nước làm hơi sản sinh nhiều, làm rối loạn
tuần hoàn ở vách dạ cỏ và ức chế thần kinh ảnh hưởng đến sự nhai lại và ợ hơi,
vách dạ cỏ bị thiếu máu, nhu động dạ cỏ giảm.
- Hơi tích lại làm thể tích dạ cỏ tăng lên đột ngột, ép lên cơ hoành làm gia
súc ngạt thở.

- Máu về tim bị trở ngại gây ứ huyết ở não và tĩnh mạch cổ, gan cũng bị dạ
cỏ chèn ép gây thiếu máu làm cơ năng giải độc của gan giảm đồng thời những chất
phân gi ải trong dạ cỏ kích thích vào vách dạ cỏ gây cho con vật những cơn co thắt.
- Đến cuối kì bệnh, dạ cỏ bị tê liệt, quá trình tống hơi ra ngoài hoàn toàn bị
ngừng trệ nên gia súc lâm vào trạng thái trầm trọng, gia súc có thể chết do ngạt thở
và do tuần hoàn trở ngại.
2.3.4. Triệu chứng
Bệnh xuất hiện rất nhanh: sau khi ăn 30 ph – 1h
- Gia súc không yên, bồn chồn
- Bụng trái ngày càng phình to
- Triệu chứng đau bụng: GS luôn ngoảnh lại nhìn bụng, vẫy đuôi, cong lưng,
hai chân thu vào bụng.


- Vùng bụng trái sưng to, hõm hông trái căng phồng
- Gõ vào vùng bụng trái (hõm hông trái) thấy âm trống chiếm ưu thế, âm đục
và âm bùng hơi mất. Nếu khí tích lại nhiều trong dạ cỏ, khi gõ còn nghe thấy âm
kim thuộc.
- Nghe vùng dạ cỏ thấy nhu động dạ cỏ lúc đầu tăng sau đó gi ảm dần rồi
mất hẳn, chỉ nghe thấy tiếng nổ lép bép do thức ăn lên men.
- Bệnh càng nặng, gia súc đau bụng càng rõ rệt, vã mồ hôi, uể oải, hay sợ
hãi, con vật ngừng ăn, ngừng nhai lại.
- Gia súc khó thở, tần số hô hấp tăng, dạng hai chân trước để thở, hoặc thè
lưỡi để thở và con vật chết do ngạt thở.
- Tĩnh mạch cổ phồng to, tim đập nhanh, mạch yếu huyết áp giảm, gia súc đi
tiểu liên tục
2.3.5. Bệnh tích
- Gia súc có hiện tượng chảy máu ở mũi và hậu môn
- Lòi dom,
- Mồm đầy bọt,

- Thực quản vít chặt, thức ăn lên tới tận miệng,
- Phổi sung huyết, máu tím bầm
2.3.6. Chẩn đoán
Cần nắm được đặc điểm chính của bệnh: bệnh tiến triển nhanh (thường sau
khi ăn 2 giờ), vùng bụng trái căng phồng, trong dạ cỏ chứa đầy hơi, gia súc khó thở,
tĩnh mạch cổ phồng to.
- Cần chẩn đoán phân biệt với dạ cỏ bội thực: ởbệnh bội thực dạ cỏ, bệnh
tiến triển chậm (thường xuất hiện sau khi ăn từ 6 - 9 giờ), khi gõ vùng dạ cỏ xuất
hiện âm đục tuyệt đối.


2.3.7. Tiên lượng
Bệnh hay xảy ra ở thể cấp, rất nguy hiểm, khi gia súc phát bệnh nếu không
kịp thời can thiệp gia súc sẽ bị ngạt thở, trúng độc axit cacbonic làm trở ngại tuần
hoàn và xuất huy ết não, gia súc chết
2.3.8. Điều trị
- Nguyên tắc điều tri
+ Thoát hơi trong dạ cỏ, ức chế sự lên men, tăng cường nhu động dạ cỏ
đồng thời chú ý trợ tim, trợ sức.
- Trường hợp chướng hơi quá cấp phải dùng Troca để chọc thoát hơi trong
dạ cỏ, chú ý khi chọc phải để thoát hơi từ từ.
- Dùng thuốc điều trị
- Dùng thuốc thải trừ chất chứa ở dạ cỏ:
+ MgSO4 hoặc Na2SO4: 200 - 300g/Trâu, bò;
100 – 200 g/bê, nghé.
+ Hòa nước cho uống một lần trong cả quá trình điều tri
- Dùng thuốc ức chế sự lên men sinh hơi ở dạ cỏ
- Dùng thuốc trợ sức, trợ l ực: Tiêm dưới da ngày 1 lần.
+ Cafein natribenzoat 20%: 10 - 15 ml/Trâu, bò
Để gia súc đứng yên trên nền dốc (đầu cao mông thấp) cho dễ thở, dùng tay

xoa bóp dạ cỏ nhiều lần (mỗi l ần từ 10-15 phút).
- Dội nước lạnh vào nửa thân sau, bôi Ichthyol vào lưỡi hoặc dùng que ngáng
ngang mồm để kích thích gia súc ợ hơi.
- Đưa tay vào trực tràng móc phân và kích thích bàng quang để gia súc đi
tiểu
2.4. Bệnh chướng hơi dạ cỏ mãn tính
2.4.1. Đặc điểm
Bệnh chướng hơi dạ cỏ mãn tính thường là một bệnh kế phát, gia súc biểu
hiện lúc bị bệnh lúc khỏi
2.4.2. Nguyên nhân
Do hậu quả của những bệnh làm giảm nhu động dạ cỏ


Do hậu quả của những bệnh về thực quản
Những bệnh ký sinh trùng đường máu mãn tính
2.4.3. Triệu chứng
- Bệnh phát ra có tính chất chu kỳ: Vũng hõm hông trái chướng to
- Nhu động dạ cỏ giảm, giảm nhai lại, gia súc gầy dần
- Bệnh kéo dài hàng tháng, con vật đi táo và ỉa chảy xen kẽ nhau
2.4.4. Điều trị
- Hộ lý: Chăm sóc tốt gia súc, tránh cho gia súc ăn những thức dễ lên men,
những thứ ăn nhiều nước, tăng cường xoa bóp dạ cỏ
- Điều trị
+ Khi bị chướng hơi nên dùng thuốc chống men sinh hơi
+ Dùng thuốc tăng cường nhu động dạ cỏ
+ Dùng thuốc trợ sức, trợ lực
3. Những biện pháp chẩn đoán và điều trị mới áp dụng từ y học
3.1. Siêu âm
Trên cơ sở tinh thể áp điện ép vào, giãn ra dưới ảnh hưởng của dòng điện
xoay chiều tạo ra năng lượng âm học, người ta chế tạo ra các đầu dò phát và thu

sóng siêu âm. Các sóng âm được phát ra từ đầu dò xuyên qua các tổ chức cơ thể,
dội lại một phần năng lượng nếu gặp các tổ chức kháng âm của tổ chức khác nhau.
Phân sóng âm còn lại tiếp tục truyền đi và dội lại tới khi không còn năng lượng.
Các sóng âm dội lại trở về đầu dò phát sóng được đưa vào bộ phận tiếp nhận
khuếch đại của máy siêu âm để xuất hiện trên màn hiện sóng. Tín hiệu ghi nhận trên
màn hiện sóng phản ánh cấu trúc của tổ chức khi sóng siêu âm truyền qua như kích
thước, độ dày, biên độ di động, khoảng cách giữa các cấu trúc,…
Siêu âm là những sóng âm có tần số cao hơn 20.000 Hz, có đặc tính:
- Sự phát xạ của siêu âm.
- Tính dẫn truyền của siêu âm.
- Sự phản hồi của siêu âm khi truyền qua môi trường khác nhau của các cơ
quan.
- Sự suy giảm của siêu âm.
3.2. Nội soi
Đây là một phưon̛ g pháp thăm khám trực tiếp phần trên của ống tiêu hóa(bao
gồm thực quản, dạ dày và tá tràng) nhờ vào một ống soi mềm nhỏ đường kính
khoảng 9mm, đưa vào qua đường miệng. Nhờ quan sát hình ảnh trên máy soi, bác sĩ
có thể biết được các bất thường đang xảy ra bên trong. Từ đó, có được chẩn đoán và
phương pháp điều trị thích hợp.


Ống tiêu hóa là một cơ quan rất khó chẩn đoán bệnh lý. Các phưon̛ g pháp
hiện đại như siêu âm, chụp cắt lớp điện toán (CT) hay cộng hươn̉ g từ (MRI) dù rất
đắt tiền nhưng vẫn không có giá trị chẩn đoán bệnh lý ống tiêu hóa. X quang dạ dày
bằng cách bơm baryt có thể dùng trong một số trường hợp nhưng vẫn không chính
xác bằng nội soi. Qua máy nội soi, bác sĩ có thể phát hiện các tổn thưon̛ g rất nhỏ chỉ
vài milimet, có thể sinh thiết để tìm ung thư, có thể xét nghiệm tìm vi trùng
Helicobacter Pylori gây bệnh. Nội soi dạ dày còn có thể dùng để theo dõi quá trình
điều trị các tổn thưon̛ g loét, điều trị nhiễm khuẩn. Đối với các trường hợp đang xuất
huyết, nội soi có thể được tiến hành khẩn cấp để phát hiện và điều trị chỗ chảy máu,

tránh khỏi phải mổ.
3.3. Chụp X – quang
Chẩn đoán X - quang là những phương pháp dùng tia Rơnghen để khám xét
các khí quan trong cơ thể. Những phương pháp đó dựa vào:
- Tính chât đâm xuyên sâu của tiaRơn-ghen.
- Sự hấp thụ tia Rơn-ghen khác nhau của các phân tử (trong cơ thể).
Do các mô hấp thụ tia Rơn-ghen khác nhau nhiều hay ít nên nó tạo ra những
hình X - quang đậm hay nhạt.
Vì tia Rơn-ghen không tác dụng trên võng mạc mắt nên để thấy các hình ảnh
đó, người ta phải dùng các phương pháp đặc biệt sau:
- Phương pháp chụp X - quang: dùng phim ảnh để chụp.
- Phương pháp chiếu X - quang hay chiếu điện: dùng màn chiếu huỳnh quang
hoặc dùng tăng sáng truyền hình. Hiện nay, người ta không dùng chiếu X - quang
dưới màn huỳnh quang mà chỉ chiếu X - quang dưới tăng sáng truyền hình để giảm
liều nhiễu xạ, bảo vệ cho thầy thuốc và cơ thể bệnh, đồng thời cho chất lượng hình
ảnh tốt hơn.
Khi cần thấy rõ chi tiết cấu tạo của một bộ phận cụ thể của cơ thể
như:xương, phổi,... người ta sử dụng phương pháp chụp X - quang. Tuy nhiên, khi
muốn khám xét các bộ phận theo đủ mọi hướng và muốn thấy sự chuyển động của
các cơ quan như: nhu động của dạ dày, ruột,... người ta dùng phương pháp chiếu X quang.


3.4. Xét nghiệm
3.4.1. Xét nghiệm máu
Là xét nghiệm dùng để tính số lượng tế bào của máu và là một trong những
xét nghiệm được thực hiện nhiều nhất. Chẳng hạn như số lượng bạch cầu tăng có
thể là dấu hiệu báo động có một trình trạng nhiễm trùng ở đâu đó của cơ thể, hoặc ít
gặp hơn, đó có thể là dấu hiệu của một bệnh ác tính nào đó. Số lượng bạch cầu giảm
có thể gợi ý một bất thường về tủy xương hoặc liên quan đến một số thuốc điều trị
như các thuốc hóa trị. Hay số lượng hồng cầu giảm hoặc hermoglobin giảm có thể

gợi ý đến một tình trạng thiếu máu do nhiều nguyên nhân khác nhau. Những
nguyên nhân gây tăng số lượng hồng cầu hay hermoglobin có thể xảy ra bao gồm
những bệnh về tủy xương hoặc khi nồng độ oxy trong máu giảm. Số lượng tiểu cầu
giảm có thể là do chảy máu kéo dài hoặc do một số bệnh khác. Ngược lại, số lượng
tiểu cầu tăng bất thường có thể gợi ý đến một sự bất thường ở tủy xương hoặc một
tình trạng viêm nặng. Trước khi làm xét nghiệm công thức máu, người bệnh không
được ăn gì trong 12 giờ.
Xét nghiệm công thức máu được thực hiện bằng cách lấy một vài mililít máu
trực tiếp từ tĩnh mạch người bệnh thông qua kim tiêm. Mẫu máu sau khi lấy sẽ được
gửi đến phòng xét nghiệm để phân tích. Tại đây, các phép tính sẽ được thực hiện
bằng một loại máy đặc biệt có khả năng phân tích những thành phần khác nhau của
máu trong vòng chưa đến một phút.
3.4.2. Xét nghiệm nước tiểu
Xét nghiệm nước tiểu là một phần trong quy trình kiểm tra sức khỏe định kỳ.
Xét nghiệm nước tiểu bao gồm quan sát đại thể nước tiểu (xem số lượng, màu sắc,
độ trong), xét nghiệm bằng các que nhúng (so màu sắc thay đổi biểu hiện trên que
nhúng với màu chuẩn quy định trên mẫu) và xét nghiệm vi thể nước tiểu (xem dưới
kính hiển vi để tìm các tinh thể, trụ, tế bào vẩy, vi trùng và các tế bào khác).
Xét nghiệm nước tiểu có thể giúp bác sỹ phát hiện một số bệnh như đái tháo
đường, nhiễm trùng đường tiểu mạn tính, bệnh thận… căn cứ trên độ pH đậm đặc,
hàm lượng đạm, đường, cetone, nitrite trong nước tiểu. Xét nghiệm nước tiểu cũng
là một cách để thử xem có thai hay không.


III. KẾT LUẬN
Bệnh dạ cỏ ở gia súc nhai lại là bệnh thường gặp do chế độ chăm sóc, nuôi
dưỡng, quản lý gia súc chưa hợp lý hoặc do chất lượng thức ăn kém. Bệnh thường
có tiên lượng tốt và có thể điều trị dễ dàng. Tuy nhiên, bệnh xảy ra ở thể cấp tính thì
cần phải cấp cứu kịp thời không sẽ ảnh hưởng đến tính mạng của con vật.
Trong quá trình chăn nuôi, cần khuyến cáo người dân có chế độ chăm sóc

nuôi dưỡng tốt, chú ý đến khẩu phần và chất lượng thức ăn. Đồng thời phòng đầy
đủ các bệnh thường xảy ra ở gia súc nhại lại.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Sỹ Lăng (2005), Giáo trình Thú y, Nxb Đại học Sư phạm
2. Phạm Sỹ Lăng (2009), Bệnh thường gặp ở trâu bò, Nxb Nông nghiệp Hà Nội
3. Phan Thị Hồng Phúc,(2010), Bài giảng bệnh nội khoa gia súc, Nxb Nông nghiệp
Hà Nội
4. Phạm Ngọc Thạch (2006), Giáo trình bệnh nội khoa gia súc, Nxb Nông nghiệp
Hà Nội
5. Phạm Ngọc Thạch (2008), Giáo trình Chẩn đoán và bệnh nội khoa gia súc , Nxb
Nông nghiệp Hà Nội
6. Vũ Đình Vượng (2004), Giáo trình bệnh nội khoa gia súc, Nxb Nông nghiệp Hà
Nội
7. Khánh Hạ (2015) Phương pháp xét nghiệm />8.

Hội

nông

dân

Quảng

Nam

(2010)

Bệnh


bội

thực

ở

trâu

/>
bò


MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA

Hình 1: Bò chướng bụng

Hình 3: Bệnh tích bò chết bị lòi rom

Hình 5: Troca

Hình 2: Bò chết do chướng bụng

Hình 4: Phổi sung huyết

Hình 6: Chọc dò troca




×