Tính sẵn có và hiệu quả của tín dụng ở nông thôn Việt Nam: Bằng
chứng từ Điều tra Tiếp cận nguồn lực của hộ gia đình ở Việt Nam
2006-2008-2010
Nhóm Nghiên cứu Kinh tế Phát triển (DERG)
Trường Đại học Tổng hợp Copenhagen (UoC)
Khoa Kinh tế, Trường Đại học Trinity, Dublin
Trung tâm Chính sách Nông nghiệp (CAP),
Viện Chiến lược và Chính sách Phát triển Nông nghiệp và Nông thôn (IPSARD),
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Việt Nam
Được thực hiện trong khuôn khổ Chương trình Phát triển Nông nghiệp và Nông thôn (ARD)
Đại sứ quán Hoàng gia Đan Mạch tại Việt Nam
1. Giới thiệu
Ở các nước thu nhập thấp, các lựa chọn kinh tế của những hộ nghèo thường bị hạn chế bởi sự
hoạt động không hiệu quả của các thị trường tài chính địa phương (Banerjee và Duflo, 2007).
Một vấn đề chính là các hộ gia đình có thể tiếp cận các sản phẩm tài chính ở mức độ nào, đặc
biệt là tài chính chính thức. Ví dụ, việc cung cấp các khoản vay được dùng đầu tư vào sản
xuất có tiềm năng dẫn tới tăng trưởng kinh tế về mặt dài hạn bằng việc giúp đỡ nông dân và
các nhà đầu tư xây dựng các hoạt động kinh tế theo quy mô trong sản xuất và tạo ra các lợi
nhuận cần thiết để giúp họ thoát khỏi đói nghèo. Ở tất cả các nước đang phát triển, phản ứng
điển hình đối với khoảng trống này trên thị trường là việc hình thành các tổ chức tài chính vi
mô.
1
Các tổ chức tài chính này, nhiều tổ chức hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, hoạt
động ở cấp cơ sở và cung cấp các khoản vay nhỏ cho những người không tiếp cận được với
các tổ chức tài chính chính thức. Các tổ chức này cho thấy có hiệu quả trong nhiều hoạt động
nhưng cũng bị phê phán khi nó không tới được các đối tượng nghèo nhất và cũng không phải
là cách hiệu quả về mặt chi phí (Cull và cộng sự, 2009).
Một cách tiếp cận thay thế để khắc phục thất bại của các tổ chức tài chính chính thức trong
việc cung cấp tín dụng cho những người nghèo nhất và dễ bị tổn thương nhất là nhà nước
phải thực hiện vai trò trong việc bảo đảm tiếp cận tín dụng. Ở Việt Nam, nhận thức về tầm
quan trọng của tín dụng cho các hộ gia đình nông thôn được thể hiện rõ ràng trong chính sách
của chính phủ liên quan đến việc cung cấp tín dụng. Tín dụng chính thức được cung cấp đến
các hộ gia đình ở các vùng nông thôn thông qua hai ngân hàng nhà nước chính, Ngân hàng
Chính sách xã hội Việt Nam (VBSP) và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt
Nam (VBARD). Trong khi VBARD hoạt động như một ngân hàng thương mại, VBSP hoạt
động rất giống các tổ chức tài chính vi mô và được xem như một công cụ chính sách xã hội
quan trọng để cung cấp tín dụng đến được với người nghèo ở các vùng nông thôn. Ngân hàng
cung cấp chương trình cho vay được cơ cấu với mức lãi suất tín dụng thấp (đôi khi bằng 0)
cho các đối tượng hộ mục tiêu, bao gồm các hộ nghèo, hộ bị bất lợi và bị tàn tật.
2
Hiệu quả của tín dụng được cung cấp bởi các ngân hàng này ít được đánh giá. Về mặt lý
thuyết, chúng tôi kỳ vọng VBSP có hiệu quả trong việc cung cấp tín dụng cho các hộ nghèo
nhất, thậm chí có thể là hiệu quả hơn các tổ chức tài chính vi mô. Do xác suất của việc không
trả được nợ nhìn chung có mối quan hệ âm với thu nhập và của cải, các tổ chức tài chính
chính thức, bao gồm cả các tổ chức tài chính vi mô, không sẵn lòng cho vay đối với các hộ
nghèo nhất. Tín dụng được cung cấp thông qua các ngân hàng nhà nước lớn có thể sẵn sàng
hơn để gánh chịu các rủi ro này bởi vậy các khoản vay này cũng có thể được xem là một
khoản hỗ trợ mang tính xã hội như là một phần trong chính sách tái phân phối rộng hơn.
Thực tế là tín dụng cũng được cung cấp như các khoản vay thương mại thông qua VBARD
cho thấy cơ hội thú vị để xem xét: (i) mức độ đạt được của hai ngân hàng với các mục tiêu
trái ngược nhau; và (ii) hiệu quả của tín dụng được cung cấp bởi mỗi ngân hàng trong việc
nâng cao phúc lợi của hộ. VBSP không hoạt động theo nguyên tắc tối đa hóa lợi nhuận và,
với thực trạng hiện nay của mình, VBSP không thể được xem là có khả năng thanh toán khi
các tỷ lệ lãi suất của nó thấp hơn rất nhiều các mức có thể bù đắp được chi phí. Do đó, việc
1
Morduch (1999) cung cấp tổng quan về việc thành lập các tổ chức tài chính vi mô và vai trò của các tổ chức
này.
2
Aubert và cộng sự. (2009) thảo luận về tầm quan trọng của việc tạo ra các động lực đúng cho các tổ chức tín
dụng trong các tổ chức tài chính để có được thông tin về những người vay tiềm năng đảm bảo những người vay
này được lựa chọn phù hợp với các mục tiêu chính sách vì người nghèo. Cung cấp tín dụng của chính phủ một
cách trực tiếp có thể thể hiện một cách hiệu quả vai trò này vẫn còn là vấn đề đang gây tranh cãi.
xem xét mức độ tín dụng nào là hiệu quả cho việc cải thiện các kết quả phúc lợi là cần thiết,
đặc biệt trong điều kiện nguồn vốn không ổn định.
Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng bộ số liệu lặp của Điều tra Tiếp cận nguồn lực của hộ
gia đình Việt Nam (VARHS) qua các năm 2006, 2008 và 2010 để xem xét: (i) các yếu tố
quyết định đến việc tiếp cận tín dụng từ các nguồn khác nhau; và (ii) hiệu quả của các khoản
tín dụng đạt được từ các nguồn khác nhau đến phúc lợi và sinh kế của các hộ gia đình nông
thôn.
Có nhiều vấn đề cần phải được xem xét để hiểu rõ vai trò của các thị trường tín dụng ở các
vùng nông thôn. Thứ nhất, chúng tôi kỳ vọng rằng các hộ nghèo nhất bị loại trừ khỏi các tổ
chức tài chính chính thức và bởi vậy họ phụ thuộc nhiều vào các nguồn tín dụng không chính
thức hơn là các hộ không nghèo. Nếu các nguồn không chính thức hiệu quả trong việc cung
cấp tín dụng cho những người không thể tiếp cận được với các nguồn tín dụng chính thức, và
cũng hiệu quả trong việc cải thiện phúc lợi của hộ, thì tín dụng chính thức thông qua VBSP
có thể không có nhiều vai trò.
Thứ hai, hiệu quả của các khoản vay trong việc cải thiện phúc lợi của hộ cũng sẽ phụ thuộc
vào các loại khoản vay có sẵn. Ví dụ, việc vay mượn cho các mục đích tiêu dùng có thể dẫn
đến các mức nợ nần cao trong khi không tạo ra được các dòng thu nhập trong tương lai để hỗ
trợ việc trả nợ. Hơn nữa, Modigliani (1986) và Japelli và Pagano (1994) thấy rằng sự hạn chế
các khoản vay tiêu dùng có thể có tác động dương đến sự phát triển. Nếu các khoản vay tiêu
dùng không có sẵn, các hộ có xu hướng tiết kiệm nhiều hơn để đảm bảo tiêu dùng khi giao
thời và sẽ chỉ vay mượn cho các mục đích đầu tư và điều này sẽ dẫn đến sự tích lũy về vốn.
3
Ngược lại, nếu VBSP cung cấp các khoản vay cho các mục đích tiêu dùng thì các khoản vay
này là tốt về mặt đưa tín dụng đến được với những người nghèo nhất, nhưng lại không tốt về
mặt tác động của các khoản vay này đến vấn đề phúc lợi.
Thứ ba, bất kỳ thảo luận nào về vai trò và tính hiệu quả của tín dụng cũng cần phải xem xét
các tác động qua lại của nó đối với các thị trường tài chính khác. Ví dụ, tính sẵn có của bảo
hiểm có thể giúp các hộ quản lý tốt hơn các rủi ro họ gặp phải qua đó giải phóng tín dụng cho
các mục đích sản xuất. Trong trường hợp thiếu vắng các sản phẩm bảo hiểm, tín dụng có thể
được sử dụng thay thế để làm bộ đệm chống lại các tổn thất thu nhập không lường trước
được.
4
Tín dụng này có thể hiệu quả trong việc giúp các hộ gia đình vượt qua các hậu quả
trước mắt của các cú sốc bằng việc hỗ trợ họ điều chỉnh tiêu dùng, nhưng nó cũng có thể dẫn
đến gánh nặng nợ nần của các hộ khi các khoản tín dụng này không được sử dụng để tạo ra
lợi nhuận để trả nợ trong tương lai. Hơn nữa, tính sẵn có của thị trường tiết kiệm chính thức
có thể tác động đến mức độ tín dụng nào là hiệu quả trong việc cải thiện các kết quả. Ahlin và
Jiang (2008) xem xét tác động dài hạn của tín dụng vi mô đến phát triển. Họ thấy rằng tính
sẵn có của tín dụng vi mô ở một mức độ nhất định có thể có tác động dương đến tăng trưởng
và phát triển phụ thuộc vào mức độ mà nó tạo thuận lợi cho sự tự tạo việc làm trong sản xuất
từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn. Để có các tác động dương trong dài hạn, lao động tự chủ này
cũng phải có khả năng tiết kiệm lợi nhuận cho việc tự tạo việc làm để tích lũy của cải. Nhìn
chung, điều này gợi ý rằng tín dụng có thể hiệu quả hơn khi các thị trường bổ sung, như tiết
kiệm và bảo hiểm, cũng được phát triển.
3
Hung (2005) gợi ý rằng trong một số trường hợp chính sách thắt chặt tài chính của chính phủ, khi tín dụng cho
các mục đích tiêu dùng bị hạn chế, có thể có các tác động dương đến phát triển kinh tế.
4
Tuy nhiên, Giné và Yang (2009), không thấy có bằng chứng về mối liên kết giữa sự sẵn sàng để sử dụng các
khoản vay cho việc áp dụng công nghệ với tính sẵn có của bảo hiểm chính thức bằng việc sử dụng nghiên cứu
thực nghiệm được lựa chọn ngẫu nhiên ở Malawi. Họ thấy rằng các hộ thực sự có các cơ chế chia sẻ rủi ro
không chính thức khác trong trường hợp có sự trốn trả nợ.
Bài viết được kết cấu như sau. Sự phát triển của hai ngân hàng nhà nước chính cung cấp tín
dụng nông thôn ở Việt Nam được trình bày trong Phần 2. Số liệu được thể hiện và miêu tả
trong Phần 3. Phần 4 đưa ra các phân tích thực nghiệm về các yếu tố quyết định đến tiếp cận
tín dụng, Phần 5 đưa ra các phân tích thực nghiệm về hiệu quả của tín dụng trong việc cải
thiện các kết quả. Phần 6 đưa ra các kết luận và kiến nghị chính sách.
2. Bối cảnh của Việt Nam
Như đã được giải thích ở trên, ở Việt Nam tín dụng chính thức được cung cấp cho các hộ gia
đình ở các vùng nông thôn được thông qua hai ngân hàng nhà nước chính, Ngân hàng Chính
sách xã hội (VBSP) và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (VBARD). Việc đưa
ra các khoản vay ưu đãi cho các hộ nghèo bắt đầu từ năm 1995 với sự thành lập của Quỹ cho
người nghèo được hoạt động thông qua VBARD, ngân hàng thương mại nhà nước chính.
Quỹ này sớm được thay thế bằng Ngân hàng cho người nghèo Việt Nam (VBP) được quản lý
bởi VBARD. VBP được thành lập vì mục đích phi lợi nhuận với mục tiêu là xóa đói giảm
nghèo thông qua việc cung cấp các khoản vay lãi suất thấp, không phải thế chấp cho người
nghèo để đầu tư vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp hoặc các hoạt động kinh doanh
khác. Các hộ đủ điều kiện để vay là các hộ được phân loại nghèo theo chuẩn nghèo của
MoLISA và MARD và các đơn xin vay vốn phải được chứng nhận bởi Ủy ban Nhân dân xã.
Các khoản vay được quản lý thông qua các nhóm tín dụng và tiết kiệm, các nhóm này có
trách nhiệm thu hồi vốn hoàn trả ngân hàng và hoạt động của các nhóm này rất giống các tổ
chức tài chính vi mô. Các nhóm tiết kiệm và tín dụng được chứng thực bởi Ủy ban Nhân dân
xã và được tổ chức thông qua các Hội Nông dân và Hội Phụ nữ. Các tổ chức quần chúng
cũng có vai trò trong việc huy động và đưa các khoản vay đến được với các hộ nghèo.
VBP đã hoạt động đến năm 2001 và thành công trong việc tăng số lượng các hộ nghèo tiếp
cận được với tín dụng. Tuy nhiên, ở đây có sự hạn chế đáng kể đối với hiệu quả của VBP.
Vấn đề quản lý đã nổi lên do thực tế rằng VBP hoạt động dưới sự quản lý của VBARD và
không phải là một tổ chức độc lập với các quyền của riêng nó. Rõ ràng rằng việc quản lý sử
dụng các khoản vay của các hộ gia đình là một vấn đề mang tính hệ thống. Tuy nhiên, hạn
chế đáng kể nhất là vấn đề về tính bền vững của tín dụng lãi suất thấp cho nhóm đối tượng rủi
ro cao, ngay cả khi nó có mục tiêu phi lợi nhuận.
Để giải quyết các khó khăn này VBSP đã được thành lập năm 2003 và hiện nay là ngân hàng
duy nhất cung cấp các khoản vay mang tính xã hội. VBSP hoàn toàn độc lập với VBARD và
việc ra đời VBSP cho phép tách hoàn toàn tín dụng ưu đãi ra khỏi tín dụng thương mại.
Phương pháp cho vay là tập trung qua bốn tổ chức quần chúng chính là Hội Phụ nữ, Hội
Nông dân, Hội Cựu Chiến binh và Đoàn Thanh niên. Các tổ chức này có trách nhiệm cho
việc thành lập các nhóm tiết kiệm và tín dụng để tạo kênh chính cho việc chuyển các quỹ.
Các tổ chức này cũng có trách nhiệm chứng nhận cho các hộ nghèo, và trách nhiệm giám sát
và khuyến khích những người đi vay sử dụng các khoản vay của họ đúng mục đích vay.
VBSP trực tiếp giải quyết các vấn đề liên quan đến giải ngân các khoản vay, thu hồi vốn vay
và quản lý quỹ an toàn.
Một lợi thế quan trọng của việc thành lập VBSP là cho phép VBARD hoạt động hoàn toàn
mang tính thương mại. VBARD (cũng được biết như Ngân hàng Nông nghiệp) được thành
lập năm 1988 và đã trở thành nguồn tín dụng và tiết kiệm chính ở các vùng nông thôn Việt
Nam. Mặc dù VBARD luôn luôn hoạt động trên nguyên tắc thương mại song sự ra đời của
VBSP đã giúp chuyển hoàn toàn việc cung cấp tín dụng ưu đãi khỏi hoạt động của nó. Giữa
năm 2001 và 2004 VBARD đã thực hiện quá trình tái cơ cấu, nhờ đó ngân hàng này đã có
mức tăng trưởng đáng kể trong tài sản và các khoản vay sau đó. Ở các vùng nông thôn
VBARD làm việc cùng với Hội Nông dân để thành lập và quản lý các nhóm tiết kiệm và tín
dụng để giúp nông dân tiết kiệm và nhận các khoản vay.
Với những sự khác nhau rõ ràng này trong chức năng hoạt động của VBSP và VBARD,
chúng tôi kỳ vọng để thấy được những sự khác nhau cả về khía cạnh khách hàng và mục đích
các khoản vay được cung cấp bởi hai ngân hàng này. Hiệu quả của các ngân hàng này trong
việc quản lý và hiệu lực về mặt sử dụng các khoản vay cũng phải khác nhau. VBARD hoạt
động trên nguyên tắc thương mại bởi vậy chúng tôi kỳ vọng VBARD có hiệu quả trong việc
lựa chọn và quản lý các khách hàng. Trong trường hợp cụ thể này là sự tham gia của các Hội
Nông dân ở địa phương. Ngược lại, VBSP cung cấp dịch vụ đến các đối tượng nghèo nhất và
bởi vậy VBSP có thể đối mặt với các khó khăn lớn hơn trong việc đảm bảo các khoản vay
được sử dụng đúng mục đích vay. Tuy nhiên, khi ngân hàng hợp tác cùng với các tổ chức
quần chúng ở cấp cơ sở thành lập các nhóm tiết kiệm và tín dụng cơ sở để hỗ trợ việc trả nợ
và quản lý các khoản vay thì việc quản lý và hiệu lực thực thi có thể ít gặp phải các vấn đề
hơn. Chúng tôi cũng kỳ vọng để tìm thấy được những sự khác trong trong các loại khoản vay
khác nhau và hiệu quả của các khoản vay này. Trong khả năng của mình, VBSP dường như
thường cung cấp các khoản vay cho các mục đích tiêu dùng nhiều hơn và đây như là một cơ
chế hỗ trợ mang tính xã hội. VBARD thường cung cấp các khoản vay cho các mục đích đầu
tư sản xuất, đặc biệt là trong nông nghiệp. Trong các phần tiếp theo chúng tôi xem xét từng
khía cạnh này.
3. Số liệu và thống kê mô tả
Số liệu được lấy từ số liệu Điều tra Tiếp cận nguồn lực của hộ gia đình Việt Nam (VARHS)
được thực hiện qua các năm 2006, 2008 và 2010 ở 12 tỉnh của Việt Nam.
5
Các hộ gia đình
được điều tra lặp qua các năm trải rộng ở 437 xã, 130 huyện với tổng số 2,200 hộ. Cùng với
các thông tin chi tiết về nhân khẩu học của từng thành viên của hộ, số liệu điều tra cũng bao
gồm các phần về hành vi tài chính, đặc biệt liên quan đến tiết kiệm và vay mượn.
Bảng 1 thể hiện số lượng và tỷ lệ hộ trong mẫu của chúng tôi có các khoản vay theo nguồn.
Số liệu về các khoản vay liên quan đến ba khoản vay quan trọng nhất mà các hộ vay trong hai
năm trước.
6
Tỷ lệ các khoản vay từ VBSP đã tăng đáng kể giữa năm 2008 và 2010 nhờ các
nỗ lực của chính phủ trong suốt thời gian này bằng việc bơm tiền cho các cộng đồng địa
phương thông qua việc cung cấp tín dụng lãi suất thấp (hoặc bằng 0). Các khoản vay từ
VBARD trong mẫu của chúng tôi trở nên ít quan trọng hơn theo thời gian do quá trình
thương mại hóa đang diễn ra tại ngân hàng này như được đề cập trong Phần 2. Mặc dù tầm
quan trọng của VBSP tăng đáng kể, các hộ gia đình tiếp tục phụ thuộc vào các nguồn tín
dụng không chính thức, trong đó các nguồn từ gia đình, bạn bè đóng vai trò đặc biệt quan
trọng.
Số liệu của chúng tôi cho thấy mức tiếp cận tín dụng ở Việt Nam là cao so với các nước đang
phát triển khác với khoảng một nửa số hộ tiếp cận được với tín dụng chính thức. Trong số các
hộ có khoản vay, chỉ không đến 2% hộ báo cáo rằng họ nộp đơn xin vay vốn nhưng không
được chấp nhận. Tỷ lệ các hộ nhận được lượng tiền vay nhỏ hơn so với yêu cầu vay vốn cũng
rất nhỏ. Tuy nhiên, trong điều tra của chúng tôi, các câu hỏi này chỉ được hỏi đối với các hộ
đã thực sự có các khoản vay. Do vậy, chúng tôi không thể nói liệu 50% các hộ còn lại trong
5
Điều tra được thực hiện dưới sự hợp tác của Nhóm Nghiên cứu Kinh tế Phát triển (DERG), Khoa Kinh tế,
Trường Đại học Copenhagen và Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế TW (CIEM), Viện Nghiên cứu Khoa học lao
động và xã hội (ILSSA) và Viện Chiến lược và chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn (IPSARD), Hà
Nội, Việt Nam.
6
Cần chú ý rằng năm 2006 các hộ gia đình được yêu cầu báo cáo về 5 khoản vay gần đây nhất của họ. Điều này
có thể ảnh hưởng đến cách các hộ trả lời câu hỏi và một phần giải thích tại sao các hộ có nhiều khoản vay hơn
vào năm 2006.
mẫu của chúng tôi mà không có khoản vay nào trên thực tế có bị cản trở trong việc tiếp cận
tín dụng hay không.
Bảng 1: Số lượng và tỷ lệ các hộ có khoản vay theo nguồn
2006 2008 2010
Tổng số
Số hộ gia đình 1,180 998 1,079
% hộ 57.79 45.38% 49.07%
Tỷ lệ theo nguồn
VBSP 25.85 25.95 41.52
VBARD 40.25 34.87 24.19
Không chính th
ứ
c
27.54
21.34
25.95
B
ạ
n bè và h
ọ
hàng
14.15
11.62
13.81
Người cho vay lãi 5.08 3.91 3.52
Các nhóm cho vay 0.25 0.50 0.46
Khác
25.76
20.64
24.84
Chú ý: Do các hộ có nhiều khoản vay từ nhiều nguồn khác nhau nên tổng tỷ lệ các khoản vay theo nguồn là
nhiều hơn 100%.
Với chức năng của VBSP là cung cấp dịch vụ cho các khách hàng thông thường ‘không thể
tiếp cận được với ngân hàng’, việc hiểu rõ tại sao các hộ không tiếp cận được với tín dụng,
mà đáng lẽ về mặt kỹ thuật họ nên được hưởng, là quan trọng. Nói cách khác, các hộ này bị
hạn chế tín dụng đơn giản là do VBSP không tiếp cận được với họ, hay họ không lựa chọn để
vay ở ngân hàng này? Để nghiên cứu kỹ hơn vấn đề này, chúng tôi xem xét liệu các hộ có các
khoản vay chính thức, trong trường hợp họ có khoản vay từ VBSP hoặc từ VBARD, có các
đặc điểm khác không so với các hộ không thể vay từ ngân hàng (có nghĩa là họ không có
khoản vay nào hoặc có khoản vay từ các nguồn không chính thức). Các kết quả được trình
bày trong Bảng 2.
Bảng 2: Các đặc điểm của các hộ có và không có các khoản vay từ ngân hàng
2006 2008 2010
Có Không Có Không Có Không
Thu nh
ậ
p
41
.
899
34
.
750
62
.
030
57
.
143
67
.
031
65
.
142
Quy mô h
ộ
4
,
92
4
,
36
4
,
93
4
,
41
4
,
58
4
,
20
Trợ cấp 31,12 34,07 7,75 16,12 19,07 26,26
Chủ hộ là nam 86,33 77,13 83,63 76,95 82,53 76,39
Đ
ã có gia
đ
ình
87
,
55
80
,
05
86
,
62
80
,
01
85
,
73
79
,
03
Tu
ổ
i
30
,
92
34
,
62
31
,
51
35
,
78
33
,
59
38
,
05
Số thành viên của hộ đang lao động 3,21 2,70 3,40 2,81 3,20 2,66
Giáo dục1 9,20 11,45 7,26 11,30 9,10 9,71
Giáo d
ụ
c
2
22
,
33
23
,
44
16
,
81
19
,
39
14
,
39
17
,
90
Giáo d
ụ
c
3
23
,
82
22
,
67
38
,
76
34
,
34
29
,
37
28
,
48
Giáo dục 4 32,88 29,75 26,37 23,53 35,10 30,61
Giáo dục 5 9,47 10,76 9,03 9,70 9,84 10,91
Giáo d
ụ
c
6
2
,
30
1
,
92
1
,
77
1
,
73
2
,
20
2
,
40
C
ủ
a c
ả
i
1
22
,
60
19
,
95
27
,
99
21
,
46
13
,
25
12
,
63
Của cải2 20,30 19,95 12,15 13,67 15,43 16,80
Của cải3 17,46 20,41 15,14 15,45 25,76 18,78
C
ủ
a c
ả
i
4
19
,
89
20
,
11
23
,
24
22
,
93
23
,
14
25
,
00
C
ủ
a c
ả
i
5
19
,
76
19
,
57
21
,
48
26
,
49
22
,
42
26
,
79
Kinh-Hoa 76,05 82,50 76,06 80,13 83,26 81,15
Sổ đỏ 92,02 86,88 91,37 83,63 83,26 79,96
Thành viên c
ủ
a H
ộ
i Ph
ụ
n
ữ
69
,
55
63
,
55
59
,
33
54
,
02
66
,
81
53
,
57
Thành viên c
ủ
a H
ộ
i Nông dân
55
,
21
42
,
52
39
,
96
33
,
72
45
,
56
36
,
64
Thành viên Hội Cựu chiến binh 18,40 13,74 14,44 11,83 14,85 15,08
Bị thiên tai 22,33 18,42 38,91 31,15 36,68 27,78
B
ị
các cú s
ố
c v
ề
kinh t
ế
0
,
95
0
,
61
11
,
27
11
,
59
6
,
55
4
,
50
B
ị
các cú s
ố
c riêng khác
10
,
01
11
,
28
8
,
45
7
,
73
5
,
97
8
,
60
Có một số sự khác nhau đáng kể giữa các hộ có khoản vay và các hộ không có khoản vay từ
ngân hàng. Các hộ có các khoản vay chính thức có các mức thu nhập cao hơn ở tất cả các
năm điều tra nhưng khoảng cách đã được thu hẹp lại giữa năm 2006 và 2010. Các hộ không
có các khoản vay từ ngân hàng cũng có các mức giáo dục và của cải thấp hơn. Các khoảng
cách này cũng đã được thu hẹp lại theo thời gian. Ví dụ, năm 2006 và 2008 những người có
các khoản vay từ ngân hàng có khả năng đọc và viết cao hơn rất nhiều so với những người
không có các khoản vay, nhưng năm 2010 khoảng cách này đã được thu hẹp lại. Những
người có khoản vay chính thức có trình độ giáo cấp hai tiếp tục nhiều hơn so với những
người không có khoản vay này. Các hộ có khoản vay từ ngân hàng dường như thường có sổ
đỏ nhiều hơn so với các hộ không có khoản vay này ở tất cả các năm điều tra và cũng thường
là thành viên của các tổ chức quần chúng nhiều hơn (Hội Phụ nữ, Hội Nông dân). Một kết
quả thú vị và có lẽ đáng ngạc nhiên, đó là các hộ có các cú sốc tiêu cực về thu nhập thường
tiếp cận với tín dụng chính thức nhiều hơn, mặc dù họ bị tổn thương về thu nhập. Điều này
gợi ý rằng việc vay tiền là một cơ chế thích ứng với rủi ro quan trọng khi hộ gặp các khó
khăn về tài chính, nhưng đồng thời tín dụng chính thức cũng luôn có sẵn khi các hộ có nhu
cầu. Bảng 1 cũng cho thấy có những sự khác nhau thú vị khác. Các hộ gia đình mà chủ hộ là
nữ thường ít vay ngân hàng hơn khi họ già hơn hoặc chưa có gia đình. Các hộ này không thể
tiếp cận được với tín dụng hoặc cũng có thể họ ít có nhu cầu tín dụng so với các hộ khác. Các
hộ có hỗ trợ từ con cái cũng thường ít tiếp cận tín dụng một cách chính thức, và điều này cho
thấy có khả năng thay thế giữa hai hình thức tài chính này. Tuy nhiên, cần chú ý rằng những
sự khác nhau này chỉ thể hiện các mối tương quan và một phân tích kinh tế lượng đầy đủ cần
phải được thực hiện để có thể kết luận được những sự khác nhau này có ý nghĩa về mặt thống
kê hay không.
Bảng 3: Đặc điểm của các khoản vay, tổng số và theo nguồn (% hộ)
2006 2008 2010
Tổng Mục đích
xin vay
Sử dụng
thực tế
Mục đích
xin vay
Sử dụng
thực tế
Mục đích
xin vay
Sử dụng
thực tế
Đư
ợ
c s
ử
d
ụ
ng cho nông nghi
ệ
p
70
,
34%
59
,
83%
61
,
12
48
,
70%
51
,
53
35
,
31%
Các hoạt động phi nông nghiệp 10,25% 11,44% 10,82 9,32% 10,01 8,53%
Đầu tư khác 9,32% 12,03% 21,94 24,45% 28,54 32,07%
Tiêu dùng
15
,
34%
19
,
83%
9
,
22
14
,
43%
15
,
11
19
,
93%
Th
ế
ch
ấ
p
46
,
10%
42
,
08%
33
,
09%
VBSP
Được sử dụng cho nông nghiệp 83,28% 67,21% 65,64% 45,95% 46,65% 29,91%
Các ho
ạ
t đ
ộ
ng phi nông nghi
ệ
p
6
,
56%
7
,
87%
5
,
02%
3
,
86%
5
,
36%
4
,
91%
Đ
ầ
u tư khác
3
,
28%
8
,
20%
23
,
17%
28
,
57%
38
,
39%
41
,
07%
Tiêu dùng 3,61% 10,82% 3,86% 11,58% 6,47% 11,16%
Thế chấp 0,00% 7,72% 7,59%
VBARD
Đư
ợ
c s
ử
d
ụ
ng cho nông nghi
ệ
p
70
,
32%
58
,
53%
66
,
67%
52
,
01%
67
,
82%
47
,
13%
Các hoạt động phi nông nghiệp 11,58% 13,26% 12,64% 10,63% 9,20% 6,90%
Đầu tư khác 9,05% 11,58% 11,49% 16,67% 13,41% 21,46%
Tiêu dùng
9
,
68%
14
,
32%
4
,
60%
9
,
48%
5
,
36%
12
,
64%
Th
ế
ch
ấ
p
97
,
47%
93
,
68%
89
,
66%
Không chính thức
Được sử dụng cho nông nghiệp 33,74% 32,21% 25,35% 25,35% 28,93% 22,86%
Các ho
ạ
t đ
ộ
ng phi nông nghi
ệ
p
7
,
67%
7
,
67%
14
,
55%
13
,
15%
7
,
14%
5
,
71%
Đ
ầ
u tư khác
16
,
56%
16
,
87%
33
,
80%
33
,
33%
28
,
57%
30
,
36%
Tiêu dùng 31,29% 31,90% 24,41% 26,76% 35,00% 37,86%
Thế chấp 0,92% 2,82% 1,79%
Khác
Đư
ợ
c s
ử
d
ụ
ng cho nông nghi
ệ
p
38
,
03%
37
,
38%
27
,
67%
26
,
21%
30
,
22%
23
,
88%
Các hoạt động phi nông nghiệp 8,52% 8,52% 14,56% 13,11% 6,72% 5,60%
Đầu tư khác 16,72% 17,38% 33,50% 33,01% 27,61% 29,48%
Tiêu dùng
31
,
80%
32
,
79%
24
,
27%
26
,
70%
35
,
07%
37
,
31%
Th
ế
ch
ấ
p
4
,
59%
3
,
40%
1
,
87%
Chú ý: Đầu tư khác bao gồm đầu tư xây/mua nhà, mua đất, mua các tài sản khác và đầu tư vào giáo dục. Tiêu
dùng bao gồm thanh toán các khoản nợ khác, đám ma, đám cưới, y tế và tiêu dùng chung.
Bảng 3 miêu tả mục đích của các khoản vay của các hộ gia đình trong mẫu của chúng tôi theo
các nguồn vay. Có sự thay đổi đáng kể về mục đích sử dụng của các khoản vay theo thời
gian, đặc biệt đối với các khoản vay từ VBSP và VBARD. Năm 2006, hơn 80% các khoản
vay từ VBSP có mục đích xin vay là dành cho nông nghiệp. Tỷ lệ này đã giảm xuống 46%
vào năm 2010. Về mục đích sử dụng thực tế, chỉ 30% các khoản vay từ VBSP được sử dụng
cho mục đích sản xuất nông nghiệp năm 2010. Tầm quan trọng của các khoản vay dành cho
đất đai, tài sản và giáo dục đã tăng tương ứng mặc dù các mục đích này không phải luôn luôn
là mục đích được đưa ra trong đơn vay vốn. Các khoản vay từ VBARD cũng có xu hướng
tương tự. Các hộ có xu hướng vay từ các nguồn tín dụng không chính thức cho các mục đích
tiêu dùng, tuy nhiên trên thực tế các khoản vay được dùng cho các mục đích tiêu dùng này
vẫn chiếm khoảng 11% đến 12% các khoản vay từ VBSP và VBARD.
Có sự khác nhau đáng kể giữa mục đích vay vốn trong đơn vay vốn và mục đích vốn vay
được sử dụng thực tế đối với các khoản vay từ VBSP và VBARD. Những sự khác nhau này
không xảy ra đối với các khoản vay từ các nguồn tín dụng không chính thức và các nguồn
khác. Điều này cho thấy rằng các ngân hàng nhà nước gặp phải vấn đề trong việc theo dõi
mục đích sử dụng của dòng tiền cho vay. Nghiên cứu sâu hơn vấn đề này, chúng tôi tạo biến
chỉ số có giá trị bằng 1 nếu mục đích sử dụng vốn vay khác với mục đích được nêu trong đơn
xin vay vốn, và bằng 0 trong trường hợp ngược lại. Chúng tôi ước lượng mô hình tác động
không thay đổi đơn giản với việc kiểm soát các yếu tố của hộ không thay đổi theo thời gian
mà có thể tác động đến việc liệu sự khác nhau này có tồn tại hay không và phân tích các loại
khoản vay nào là thường có sự khác nhau giữa mục đích sử dụng thực tế với mục đích trong
đơn xin vay. Các kết quả được thể hiện trong bảng 4.
Bảng 4: Các yếu tố quyết định sự khác nhau giữa mục đích sử dụng vốn vay thực tế với mục
đích trong đơn xin vay vốn
Các kho
ả
n vay t
ừ
V
BSP
0.127***
Các khoản vay từ VBARD 0.106***
Các khoản vay từ nguồn không chính thức -0.144
Các kho
ả
n vay khác
0.059
Vay cho nông nghi
ệ
p
0.072*
Vay phi nông nghiệp -0.304***
Vay đầu tư -0.085**
Vay tiêu dùng
0.037
Các đặc điểm của hộ Yes
Các tác động không thay đổi của hộ Yes
R2
0.046
Số quan sát 3,102
Hộ 1,656
*** mức ý nghĩa thống kê 1%, ** mức ý nghĩa thống kê 5%, * mức ý nghĩa thống kê 10%. Các lỗi có phân phối
chuẩn, ở cấp hộ, không được trình bày ở đây nhưng có sẵn khi được yêu cầu.
Các hộ dường như thường nói dối về mục đích sử dụng thực sự của các khoản vay trong đơn
vay vốn từ VBSP và VBARD. Họ cũng thường nói dối là các khoản vay được sử dụng cho
các mục đích nông nghiệp. Dường như không có nhiều sự khác nhau giữa các khoản vay cho
mục đích đầu tư và các khoản vay cho các mục đích phi nông nghiệp. Các vấn đề hiệu lực
cũng thấp hơn rất nhiều so với các khoản vay từ các nguồn không chính thức (xem Bảng 3).
Điều này có thể là do những người đi vay từ bạn bè, họ hàng hay các nguồn không chính thức
khác không buộc phải nói mục đích sử dụng các khoản tiền vay này. Chúng tôi cũng thấy
rằng các khoản vay không chính thức thường được sử dụng cho các mục đích tiêu dùng nhiều
hơn cho các mục đích khác.
Bảng 5 thể hiện số liệu thống kê mô tả về quy mô của các khoản vay theo nguồn và theo loại
hình. Sau khi điều chỉnh theo lạm phát, các khoản vay từ VBARD có mức độ lớn hơn đáng
kể so với các khoản vay từ các nguồn khác. Các khoản vay cho các mục đích phi nông nghiệp
cũng có quy mô lớn hơn nhiều. Khi các khoản vay được tính theo thu nhập thì mức độ nợ của
các hộ gia đình trở nên rõ ràng. Các hộ có các khoản vay trung bình nợ trên 50% thu nhập
của họ năm 2010. Đặc biệt, các hộ có các khoản vay từ VBARD có tỷ lệ nợ lớn. Mức nợ
cũng tương đối cao đối với các hộ có các khoản vay từ VBSP khi chiếm tới 41% thu nhập của
hộ năm 2010.
Bảng 5: Quy mô trung bình của các khoản vay theo nguồn và theo loại khoản vay
2006 2008 2010
Tổng số
T
ổ
ng
lư
ợ
ng đư
ợ
c vay
29
.
354
33
.
117
34
.
503
Tổng lượng còn nợ 16.946 27.822 27.166
Tỷ lệ nợ so với thu nhập 63,36% 55,58% 51,00%
VBSP
T
ổ
ng lư
ợ
ng đư
ợ
c vay
5
.
937
10
.
348
15
.
357
Tổng lượng còn nợ 5.062 9.644 14.080
Tỷ lệ nợ so với thu nhập 32,57% 34,57% 41,39%
VBARD
T
ổ
ng lư
ợ
ng đư
ợ
c vay
30
.
216
37
.
307
53
.
802
Tổng lượng còn nợ 17.184 32.204 38.319
Tỷ lệ nợ so với thu nhập 52,84% 49,95% 55,52%
Không chính thức
T
ổ
ng lư
ợ
ng đư
ợ
c vay
8
.
814
22
.
031
18
.
270
Tổng lượng còn nợ 5.534 16.637 15.380
Tỷ lệ nợ so với thu nhập 24,01% 40,64% 30,81%
Khác
T
ổ
ng lư
ợ
ng đư
ợ
c vay
9
.
340
22
.
737
17
.
772
Tổng lượng còn nợ 5.539 17.197 14.792
Tỷ lệ nợ so với thu nhập 22,31% 42,07% 29,55%
Nông nghiệp
T
ổ
ng lư
ợ
ng đư
ợ
c vay
14
.
374
17
.
447
32
.
791
Tổng lượng còn nợ 7.690 14.368 21.560
Tỷ lệ nợ so với thu nhập 39,43% 37,34% 44,15%
Phi nông nghiệp
T
ổ
ng lư
ợ
ng đư
ợ
c vay
37
.
229
63
.
278
84
.
364
Tổng lượng còn nợ 24.012 56.781 70.630
Tỷ lệ nợ so với thu nhập 43,52% 52,84% 59,49%
Đầu tư
T
ổ
ng lư
ợ
ng đư
ợ
c vay
19
.
393
30
.
470
22
.
812
Tổng lượng còn nợ 10.271 25.609 18.955
Tỷ lệ nợ so với thu nhập 33,94% 42,32% 44,35%
Tiêu dùng
T
ổ
ng lư
ợ
ng đư
ợ
c vay
16
.
855
11
.
535
15
.
587
Tổng lượng còn nợ 11.301 9.380 13.327
Tỷ lệ nợ so với thu nhập 36,25% 33,72% 33,98%
Chú ý: Tất cả các giá trị được điều chỉnh theo giá năm 2010.
Số liệu thống kê tóm tắt của chúng tôi cho thấy một số đặc điểm thú vị của các thị trường tín
dụng nông thôn ở Việt Nam. Có sự khác nhau rõ ràng giữa các hộ có tiếp cận tín dụng với
các hộ không tiếp cận tín dụng. Cũng có sự khác nhau giữa các hộ tiếp cận các nguồn tín
dụng khác nhau. Các đặc điểm khác nhau này được tóm tắt dưới đây:
1. Tỷ lệ lớn các hộ có tiếp cận tín dụng, đặc biệt là tín dụng chính thức.
2. Tầm quan trọng của VBSP trong nguồn tín dụng chính thức ngày càng tăng so với
VBARD.
3. Có sự khác nhau về đặc điểm của các hộ có khoản vay và không có khoản vay này về thu
nhập, giáo dục và của cải, nhưng những sự khác nhau này ngày càng giảm theo thời gian.
4. Có sự khác nhau đáng kể giữa mục đích sử dụng thực tế với mục đích được nêu trong đơn
vay vốn của các khoản vay từ VBSP và VBARD.
5. Các hộ có xu hướng phụ thuộc vào các nguồn không chính thức khi vay cho mục đích
tiêu dùng, nhưng một số khoản vay từ VBSP and VBARD cũng được sử dụng cho mục
đích tiêu dùng.
6. Các hộ gia đình nông thôn Việt Nam có tỷ lệ nợ so với thu nhập rất cao.
4. Phân tích kinh tế lượng về tiếp cận tín dụng
Trong phần này chúng tôi phân tích thực nghiệm các yếu tố quyết định đến tiếp cận tín dụng
ở nông thôn Việt Nam. Đầu tiên chúng tôi xem xét các hộ có một khoản vay và các đặc điểm
nào quyết định đến điều này, và sau đó phân tích sự khác nhau về quy mô các khoản vay có
được của các hộ.
Để hiểu rõ hơn các yếu tố quyết định đến tiếp cận tín dụng chúng tôi ước lượng các mô hình
xác suất tuyến tính các tác động không đổi của 1) xác suất của việc có một khoản vay, 2) xác
suất của việc có khoản vay theo nguồn, và 3) xác suất của việc có các khoản vay theo mục
đích sử dụng. Bằng việc kiểm soát các tác động không đổi của các đặc điểm của hộ không
thay đổi theo thời gian mà tác động đến tiếp cận tín dụng, chúng tôi xác định tác động của các
đặc điểm thay đổi theo thời gian thông qua sự thay đổi của hộ về các khoản vay theo thời
gian. Các kết quả được thể hiện trong Bảng 6.
Yếu tố quan trọng nhất quyết định đến việc tiếp cận với các khoản vay, từ tất cả các nguồn, là
liệu hộ có bị cú sốc thu nhập nào hay không. Trong tất cả các trường hợp, tỷ lệ các hộ bị các
cú sốc về thiên tai, các cú sốc có tính đặc trưng của hộ hoặc các cú sốc về kinh tế có một
khoản vay thường lớn hơn so với tỷ lệ này ở các hộ không gặp phải các rủi ro này. Có một số
bằng chứng cho thấy rằng các hộ là thành viên của Hội Phụ nữ thường hay có các khoản vay
hơn so với các hộ không phải là thành viên, và điều này cũng nhất quán với các nỗ lực gần
đây của Hội Phụ nữ trong việc mở rộng tiếp cận tín dụng ở các cộng đồng nông thôn. Tuy
nhiên, đây không phải là lý do duy nhất. Các hộ là thành viên của Hội Nông dân thường tiếp
cận với tín dụng từ VBARD nhiều hơn, tuy nhiên hướng tác động nhân quả ở đây là không rõ
ràng. Chúng tôi cũng thấy một số bằng chứng cho thấy ở các xã có tỷ lệ hộ nghèo cao (được
báo cáo bởi chính quyền xã) các hộ thường có ít khoản vay. Tỷ lệ vay thấp này được tìm thấy
ở tất cả các nguồn tín dụng, ngoại trừ nguồn tín dụng từ VBSP do tỷ lệ hộ nghèo không phải
là yếu tố quyết định đến việc tiếp cận nguồn tín dụng này. Kết quả này không gây ngạc nhiên
khi nhiệm vụ của VBSP là mở rộng tín dụng đến tất cả các hộ mà không căn cứ vào thu nhập
hay thực trạng của hộ.
Nếu phân theo mục đích sử dụng thực tế của các khoản vay, trong tất cả các trường hợp, hộ
gặp phải các cú sốc tiêu cực về thu nhập thường tiếp cận tín dụng nhiều hơn so với các hộ
không gặp phải các cú sốc này, đặc biệt là các khoản vay có mục đích cho đầu tư và cho tiêu
dùng. Các hộ là thành viên của Hội Nông dân thường tiếp cận các khoản vay cho các mục
đích nông nghiệp, trong khi các hộ là thành viên của Hội Phụ nữ thường tiếp cận tín dụng cho
các khoản vay có mục đích phi nông nghiệp và đầu tư. Các hộ có các khoản vay cho mục
đích phi nông nghiệp và đầu tư cũng thường là các hộ giàu hơn. Các hộ ở các xã có tỷ lệ hộ
nghèo cao thường ít tiếp cận với tín dụng, mặc dù như đã đề cập ở trên, nguồn tín dụng từ
VBSP đang được sử dụng để lấp khoảng cách này.
Chúng tôi cũng quan tâm yếu tố nào quyết định đến quy mô của các khoản vay. Ở Bảng 7,
chúng tôi xem xét các hộ có một khoản vay (theo nguồn) và phân tích các yếu tố quyết định
đến quy mô của mỗi khoản vay ở từng năm điều tra.
7
Do chúng tôi chỉ quan sát quy mô của
các khoản vay ở các hộ thực sự đã có khoản vay nên các khoản vay này thể hiện đối với mẫu
được lựa chọn và bởi vậy nếu các nhân tố không được quan sát quyết định đến việc hộ có
khoản vay có mối tương quan với quy mô của các khoản vay thì phân tích hồi quy OLS đơn
giản sẽ cho các ước lượng bị sai lệch. Để giải quyết vấn đề này, chúng tôi sử dụng mô hình
lựa chọn mẫu Heckman với bước đầu tiên chúng tôi phân tích xác suất của việc có khoản vay
và đưa vào trong bước hai hồi quy về quy mô của khoản vay và một biến kiểm soát cho tác
động của sự lựa chọn. Chi tiết của cách tiếp cận này được cung cấp trong Phụ lục.
Chúng tôi thấy rằng quy mô của các khoản vay có mối quan hệ dương với thu nhập và của
cải. Kết quả này thể hiện cho tất cả các khoản vay mà không phân chia theo nguồn, nhưng thể
hiện rõ hơn ở các khoản vay từ VBARD. Đáng chú ý rằng quy mô của các khoản vay từ
VBARD có mối quan hệ dương với tất cả các mức tài sản năm 2006 nhưng tác động này thể
hiện ít hơn ở năm 2008 và 2010. Điều này có thể gợi ý rằng có thể có những sự thay đổi về
yêu cầu thế chấp đối với các khoản vay ở các năm này. Các hộ mà chủ hộ có trình độ giáo
dục cao nhất có mức vay mượn ít từ các nguồn khác. Những hộ bị các cú sốc, đặc biệt các cú
sốc có tính đặc trưng, nhìn chung vay mượn ít. Cùng với kết quả về việc các hộ bị các cú sốc
thường tiếp cận với tín dụng nhiều hơn có thể thấy rằng các cú sốc làm giảm lượng tiền mà
các ngân hàng sẵn sàng cho vay. Có bằng chứng cho thấy rằng các hộ già hơn và đã lập gia
đình có các khoản vay quy mô lớn hơn, đặc biệt từ VBSP.
7
Do các khó khăn trong việc kiểm soát lựa chọn mẫu trong các mô hình sử dụng số liệu dạng bảng vì vậy chúng
tôi ước lượng các mô hình riêng cho từng năm. Điều này cho chúng tôi cơ hội để phân tích các nhân tố đang
quyết định đến quy mô các khoản vay đã thay đổi như thế nào cùng với sự phát triển của VBSP và VBARD.
Bảng 6: Mô hình xác suất tuyến tính các tác động không đổi về tiếp cận các khoản vay theo nguồn và mục đích sử dụng
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9)
Tất cả các
khoản vay
VBSP VBARD Không chính
thức
Khác Nông nghiệp Phi nông
nghiệp
Đầu tư Tiêu dùng
Log
arit
c
ủ
a thu nh
ậ
p
0
,
013
-
0
,
004
-
0
,
002
-
0
,
010
-
0
,
006
-
0
,
007
0
,
005
0
,
019
0
,
010
Quy mô hộ -0,004 -0,002 0,010 0,013 0,012 0,021 0,004 -0,014 0,009
Nhận hỗ trợ từ con cái 0,018 -0,025 -0,003 0,019 0,014 0,020 -0,0003 -0,0002 -0,010
Nam
0
,
038
0
,
103*
0
,
060
-
0
,
041
-
0
,
038
0
,
079
-
0
,
040
0
,
016
-
0
,
045
Có gia đ
ình
0
,
046
0
,
024
0
,
033
0
,
026
0
,
016
-
0
,
024
0
,
046
0
,
061*
0
,
023
Tuổi -0,003 0,0003 0,003** -0,004** -0,005** -0,001 0,001 -0,0002 -0,002
Giáo dục 2 -0,030 -0,049 -0,011 -0,004 -0,011 0,005 -0,016 -0,082*** 0,037
Giáo d
ụ
c
3
-
0
,
043
-
0
,
015
-
0
,
026
-
0
,
036
-
0
,
036
-
0
,
002
-
0
,
005
-
0
,
066*
0
,
020
Giáo d
ụ
c
4
-
0
,
057
-
0
,
049
-
0
,
028
-
0
,
019
-
0
,
021
-
0
,
011
-
0
,
021
-
0
,
074*
0
,
027
Giáo dục 5 -0,093* -0,120** 0,001 -0,050 -0,054 -0,049 -0,054 -0,037 -0,004
Giáo dục 6 -0,020 -0,046 -0,019 0,103 0,059 -0,057 -0,047 0,073 0,078
S
ố
thành viên h
ộ
ho
ạ
t đ
ộ
ng
0
,
005
0
,
018
0
,
009
-
0
,
012
-
0
,
014
-
0
,
016
0
,
022*
-
0
,
002
-
0
,
007
C
ủ
a c
ả
i
2
0
,
001
-
0
,
024
-
0
,
0001
0
,
029
0
,
027
-
0
,
011
-
0
,
002
0
,
043*
0
,
028
Của cải 3 0,003 -0,009 -0,002 0,045* 0,035 -0,052** -0,016 0,095*** 0,025
Của cải 4 0,022 -0,016 0,015 0,036 0,031 -0,038 0,032* 0,065** 0,003
C
ủ
a c
ả
i
5
0
,
009
-
0
,
074**
0
,
014
0
,
042
0
,
038
-
0
,
044
0
,
051**
0
,
070**
0
,
007
Dân t
ộ
c
-
0
,
083
-
0
,
088
-
0
,
147
0
,
111
0
,
082
0
,
101
-
0
,
056
-
0
,
128
0
,
057
Sổ đỏ -0,025 -0,044 0,001 -0,008 0,001 0,007 -0,020 -0,017 -0,028
Thành viên Hội Phụ nữ 0,044** 0,020 0,022 0,020 0,020 0,002 0,045*** 0,055 0,012
Thành viên H
ộ
i Nông dân
0
,
024
0
,
018
0
,
043**
-
0
,
007
-
0
,
009
0
,
064***
-
0
,
037**
-
0
,
007
0
,
010
Thành viên H
ộ
i C
ự
u chi
ế
n
binh
0
,
015
-
0
,
020
-
0
,
010
-
0
,
013
-
0
,
008
0
,
038
0
,
023
-
0
,
034
-
0
,
002
Thiên tai 0,072*** 0,067*** 0,039** 0,058*** 0,065*** 0,057*** 0,026* 0,049** 0,051***
Cú s
ố
c v
ề
kinh t
ế
0
,
075**
0
,
042
-
0
,
001
0
,
128***
0
,
122***
0
,
009
0
,
034
0
,
117***
0
,
074**
Cú s
ố
c đ
ặ
c trưng
0
,
111***
0
,
049***
0
,
047*
0
,
151***
0
,
137***
0
,
031
0
,
006
0
,
085***
0
,
174***
Ngân hàng ở xã -0,012 0,021 0,009 -0,023 -0,026 0,019 -0,029** -0,021 -0,0005
Tỷ lệ nghèo trong xã -0,120*** -0,064 -0,095*** -0,092*** -0,081*** -0,055* -0,053 -0,090*** -0,093***
Năm
= 2008
-
0
,
128***
-
0
,
105***
-
0
,
106***
-
0
,
075***
-
0
,
076***
-
0
,
117***
-
0
,
069***
-
0
,
022
-
0
,
092***
Năm
= 2010
-
0
,
091***
-
0
,
002
-
0
,
146***
-
0
,
029
-
0
,
030
-
0
,
153***
-
0
,
066***
0
,
035*
-
0
,
044**
Hệ số không đổi 0,468*** 0,306 0,193 0,393** 0,386** 0,327* 0,040 0,099 0,071
R
2
0
,
053
0
,
055
0
,
012
0
,
083
0
,
078
0
,
066
0
,
030
0
,
014
0
,
065
S
ố
quan sát
6
.
148
4
.
005
4
.
075
3
.
827
3
.
788
4
.
546
3
.
350
3
.
748
3
.
610
Hộ 2.179 1.941 1.977 1.881 1.870 2.059 1.741 1.895 1.846
*** mức ý nghĩa thống kê 1%, ** mức ý nghĩa thống kê 5%, * mức ý nghĩa thống kê 10%. Các lỗi có phân phối chuẩn, ở cấp hộ, không được trình bày ở đây nhưng có sẵn khi được
yêu cầu.
Bảng 7: Các mô hình lựa chọn mẫu Heckman của các nhân tố quyết định quy mô các khoản vay theo nguồn
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9)
Tất cả các khoản vay VBSP VBARD
2006
2008
2010
2006
2008
2010
2006
2008
2010
Log
arit c
ủ
a thu nh
ậ
p
0
,
446***
0
,
473***
0
,
519***
0
,
112**
0
,
124*
0
,
202***
0
,
163***
0
,
421***
0
,
584***
Quy mô hộ 0,024 0,018 -0,010 -0,0003 0,004 0,040 0,056 0,023 0,020
Nhận hỗ trợ từ con cái -0,033 -0,647*** 0,058 0,060 -0,158 -0,113 -0,079 0,218 -0,058
Nam
-
0
,
050
-
0
,
118
-
0
,
074
0
,
255
-
0
,
225
-
0
,
085
-
0
,
131
0
,
199
0
,
074
Có gia đ
ình
0
,
136
0
,
274
0
,
371***
-
0
,
468***
0
,
376**
0
,
119
0
,
126
-
0
,
448
0
,
211
Tuổi 0,022*** 0,017*** -0,004 -0,001 0,016** 0,009** 0,009 0,008 0,010
Giáo dục 2 -0,246 -0,262 -0,010 0,004 -0,261 0,085 -0,054 0,038 0,461
Giáo d
ụ
c
3
-
0
,
083
-
0
,
148
0
,
031
0
,
070
-
0
,
131
0
,
102
-
0
,
158
0
,
154
0
,
296
Giáo d
ụ
c
4
-
0
,
178
-
0
,
115
-
0
,
022
0
,
094
-
0
,
182
-
0
,
033
-
0
,
342*
0
,
082
0
,
181
Giáo dục 5 0,118 0,067 -0,103 0,299 -0,166 -0,089 -0,073 0,580** 0,450
Giáo dục 6 -0,736*** -0,736** -0,833*** 0,113 -0,684* -0,458** -1,463*** -0,160 1,257
S
ố
thành viên h
ộ
ho
ạ
t đ
ộ
ng
0
,
004
-
0
,
065*
0
,
025
0
,
020
0
,
020
-
0
,
077*
-
0
,
097**
-
0
,
071
-
0
,
009
C
ủ
a c
ả
i
2
-
0
,
135
-
0
,
167
-
0
,
052
0
,
097
-
0
,
119
0
,
090
0
,
324**
0
,
047
-
0
,
556
Của cải 3 -0,069 -0,138 0,112 -0,146 -0,011 -0,186 0,293** -0,002 -0,294
Của cải 4 0,114 0,046 0,225* -0,002 0,136 0,076 0,361*** 0,263* -0,223
C
ủ
a c
ả
i
5
0
,
689***
0
,
524***
0
,
487***
0
,
057
0
,
227
0
,
356**
0
,
850***
0
,
589***
-
0
,
131
Dân t
ộ
c
0
,
399***
-
0
,
099
0
,
133
-
0
,
242**
-
0
,
005
0
,
051
0
,
193*
-
0
,
243*
0
,
343
Sổ đỏ 0,152 -0,095 0,183** -0,076 -0,159 -0,135 -0,464 -0,030 -0,284
Thiên tai -0,118 -0,156* -0,004 -0,032 0,002 -0,071 -0,137 -0,194* -0,071
Cú s
ố
c v
ề
kinh t
ế
-
0
,
103
0
,
095
0
,
070
,,,
0
,
087
-
0
,
048
-
0
,
694**
0
,
099
-
0
,
115
Cú s
ố
c đ
ặ
c trưng
-
0
,
418***
-
0
,
273**
-
0
,
325***
-
0
,
034
0
,
121
0
,
001
-
0
,
427***
0
,
012
-
0
,
096
Hệ số không đổi 4,418*** 5,226*** 3,264*** 7,492*** 7,256*** 7,780*** 8,710*** 5,957*** 3,742
S
ố
quan sát
1
.
944
2
.
091
1
.
080
1
.
944
2
.
091
2
.
113
1
.
944
2
.
091
2
.
113
*** mức ý nghĩa thống kê 1%, ** mức ý nghĩa thống kê 5%, * mức ý nghĩa thống kê 10%. Các lỗi có phân phối chuẩn, ở cấp hộ, không được trình bày ở đây nhưng có sẵn khi được
yêu cầu.
5. Phân tích kinh tế lượng về tính hiệu quả của tín dụng
Bây giờ chúng tôi chuyển sang đánh giá tín dụng được tiếp cận bởi các hộ gia đình có hiệu
quả ở mức độ nào trong việc cải thiện các kết quả đầu ra của hộ. Bất kỳ nỗ lực nào để phân
tích tác động của các khoản vay trong quá khứ đến các kết quả trong tương lai đều cần giải
quyết một số vấn đề mang tính thực nghiệm chủ yếu đang đặt ra.
Đầu tiên, lựa chọn độ dài thời gian phù hợp cho việc phân tích tác động của các khoản vay
không rõ ràng. Chúng tôi yêu cầu độ dài thời gian này phải đảm bảo rằng các khoản tiền được
vay đã được đưa vào sử dụng đồng thời các hộ cũng đã trả được khoản nợ của các khoản vay
này. Chúng tôi tập trung phân tích vào tác động của các khoản vay năm 2006 đến các kết quả
của năm 2010 với các khoản vay đáp ứng được cả hai tiêu chuẩn trên. Tuy nhiên, chúng tôi
cũng kiểm định liệu có bất kỳ tác động nào của các khoản vay năm 2006 đến các kết quả năm
2008 và các khoản vay năm 2008 đến các kết quả năm 2010 hay không như là một cách của
việc xem xét tính hợp lệ của các kết quả chúng tôi.
Thứ hai, các kỹ thuật đối với số liệu lặp (dạng bảng) không phù hợp khi mô hình dùng các
biến trễ để ước lượng cho các biến kết quả thực.
8
Vì lý do này chúng tôi sử dụng phân tích số
liệu chéo qua từng năm và bởi vậy khả năng các kết quả của chúng tôi bị ảnh hưởng bởi tính
không đồng nhất của hộ không quan sát được không thay đổi theo thời gian không được kiểm
soát trong các mô hình.
Thứ ba, việc phân tích mô hình thực nghiệm về hiệu quả của các khoản vay trong quá khứ
đến các kết quả trong tương lai sẽ bị sai lệch bởi tính nội sinh nếu sử dụng các ước lượng
OLS. Rất có thể rằng các yếu tố không quan sát được mà có tác động đến biến kết quả cũng
tác động đến xác suất mà một hộ có khoản vay. Ngay cả khi chúng tôi xem xét các khoản vay
trong quá khứ (tức là các khoản vay từ năm 2006) đến các kết quả năm 2010, cũng có thể một
số các yếu tố không được quan sát không thay đổi theo thời gian mà yêu cầu phải điều chỉnh
để loại bỏ những sự sai lệch mang tính nội sinh tiềm năng.
Chúng tôi sử dụng cách tiếp cận các biến công cụ để khắc phục vấn đề mang tính nội sinh
này (chi tiết xem Phụ lục). Các biến công cụ mà chúng tôi sử dụng phải thỏa mãn hai điều
kiện. Thứ nhất, các biến này phải có mối tương quan cao với biến bị nội sinh (tức là các
khoản vay năm 2006) nhưng lại không có mối tương quan với nguồn của tính nội sinh (có
nghĩa là các yếu tố không được quan sát, như khả năng hay hiểu biết về mặt tài chính, mà tác
động đến các kết quả của năm 2010 và đến việc liệu hộ có hay không có một khoản vay năm
2006).
Trong phân tích này chúng tôi xem xét bốn biến công cụ chính: sự tham gia vào Hội Phụ nữ
năm 2006, sự tham gia vào Hội Nông dân năm 2006, liệu xã có ngân hàng vào năm 2006
không và khoảng cách từ hộ đến đường gần nhất năm 2006. Mỗi yếu tố này được kỳ vọng có
mối tương quan lớn với việc hộ có một khoản vay năm 2006 khi các yếu tố này đều làm tăng
tiếp cận tín dụng của hộ. Các yếu tố này dường như cũng không có mối tương quan với
nguồn của tính nội sinh. Trong trường hợp của các Hội Nông dân và Hội Phụ nữ chúng tôi
kiểm soát trực tiếp cho việc là thành viên của Hội năm 2010 bởi vậy bất kỳ tác động nào của
việc là thành viên năm 2006 đến các kết quả đều được giải quyết. Tương tự như vậy, sự hiện
diện của các ngân hàng ở xã và khoảng cách của hộ đến đường giao thông gần nhất năm 2006
dường như cũng không có tác động riêng biệt đến các kết quả năm 2010 khi các biến chỉ số
8
Vi phạm giả thiết chặt chẽ về tính ngoại sinh được đòi hỏi để xác định ước lượng các tác động không thay đổi.
cho sự hiện diện của các ngân hàng và khoảng cách năm 2010 cũng được đưa vào trong mô
hình.
Chúng tôi cũng khai thác tác động của các khoản vay từ VBSP và VBARD, đặc biệt đến các
kết quả năm 2010. Các biến công cụ được sử dụng là sự tham gia vào các Hội Nông dân và
Hội Phụ nữ năm 2006 và sự hiện diện của VBSP và VBARD ở xã năm 2006. Các biến công
cụ này được kỳ vọng là hợp lệ với các lý do giống như đã nêu ở trên. Trong tất cả các trường
hợp, chúng tôi kiểm định tính hợp lệ của các biến công cụ này.
Các kết quả của các hồi quy biến công cụ về tác động của các khoản vay (nói chung) năm
2006 đến các kết quả năm 2010 được trình bày ở Bảng 8 và tác động của các khoản vay từ
VBSP và VBARD năm 2006 đến các kết quả năm 2010 được trình bày ở Bảng 9. Danh sách
các biến kiểm soát được đưa ra trong Phụ lục.
Nhìn chung, các kết quả của chúng tôi gợi ý rằng việc tiếp cận tín dụng năm 2006 có tác động
dương đến thu nhập của các năm sau đó.
9
Đặc biệt là đối với các khoản thu nhập từ nông
nghiệp. Chúng tôi thấy có bằng chứng của cơ chế mà thông qua đó thu nhập tăng lên khi
quan sát các khoản vay năm 2006 có tác động dương đến năng suất lao động. Điều này gợi ý
rằng việc cung cấp tiếp cận tín dụng có tiềm năng cải thiện các kết quả phúc lợi cho nông dân
trong dài hạn. Chúng tôi không thấy có bằng chứng về tác động của tín dụng đến việc đa
dạng hóa các nguồn thu nhập, năng suất lúa hay tiết kiệm. Chúng tôi cũng phân chia tiết kiệm
thành tiết kiệm chính thức, không chính thức và tiết kiệm tại nhà và không tìm thấy bất kỳ tác
động có ý nghĩa thống kê nào.
Bảng 9 phân chia các khoản vay theo VBSP và VBARD để xem xét nguồn nào hoạt động
hiệu quả nhất. Số liệu của chúng tôi không đủ để cung cấp sự phân chia hoàn toàn các khoản
vay bằng việc sử dụng ước lượng của các biến công cụ. Do đó chúng tôi chỉ tập trung vào các
khoản vay từ VBSP và VBARD và kiểm tra xem các kết quả của chúng tôi có đủ cơ sở để
bao gồm cả các loại khoản vay khác trong năm hay không. Trong tất cả các trường hợp các
kết quả của chúng tôi là đủ cơ sở.
10
Khi tín dụng được phân chia theo nguồn, chúng tôi không
quan sát thấy có tác động dương đến thu nhập, nhưng nhìn chung chúng tôi thấy rằng các
khoản vay từ cả VBSP và VBARD đều có tác động dương đến thu nhập nông nghiệp. Tác
động của các khoản vay từ VBSP nhỏ hơn nhiều so với tác động của các khoản vay từ
VBARD và tác động của các khoản vay từ VBSP chỉ có ý nghĩa thống kê ở mức 10%. Xem
xét tỷ lệ thu nhập đến từ nông nghiệp chúng tôi thấy rằng các khoản vay từ VBARD có tác
động dương và có ý nghĩa thống kê, nhưng các khoản vay từ VBSP không có tác động. Các
khoản vay từ VBARD cũng có tác động dương lớn đến năng suất lao động, trong khi đó có
một số bằng chứng cho thấy rằng các khoản vay từ VBSP có tác động âm đến năng suất lúa.
9
Các kết quả của chúng tôi là đủ cơ sở để bao gồm cả các kiểm soát đối với các khoản vay đạt được năm 2008
và 2010. Tác động của các khoản vay năm 2006 đến các kết quả năm 2008 và các khoản vay năm 2008 đến các
kết quả năm 2010 cũng được xem xét (cũng bằng việc sử dụng các hồi quy với các biến công cụ). Khi các kết
quả có ý nghĩa thống kê được tìm thấy, chúng được báo cáo bằng các chú thích trong bảng. Trong tất cả các
trường hợp, mối tương quan một phần giữa các biến công cụ và các biến bị nội sinh trong bước đầu tiên là có ý
nghĩa thống kê. Kiểm định F-test về các biến công cụ được loại trừ cũng phủ nhận giả thiết ban đầu rằng các
biến công cụ là không quan trọng. Thống kê J của Hansen về điều kiện không bị thừa dữ liệu trong tất cả các
trường hợp nhưng chỉ một trường hợp thất bại để phủ nhận giả thiết cơ sở này rằng các biến công cụ là hợp lệ.
10
Trong tất cả các trường hợp, mối tương quan một phần giữa các biến công cụ và các biến bị nội sinh trong
bước đầu tiên là có ý nghĩa thống kê. Kiểm định F-test về các biến công cụ được loại trừ cũng phủ nhận giả thiết
ban đầu rằng các biến công cụ là không quan trọng. Thống kê J của Hansen về điều kiện không bị thừa dữ liệu
trong tất cả các trường hợp nhưng chỉ một trường hợp thất bại để phủ nhận giả thiết cơ sở này rằng các biến
công cụ là hợp lệ.
Kết quả này nhất quán với tác động dương của các khoản vay từ VBSP đến đa dạng hóa các
nguồn thu nhập và gợi ý rằng các hộ gia đình tiếp cận các khoản vay từ VBSP sử dụng các
khoản vay này để đa dạng các nguồn thu nhập của họ hơn là việc đầu tư chuyên môn hóa để
nâng cao năng suất lúa. Chúng tôi thấy rằng các khoản vay từ VBARD có tác động dương
đến tiết kiệm.
Bảng 8: Ước lượng các biến công cụ về tác động của các khoản vay năm 2006 đến các kết quả năm 2010
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9)
Logarit của
thu nhập
Logarit của
thu nhập
NN
Ω
Tỷ lệ TN từ
NN
Ω
Tỷ lệ TN
cho thuê
Tỷ lệ TN phi
NN
ω
Đa dạng
γ
Năng suất
Lao động
Năng suất
lúa
Tổng tiết kiệm
Khoản vay 2006 0,527** 2,210*** 0,399*** -0,024** -0,054 -0,008 1,510*** -0,025 1,636
Đ
ặ
c đi
ể
m c
ủ
a h
ộ
Có
Có
Có
Có
Có
Có
Có
Có
Có
Hồi quy giai đoạn đầu tiên:
Đặc điểm của hộ Có Có Có Có Có Có Có Có Có
Các bi
ế
n công c
ụ
:
Thành viên H
ộ
i PN
06
0
,
075***
0
,
058**
0
,
075***
0
,
075***
0
,
075***
0
,
075***
0
,
059**
0
,
080**
0
,
075***
Thành viên Hội ND 06 0,112*** 0,109*** 0,112*** 0,112*** 0,112*** 0,113*** 0,110*** 0,100*** 0,113***
Ngân hàng trên địa bàn xã 06 -0,017 -0,014 -0,016 -0,016 -0,016 -0,017 -0,013 -0,020 -0,017
Kho
ả
ng cách t
ớ
i đư
ờ
ng
0
,
005*
0
,
006**
0
,
005*
0
,
005*
0
,
005*
0
,
005*
0
,
006*
0
,
005*
0
,
005*
F
-
test c
ủ
a các bi
ế
n công c
ụ
được loại trừ
10
,
42***
8
,
31***
10
,
42***
10
,
42***
10
,
42***
10
,
40***
8
,
18***
6
,
39***
10
,
40***
Th
ố
ng kê J c
ủ
a
Hansen:
Ki
ể
m đ
ị
nh vi
ệ
c
th
ừ
a d
ữ
ki
ệ
n (overidentification)
,
Ho:
mô hình
không b
ị
th
ừ
a d
ữ
ki
ệ
n
Thống kê Chi-sq 3,750 1,148 4,332 3,410 6,302 3,749 1,313 4,464 4,843
Giá trị P 0,2897 0,7655 0,228 0,332 0,098 0,2899 0,7261 0,2156 0,1837
Quy
ế
t đ
ị
nh
Th
ấ
t b
ạ
i
đ
ể
bác bỏ
Th
ấ
t b
ạ
i đ
ể
bác bỏ
Th
ấ
t b
ạ
i đ
ể
bác bỏ
Th
ấ
t b
ạ
i đ
ể
bác bỏ
Bác b
ỏ
ở
mức 10%
Thất bại để
bác bỏ ở
mức 5%
Th
ấ
t b
ạ
i đ
ể
bác bỏ
Th
ấ
t b
ạ
i đ
ể
bác bỏ
Th
ấ
t b
ạ
i đ
ể
bác bỏ
Th
ấ
t b
ạ
i đ
ể
bác bỏ
Số quan sát 1.877 1.785 1.877 1.877 1.877 1.879 1.662 1.310 1.879
*** mức ý nghĩa thống kê 1%, ** mức ý nghĩa thống kê 5%, * mức ý nghĩa thống kê 10%. Các lỗi có phân phối chuẩn không được trình bày ở đây nhưng có sẵn khi được yêu cầu.
Những sự khác nhau trong hồi quy bước đầu tiên là do những sự khác nhau trong quy mô mẫu khi một số số liệu là không có thông tin
Ω
Chúng tôi thấy rằng các khoản vay năm 2006 có mối quan hệ dương và có ý nghĩa thống kê đến thu nhập nông nghiệp và tỷ lệ của thu nhập nông nghiệp năm 2008. Các khoản vay
năm 2008 cũng có mối quan hệ dương đến tỷ lệ của thu nhập từ nông nghiệp năm 2010. Cả hai hồi quy đều sử dụng bộ biến công cụ giống nhau. Các kết qủa không được trình bày
nhưng có sẵn khi được yêu cầu.
ω
Giả thiết mô hình không bị thừa dữ kiện không có cơ sở ở mức ý nghĩa 10% và bởi vậy kết quả này nên được giải thích một cách cẩn thận.
γ
Trong khi các kết quả của mô hình chính cho thấy rằng các khoản vay không có tác động đến mức độ đa dạng của thu nhập, các khoản vay năm 2006 được hồi quy về mức độ đa
dạng của thu nhập năm 2008 sử dụng cách tiếp cận biến công cụ lại có tác động dương. Tác động tương tự không được tìm thấy đối với năm 2010.
Bảng 9: Ước lượng các biến công cụ về tác động của các khoản vay năm 2006 từ VBSP so với các khoản vay từ VBARD đến các kết quả năm 2010
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9)
Logarit của
thu nhập
Logarit của
thu nhập NN
Tỷ lệ TN từ
NN
Tỷ lệ TN
cho thuê
Tỷ lệ TN phi
NN
Đa dạng Năng suất
Lao động
Năng suất
lúa
Tổng tiết kiệm
Kho
ả
n vay
2006
t
ừ
VBSP
0
,
604
1
,
436*
0
,
375
-
0
,
040*
-
0
,
168
1
,
836*
0
,
781
-
0
,
287**
-
1
,
324
Khoản vay 2006 từ VBARD 0,495 2,300*** 0,567*** -0,017 -0,013 0,198 1,598*** 0,109 4,308**
Đ
ặ
c đi
ể
m c
ủ
a h
ộ
Có
Có
Có
Có
Có
Có
Có
Có
Có
Hồi quy giai đoạn đầu tiên:
Đặc điểm của hộ
Có
Có
Có
Có
Có
Có
Có
Có
Có
Các bi
ế
n công c
ụ
c
ủ
a VBARD
:
Thành viên Hội PN 06 -0,011 -0,015 -0,011 -0,011 -0,011 -0,011 -0,017 -0,025 -0,011
Thành viên Hội ND 06 0,065*** 0,074*** 0,065*** 0,065*** 0,065*** 0,065*** 0,075*** 0,072*** 0,065***
VBARD trên đ
ị
a bàn xã
06
-
0
,
089***
-
0
,
098***
-
0
,
089***
-
0
,
089***
-
0
,
089***
-
0
,
091***
-
0
,
104***
-
0
,
104***
-
0
,
091***
VBSP trên đ
ị
a bàn xã
06
0
,
021
0
,
020
0
,
021
0
,
021
0
,
021
0
,
020
0
,
018
0
,
021
0
,
020
Thống kê F của các biến công
cụ được loại trừ
6,79*** 7,49*** 6,79*** 6,79*** 6,79*** 6,97*** 7,89*** 5,24*** 6,97***
Các bi
ế
n công c
ụ
c
ủ
a VBSP
:
Thành viên Hội PN 06 0,053** 0,037 0,053** 0,053** 0,053** 0,053** 0,031 0,054** 0,053***
Thành viên Hội ND 06 0,061*** 0,064*** 0,061*** 0,061*** 0,061*** 0,060*** 0,067*** 0,069*** 0,060***
VBARD trên đ
ị
a bàn xã
06
0
,
096***
0
,
090***
0
,
096***
0
,
096***
0
,
096***
0
,
098***
0
,
090***
0
,
111***
0
,
098***
VBSP trên đ
ị
a bàn xã
06
0
,
009
0
,
005
0
,
009
0
,
009
0
,
009
0
,
009
0
,
011
-
0
,
007
0
,
009
Thống kê F của các biến công
cụ được loại trừ
7,71*** 5,93*** 7,71*** 7,71*** 7,71*** 7,74*** 6,13*** 6,82*** 7,74***
Ki
ể
m tra Sargan,
Ki
ể
m
đ
ị
nh vi
ệ
c th
ừ
a d
ữ
ki
ệ
n
,
Ho:
mô hình không b
ị
th
ừ
a d
ữ
ki
ệ
n
Thống kê Chi-sq 3,355 0,993 0,809 3,191 4,252 0,513 1,427 0,335 1,104
Giá trị P 0,187 0,609 0,667 0,203 0,119 0,774 0,490 0,846 0,576
Quy
ế
t đ
ị
nh
Thất bại để
bác bỏ
Thất bại để
bác bỏ
Thất bại để
bác bỏ
Thất bại để
bác bỏ
Thất bại để
bác bỏ
Thất bại để
bác bỏ
Thất bại để
bác bỏ
Thất bại để
bác bỏ
Thất bại để
bác bỏ
S
ố
quan sát
1.886
1.708
1.886
1.886
1.886
1.888
1.671
1.316
1.888
*** mức ý nghĩa thống kê 1%, ** mức ý nghĩa thống kê 5%, * mức ý nghĩa thống kê 10%. Các lỗi có phân phối chuẩn không được trình bày ở đây nhưng có sẵn khi được yêu cầu.
Để khai thác hơn nữa chúng tôi xem tác động của từng loại khoản vay đến các kết quả. Mặc dù số
liệu của chúng tôi không đủ mạnh để xác định các biến công cụ phù hợp cho tất cả các loại khoản
vay, chúng tôi thực hiện phân tích bằng việc giới hạn đối với các hộ có khoản vay năm 2006 và
kiểm soát cho việc lựa chọn mẫu. Các kết quả được trình bày trong Bảng 10a và 10b. Chúng tôi chỉ
tập trung vào việc khai thác sâu hơn các biến kết quả chính được tìm thấy có mối tương quan có ý
nghĩa thống kê với các khoản vay trong phân tích các biến công cụ.
Đầu tiên, chúng tôi xem xét tác dụng của tín dụng trong quá khứ đến thu nhập trong tương lai từ cột
(1) đến (3) của Bảng 10a. Chúng tôi thấy tác động chung của tất cả các khoản vay là dương và có ý
nghĩa thống kê nhưng tác động này chủ yếu là do các khoản vay từ VBARD. Các khoản vay từ các
nguồn không chính thức cũng cho thấy có tác động dương đến việc nâng cao thu nhập. Tác động
đến thu nhập được quyết định bởi các khoản vay có mục đích sử dụng cho các hoạt động phi nông
nghiệp. Phân chia các khoản vay theo nguồn và theo mục đích sử dụng cho thấy các khoản vay
quan trọng nhất là các khoản vay từ VBARD để đầu tư cho các hoạt động phi nông nghiệp.
Thứ hai, chúng tôi xem xét cụ thể thu nhập nông nghiệp. Chúng tôi không thấy có bất kỳ tác động
nào của các khoản vay trong quá khứ đến các mức thu nhập nông nghiệp. Phân chia theo loại khoản
vay, chúng tôi thấy, như được kỳ vọng, các khoản vay được sử dụng cho mục đích nông nghiệp có
tác động dương đến thu nhập nông nghiệp trong khi các khoản vay được sử dụng cho các mục đích
phi nông nghiệp hoặc đầu tư khác có tác động âm đến thu nhập phi nông nghiệp. Các khoản vay có
tác động lớn nhất khi được phân chia theo nguồn là các khoản vay từ VBARD. Các khoản vay cho
đầu tư từ các nguồn khác cũng cho thấy có tác động dương.
Thứ ba, chúng tôi xem tỷ lệ thu nhập từ nông nghiệp để xem xét liệu tín dụng có tác động như thế
nào đến tầm quan trọng tương đối của các nguồn thu thu nhập khác nhau của hộ. Như được kỳ
vọng, các khoản vay cho các hoạt động phi nông nghiệp có tác động âm đến tầm quan trọng của thu
nhập nông nghiệp trong tổng thu nhập của hộ. Kết quả này cũng đúng đối với các khoản vay từ
VBSP và VBARD. Các khoản vay từ các nguồn không chính thức cho các mục đích đầu tư và tiêu
dùng cũng có tác động âm đến tỷ lệ thu nhập từ nông nghiệp của hộ.
Thứ tư, về đa dạng hóa thu nhập (Bảng 10b), chúng tôi thấy có một số bằng chứng rằng các khoản
vay tiêu dùng từ VBSP làm giảm mức độ đa dạng hóa thu nhập. Điều này có thể là do các khoản
vay cho tiêu dùng đang thay thế cho việc đầu tư vào các hoạt động tạo thu nhập khác. Các khoản
vay cho các hoạt động phi nông nghiệp và đầu tư làm giảm sự đa dạng hóa thu nhập cho thấy rằng
các khoản vay được sử dụng chuyên môn hóa trong các hoạt động phi nông nghiệp. Các khoản vay
cho các hoạt động phi nông nghiệp và đầu tư khác làm tăng sự đa dạng của nguồn thu nhập cho thấy
rằng các khoản vay này được sử dụng để đa dạng hóa thu nhập.
Thứ năm, về năng suất lao động, chúng tôi thấy rằng các khoản vay cho nông nghiệp có tác động
dương và có ý nghĩa thống kê đến năng suất lao động. Các khoản vay cho các hoạt động phi nông
nghiệp có tác động âm và có ý nghĩa thống kê, như được kỳ vọng. Nguồn quan trọng nhất của các
khoản vay đang làm tăng năng suất lao động là các khoản vay từ VBARD. Các khoản vay cho đầu
tư từ VBSP và từ các nguồn không chính thức khác có tác động âm.
Cuối cùng, chúng tôi thấy có tác động mạnh của các khoản vay từ VBARD đến tiết kiệm, không
quan tâm đến mục đích sử dụng của các khoản vay. Các khoản vay từ VBSP không có tác động đến
tiết kiệm. Có một số bằng chứng cho thấy rằng các khoản vay từ các nguồn không chính thức cho
mục đích phi nông nghiệp và đầu tư có tác động dương đến tiết kiệm. Điều này gợi ý rằng một số
các nhóm tín dụng và tiết kiệm không chính thức trong mẫu của chúng tôi có thể đang hoạt động
một cách thành công.
Bảng 10a: Các mô hình lựa chọn mẫu về tác động của các loại khoản vay khác nhau năm 2006 đến các kết quả năm 2010 – giới hạn đối với các khoản
vay được thực hiện năm 2006 và kiểm soát cho việc lựa chọn mẫu
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9)
Logarit của thu nhập Logarit của thu nhập nông nghiệp Tỷ lệ thu nhập nông nghiệpcome
Kho
ả
n vay t
ừ
VBSP
-
0
,
042
-
0
,
084
-
0
,
016
Kho
ả
n vay t
ừ
VBARD
0
,
115**
0
,
109
-
0
,
025
Khoản vay từ các nguồn
không chính thức
0,270* -0,071 -0,105*
Kho
ả
n vay t
ừ
các ngu
ồ
n khác
-
0
,
270*
0
,
074
0
,
093
Kho
ả
n vay cho nông nghi
ệ
p
0
,
046
0
,
240**
*
0
,
042
Khoản vay cho phi nông
nghiệp
0,262*** -0,415*** -0,131***
Kho
ả
n vay cho đ
ầ
u tư
0
,
061
-
0
,
224*
-
0
,
030
Kho
ả
n vay cho tiêu dùng
0
,
079
-
0
,
097
-
0
,
032
Khoản vay cho nông nghiệp
từ VBSP
-0,020 -0,017 0,022
Kho
ả
n vay cho phi nông
nghiệp từ VBSP
-
0,153
-
0,415
-
0,125**
Khoản vay cho đầu tư từ
VBSP
-0,146 -0,654** -0,066
Kho
ả
n vay cho tiêu dùng t
ừ
VBSP
0,071
-
0,129
-
0,025
Khoản vay cho nông nghiệp
từ VBARD
0,066 0,286*** -0,008
Kho
ả
n vay cho phi nông
nghiệp từ VBARD
0,379***
-
0,277**
-
0,118***
Khoản vay cho đầu tư từ
VBARD
0,152 -0,010 0,007
Kho
ả
n vay cho tiêu dùng t
ừ
VBARD
0,050
-
0,059
0,024
Khoản vay cho nông nghiệp
từ các nguồn phi chính thức
0,023 0,090 0,071
Kho
ả
n vay cho phi nông
nghiệp từ nguồn phi chính
thức
0,244
0,071
0,309*
Khoản vay cho đầu tư từ các
nguồn phi chính thức
-0,298 -1,019*** -0,221***
Kho
ả
n vay cho tiêu dùng t
ừ
các nguồn phi chính thức
0,477*
-
0,137
-
0,277***
Khoản vay cho nông nghiệp
từ nguồn khác
-0,047 0,074 -0,011
Kho
ả
n vay cho phi nông
nghiệp từ nguồn khác
0,059
-
0,584
-
0,509***
Khoản vay cho đầu tư từ
nguồn khác
0,330 0,678*** 0,153***
Khoản vay cho tiêu dùng từ
nguồn khác
-0,403 0,073 0,221***
Các đ
ặ
c đi
ể
m c
ủ
a h
ộ
Có
Có
Có
Có
Có
Có
Có
Có
Có
IMR 2006 0,007 -0,001 -0,000 -0,584** -0,493** -0,581** -0,189** -0,161** -0,194**
S
ố
quan sát
1.080
1.080
1.080
1.007
1.007
1.007
1.080
1.080
1.080
*** mức ý nghĩa thống kê 1%, ** mức ý nghĩa thống kê 5%, * mức ý nghĩa thống kê 10%. Các lỗi có phân phối chuẩn không được trình bày ở đây nhưng có sẵn khi được yêu cầu.
Bảng 10b: Các mô hình lựa chọn mẫu về tác động của các loại khoản vay khác nhau năm 2006 đến các kết quả năm 2010 – giới hạn đối với các khoản
vay được thực hiện năm 2006 và kiểm soát cho việc lựa chọn mẫu
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9)
Đa dạng hóa Năng suất lao động Tổng tiết kiệm
Kho
ả
n vay t
ừ
VBSP
-
0,058
-
0,026
0,130
Kho
ả
n vay t
ừ
VBARD
-
0,056
0,121
0,878***
Khoản vay từ các nguồn
không chính thức
0,708 -0,080 0,226
Kho
ả
n vay t
ừ
các ngu
ồ
n khác
-
0,745
0,122
0,571
Kho
ả
n vay cho nông nghi
ệ
p
-
0,060
0,184**
0,586*
Khoản vay cho phi nông
nghiệp
-0,011 -0,302** 1,129**
Kho
ả
n vay cho đ
ầ
u tư
-
0,016
-
0,188
0,966**
Kho
ả
n vay cho tiêu dùng
0,041
-
0,082
0,679*
Khoản vay cho nông nghiệp
từ VBSP
-0,141 0,048 0,151
Kho
ả
n vay cho phi nông
nghiệp từ VBSP
0,389
-
0,247
0,627
Khoản vay cho đầu tư từ
VBSP
-0,125 -0,702** 0,592
Kho
ả
n vay cho tiêu dùng t
ừ
VBSP
-
0,599*
0,036
0,929
Khoản vay cho nông nghiệp
từ VBARD
0,074 0,187** 0,712**
Kho
ả
n vay cho phi nông
nghiệp từ VBARD
-
0,065
-
0,276
1,547**
Khoản vay cho đầu tư từ
VBARD
-0,349 0,145 1,005*
Kho
ả
n vay cho tiêu dùng t
ừ
VBARD
0,116
-
0,013
0,972**
Khoản vay cho nông nghiệp
từ các nguồn phi chính thức
-0,192 0,043 0,199
Kho
ả
n vay cho phi nông
nghiệp từ nguồn phi chính
thức
-
4,369***
0,491
9,915***
Khoản vay cho đầu tư từ các
nguồn phi chính thức
-1,059*** -0,718*** 2,916***
Kho
ả
n vay cho tiêu dùng t
ừ
các nguồn phi chính thức
0,239
-
0,007
0,010
Khoản vay cho nông nghiệp
từ nguồn khác
-0,063 0,112 0,186
Kho
ả
n vay cho phi nông
nghiệp từ nguồn khác
3,103***
-
0,651*
-
7,613***
Khoản vay cho đầu tư từ
nguồn khác
1,392*** 0,431* 0,763
Khoản vay cho tiêu dùng từ
nguồn khác
-0,075 -0,028
Các đ
ặ
c đi
ể
m c
ủ
a h
ộ
Có
Có
Có
Có
Có
Có
Có
Có
Có
IMR 2006 -0,255 -0,314 -0,287 -0,320 -0,251 -0,321 -1,101 -0,935 -0,973
S
ố
quan sát
1.081
1.081
1.081
984
984
984
1.081
1.081
1.081
*** mức ý nghĩa thống kê 1%, ** mức ý nghĩa thống kê 5%, * mức ý nghĩa thống kê 10%. Các lỗi có phân phối chuẩn không được trình bày ở đây nhưng có sẵn khi được yêu cầu.
6. Kết luận và kiến nghị
Các hộ gia đình nông thôn ở Việt Nam được dịch vụ thông qua hai ngân hàng nhà nước,
VBARD và VBSP. VBARD hoạt động trên nguyên tắc thương mại trong khi VBSP hoạt
động giống cơ chế tái phân phối với việc cung cấp các khoản tín dụng rẻ cho các hộ có nhu
cầu nhưng không đáp ứng đủ tiêu chuẩn để vay ở các ngân hàng thương mại. Đây là cách để
khắc phục các thất bại của thị trường trong việc cung cấp tín dụng cho các hộ gia đình ở các
vùng nông thôn và có thể là cách thay thế hiệu quả cho các hình thức cung cấp tài chính vi
mô khác. Tuy nhiên, nó gây ra chi phí đáng kể cho nhà nước và bởi vậy đánh giá tính hiệu
quả của tín dụng từ nguồn này là cần thiết. Trong bài viết này chúng tôi xây dựng hồ sơ của
các hộ gia đình đang sử dụng tín dụng từ các nguồn khác nhau, và cho các mục đích sử dụng
khác nhau ở nông thôn Việt Nam. Chúng tôi xem xét cả các nhân tố quyết định đến tiếp cận
tín dụng và tác động của các hình thức tín dụng khác nhau đến các kết quả phúc lợi.
Chúng tôi thấy rằng, nhìn chung, tiếp cận tín dụng ở nông thôn Việt Nam là rất cao, và các hộ
gia đình không thể hiện bị các rào cản tín dụng. Điều này được kết luận dựa trên cơ sở là đặc
điểm của các hộ gia đình không có các khoản tín dụng là không khác so với các hộ gia đình
có các khoản vay, đặc biệt nhất là về khía cạnh thu nhập, giáo dục, tình trạng hôn nhân, dân
tộc và sử hữu đất đai. Chúng tôi thấy có bằng chứng rằng VBSP cung cấp các dịch vụ một
cách hiệu quả cho các hộ rất nghèo và bởi vậy VBSP đang thể hiện vai trò quan trọng trong
việc làm cầu nối khoảng cách giữa các hộ giàu và nghèo trong việc tiếp cận với các tổ chức
tài chính chính thức. Phân tích của chúng tôi thể hiện rằng cả VBSP và VBARD đều thực
hiện nhiệm vụ của họ trong việc cung cấp tín dụng cho tất cả các đối tượng. Đặc biệt, tín
dụng thể hiện là cơ chế quan trọng trong việc thích ứng với các cú sốc tiêu cực về thu nhập
của các hộ gia đình.
Các tổ chức đoàn thể cũng đóng vai trò quan trọng khi xem xét việc tiếp cận tín dụng. Các hộ
là thành viên của các Hội Nông dân thường tiếp cận các khoản vay cho các mục đích nông
nghiệp, trong khi các hộ là thành viên của các Hội Phụ nữ thường tiếp cận các khoản vay cho
các mục đích phi nông nghiệp và đầu tư. Điều này phản ánh các cơ chế được thực hiện bởi
hai ngân hàng VBARD và VBSP là thông qua các tổ chức chính trị-xã hội ở cấp địa phương
để hỗ trợ quá trình hoàn trả vốn và đảm bảo rằng các khoản vay được sử dụng đúng mục
đích.
Sử dụng các khoản vay đạt được cũng khác nhau theo các đặc điểm của hộ. Sử dụng các
khoản vay cho mục đích tiêu dùng có tương quan lớn với việc liệu hộ có bị các cú sốc thu
nhập tiêu cực do đầu tư vào các hoạt động phi nông nghiệp hay không. Điều này gợi ý rằng
trong các thời kỳ khủng hoảng các hộ thường sử dụng tín dụng để đảm bảo tiêu dùng nhưng
cũng để đa dạng hóa các hoạt động của họ hơn là việc chỉ tập trung vào các hoạt động sản
xuất nông nghiệp có tính rủi ro cao hơn.
Do bản chất của việc cung cấp tín dụng ở nông thôn Việt Nam, trọng tâm phân tích thực
nghiệm của chúng tôi là khai thác xem tiếp cận tín dụng tác động như thế nào đến các kết
quả, tập trung vào nguồn của các khoản tín dụng đạt được và các quỹ được sử dụng như thế
nào. Nhìn chung, chúng tôi thấy mối quan hệ dương giữa tín dụng được tiếp cận năm 2006
với thu nhập các năm sau, ngay cả khi đã khắc phục những sự sai lệch tiềm năng do tính nội
sinh gây ra, đặc biệt đối với trường hợp của thu nhập nông nghiệp. Điều này gợi ý rằng tín
dụng có thể là một cách hiệu quả để giảm đói nghèo. Việc tín dụng làm tăng thu nhập thông
qua cải thiện năng suất lao động cho thấy rằng cung cấp tiếp cận tín dụng có tiềm năng nâng
cao phúc lợi cho nông dân trong dài hạn.