Tải bản đầy đủ (.pdf) (188 trang)

Tiểu luận thu hút sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển ODA vào phát triển nông nghiệp nghiệp cứu tại duyên hải miền trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 188 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Cách đây 20 năm, vào ngày 8/11/1993, Hội nghị bàn tròn về ODA dành cho
Việt Nam đã được tổ chức tại Paris, thủ đô nước Pháp. Sự kiện quan trọng này
chính thức đánh dấu cho sự mở đầu mối quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam,
một đất nước đang trên con đường đổi mới, với cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế.
Từ đó đến nay, “Việt Nam đã chứng kiến những đổi thay toàn diện trong đời sống
kinh tế và xã hội, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu phát triển nổi bật với tốc độ
tăng trưởng GDP trung bình năm khoảng 7% trong suốt hai thập kỷ. Việt Nam đã
trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình vào năm 2010, mức thu
nhập bình quân đầu người hiện nay là 1.600 USD”1 và “Tỷ lệ nghèo đói đã giảm
xuống còn 10% vào năm 2012, hơn 30 triệu người Việt Nam đã thoát khỏi đói
nghèo, các chỉ số xã hội cũng đã tốt hơn so với nhiều nước có trình độ phát triển
tương đồng”2. Hiện nay, có khoảng 51 nhà tài trợ, trong đó có 28 nhà tài trợ song
phương và 23 nhà tài trợ đa phương đang hoạt động, cung cấp nguồn ODA không
hoàn lại và vốn vay ưu đãi cho nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội của Việt
Nam. Tổng vốn ODA ký kết trong các điều ước quốc tế cụ thể từ năm 1993 đến
2012 đạt trên 58,4 tỷ USD, bằng 71,69% tổng vốn ODA cam kết, trong đó vốn vay
ưu đãi đạt 51,6 tỷ USD (chiếm khoảng 88,4%), vốn ODA không hoàn lại đạt 6,76 tỷ
USD (chiếm khoảng 11,6%). Trong hai thập kỷ qua, tổng vốn ODA giải ngân đạt
37,59 tỷ USD, chiếm trên 66,92% tổng vốn ODA ký kết. “Nguồn vốn ODA đã hỗ
trợ hiệu quả cho Việt Nam trong việc hoàn thiện hệ thống chính sách, tăng cường
năng lực thể chế, cải cách hành chính, chuyển đổi nền kinh tế, hội nhập kinh tế quốc
tế; phát triển nguồn nhân lực; chuyển giao công nghệ, kiến thức và kinh nghiệm
quản lý tiên tiến, qua đó, góp phần nâng cao năng lực sản xuất và khả năng cạnh
tranh của một số ngành kinh tế, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để thúc đẩy
1 Phát biểu của Ông Bùi Quang Vinh, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đàu tư tại Lễ kỷ niệm 20 năm quan hệ hợp
tác phát triển giữa Việt Nam và các nhà tài trợ
2 Phát biểu của Bà Victoria Kwakwa, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam tại Lễ kỷ


niệm 20 năm quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam và các nhà tài trợ


2

thương mại, đầu tư và phát triển khu vực kinh tế tư nhân; tăng cường hội nhập kinh
tế quốc tế”3.
Ở Việt Nam, lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn kết hợp xóa đói
giảm nghèo là lĩnh vực được ưu tiên sử dụng vốn ODA. Vốn ODA cho lĩnh vực này
chỉ đứng sau các lĩnh vực Giao thông vận tải & Bưu chính viễn thông và Năng
lượng & Công nghiệp. Trong thời kỳ 1993-2012, tổng nguồn vốn ODA ký kết cho
ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam kết hợp xóa đói giảm nghèo
đạt trên 8,85 tỷ USD (bao gồm vốn vay 7,43 tỷ USD, vốn viện trợ không hoàn lại
1,42 tỷ USD). Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan chủ quản chính
các chương trình, dự án ODA với tổng vốn 5,89 tỷ USD, trong đó có 3,43 tỷ USD
vốn vay (chiếm 58,23%) và 2,46 tỷ USD vốn viện trợ không hoàn lại (chiếm
41,77%). Cũng trong 20 năm qua, vùng Duyên hải Miền Trung luôn được xem là
vùng ưu tiên của các nhà tài trợ lớn như WB, ADB, JICA, tỷ lệ huy động vốn của
Vùng luôn chiếm khoảng 40% tổng vốn ODA của cả nước
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, quá trình thu hút, quản lý và sử dụng
ODA trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn nói chung và ở vùng
Duyên hải Miền Trung nói riêng vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế. Chẳng hạn như
năng lực hấp thu viện trợ chưa cao, tiến độ thực hiện và giải ngân vốn ODA còn
chậm so với kế hoạch, thủ tục trong nước vẫn còn phức tạp, khác biệt với quy định
của các nhà tài trợ quốc tế,… Trong khi đó, Nghị định số 38/2013/NĐ-CP về quản
lý và sử dụng nguồn Hỗ trợ phát triển chính thức và nguồn vốn vay ưu đãi của các
nhà tài trợ đã xác định nông nghiệp và phát triển nông thôn tiếp tục là một trong
chín lĩnh vực được ưu tiên sử dụng các nguồn vốn này. Mặt khác, từ khi Việt Nam
trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình, nguồn vốn ODA với Việt Nam sẽ
thay đổi cả về số lượng và tính chất tài trợ. Để tiếp tục thu hút và sử dụng có hiệu

quả nguồn ODA đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn trong
những năm tới, vấn đề cần thiết là phải đánh giá đúng thực trạng thu hút và sử dụng
3 Phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Lễ kỷ niệm 20 năm quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt
Nam và các nhà tài trợ ngày 17/10/ 2013,


3

ODA trong lĩnh vực này để có các giải pháp cụ thể, phù hợp. Qua nghiên cứu tổng
quan cho thấy đã có một số công trình nghiên cứu về ODA trong lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn trước năm 2010, chưa có đề tài nghiên cứu cho giai đoạn sau đó
khi Việt Nam trở thành nước có mức thu nhập trung bình tính chất hỗ trợ ODA có
nhiều thay đổi. Đặc biệt là chưa có nghiên cứu đề tài này tại vùng DHMT một cách
cụ thể. Vì vậy, Nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề tài“Thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ
trợ phát triển chính thức (ODA) vào phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam:
Nghiên cứu tại vùng Duyên hải Miền Trung”, để nghiên cứu làm luận án tiến sĩ, với
mong muốn góp phần vào việc giải quyết vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn
về huy động, sử dụng nguồn vốn ODA cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở luận giải các cơ sở khoa học và phân tích thực trạng thu hút và sử
dụng ODA vào nông nghiệp và PTNT tại Việt Nam nói chung và vùng Duyên hải
Miền Trung nói riêng từ đó đề xuất phương các định hướng và các giải pháp nhằm
tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng ODA vào nông nghiệp và PTNT
Việt Nam và vùng DHMT thời kỳ 2013-2020. Các mục tiêu cụ thể của Luận án gồm:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và đưa ra khung lý thuyết nghiên cứu thu hút và
sử dụng nguồn vốn ODA nói chung và ODA đối với nông nghiệp và phát triển nông
thôn nói riêng.
- Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây có liên quan đến thu hút và sử
dụng ODA nói chung và ODA đối với lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn nói riêng, chỉ

ra những mặt hạn chế và bất cập của các nghiên cứu này cũng như những vấn đề chưa
được nghiên cứu và làm rõ về thu hút và sử dụng ODA vào nông nghiệp và PTNT.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA
vào phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam nói chung và ở vùng DHMT nói
riêng trong giai đoạn 1993-2012.


4

- Đề xuất các định hướng và hệ thống các giải pháp chủ yếu nhằm tăng
cường thu hút, nâng cao hiệu quả nguồn vốn ODA vào phát triển nông nghiệp và
nông thôn Việt Nam và vùng DHMT trong những năm tiếp theo.
2.2. Câu hỏi nghiên cứu
Luận án trả lời 4 câu hỏi nghiên cứu chính là:
- Những nhân tố nào ảnh hưởng đến thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA vào
nông nghiệp và PTNT?
- Các tiêu chí đánh giá nguồn vốn ODA đối với nông nghiệp và PTNT là gì?
- Thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA vào nông nghiệp và PTNT
Việt Nam và vùng DHMT những năm qua như thế nào?
- Cần có các định hướng và giải pháp gì để nâng cao hiệu quả thu hút và sử
dụng nguồn vốn ODA vào nông nghiệp và PTNT Việt Nam và vùng DHMT?
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của Luận án là cơ chế, chính sách, biện pháp
tổ chức thu hút và quản lý, sử dụng nguồn vốn ODA vào nông nghiệp và phát
triển nông thôn Việt Nam nói chung, vùng DHMT nói riêng. Do việc thu hút
nguồn vốn ODA được thực hiện bằng các chính sách, cơ chế và giải pháp chủ yếu
do các Bộ/Ngành thuộc Chính phủ, nên tại vùng DHMT nghiên cứu tập trung
phân tích và đánh giá quá trình tổ chức, quản lý sử dụng nguồn vốn này trong lĩnh
vực nông nghiệp và PTNT và tác động của nó đến trình độ phát triển nông nghiệp,

nông thôn của Vùng.
3.2.

Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là nguồn vốn ODA được thu hút và sử dụng vào nông

nghiệp và PTNT ở Việt Nam do Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý (ngoại trừ các
dự án về phát triển nông thôn do các Bộ ngành khác quản lý) và nghiên cứu tại
vùng DHMT.


5

Đồng thời, Luận án cũng nghiên cứu các kinh nghiệm thành công và bài học
thất bại trong thu hút và sử dụng ODA vào nông nghiệp và PTNT từ các nước nhận
viện trợ ODA trên Thế giới.
Luận án tập trung đánh giá số liệu thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA vào
nông nghiệp và PTNT trong giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2012, tức là từ khi
nguồn vốn ODA xuất hiện tại Việt Nam cho đến 2012.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
4.1. Đóng góp về mặt lý luận
Luận án đã làm rõ khái niệm, điều kiện để được công nhận là ODA, phân
loại ODA, tính chất và mặt trái của ODA, vai trò của nguồn vốn ODA đối với nông
nghiệp và PTNT, các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút và sử dụng ODA, quy trình thu
hút và sử dụng ODA, tiêu chí đánh giá thu hút và sử dụng ODA trong nông nghiệp
và phát triển nông thôn.
4.2. Đóng góp về mặt thực tiễn, đề xuất rút ra từ kết quả nghiên cứu
- Luận án tổng kết và làm rõ một số bài học kinh nghiệm về thu hút và sử
dụng ODA vào nông nghiệp và PTNT từ các nước nhận viện trợ ODA trên thế giới,
có trình độ và lịch sử phát triển kinh tế tương đồng với Việt Nam như Thái Lan,

Trung Quốc, Đài Loan và một số nước Châu Phi.
- Luận án đã phân tích thực trạng thu hút và sử dụng ODA vào nông nghiệp và
PTNT của Bộ Nông nghiệp và PTNT nói chung và vùng DHMT nói riêng, rút ra
những thành tựu nổi bật và những điểm yếu cần khắc phục để làm cơ sở thực tiễn cho
việc đề xuất các nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng nguồn vốn
ODA vào nông nghiệp và PTNT tại Việt Nam nói chung và vùng DHMT nói riêng.
- Luận án đã phân tích và làm rõ định hướng phát triển nông nghiệp và
PTNT Việt Nam và tại vùng DHMT trong thời gian tới, từ đó xác định nhu cầu thu
hút ODA cho phát triển ngành và vùng.


6

- Luận án đã đề xuất các nhóm giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường thu hút,
nâng cao chất lượng quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA vào phát triển
ngành nông nghiệp và nông thôn những năm tiếp theo.
- Luận án đã đưa ra các kiến nghị với Nhà tài trợ và Cơ quan quản lý nhà
nước các cấp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng ODA vào nông nghiệp và PTNT.
5. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, kết
cấu của luận án được trình bày trong 4 chương:
Chương 1: Tổng quan các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến
đề tài.
Chương 2: Những vấn đề lý luận cơ bản về thu hút và sử dụng ODA cho
phát triển nông nghiệp và nông thôn của Việt Nam.
Chương 3: Thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA vào phát triển
nông nghiệp và nông thôn tại Việt Nam và vùng DHMT.
Chương 4: Định hướng và những giải pháp chủ yếu về thu hút và sử dụng
nguồn vốn ODA vào nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2013 -2020.



7

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ KHUNG NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1.

Các công trình nghiên cứu liên quan mật thiết đến đề tài luận án

1.1.1. Tình hình nghiên cứu về thu hút và sử dụng ODA ở các nước và các
tổ chức trên thế giới
ODA ra đời sau chiến tranh Thế giới lần thứ II (năm 1943), khởi nguồn từ
Tổ chức tiền thân của OECD. Tổ chức này hình thành nhằm quản lý nguồn viện trợ
của Canada và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ trong khuôn khổ kế hoạch “Marshall
Plane” nhằm tái thiết lại Châu Âu sau chiến tranh Thế giới lần thứ II. Năm 1961,
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế ra đời thay thế cho Tổ chức hợp tác kinh tế
Châu Âu, trong khuôn khổ hợp tác phát triển các nước thuộc tổ chức OECD, OECD
đã tiến hành thành lập ra các Uỷ ban chuyên môn nhằm điều phối toàn bộ hoạt động
của OECD, trong đó có DAC (Development Co-operation Directorate) là một trong
những Uỷ ban có nhiệm vụ hỗ trợ và cân đối toàn bộ nguồn viện trợ do các nước
thuộc OECD đóng góp tới các nước đang phát triển, giúp các nước này phát triển
kinh tế một cách bền vững.
Có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về thu hút và sử dụng hiệu quả
nguồn vốn ODA theo vùng và quốc gia chủ yếu là bài báo trên các tạp chí kinh tế,
các báo cáo của nhóm tư vấn, diễn văn họp thường niên của các nhà tài trợ. Các
công trình nghiên cứu của nước ngoài đề cập đến các nội dung sau đây:
Về khái niệm và nguồn gốc ra đời của ODA:
(1)Helmut FUHRER (1996), với nghiên cứu “A history of the development
assistance committee and the development co-operation directorate in dates, names

and figures”[62], cho thấy năm 1969, Tổ chức OECD đã đưa ra khái niệm về nguồn
vốn ODA lần đầu tiên như sau: “Nguồn vốn Phát triển chính thức (viết tắt là ODA)
là nguồn vốn hỗ trợ để tăng cường phát triển kinh tế và xã hội của các nước đang


8

phát triển; Thành tố hỗ trợ chiếm một khoảng xác định trong khoản tài trợ này”.
Như vậy, khái niệm sơ khai đã phân biệt ODA với các nguồn vốn đầu tư khác với
hai đặc điểm chính: (i) Đây là khoản hỗ trợ phát triển chính thức; (ii) Có bao gồm
thành tố hỗ trợ.
Các khái niệm sau về ODA đã bổ sung và lượng hóa tỷ lệ phần trăm thành tố
hỗ trợ là 20-30 % tùy vào Nhà tài trợ và Quốc gia nhận tài trợ. Tuy nhiên, qua thời
gian mục đích viện trợ cũng thay đổi, từ mục đích ban đầu là hàn gắn vết thương
chiến tranh, sau này là trách nhiệm của các nước giàu giúp các nước nghèo để phát
triển kinh tế - xã hội.
Về đánh giá hiệu quả của nguồn vốn ODA vào phát triển kinh tế - xã hội
của các nước đang phát triển:
(2) Các nghiên cứu của Boone (1996) [59] và Lensink và Morrissey
(2000)[66] đã tập trung đánh giá hiệu quả của nguồn vốn ODA đối với quá trình
phát triển kinh tế của các nước đang phát triển từ góc độ kinh tế vi mô, chỉ ra các
hạn chế và tác động xấu của các nước đang phát triển khi tiếp nhận nguồn vốn
ODA. Đó là việc nhận nguồn viện trợ không ổn định và không chắc chắn từ bên
ngoài đã ảnh hưởng tiêu cực đến chính sách tài chính và đầu tư của nước nhận viện
trợ. Các nghiên này đã nhấn mạnh trách nhiệm của các nhà tài trợ trong chính sách
ODA. Hơn nữa, các tác giả đã khẳng định rằng tác động của ODA là nguy hiểm và
tiêu cực đến phát triển kinh tế, phần lớn là do tham nhũng và thiếu hiệu quả trong
quá trình thực hiện nguồn vốn ODA của nước nhận viện trợ.
Đi ngược với quan điểm trên là phần đông các nhà nghiên cứu, trong đó có
các công trình nghiên cứu của:

(3) Chenery và Strout (1966 )[60] nhấn mạnh tầm quan trọng của nguồn vốn
ODA. Tác giả đã lập luận rằng hỗ trợ phát triển từ các nước giàu cho các nước đang
phát triển sẽ thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo, bằng cách cung cấp một lượng vốn cần
thiết ở giai đoạn đầu, rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia.


9

(4) Teboul và Moustier (2001 [73] cho thấy, lượng vốn ODA từ bên ngoài
ảnh hưởng tích cực đối với trường hợp của các nước trong tiểu vùng Sahara châu
Phi. Hỗ trợ phát triển từ nước ngoài đã tác động gia tăng tiết kiệm và tăng trưởng
GDP, góp phần phát triển kinh tế các nước tiếp nhận ODA của sáu quốc gia đang
phát triển trên biển Địa Trung Hải giai đoạn 1960-1966.
(5) SANGKIJIN, Korea Student Aid Foundation (KOSAF), South Korea
&CHEOLH.OH, Soongsil University, South Korea (2012 [72], đã nghiên cứu phân
tích hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA tại các nước nhận viện trợ, trên cơ sở phân
tích dữ liệu thu hút và sử dụng ODA tại 117 quốc gia trong suốt 28 năm 1980-2008.
Kết quả phân tích cho thấy hiệu quả kinh tế ODA của các nước đang phát triển khác
nhau tùy thuộc vào điều kiện chính trị (ví dụ, minh bạch quốc gia), và điều kiện
kinh tế của từng quốc gia (ví dụ, mức thu nhập). Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng,
một khi mức độ minh bạch của một quốc gia đạt đến một điểm nhất định, hiệu ứng
cận biên ròng kinh tế ODA cho các quốc gia giảm, thì ODA tác động có hiệu quả
đến sự phát triển kinh tế - xã hội của các Quốc gia nhận viện trợ.
(6) Tun Lin Moe[74], với nghiên cứu “An empirical investigation of
relationships between official development assistance (ODA) and human and
educational development”, đã đánh giá tác động của nguồn vốn hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA) vào sự phát triển giáo dục và con người ở tám quốc gia được lựa
chọn tại khu vực Nam Á và chỉ ra sự khác biệt các chỉ số phát triển con người; cơ
sở hạ tầng và chất lượng giáo trình, giáo viên đã được cải thiện sau 15 năm tiếp
nhận nguồn vốn ODA.

Về những bài học kinh nghiệm trong quá trình sử dụng ODA vào phát
triển kinh tế - xã hội, trong đó có nông nghiệp và phát triển nông thôn, xóa đói
giảm nghèo:
(7) Antonio Tujan Jr (2009)[56], đã đưa ra một số bài học kinh nghiệm trong
quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA là: (i) Sự cởi bỏ vô điều kiện viện trợ,
bao gồm cả viện trợ lương thực và hỗ trợ kỹ thuật nhằm tăng cường năng lực sản xuất
và đời sống của người nghèo thông qua các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ; (ii) Tăng


10

cường quyền sở hữu và trách nhiệm của địa phương bằng cách giảm dần sự phụ thuộc
của họ vào nhà tài trợ; (iii) Tăng cường hỗ trợ trực tiếp cho các tổ chức xã hội dân sự là
đối tác quan trọng về các chương trình xoá đói giảm nghèo. Tác giả đã chỉ ra cụ thể
tình hình kinh tế, chính trị của nước nhận viện trợ, khu vực, lĩnh vực thu hút và sử dụng
viện trợ và các số liệu để đánh giá hiệu qủa sử dụng từ năm 1960 đến năm 2002.
(8) Asian Development Bank (1999)[57], đã chỉ ra một trong những thành
công trong thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA ở Thái Lan là thành lập một hệ
thống quản lý, điều phối và thực hiện các chương trình, dự án đủ mạnh từ trung
ương đến địa phương, các chương trình viện trợ được tập trung ở một cơ quan là
Tổng vụ hợp tác kinh tế và kỹ thuật trực thuộc Chính phủ.
(9) Jamie Morrision, Dirk Bezemer and Catherine Arnold (November 2004)
[64] thực hiện nghiên cứu động thái nguồn vốn ODA cho nông nghiệp và phát triển
nông thôn trên thế giới giảm liên tiếp trong hai thập kỷ qua, nhằm trả lời hai câu hỏi:
(i) Tính chất và khối lượng nguồn vốn ODA viện trợ cho nông nghiệp thay đổi như
thế nào?; (ii) Nguyên nhân của sự sụt giảm nguồn vốn ODA đối với nông nghiệp và
phát triển nông thôn là gì?. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy: (i) Tỷ trọng nguồn
vốn ODA cho nông nghiệp cao nhất chiếm 17% vào năm 1982 và giảm xuống còn
3,5% tổng vốn ODA vào năm 2002, về phân bố địa lý từ năm 1982-2002, nguồn vốn
ODA cho nông nghiệp tại Châu Phi giảm 50% và giảm 83% tại khu vực Nam và

Trung Á; (ii) Nguyên nhân giảm hỗ trợ ODA cho nông nghiệp và nông thôn là do
một số nhà tài trợ chuyển đổi trọng tâm hỗ trợ sang y tế, giáo dục và một số các quốc
gia chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang phát triển công nghiệp và dịch vụ thay vì phát
triển nông nghiệp. Đây là một thách thức trong quá trình thu hút nguồn vốn ODA vào
phát triển nông nghiệp và nông thôn tại Việt Nam trong những năm tới.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu về thu hút và sử dụng ODA ở Việt Nam
Bên cạnh các công trình nghiên cứu của nước ngoài về ODA, cũng đã có một số
công trình nghiên cứu khoa học, bài báo và sách đề cập đến thu hút và sử dụng nguồn
vốn ODA tại Việt Nam, có thể kể ra các một số công trình nghiên tiêu biểu sau:


11

(1)Tôn Thành Tâm (Đại học Kinh tế Quốc dân, 2005)[39] với luận án về
“Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nguồn vốn Hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA) tại Việt Nam”, đã đề cập đến các nội dung: (i) Những vấn đề lý luận cơ bản
về hiệu quả quản lý nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA); (ii) Phân tích,
đánh giá thực trạng hiệu quả quản lý nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
ở Việt Nam; (iii) Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nguồn vốn ODA
trong thời gian tới (đến năm 2010). Tác giả đã phân tích kinh nghiệm sử dụng
nguồn vốn ODA của các nước trên thế giới và các bài học kinh nghiệm đối với Việt
Nam về quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA. Tuy nhiên phân tích này chỉ nêu lên
kết quả của các nước trong quá trình sử dụng vốn mà không phân tích sâu các
nguyên nhân, tác giả cũng không đưa ra các khuyến nghị về chính sách, mô hình
quản lý sử dụng ODA,... của các nước sử dụng và quản lý thành công hay thất bại
nguồn vốn ODA. Tác giả đã đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nguồn
vốn ODA tại Việt Nam trong thời gian tới gồm: thành lập ngân hàng bán buôn
nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức; hoàn thiện các cơ chế, chính sách quản lý
ODA; bổ sung, sửa đổi nội dung các văn bản qui phạm pháp luật có liên quan đến

quá trình thực hiện các chương trình, dự án; và các giải pháp bổ trợ khác nhằm góp
phần nâng cao năng lực quản lý về ODA.
(2) Vũ Thị Kim Oanh (Đại học Ngoại thương, 2002) [51], với đề tài nghiên
cứu tiến sỹ “Những giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn hỗ trợ phát
triển chính thức ODA”, đã phân tích, đánh giá vai trò của vốn ODA trong chiến
lược phát triển kinh tế của các nước đang và chậm phát triển; thực trạng sử dụng
vốn ODA tại Việt Nam trong những năm qua, đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm
sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA tại Việt Nam trong thời gian đến 2010 như:
cần có chiến lược thu hút và sử dụng ODA, nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện
các quy hoạch phát triển lĩnh vực kinh tế đối ngoại, bao gồm quy hoạch ODA, đẩy
nhanh tốc độ giải ngân...
Có thể nói, hai luận văn tiến sỹ nêu trên là hai công trình nghiên cứu có hệ
thống đầu tiên về các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nguồn vốn ODA tại Việt


12

Nam. Tuy nhiên, các luận án có những bất cập sau: (i) Nội dung nghiên cứu của
luận án quá rộng nên không có những phân tích và đánh giá quá trình sử dụng
nguồn vốn ODA theo ngành, lĩnh vực, nhà tài trợ và địa phương, do vậy khó có thể
có những khuyến nghị mang tính thực tiễn cao; (ii) Số liệu tại hai luận án đều là số
liệu thứ cấp và chưa phản ánh một “bức tranh đa dạng và nhiều mầu sắc”của quá
trình thu hút, sử dụng và quản lý nguồn vốn ODA tại Việt Nam; (iii) Nhóm hệ
thống giải pháp của các tác giả căn cứ vào chiến lược thu hút trong thời gian 5 năm
từ năm 2005-2010 do vậy, tính đến thời điểm hiện tại thì các nhóm giải pháp này
cần được điều chỉnh cho phù hợp.
(3) Lê Quốc Hội (2012) [63], đã dựa trên số liệu cam kết và thu hút ODA
từ năm 1993-2007 tại Việt Nam để đưa ra một số nhận định là Việt Nam sẽ
chuyển một phần lớn các khoản vay ODA ưu đãi sang khoản vay thương mại sau
năm 2010, do vậy, cần thiết phải có kế hoạch hành động như: (i) Tăng cường

nhận thức về nguồn vốn ODA; (ii) Sử dụng nguồn vốn ODA một cách có lựa
chọn; (iii) Thúc đẩy giải ngân nguồn vốn ODA để tăng cường hiệu quả sử dụng;
(iv) Tăng cường các hoạt động giám sát đánh giá và quản lý nguồn vốn ODA;
(v) Xây dựng kế hoạch dài hạn để giảm thiểu các khoản vốn vay ngắn hạn và các
điều kiện ràng buộc.
(4) Trần Thị Phương Thảo (Học viện Tài chính, 2005) [45] với nghiên cứu
‘“Các giải pháp thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn Hỗ trợ Phát triển
chính thức (ODA) tại Bộ Nông nghiệp và PTNT trong giai đoạn hiện nay”, là
nghiên cứu liên quan đến ODA cho ngành nông nghiệp, đã chỉ ra một số giải pháp
mang tính chất vĩ mô đối với Bộ Nông nghiệp và PTNT. Tuy nhiên, thời gian tác
giả đưa các giải pháp là từ năm 2006-2010, trong khi sau năm 2010 qui mô và tính
chất hỗ trợ ODA cho Việt Nam có nhiều thay đổi nên việc thu hút nguồn vốn ODA
sau năm 2010 mới là một vấn đề vô cùng khó khăn của các nhà quản lý vì Việt Nam
không còn là nước nghèo để hưởng các ưu đãi về lãi suất. Hơn nữa, các giải pháp
của tác giả không gắn với các đặc điểm của vùng miền mà tiếp cận theo ngành kinh
tế (nông nghiệp và phát triển nông thôn).


13

1.1.3. Tổng kết các nghiên cứu trong và ngoài nước và xác định hướng
nghiên cứu
Tổng quan các nghiên cứu về thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA vào nông
nghiệp và phát triển nông thôn đã nêu ra được: (i) Một số vấn đề về lý luận ODA
như khái niệm, đặc điểm, ưu nhược điểm khi tiếp nhận và sử dụng ODA; (ii) Đúc
rút một số kinh nghiệm về thu hút, sử dụng ODA của các nước trong khu vực và
thế giới; (iii) Đưa ra nhóm giải pháp vĩ mô về thu hút, quản lý và sử dụng nguồn
vốn ODA cho thời kỳ 2006-2010. Tuy nhiên, khung lý thuyết về nguồn vốn, vấn
đề thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA chưa được nghiên cứu nào đề cập một cách
toàn diện và có hệ thống, đánh giá thực trạng thu hút và giải ngân chủ yếu dựa vào

các số liệu thứ cấp, các giải pháp đưa ra chủ yếu phù hợp với điều kiện trước năm
2010 và chưa đồng bộ, đồng thời các nghiên cứu chưa dựa vào sự khảo sát trên
một vùng miền nhất định chỉ nghiên cứu trên cấp độ ngành nông nghiệp và phát
triển nông thôn nên chưa đưa ra được giải pháp cụ thể, sát thực.
Tác giả nhận thấy rằng, một nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện hơn cả về
lý luận và thực tiễn về ODA, thu hút và sử dụng ODA vào nông nghiệp và phát
triển nông thôn giai đoạn 1993-2012 và những năm tiếp theo, nhằm đánh giá đúng
được thực trạng và cung cấp thông tin hữu ích cho các nhà tài trợ và nhà quản lý,
đồng thời đề xuất định hướng và giải pháp thu hút và sử dụng ODA phù hợp với
bối cảnh mới, vì vậy đề tài nghiên cứu rất cần thiết và có ý nghĩa. Để nghiên cứu
chuyên sâu các vấn đề trên, luận án tập trung vào giải quyết 04 (bốn) câu hỏi
chính: (1) Những nhân tố nào ảnh hưởng đến thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA
vào nông nghiệp và PTNT?; (2) Tiêu chí nào để đánh giá của ODA đối với nông
nghiệp và PTNT?; (3). Thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA vào nông
nghiệp và PTNT Việt Nam và vùng DHMTnhư thế nào? và (4) Định hướng và
giải pháp nào để nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA vào nông
nghiệp và PTNT Việt Nam và vùng DHMT?
Trả lời được 4 câu hỏi trên chính là điểm nhấn và là những điểm mới của
Luận án.


14

1.2.

Nội dung và phương pháp nghiên cứu được sử dụng
Luận án nghiên cứu 4 nội dung chính và các phương pháp được sử dụng

trong nghiên cứu từng nội dung như dưới đây:
Nội dung 1: Nghiên cứu tổng quan về các công trình có liên quan đến đề tài

Đối tượng nghiên cứu chính: Luận án nghiên cứu tổng quan các công trình
trong và ngoài nước có liên quan trực tiếp đến thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA
vào nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng phương pháp sưu tầm tổng hợp
tài liệu thứ cấp, phân tích tìm ra những nội dung đã nghiên cứu trong các công
trình trong và ngoài nước có liên quan mật thiết đến đề tài.
Mục tiêu và kết quả đạt được: Kế thừa những kết quả nghiên cứu đã có trong
và ngoài nước và tìm ra khoảng trống nghiên cứu cho luận án.
Nội dung 2: Nghiên cứu khung lý luận về ODA, thu hút và sử dụng
ODA vào nông nghiệp và PTNT
Đối tượng nghiên cứu chính, đó là: Lịch sử hình thành ODA; khái niệm
ODA; Điều kiện để khoản hỗ trợ được thừa nhận là ODA; phân loại ODA; Tính
chất của ODA và mặt trái của nó; vai trò của ODA đối với nông nghiệp, nông thôn;
các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút và quản lý ODA; quy trình và tiêu chí đánh giá
thu hút và sử dụng ODA; một số kinh nghiệm trong và ngoài nước.
Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng các phương pháp tiếp cận về hỗ
trợ phát triển, đầu tư; sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích tài liệu thứ cấp và
so sánh các quan điểm, khái niệm khác nhau của các nhà khoa học, các học giả và
các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến nguồn vốn ODA.
Mục tiêu và kết quả đạt được: Xây dựng một khung lý luận hoàn chỉnh, định
hướng và dẫn dắt nghiên cứu phân tích thực trạng và các đề xuất.
Nội dung 3: Nghiên cứu, đánh giá thực trạng thu hút và sử dụng nguồn
vốn ODA vào nông nghiệp và PTNT Việt Nam và vùng DHMT


15

Đối tượng nghiên cứu chính: Khái quát về nông nghiệp, nông thôn Việt Nam
và đặc điểm vùng DHMT; tổng quan tình hình thu hút, sử dụng ODA trong nông
nghiệp và nông thôn Việt Nam; thực trạng thu hút và sử dụng ODA vào phát triển

nông nghiệp nông thôn vùng DHMT, bao gồm các nội dung chi tiết về thực trạng
thu hút, quản lý, tổ chức bộ máy, giám sát và đánh giá, quản lý khai thác các công
trình xây dựng từ nguồn ODA, kết quả thực hiện một số dự án, đánh giá chung về
kết quả, hạn chế nguyên nhân, đồng thời xác định các vấn đề cần giải quyết.
Mục tiêu và kết quả đạt được: Mô tả bức tranh thực trạng về thu hút và quản
lý ODA trong nông nghiệp, nông thôn Việt Nam và Vùng DHMT; đặc biệt là phân
tích và chỉ rõ những kết quả tốt cần được kế thừa, những hạn chế cần khắc phục,
các vấn đề đặt ra cần giải quyết để thu hút nhiều hơn và nâng cao hiệu qủa sử dụng
ODA vào nông nghiệp và PTNT Việt Nam và vùng DHMT.
Phương pháp nghiên cứu: Trong phần này, luận án sử dụng phương pháp
phân tích kinh tế, phân tích thống kê, so sánh và tổng hợp. Đồng thời cũng sử dụng
phương pháp điều tra thu thập số liệu sơ cấp, tổng hợp và phân tích các ý kiến đánh
giá của các nhà tài trợ, các cán bộ quản lý và người hưởng lợi từ dự án ODA.
Nội dung 4: Đề xuất định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút
và sử dụng nguồn vốn ODA vào Nông nghiệp và PTNT Việt Nam và vùng
DHMT, đưa ra một số kiến nghị đối với Chính phủ và đối với các nhà tài trợ.
Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng phương pháp dự báo, chuyên gia,
kết hợp phân tích và tổng hợp.
Mục tiêu và kết quả đạt được: Dự báo bối cảnh nông nghiệp, nông thôn trong
và ngoài nước, xu hướng cung cấp ODA trong thời gian tới; Đề xuất các định
hướng phát triển nông nghiệp nông thôn vùng DHMT và nhu cầu vốn ODA cho
vùng; Đề xuất các nhóm giải pháp tổng thể và cụ thể có tính khả thi cao.
Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu đề tài luận án được tóm tắt trong
Hình 1.1 dưới đây.


16

PHƯƠNG PHÁP, CÔNG
CỤ NGHIÊN CỨU


Chương
1

Chương
2

- Sưu tầm
- Phân tích
- Tổng hợp

- Phân tích
- So sánh
- Tổng hợp

NỘI DUNG
NGHIÊN CỨU CHÍNH
Tổng quan nghiên
cứu thu hút, sử
dụng ODA vào NN
& PTNT

Xác định khoảng
trống cần nghiên
cứu về thu hút và sử
dụng ODA vào
NN&PTNT

Lý luận ODA, TH & SD ODA,
đặc điểm & phân loại ODA


Khung lý thuyết
ODA, thu hút & sử
dụng ODA

Các nhân tố ảnh hưởng đến
thu hút & sử dụng ODA

Đưa ra các nhân tố
ảnh hưởng

Vai trò & tiêu chí đánh giá
ODA đối với NN & PTNT

Đưa ra tác động & tiêu
chí đánh giá

- Phân tích, so
sánh, phân tích
thống kê

Thực trạng thu hút & sử
dụng ODA vào NN & PTNT
Việt Nam và vùng DHMT

Điều tra, phỏng
vấn theo bảng
hỏi

Các vấn đề tồn tại cần

giải quyết về thu hút & sử
dụng ODA

Chương
3

- Phân tích
- So sánh

KẾT QUẢ , MỤC
TIÊU CHÍNH
CẦN ĐẠT ĐƯỢC

Phương hướng &
giải pháp nâng cao
hiệu quả thu hút &
sử dụng ODA

Tình hình thu hút &
sử dụng

Phương hướng &
giải quyết

Chương
4

- Tổng hợp
- Chọn lọc


Kiến nghị nâng cao
hiệu quả thu hút &
sử dụng ODA

Hình 1.1. Khung nghiên cứu của Luận án

Đưa ra các kiến nghị đối
với Nhà nước & Nhà tài
trợ


17

Tóm lại, việc tổng quan các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên
quan mật thiết đến ODA, thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA vào nông nghiệp và
PTNT có ý nghĩa quan trọng đối với nghiên cứu, xây dựng cơ sở lý luận và thực
tiễn cho đề tài nghiên cứu của Luận án. Qua tổng quan và hệ thống hóa các công
trình nghiên cứu, có thể thấy chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống
và toàn diện về thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA tại Việt Nam, đặc biệt tại vùng
nghiên cứu là vùng DHMT trong giai đoạn 1993-2012, cùng với tổng quan nghiên
cứu có liên quan đến đề tài, chương một đã làm rõ mục tiêu nghiên cứu, nội dung và
phương pháp nghiên cứu của luận án.


18

CHƯƠNG 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CƠ BẢN
VỀ THU HÚT VÀ SỬ DỤNG ODA VÀO NÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

2.1.

Khái niệm và đặc điểm của Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)

2.1.1. Khái niệm ODA
2.1.1.1. Quá trình hình thành ODA
Đại chiến Thế giới thứ II kết thúc cũng là thời điểm mở đầu cho một cuộc
chiến mới kéo dài gần nửa thế kỷ, đó là chiến tranh lạnh giữa hệ thống Xã hội Chủ
nghĩa (XHCN) và Tư bản chủ nghĩa, mà đứng đầu là Liên Xô và Hoa Kỳ, hai cường
quốc này thực thi nhiều biện pháp, đặc biệt là về kinh tế để củng cố hệ thống đồng
minh của mình.
Đối với Hoa Kỳ, nền kinh tế không những không bị tàn phá mà ngày càng
giàu có nhờ chiến tranh, năm 1945 GNP của Hoa Kỳ là 213,5 tỷ USD, bằng 40%
tổng sản phẩm toàn thế giới. Trong khi đó, các nước đồng minh của Hoa Kỳ lại chịu
tác động nặng nề của cuộc chiến tranh, sự yếu kém về kinh tế của các nước này
khiến Hoa Kỳ lo ngại trước sự mở rộng của phe XHCN; Để ngăn chặn sự phát triển
đó, giải pháp quan trọng lúc bấy giờ là giúp các nước tư bản sớm hồi phục kinh tế,
năm 1947 Hoa Kỳ triển khai kế hoạch Marshall, viện trợ ồ ạt cho các nước Tây Âu.
Từ năm 1947 đến 1951, Hoa Kỳ đã viện trợ cho các nước Tây Âu tổng cộng 12 tỷ
USD (tương đương 2,2% GDP của thế giới và 5,6% GDP của Hoa Kỳ lúc bấy giờ).
Về phía mình, Liên Xô cũng sử dụng biện pháp trợ giúp kinh tế để củng cố và gia
tăng số lượng các nước gia nhập hệ thống XHCN, với tinh thần “quốc tế vô sản”
Liên Xô đã tài trợ cho nhiều quốc gia trên thế giới, từ các nước ở châu Âu, châu Á,
đến châu Phi và Mỹ La-tinh. Năm 1991, khi Liên Xô tan rã, tổng số tiền các nước
còn nợ Liên Xô lên đến con số khổng lồ, quy đổi ra Đôla Mỹ là 120 tỷ USD.
Viện trợ của Hoa Kỳ cho các nước Tây Âu và của Liên Xô cho các nước
XHCN được coi là các khoản ODA đầu tiên, mặc dù mục tiêu chính của các khoản


19


viện trợ này là chính trị, nhưng chúng cũng đã có tác dụng nhất định giúp các nước
tiếp nhận phát triển KTXH. Đến năm 1960, trước sự đấu tranh mạnh mẽ của các
nước đang và kém phát triển, cộng với nhận thức thay đổi của các nước giàu đối với
sự phát triển của các nước nghèo, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)
thành lập Uỷ ban Hỗ trợ phát triển (DAC), Uỷ ban này có nhiệm vụ yêu cầu,
khuyến khích và điều phối viện trợ của các nước OECD cho các nước đang và kém
phát triển. Kể từ khi bản báo cáo đầu tiên của DAC ra đời vào năm 1961, thuật ngữ
ODA được chính thức sử dụng, với ý nghĩa là sự trợ giúp có ưu đãi về mặt tài chính
của các nước giàu, các tổ chức quốc tế cho các nước nghèo.
Kể từ khi ra đời, ODA liên tục gia tăng với tốc độ khác nhau tùy từng giai
đoạn, trong những năm 1960, tổng khối lượng ODA tăng chậm đến những năm
(1970 - 1980) viện trợ từ các nước thuộc OECD đạt tốc độ tăng liên tục, giữa thập
niên 80 khối lượng viện trợ đạt mức gấp đôi đầu thập niên 70, cuối những năm 1980
đến những năm 1990 vẫn tăng nhưng với tỷ lệ thấp, đến năm 1995 viện trợ phát triển
chính thức đã đạt đến con số đỉnh điểm là trên 79 tỷ USD. Năm 1996 các nước tài trợ
OECD đã dành 0,25% tổng GDP của mình để tài trợ ODA, so với năm 1995 viện trợ
của OECD giảm 3,768 tỷ USD, lượng tài trợ ODA trong giai đoạn 1995-2009 được
thể hiện trong Biểu đồ 2.1. Theo OECD-DAC (2010), trong tổng số ODA năm 2009
đạt khoảng 165,4 tỷ USD, trong đó Châu Phi nhận $42.2 tỷ USD (chiếm 25,5%)
đứng vị trí thứ nhất, khu vực Châu Á đứng vị trí thứ hai với 38,2 tỷ USD, Châu Âu,
Trung và Nam Mỹ và khu vực khác nhận được chưa đến 4%.
Đến năm 2012, theo số liệu của câu lạc bộ Paris - câu lạc bộ gồm các chủ nợ
là các nước giàu, tổng viện trợ năm 2012 của DAC là 125,7 tỷ USD, giảm 4% so
với năm 2011 [68]. Nguyên nhân chính là do hầu hết các nước châu Âu cắt giảm chi
tiêu viện trợ, đặc biệt là các nước bị ảnh hưởng nặng nề bởi khủng hoảng kinh tế
như Ý, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Ireland. Riêng đối với Việt Nam, kể
từ khi nối lại quan hệ với các nước và tổ chức cung cấp viện trợ (năm 1993) thì các
nước viện trợ vẫn ưu tiên cho Việt Nam, ngay cả khi khối lượng viện trợ trên thế
giới giảm xuống.



20

Biểu đồ 2.1. ODA cung cấp cho các khu vực trên thế giới

(Nguồn: OECD-DAC 2010)

2.1.1.2. Khái niệm về ODA
Hỗ trợ (hay Viện trợ) nước ngoài bao gồm các dòng tài chính, trợ giúp kỹ
thuật và hàng hóa được cư dân một nước trao cho cư dân nước khác dưới hình thức
trợ cấp hay cho vay có trợ cấp bởi Chính phủ các nước, các quỹ, các tổ chức tài
chính đa phương, các doanh nghiệp hay cá nhân. Không phải mọi sự chuyển giao từ
nước giàu sang nước nghèo đều được xem là Hỗ trợ nước ngoài (Foreign Aid/
Foreign Assistance).
Hỗ trợ nước ngoài bao gồm 3 loại chính: (i) Hỗ trợ phát triển chính thức
(Official Development Assistance, ODA) là lớn nhất, bao gồm viện trợ của chính
phủ nước tài trợ (vì thế được gọi là chính thức) dành cho các nước thu nhập thấp
và trung bình; (ii) Hỗ trợ chính thức (Official Assistance, OA), là viện trợ cung
ứng bởi chính phủ các nước tài trợ dành cho những quốc gia giàu hơn; và (iii) Hỗ
trợ tự nguyện tư nhân (Private Voluntary Assistance, PVA) bao gồm trợ cấp từ các


21

tổ chức phi chính phủ, các nhóm tôn giáo, các tổ chức từ thiện, các quỹ và các
công ty tư nhân.
Năm 1972, lần đầu tiên OECD đã đưa ra khái niệm về ODA đầy đủ như sau:
“ODA là một giao dịch chính thức được thiết lập với mục đích chính là thúc đẩy sự phát
triến kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển. Điều kiện tài chính của giao dịch này

có tính chất ưu đãi và thành tố viện trợ không hoàn lại chiếm ít nhất 25%” [68].
Đến năm 2009, “Báo cáo đánh giá viện trợ khi nào có tác dụng, khi nào
không và tại sao?” (WB, 1999) [51] đã bổ sung và hoàn thiện thêm khái niệm về
ODA như sau: “ODA là một phần của Tài chính phát triển chính thức (ODF) trong
đó có yếu tố viện trợ không hoàn lại cộng với cho vay ưu đãi và phải chiếm ít nhất
25% trong tổng viện trợ thì gọi là ODA”, trong đó ODF là tất cả các nguồn tài chính
mà Chính phủ các nước phát triển và tổ chức đa phương dành cho các nước đang
phát triển.
Theo từ điển của UNDP, Viện trợ phát triển chính thức (ODA) là khoản hỗ
trợ và vốn vay cung cấp cho các nước trong danh mục được nhận tài trợ của DAC,
khoản này hỗ trợ cho các lĩnh vực chính thức với dự định cho mục đích phát triển
và thành tố hỗ trợ chiếm ít nhất là 25%.
Việt Nam đã trải qua hơn 20 năm tiếp nhận nguồn vốn ODA, kể từ khi chính
thức nối lại quan hệ với cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế vào tháng 11 năm 1993.
Đến năm 2001, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 17/2001/NĐ-CP ngày
4/5/2001 quy định quy chế quản lý sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA) - đây là văn bản quy phạm pháp luật cao nhất có liên quan đến quản lý ODA
tại Việt Nam tính đến thời điểm ban hành. Theo văn bản này, khái niệm về ODA
lần đầu tiên được cụ thể hóa tại Nghị định như sau: “Hỗ trợ phát triển chính thức
(sau đây gọi tắt là ODA) trong quy chế này được hiểu là hoạt động hợp tác phát
triển giữa Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
với Nhà tài trợ”. Ngoài ra, tại Nghị định cũng đã đề cập và phân loại các nội dung
liên quan đến thu hút và sử dụng ODA, cụ thể: Nhà tài trợ ODA bao gồm: (i) Chính


22

phủ nước ngoài; (ii) các tổ chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia; Hình thức cung
cấp ODA bao gồm: ODA không hoàn lại và ODA vay ưu đãi có yếu tố không hoàn
lại (còn gọi là thành tố hỗ trợ) đạt ít nhất 25%”; Các phương thức cung cấp ODA

bao gồm: Hỗ trợ cán cân thanh toán, hỗ trợ theo chương trình, hỗ trợ theo dự án;
Xác định các lĩnh vực ưu tiên được xác định riêng cho từng nhóm ODA (không
hoàn lại; vay ưu đãi). Theo đó, nông nghiệp và phát triển nông thôn chưa được ưu
tiên sử dụng ODA không hoàn lại, chỉ được ưu tiên sử dụng ODA vốn vay.
Ngày 7/11/2006, Nghị định số 131/2006/NĐ-CP được Chính phủ ban hành
thay thế Nghị định 17/2001/NĐ-CP quy định về quy chế quản lý sử dụng ODA.
Khái niệm ODA tại Nghị định số 131/2006/NĐ-CP được đề cập như sau: “ODA là
các hoạt động hợp tác phát triển giữa nhà nước hoặc Chính phủ với các nhà tài trợ
bao gồm chính phủ nước ngoài, các tổ chức tài trợ song phương và các tổ chức liên
Quốc gia hay liên Chính phủ”. Ngày 23/4/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
38/2013/NĐ-CP về quản lý và sử dụng ODA và nguồn vốn vay ưu đãi của các nhà tài
trợ. Trong đó quy định: “ODA là nguồn vốn của Chính phủ nước ngoài, các tổ chức
quốc tế, các tổ chức liên chính phủ hoặc liên Quốc gia (gọi tắt là Nhà tài trợ) cung
cấp cho Nhà nước hoặc Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam dưới 2 hình thức: (i)
ODA viện trợ không hoàn lại và (ii) ODA vốn vay tức là phải hoàn trả lại cho nhà tài
trợ, yếu tố không hoàn lại đạt ít nhất 35% với khoản vay có ràng buộc và 25% đối với
khoản vay không ràng buộc”. Nghị định này cũng đã đưa ra khái niệm vốn vay ưu
đãi: “Là hình thức cung cấp vốn vay có điều kiện ưu đãi hơn so với vay thương mại,
nhưng yếu tố không hoàn lại chưa đạt tiêu chuẩn của ODA vốn vay”.
Như vậy, các khái niệm của Quốc tế và Việt Nam về ODA nêu trên đều
thống nhất nội dung về bản chất của ODA là: (i) ODA phản ánh mối quan hệ giữa
hai bên: bên tài trợ gồm các tổ chức Quốc tế, Chính phủ các nước phát triển, các tổ
chức liên Chính phủ hoặc liên Quốc gia và bên nhận tài trợ là Chính phủ một nước
(thường là nước đang phát triển hay kém phát triển); (ii) với mục đích giúp đỡ nước
này phát triển kinh tế - xã hội; (iii) bộ phận chính của nguồn vốn ODA là vốn vay


23

ưu đãi, Chính phủ nước nhận tài trợ (vay nợ) phải thực hiện nghĩa vụ hoàn trả nợ

trong tương lai.
Từ những khái niệm trên, chúng ta hiểu một cách đầy đủ rằng:
- ODA là khoản vốn các nước phát triển (nước giàu) hoặc các tổ chức quốc
tế hỗ trợ cho các nước đang phát triển và kém phát triển (nước nghèo). Khoản vốn
hỗ trợ này thường thể hiện dưới dạng tiền tệ, hàng hoá, chuyển giao công nghệ,
chuyển giao tri thức theo khuôn khổ Hiệp định, Thoả ước hoặc các văn bản thoả
thuận ký kết chính thức;
- Khoản hỗ trợ dưới hình thức hỗ trợ không hoàn lại hoặc có hoàn lại, nhưng
tỷ lệ phần ưu đãi không hoàn lại (phần cho không cộng với các phần ưu đãi về lãi
suất, ưu đãi ân hạn, …) phải chiếm ít nhất là 25% tổng giá trị hỗ trợ đối với khoản
ODA không ràng buộc và 35% đối với khoản ODA có ràng buộc;
- Khoản hỗ trợ này nhằm mục đích hỗ trợ cho các ngành, lĩnh vực với các
mục tiêu cụ thể như: phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với bảo vệ môi trường và thích
ứng với biến đổi khí hậu.

2.1.2. Phân loại ODA và các nhà tài trợ ODA
ODA có thể được phân loại theo 6 tiêu chí sau: tính chất nguồn vốn, mục đích
sử dụng, nguồn cung cấp, điều kiện ràng buộc, hình thức hỗ trợ và cơ chế quản lý:

2.1.2.1. Phân loại theo tính chất nguồn vốn
Theo tính chất nguồn vốn, ODA bao gồm 3 loại: Viện trợ không hoàn lại,
Viện trợ có hoàn lại và Viện trợ hỗn hợp.
Viện trợ không hoàn lại: Là các khoản cho không, bên nhận không phải trả
cho bên tài trợ. Bên nhận tài trợ phải thực hiện theo các chương trình, dự án đã
được thỏa thuận trước giữa các bên. ODA không hoàn lại cũng là một nguồn thu
của ngân sách nhà nước, được sử dụng trực tiếp cho chương trình, dự án đã ký kết
nhắm phục vụ cho các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.


24


Viện trợ có hoàn lại: là khoản cho vay ưu đãi (hay còn gọi là tín dụng ưu
đãi), tức là cho vay với những điều kiện ưu đãi và rõ ràng hơn, khoản vay này có lãi
suất ưu đãi thấp hơn lãi suất thị trường, hoặc không lãi mà chịu phí dịch vụ, thời
hạn vay và thời hạn trả nợ dài. Tín dụng ưu đãi chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn
vay ODA trên thế giới, mục đích khoản vay giúp các nước đi vay bù đắp thâm hụt
ngân sách nhà nước, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội thông qua chương
trình, dự án.
Viện trợ hỗn hợp: là các khoản vay vừa cho không, vừa cho vay (có thể vay
ưu đãi, hoặc cho vay thông thường), thậm trí có dự án ODA kết hợp 3 loại hình
gồm một phần ODA không hoàn lại, một phần vốn ưu đãi và một phần vốn tín dụng
thương mại. Hiện nay, yếu tố không hoàn lại thường chiếm khoảng 20-25% trong
các dự án ODA.
Cách phân loại theo tính chất nêu trên giúp các quốc gia nhận ODA nắm rõ
được tình trạng nợ nần của mình trong từng thời kỳ, qua đó xây dựng kế hoạch huy
động và sử dụng từng nguồn cho phù hợp.

2.1.2.2. Phân loại theo mục đích sử dụng
Theo mục đích sử dụng, ODA được phân thành 8 loại: Hỗ trợ đầu tư phát
triển, Hỗ trợ cán cân thanh toán, Hỗ trợ nhập khẩu, Hỗ trợ theo chương trình, Hỗ trợ
theo dự án, Hỗ trợ kỹ thuật, Viện trợ nhân đạo và cứu trợ và Viện trợ quân sự.
Hỗ trợ đầu tư phát triển: thường chiếm khoảng 50-60% tổng vốn ODA,
được chính phủ các nước tiếp nhận trực tiếp tổ chức đầu tư, quản lý dự án và có
trách nhiệm trả nợ phần vốn vay. Hỗ trợ đầu tư phát triển thường được dành để đầu
tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển bền vững (như tạo việc làm, xóa đói
giảm nghèo, bảo vệ tài nguyên môi trường) và cho các dự án thuộc lĩnh vực nông,
lâm, ngư nghiệp hoặc lĩnh vực mũi nhọn của nền kinh tế. Đối với một số dự án
thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp hoặc lĩnh vực mũi nhọn khác, Chính phủ giao
cho các doanh nghiệp tổ chức kinh doanh, đầu tư, quản lý dự án và có trách nhiệm
thu hồi vốn để trả nợ.



25

Hỗ trợ cán cân thanh toán (còn gọi là vốn tín dụng điều chỉnh cơ cấu tài
chính): loại vốn này được cung cấp nhằm giúp chính phủ các nước thanh toán các
khoản nợ đến hạn và các loại lãi suất được tính lãi từ những năm trước (cộng dồn).
Trong một số trường hợp, đây là vốn tài trợ giúp các nước khắc phục khủng hoảng
tài chính (như các khoản IMF cho Inđônêxia, Hàn Quốc, Thái Lan vay trong cuộc
khủng hoảng tài chính - tiền tệ năm 1997-1998), nguồn vốn này chủ yếu được lấy từ
vốn ODA đa phương.
Hỗ trợ nhập khẩu (viện trợ hàng hóa): là khoản hỗ trợ bằng hàng hóa, Chính
phủ các nước được tài trợ ODA tiếp nhận một lượng hàng hóa có giá trị tương
đương với các khoản cam kết, mang bán cho thị trường nội địa và thu nội tệ cho
ngân sách.
Hỗ trợ theo chương trình: là hỗ trợ theo khuôn khổ đạt được bằng Hiệp định
với các nhà tài trợ nhằm cung cấp một lượng ODA trong một khoảng thời gian mà
không phải xác định trước một cách chính xác nó sẽ được sử dụng như thế nào, đây
là loại ODA trong đó các bên lồng ghép một hay nhiều mục tiêu với tập hợp nhiều
dự án. Loại hỗ trợ này được ADB và WB áp dụng trong lĩnh vực nông nghiệp và
phát triển nông thôn để tăng hiệu quả sử dụng nguồn ODA và tránh sự chồng chéo.
Hỗ trợ theo dự án: là khoản hỗ trợ mà để nhận được nó thì trước đó các nước
phải chuẩn bị chi tiết dự án. Hỗ trợ theo dự án thường chiếm tỷ trọng cao nhất trong
tổng nguồn ODA và chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực cơ sở hạ tầng kinh tế - xã
hội như giao thông, thủy lợi, nước sạch, giáo dục, y tế và môi trường. Hỗ trợ theo
dự án cũng thường là những khoản vay ưu đãi.
Hỗ trợ kỹ thuật: là các khoản vốn tài trợ để đào tạo chuyên gia, nâng cao
năng lực tổ chức và quản lý, thực hiện cải cách thể chế và cơ cấu kinh tế, mục đích
của viện trợ kỹ thuật là giúp các cơ quan quản lý nhà nước của các nước nhận vốn
nâng cao năng lực quản lý của mình, bao gồm cả năng lực sử dụng viện trợ tài

chính. Về mặt kinh tế, loại hỗ trợ này không có đầy đủ các yếu tố của hoạt động đầu
tư và do vậy thường là các khoản viện trợ không hoàn lại và thường chiếm khoảng
20-30% tổng vốn ODA.


×