Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Phân tích môi trường ngành với mô hình 5 áp lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (859.38 KB, 77 trang )

Dang Dinh Tram
Master of Marketing
Strategy & Management
THEME :
Strategy
Policy
Management
Marketing
Finance
Human Resource
M
Ô HÌNH 5 LỰC LƯỢNG CẠNH TRANH THEO M. PORTER
MÔ HÌNH PHÂN TÍCH CẠNH TRANH TRONG PHẠM VI NGÀNH KINH
DOANH
ĐỐI THỦ TIỀM NĂNG
(HÀNG RÀO GIA NHẬP)
- Lợi thế chi phí tuyệt đối
- Đường cong kinh nghiệm
- Độc quyền các yếu tố đầu vào
- Chính sách của chính phủ
- Lợi thế theo quy mô
- Quy mô vốn đầu tư ban đầu
- Uy tín của thương thiệu
- Chi phí chuyển đổi
- Khả năng tiếp cận hệ thống phân phối
- Sự trả đũa có chủ định
- Sản phẩm độc quyền
NHÀ CUNG CẤP
(QUYỀN LỰC TRONG ĐÀM PHÁN)
- Mức độ tập trung của hệ thống cung cấp
- Mức độ quan trọng về khối lượng cung


ứng
- Khác biệt hóa sản phẩm hay yếu tố đàu
vào
- Ảnh hưởng của yếu tố đầu vào đối với
giá thành và khả năng khác biệt hóa
- Chi phí chuyển đổi nhà cung cấp
- Sự xuất hiện các sản phẩm đầu vào thay


thế
- Nguy cơ gia nhập theo chiều dọc của các
nhà cung cấp
- Chi phí liên quan đến tổng lượng mua
trong ngành
ĐỐI THỦ CẠNH TRANH
- Rào cản rút lui
- Mức độ tập trung của ngành
- Chi phí cố định/Giá trị gia tăng
- Tăng trưởng của ngành
- Quy mô và sức mạnh của đối thủ cạnh
tranh
- Sự khác biệt sản phẩm
- Chi phí chuyển đổi
- Uy tín của thương hiệu
- Sự đa dạng của các hình thức cạnh tranh
- Bản chất của các lĩnh vực đầu tư
KHÁCH HÀNG
(QUYỀN LỰC TRONG ĐÀM PHÁN)
- Quyền lực trong đàm phán
- Khối lượng bán

- Thông tin về khách hàng
- Uy tín của thương hiệu
- Sự nhạy cảm về giá
- Nguy cơ gia nhập theo chiều dọc của
khách hàng
- Khác biệt hóa sản phẩm
- Mức độ tập trung của khách hàng
- Sự thay thế khách hàng
- Sự thúc đẩy khách hàng
SẢN PHẨM THAY THẾ
- Chi phí chuyển đổi
- Khuynh hướng của khách hàng đối muốn
thay đổi sản phẩm
- Sự khác biệt về hiệu quả
- Giá cả của sản phẩm thay thế
Mô hình 5 lực lượng cạnh tranh của Porter
Mô hình cạnh tranh hoàn hảo giả thiết rằng tỷ suất lợi nhuận và mức độ rủi ro là cân
bằng giữa các doanh


nghiệp và giữa các ngành trong nền kinh tế. Tức là các doanh nghiệp hoạt động
trong bất cứ ngành của nền
kinh tế nào cũng đều có tỷ suất lợi nhuận tiềm năng và mức độ rủi ro như nhau do
cơ chế tự điều tiết của
cạnh tranh. Các doanh nghiệp trong môi trường có mức lợi nhuận thấp và độ rủi ro
cao sẽ tìm có xu hướng
rút lui và tìm đến ngành có tiềm năng lợi nhuận cao hơn và ít rủi ro hơn. Tuy nhiên,
nhiều mô hình nghiên
cứu gần đây lại khẳng định các ngành kinh doanh khác nhau có khả năng sinh lợi
khác nhau, sự khác biệt

này có nguyên nhân từ các đặc tính cấu trúc của ngành. Ví dụ các doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực
dịch vụ viến thông có tỷ suất lợi nhuận khác với các công ty xây dựng hay các công
ty chế biến thực phẩm.
Michael Porter đã cung cấp cho chúng ta một mô hình phân tích cạnh tranh theo đó
một ngành kinh doanh
chịu ảnh hưởng bởi năm lực lượng cơ bản và được gọi là mô hình năm lực lượng
cạnh tranh. Theo
Porter, các điều kiện cạnh tranh trong một ngành phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
nhau. Trong số các yếu tố này, ngoài các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau trong
nội bộ ngành, còn các nhan tố khác như khách
hàng, hệ thống cung cấp, các sản phẩm thay thế hay các đối thủ cạnh tranh tiềm
năng. Các nhà quản trị
chiến lược mong muốn phát triển lợi thế nhằm vượt trên các đối thủ cạnh tranh có
thể sử dụng công cụ này
để phân tích các đặc tính và phạm vi của ngành ở đó hoạt động kinh doanh của
mình đang được diễn ra
hoặc sẽ nhắm tới.
I. Mức độ cạnh tranh trong nội bộ ngành
Trong mô hình kinh tế truyền thống, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nội
bộ ngành sẽ làm cho lợi
nhuận cận biên ngày càng giảm dần, tức giá bán chỉ đủ bù đắp các chi phí sản xuất
kinh doanh. Nhưng thực
tiễn, cạnh tranh không bao giờ là hoàn hảo và các doanh nghiệp không phải sẽ trở
thành những nhà gia
quyết định giá một cách thụ động và đơn giản. Trái lại các doanh nghiệp sẽ phải cố
xây dựng và khai thác
một hay một số lợi thế so với đối thủ cạnh tranh. Cường độ cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp là khác nhau



giữa các ngành kinh doanh và các nhà phân tích và hoạch định chiến lược cần phải
quan tâm đến các sự
khác biệt này.
Các nhà kinh tế học đo lường cường độ cạnh tranh bằng các chỉ số về mức độ tập
trung của ngành. Hệ số
tập trung (Concentration Ratio) được xác định bằng thị phần mà bốn công ty lớn
nhất trong ngành chiếm
giữ. Hệ số tập trung cũng có thể được đánh giá bằng thị phần của 8, 25 hay 50 công
ty hàng đầu trong
ngành. Hệ số tập trung cao chỉ ra rằng các doanh nghiệp hàng đầu chiếm giữ một vị
trí quan trọng trên thị
trường và tính chất tập trung của ngành cao. Điều đó cũng có nghĩa rằng khả năng
thống lĩnh thị trường của
các doanh nghiệp lớn, quyền lực trong đàm phán với hệ thống cung cấp hay hệ
thống phân phối cũng được
tập trung. Khi chỉ có một số ít doanh nghiệp nhưng chiếm giữ một thị phần lớn thì
thị trường trở lên ít cạnh
tranh, thị trường tiến gần đến tình trạng độc quyền.
Trái lại, mức độ tập trung thấp chỉ ra rằng ngành kinh doanh bị cạnh tranh bởi nhiều
doanh nghiệp, không có
doanh nghiệp nào có được thị phần quan trọng. Hiện tượng này gọi là thị trường bị
phân tán, nhưng mức độ
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp lại trở lên rất gay gắt. Các doanh nghiệp thường
luôn cố gắng để gia tăng
phần thị trường của mình. Thị trường ở các ngành này thường diễn ra các cuộc
chiến về giá cả.
Hệ số tập trung ngành không phải là biến số duy nhất đánh giá mức độ cạnh tranh
trong ngành. Chúng ta
còn thấy xu thế xác định ngành kinh doanh trên tiêu chí về mức độ thông tin hơn là

sự phân bổ thị phần.
Nếu mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nội bộ ngành thấp, hiện tượng
này được gọi là cạnh
tranh ngành có tính chất hệ thống hay có nguyên tắc. Các nguyên tắc này được tạo
ra do tính chất lịch sử
cạnh tranh của ngành, vai trò của doanh nghiệp dẫn đầu hay những sự thỏa thuận
ngầm. Sự cấu kết thông
thường là trái luật pháp và không phẩi luôn là một giải pháp tốt, nên trong các
ngành có mức độ cạnh tranh


thấp thì hướng cạnh tranh thường chịu những ràng buộc miễn cưỡng không chính
thức. Tuy nhiên cũng có
những doanh nghiệp tận dụng được các lợi thế cạnh tranh của mình mà có khả năng
làm thay đổi các
nguyên tắc này.
Khi một doanh nghiệp cạnh tranh và hành động không khéo léo để các doanh
nghiệp khác nắm bắt được cơ
chế cạnh tranh của mình thì mức độ cạnh tranh ngày càng trở lên gay gắt. Các
doanh nghiệp đối thủ cạnh
tranh hoặc là bắt trước cách thức khai thác lợi thế cạnh tranh hoặc sẽ đi tìm các lợi
thế khác, và như vậy
các doanh nghiệp không ngừng tìm kiếm các phương thức cạnh tranh mới. Cường
độ cạnh tranh thông
thường thể hiện dưới các cấp độ như : rất khốc liệt, cạnh tranh cường độ cao, cạnh
tranh ở mức độ vừa
phải, cạnh tranh yếu. Các cấp độ cạnh tranh này phụ thuộc vào khả năng phản ứng
của các doanh nghiệp
trong việc xây dựng và khai thác lợi thế cạnh tranh.
Để theo đuổi các lợi thế vượt trội hơn so với đối thủ cạnh tranh, một doanh nghiệp

có thể lựa chọn một hay
một số phương thức tranh sau :
• Thay đổi giá : Doanh nghiệp có thể tăng hoặc giảm giá để đạt lợi thế cạnh tranh
tạm thời.
• Tăng cường khác biệt hóa sản phẩm : Doanh nghiệp thường cạnh tranh bằng
cách cải tiến tính năng
của sản phẩm, ứng dụng các tiến bộ mới trong quy trình sản xuất hoặc đối với chính
sản phẩm.
• Sử dụng một cách sáng tạo các kênh phân phối : Doanh nghiệp có thể thực hiện
chiến lược gia
nhập theo chiều dọc bằng cách can thiệp sâu vào hệ thống phân phối hoặc sử dụng
các kênh phân phối
mới; sử dụng kênh phân phối của các sản phẩm có liên quan hoặc kênh phân phối
các sản phẩm khác
có đối tượng khách hàng tương đồng.
• Khai thác các mối quan hệ với các nhà cung cấp : Doanh nghiệp sử dụng uy
tín, quyền lực đàm
phán hay mối quan hệ với hệ thống cung cấp để thực hiện các yêu cầu mới tạo ra sự
khác biệt trong
sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm hoặc giảm chi phí đầu vào.


Cường độ cạnh tranh thường được quyết định bởi các đặc điểm của ngành :
• Số lượng doanh nghiệp hoạt động trong ngành : Số lượng doanh nghiệp nhiều
sẽ gia tăng sự cạnh
tranh bởi vì rất nhiều doanh nghiệp phải cạnh tranh lẫn nhau trong cùng một tập
khách hàng và với cùng
điều kiện về nguồn lực. Sự cạnh tranh ngày càng gia tăng khi các doanh nghiệp có
thị phần tương nhau,
các doanh nghiệp luôn cố gắng gia tăng thị phần để trở thành doanh nghiệp dẫn đầu.

• Tốc độ tăng trưởng của thị trường : Thị trường tăng trưởng với tốc độ chậm
cũng khiến các doanh
nghiệp lao vào cuộc chiến chiếm lĩnh thị phần, các doanh nghiệp gia sức cạnh tranh
để cố giành được
phần bánh lớn hơn và mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt. Với một thị trường có
tốc độ tăng trưởng
cao, các doanh nghiệp có nhiều cơ hội gia tăng doanh số do quy mô thị trường được
mở rộng, các
doanh nghiệp thường tập trung vào việc nâng cao năng lực sản xuất và mở rộng
kênh phân phối.
• Chi phí cố định : Chi phí cố định cao liên quan đến hiệu ứng của sự cắt giảm chi
phí theo quy mô có
tác động mạnh mẽ đến cường độ cạnh tranh. Khi chi phí cố định chiếm tỷ trọng lớn
trong cơ cấu chi phí
sản xuất, doanh nghiệp cần phải hoạt động ở mức cao nhất gần với năng lực sản
suất để đạt được chi
chí đơn vị thấp nhất. Khi doanh nghiệp phải cố gắng bán một khối lượng lớn sản
phẩm, doanh nghiệp
cũng thường phải cạnh tranh để gia tăng thị phần và như vậy sản xuất ra một sản
lượng cao sẽ làm gia
tăng mức độ cạnh tranh trong ngành.
• Chi phí bảo quản hoặc các sản phẩm khó bảo quản : Chí phí bảo quản cao
khiến cho các nhà sản
xuất phải nhanh chóng bán sản phẩm. Nếu các nhà sản xuất cần phải bán tháo sản
phẩm, cường độ
cạnh tranh trên thị trường cũng gia tăng.
• Chi phí chuyển đổi : Chi phí chuyển đổi trong trường hợp này đề cập đến khả
năng chuyển đổi sản
phẩm từ phía khách hàng. Chi phí chuyển đổi thấp làm gia tăng sự cạnh tranh trên
thị trường. Khi một



khách hàng có thể chuyển đổi dễ dàng từ sản phẩm này sang sản phẩm khác, các
doanh nghiệp phải
luôn cố gắng giành giật khách hàng mới và chăm sóc, giữ gìn khách hàng quen
thuộc.
• Mức độ khác biệt hóa sản phẩm : Mức độ khác biệt hóa sản phẩm thấp thường
dẫn đến sự gia tăng
cạnh tranh bởi vì nó tác động đến sự lựa chọn và quyết định mua của khách hàng.
Khi khả năng nhận
diện thương hiệu rõ ràng, sự cạnh tranh có xu hướng giảm.
• Cơ hội thị trường : Cơ hội thị trường sẽ gia tăng khi một doanh nghiệp bị mất
dần vị trí trên thị trường
hoặc có tiềm năng cho các cơ hội mới. Các cơ hội thị trường làm gia tăng cạnh
tranh trong ngành.
• Rào cản rút lui thị trường : Rào cản rút lui thị trường cao đề cập đến các chi phí
đáng kể khi một
doanh nghiệp bỏ không kinh doanh sản phẩm của ngành hoặc không tiếp tục tiến
hành các hoạt động
thuộc ngành. Thông thường khi rào cản rút lui thị trường cao, các doanh nghiệp
buộc phải tiếp tục duy
trì hoạt động và tồn tại trong ngành ngay cả khi hiệu quả rất thấp hoặc không có khả
năng sinh lợi. Rào
cản rút lui thường liên quan đến tính chất đặc trưng của tài sản đầu tư. Khi mà nhà
máy và các thiết bị cần thiết để sản xuất một sản phẩm có tính chuyên môn hóa cao,
các tài sản này ít có cơ hội được bán
lại hay thanh lý cho người mua trong các ngành hoạt động khác.
• Tính đa dạng của cạnh tranh : Sự đa dạng các đối thủ cạnh tranh với những
khác biệt về văn hóa, lịch
sử và quan niệm tạo nên sự không ổn định của ngành kinh doanh. Thực tế luôn có

nhiều khả năng và
rất đa dạng khiến cho các doanh nghiệp không hiểu biết chính xác đặc tính cạnh
tranh hoặc thường dẫn
đến các đánh giá sai về định hướng của các đối thủ cạnh tranh. Sự cạnh tranh không
bao giờ ổn định
và ngày càng dữ dội. Sự hòa trộn giữa các quan niệm hoặc giữa các mục tiêu hay
giữa nhiều nhiệm vụ
của một tổ chức khiến cho việc phân tích cạnh tranh trở lên phức tạp, nhiều khi phải
tiêu hao rất nhiều
công sức và tiền bạc cho các dịch tư vấn. Trong những trường hợp như vậy, các
doanh nghiệp sẽ nỗ


lực và đầu tư rất nhiều cho các chiến lược cạnh tranh.
• Sự rút lui khỏi ngành : Một thị trường đang tăng trưởng và có nhiều tiềm năng
lợi nhuận sẽ thu hút sự
chú ý của rất nhiều doanh nghiệp mới gia nhập, đồng thời các doanh nghiệp hiện tại
có xu hướng gia
tăng hoạt động và sản xuất. Trong xu thế này, số lượng các đối thủ cạnh tranh sẽ gia
tăng một cách
nhanh chóng, trong khi đó nhu cầu thực tế sẽ đạt điểm tới hạn, thị trưởng trở lên
bão hòa và có thể sẽ
phát sinh tình trạng sản xuất thừa khi tốc độ tăng trưởng của thị trường chậm hơn so
với tốc độ tăng
của sản xuất. Sự rút lui khỏi ngành đối với một số doanh nghiệp chắc chắn sẽ xảy ra
cùng với sự gia
tăng cạnh tranh, các cuộc chiến giá cả và sự thua lỗ.
Sáng lập viên của Boston Consulting Group (BCG) Bruce Henderson đã khái quát
hóa hiện tượng này và
đưa ra quy luật “Nguyên tắc Ba và Bốn” : Một thị trường ổn định sẽ không có quá

ba đối thủ cạnh tranh
đáng kể và đối thủ cạnh tranh mạnh nhất sẽ không có thị phần lớn quá bốn lần thị
phần của đối thủ cạnh
tranh nhỏ nhất. Theo nguyên tắc này, ngành kinh doanh sẽ có các hiện tượng sau :
• Nếu có nhiều đối thủ cạnh tranh lớn, sẽ có sự rút lui khỏi ngành,
• Các doanh nghiệp tồn tại lại trong ngành là những doanh nghiệp có tốc độ tăng
trưởng cao hơn tốc độ
tăng trưởng của thị trường,
• Những doanh nghiệp rút lui khỏi ngành sau cùng là những doanh nghiệp phải chịu
thâm hụt ngân sách
nếu họ cố theo đuổi sự tăng trưởng,
• Nguyên tắc này không tính đến khả năng hai đối thủ cạnh tranh lớn nhất cụng bị
thua lỗ.
• Việc xác định được yếu tố tạo nên cái gọi là “thị trường” là vô cùng quan trọng,
đó là một công việc
mang tính chiến lược.
Nguyên tắc này áp dụng chủ yếu đối với các thị trường tương đối ổn định. Thực tế
tính ổn định của thị
trường và những thay đổi về cung, cầu đều tác động đến mức độ cạnh tranh. Chu kỳ
của nhu cầu thường
có xu hướng tạo ra sự cạnh tranh gay gắt hơn.
II. Nguy cơ của sản phẩm thay thế


Trong mô hình của Porter, các sản phẩm thay thế muốn nói đến các sản phẩm từ các
ngành khác. Đối với
các nhà kinh tế học, nguy cơ của sự thay thế xuất hiện khi nhu cầu về một sản phẩm
bị tác động bởi những
thay đổi về giá của sản phẩm thay thế. Độ co giãn giá của một sản phẩm bị tác động
bởi sản phẩm thay thế;

sự thay thế càng đơn giản thì nhu cầu càng trở lên co giãn vì khách hàng có nhiều
sự lựa chọn hơn.
Sản phẩm thay thế phụ thuộc vào khả năng tăng giá của doanh nghiệp trong một
ngành. Sự cạnh tranh gây
ra bởi nguy cơ thay thế là do các sản phẩm thuộc các ngành khác. Trong khi nguy
cơ của sản phẩm thay
thế thường tác động vào ngành kinh doanh thông qua cạnh tranh giá cả, tuy nhiên
có thể có nguy cơ thay
thế từ các nguồn khác.
III. Quyền lực khách hàng
Quyền lực của khách hàng là khả năng tác động của khách hàng trong một ngành
sản xuất. Thông thường
khi khách hàng có lợi thế trong đàm phán hay được gọi là khách hàng có quuyền
lực lớn, quan hệ giữa nhà
cung cấp và khách hàng trong một ngành sản xuất gần với trạng thái thị trường là
các nhà kinh tế học gọi là
độc quyền mua - đó là trường hợp mà trên thị trường có rất nhiều người bán và chỉ
có một hay một số rất ít
người mua. Trong điều kiện thị trường như vậy thì người mua thường có vai trò
quyết định trong việc xác
định giá cả. Trên thực tế thì trạng thái thị trường độc quyền mua như vậy ít khi xảy
ra, nhưng thường có một
sự không đối xứng giữa một ngành sản xuất và thị trường người mua. Dưới đây liệt
kê một số yếu tố xác
định quyền lực của người mua trên một thị trường :
Khách hàng được gọi là có lợi thế trong đàm phán nếu :
• Người mua rất tập trung - Tức là có một số người mua nhưng họ chiếm một thị
phần đáng kể. Ví dụ :
Thị trường cung cấp lương thực cho quân đội.
• Nhóm ít khách hàng mua với một khối lượng lớn sản phẩm của ngành sản xuất Đó là sự phân bổ

lượng mua hoặc nếu sản phẩm được tiêu chuẩn hóa. Ví dụ : Hệ thống siêu thị bán lẻ
đồ dùng gia đình.


• Người mua có khả năng gia nhập thị trường phía trước và tạo ra nguy cơ gia nhập
theo chiều dọc - Tức
là người mua có khả năng can thiệp hệ thống phân phối hay sản xuất bằng cách mua
các nhà sản xuất
hoặc tự giao dịch trực tiếp với nhà sản xuất không thông qua trung gian phân phối.
Ví dụ : Các nhà sản
xuất ôtô có thể tự sản xuất săm lốp hoặc bình ắc-quy.
Người mua có quyền lực thấp nếu :
• Các nhà sản xuất có khả năng gia nhập theo chiều dọc về phía sau bằng cách can
thiệp hệ thống phân
phối hoặc tự tạo ra kênh phân phối riêng. Ví dụ : Các nhà sản xuất hàng thực phẩm
tự xây dựng hệ
thống phân phối chuyên nghiệp.
• Chi phí chuyển đổi đối với người mua rất lớn, sản phẩm ít hoặc không được tiêu
chuẩn hóa và người
mua rất khó tìm được nhà cung cấp mới hoặc có nhưng với chi phí rất cao. Ví dụ :
Các nhà máy sử
dụng nhiều năng lượng từ dầu mỏ.
• Người mua rất phân tán (rất nhiều hoặc rất khác nhau) và không có người mua nào
có ảnh hưởng đáng
kể đối với sản phẩm hoặc giá cả. Ví dụ : Phần lớn các sản phẩm hàng tiêu dùng.
• Người bán cung cấp một phần quan trọng nhu cầu đầu vào của người mua – đó là
sự phân bổ lượng
mua. Ví dụ : Quan hệ của Intel với các nhà sản xuất máy tính.
IV. Quyền lực nhà cung cấp
Ngành sản xuất đỏi hỏi phải có nguyên nhiên vật liệu, lao động và các yếu tố đầu

vào khác. Các yêu cầu
này dẫn đến các quan hệ giữa người mua – nhà cung cấp giữa ngành sản xuất (với
tư cách là tập hợp các
nhà sản xuất trong một ngành) và người bán (là những đơn vị cung cấp các yếu tố
đầu vào). Nhà cung cấp,
nếu có lợi thế về quyền lực trong đầm phán có thể có những tác động quan trong
vào ngành sản xuất, như
việc ép giá nguyên nhiên vật liệu. Dưới đây liệt kê một số yếu tố xác định quyền lực
của nhà cung cấp :
Page 6
C. 118 – MEASE - 59bis boulevard Jourdan - 75014 Paris
Email : Web : www.dangdinhtram.itgo.com


STRAMAGIC
Dang Dinh Tram
Master of Marketing
Strategy & Management
Nhà cung cấp được họi là có lợi thế quyền lực, nếu :
• Nguy cơ gia nhập theo chiều dọc về phía sau của nhà cung cấp.
• Các nhà cung cấp rất tập trung.
• Chi phí chuyển đổi nhà cung cấp rất quan trọng.
Nhà cung cấp có quyền lực yếu, nếu :
• Nhiều nhà cung cấp cạnh tranh với nhau hay sản phẩm có tính tiêu chuẩn hóa cao.
• Các sản phẩm hàng hóa thông thường.
• Nguy cơ gia nhập theo chiều dọc về phía trước của người mua.
• Người mua rất tập trung.
V. Rào cản gia nhập và rút lui
Không phải chỉ có những doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành cạnh tranh với
nhau, có một khả năng

là các doanh nghiệp khách có khả năng tham gia hoạt động vào ngành sẽ có tác
động đến mức độ cạnh
tranh trong ngành. Về lý thuyết, bất cứ doanh nghiệp nào cũng đều có cơ hội và có
khả năng gia nhập hay
rút lui khỏi một ngành kinh doanh, và nếu sự gia nhập hay rút lui là tự do thì lợi
nhuận thường chỉ đạt ở mức
rất thấp. Tuy nhiên trong thực tiễn, các ngành kinh doanh có những đặc điểm mang
tính đặc trưng có khả
năng bảo vệ mức lợi nhuận thỏa đáng cho các doanh nghiệp trong ngành do có thể
ngăn cản hay hạn chế
sự cạnh tranh từ việc gia nhập mới vào thị trường. Các đặc tính này được gọi là rào
cản gia nhập.
Rào cản gia nhập có tác động mạnh hơn các cơ chế điều chỉnh cân bằng thông
thường của thị trường. Ví
dụ khi lợi nhuận của ngành tăng lên sẽ thu hút thêm các doanh nghiệp mới tham gia
vào ngành để tranh thủ
khả năng siêu lợi nhuận này, tuy nhiên theo thời gian lợi nhuận của ngành sẽ bị
giảm sút do có quá đông
các doanh nghiệp hoạt động trong ngành. Khi mức lợi nhuận trung bình giảm xuống
thì lại có một xu hướng
các doanh nghiệp muốn rút lui khỏi ngành và thị trường được tái điều chỉnh đến
trạng thái cân bằng. Xu


hướng giảm giá hiện tại hay tương lai sẽ ngăn cản hay hạn chế sự gia nhập mới vào
thị trường. Các doanh
nghiệp cũng không sẵn sàng gia nhập vào một thị trường mà ở đó có nhiều biến
động khó dự đoán, đặc biệt
là việc gia nhập đòi hỏi các chi phí khởi điểm rất tốn kém hay đầu tư cố định rất
cao. Đây là những cơ chế

điều chỉnh thông thường của thị trường. Tuy nhiên các doanh nghiệp độc lập vận
dụng các hành vi chung
(có thể là bất hợp pháp) nhằm giữ một mức giá ảo rất thấp là một chiến lược ngăn
cản sự gia nhập tiềm
năng của các doanh nghiệp khác, chiến lược này được gọi là “định giá ngăn cản gia
nhập” đã tạo nên một
rào cản gia nhập ngành.
Rào cản gia nhập là những đặc điểm duy nhất của ngành nó xác định tính chất riêng
biệt của ngành. Các
rào cản sẽ hạn chế tỷ lệ gia nhập ngành của các doanh nghiệp mới và như vậy có
thể giữ được mức lợi
nhuận cao hơn cho các doanh nghiệp đang tồn tại và hoạt động trong ngành.
Về góc độ chiến lược, các rào cản có thể được tạo ra và khai thác nhằm duy trì và
cải tiến lợi thế cạnh tranh
của các doanh nghiệp. Rào cản gia nhập có thể có được từ các nguồn gốc sau :
• Chính phủ tạo rào cản.
Mặc dù vai trò cơ bản của chính phủ đối với một thị trường bảo vệ một sự cạnh
tranh lành mạnh và
bình đẳng thông qua các biện pháp chống độc quyền, chính phủ cũng có thể hạn chế
sự cạnh tranh
Page 7
C. 118 – MEASE - 59bis boulevard Jourdan - 75014 Paris
Email : Web : www.dangdinhtram.itgo.com
STRAMAGIC
Dang Dinh Tram
Master of Marketing
Strategy & Management
thông qua vai trò điều tiết và nắm quyền chỉ đạo đối với một số ngành và lĩnh vực
nhạy cảm hay trọng
yếu của quốc gia. Các ngành sản xuất và cung cấp sản phẩm, dịch vụ công cộng

thường được coi là


độc quyền bởi vì bằng cách này Nhà nước sẽ hoạt động hiệu quả hơn khi hạn chế
được sự cạnh tranh
gây bất lợi cho người sử dụng hoặc đối với các hoạt động tạo sự bình đẳng mang ý
nghĩa quốc gia hơn
là sự hiệu quả mang tính khu vực. Khai thác lợi thế này để cung ứng các dịch vụ
công cộng, chính phủ
thường cho phép một sự độc quyền nhất định nhưng Nhà nước sẽ nắm vai trò điều
tiết. Quyền lực điều
tiết của chính phủ trong việc hạn chế cạnh tranh thường thấy trong các ngành dịch
vụ tài chính ngân
hàng, viễn thông, điện lực... là các ngành trọng yếu của mỗi quốc gia. Trong các
ngành kinh doanh này,
một số hạn chế nhất định trong việc tham gia thị trường được áp dụng cả đối với
các doanh nghiệp có
vốn đầu tư từ nước ngoài và ngay cả các doanh nghiệp trong nước.
• Bằng sáng chế và giấy phép độc quyền cũng là một biện pháp hạn chế sự gia
nhập vào một
ngành.
Ý tưởng, sáng kiến hay kiến thức cũng tạo ra các lợi thế cạnh tranh và được coi là
các tài sản riêng khi
được đăng ký chống các hành vi xâm phạm hay sử dụng trái phép là một trong
những rào cản gia nhập
thị trường. Trong một số trường hợp, các phát kiến mới có thể được phép độc quyền
khai thác trong
một thời gian nhất định và với việc đăng ký bảo vệ sáng chế đã tạo ra rào cản đối
với các doanh nghiệp
muốn gia nhập vào ngành .

• Tính chất đặc thù của tài sản cũng hạn chế sự gia nhập mới vào một ngành.
Các tài sản mang tính chất đặc thù đối với một doanh nghiệp có thể được sử dụng
để sản xuất ra một
sản phẩm đặc biệt. Khi một ngành sản xuất đòi hỏi công nghệ hoặc thiết bị có tính
chuyên môn hóa cao
thì sự gia nhập mới thường có những khó khăn nhất định trong việc tiếp cận các các
tài sản đặc thù
này hoặc các đối thủ gia nhập tiềm năng rất e ngại về khả năng thanh lý hay chuyển
đổi cách sử dụng
trong trường hợp dự án kinh doanh không thành công.
Tính chất đặc thù của tài sản đầu tư tạo ra rào cản gia nhập do hai lý do cơ bản :
Thú nhất, khi các


doanh nghiệp trong ngành đang sở hữu các tài sản đầu tư có tính chuyên môn hóa
cao thường cố
gắng để tồn tại vì họ có rào cản rút lui. Do vậy sự gia nhập mới thường phải tính
đến mức độ phản ứng
lại của các doanh nghiệp đang tồn tại trong ngành, sự cạnh tranh có thể sẽ diễn ra
rất khốc liệt. Thứ
hai, tính chất đặc thù của tài sản đầu tư thường liên quan đến cả quy mô đầu tư. Các
nhà đầu tư rất
ngần ngại khi đầu tư với quy mô lớn vào các tài sản có tính chất chuyên môn hóa
cao và khả năng
chuyển đổi hạn chế.
• Kinh tế theo quy mô.
Thực tiễn hiệu quả sử dụng chi phí sản xuất thường gắn với các hoạt động có quy
mô nhỏ. Theo
nguyên tắc này chi phí sản xuất đơn vị thường thấp và hiệu quả sử dụng vốn cao
hơn. Sự tồn tại yếu tố

kinh tế theo quy mô tạo ra rào càn gia nhập thị trường. Nếu việc tiết kiệm chi phí
chỉ thực hiện được khi
quy mô được mở rộng và hơn nữa vốn đầu tư ban đầu lớn thì các doanh nghiệp nhỏ
muốn tham gia
ngành rất khó khăn. Các doanh nghiệp lớn muốn tham gia ngành thì lại phải tính
đến việc cát giảm chi
phí cận biên khi quy mô sản xuất được mở rộng. Trong khi quy mô thị trường hạn
chế hoặc khả năng
chiếm lĩnh thị phần không đảm bào khả năng cắt giảm chi phí sản xuất tới mức có
thể cạnh tranh được
với các doanh nghiệp đang tồn tại trong ngành thì cũng rất e ngại tham gia vào
ngành.
Hàng rào rút lui tồn tại song song với hàng rào gia nhập. Hàng rào rút lui hạn chế
việc từ bỏ hay chuyển đổi
hoạt động của các doanh nghiệp trong một ngành hay một thị trường và càng làm
gia tăng sự cạnh tranh
trong nội bộ ngành vì các doanh nghiệp rất khó hoặc thậm chí không thể từ bỏ hoạt
động hiện tại, các doanh
nghiệp buộc phải duy trì và cố cạnh tranh với nhau.
Một số hàng rào gia nhập và rút lui được kể đến như sau :
* Dễ dàng gia nhập ngành nếu :
- Công nghệ sản xuất thông dụng.
- Dễ dàng tiếp cận hệ thống phân phối.


- Quy mô đầu tư ban đầu không lớn.
- Không có độc quuyền thương hiệu.
* Khó gia nhập thị trường nếu :
- Thị trường hiện tại có sự đăng ký bảo hộ quyền sáng chế hoặc quyền sở hữu trí
tuệ.

- Rất khó chuyển đổi thương hiệu hay chuyển nhượng thương hiệu.
- Hệ thống phân phối hạn chế.
- Yêu cầu vốn đầu tư ban đầu lớn.
* Dễ dàng rút lui thị trường nếu :
- Tài sản đầu tư dễ thanh lý hoặc chuyển nhượng.
- Chi phí rút lui thấp (liên quan đến giải quyết hậu quả khi từ bỏ hoạt động).
- Hoạt động kinh doanh khá độc lập.
* Khó rts lui khỏi ngành nếu :
- Tài sản đầu tư có tính chất đặc thù, chuyên môn hóa cao.
- Chi phí rút lui cao.
- Hoạt động kinh doanh có liên quan đến nhiều hoạt động khác hoặc có liên quan
đến nhiều bộ phận kinh
doanh khác./.
Phân tích mô hình 5 áp lực của Michael Porter
Michael Porter nhà quản trị chiến lược nổi tiếng của trường đại học Harvard trong
cuốn sách " Competitive Strategy :Techniques Analyzing Industries and
Competitors" đã đưa ra nhận định về các áp lực cạnh tranh trong mọi ngành sản
xuất kinh doanh.
1. Áp lực cạnh tranh của nhà cung cấp
Số lượng và quy mô nhà cung cấp: Số lượng nhà cung cấp sẽ quyết định đến áp lực
cạnh tranh, quyền lực đàm phán của họ đối với ngành, doanh nghiệp. Nếu trên thị
trường chỉ có một vài nhà cung cấp có quy mô lớn sẽ tạo áp lực cạnh tranh, ảnh
hưởng tới toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành.Khả năng thay thế sản
phẩm của nhà cung cấp : Trong vấn đề này ta nghiên cứu khả năng thay thế những
nguyên liệu đầu vào do các nhà cung cấp và chi phí chuyển đổi nhà cung cấp
(Switching Cost).Thông tin về nhà cung cấp : Trong thời đại hiện tại thông tin luôn
là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của thương mại, thông tin về nhà cung cấp có ảnh
hưởng lớn tới việc lựa chọn nhà cung cấp đầu vào cho doanh nghiệp.Hiện nay trên
thị trường chỉ có 2 nhà cung cấp chip ( Bộ vi xử lý -CPU) cho máy tính là AMD và
Intel. Tất cả các máy tính bán ra trên thế giới đều sử dụng bộ vi xử lý của hai hãng



này chính vì quyền lực đàm phán của Intel và AMD với các doanh nghiệp sản xuất
máy tính là rất lớn.
This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original
image is sized 730x504 and weights 20KB.Một trường hợp nữa ngay trong ngành
công nghệ thông tin là các sản phẩm của hệ điều hành Window như Word, Excel.
Các nhà sản xuất máy tính không có sự lựa chọn vì chưa có hệ điều hành, các sản
phẩm soạn thảo văn bản nào đáp ứng được nhu cầu tương đương với các sản phẩm
của Mircosoft.Với tất cả các ngành, nhà cung cấp luôn gây các áp lực nhất định nếu
họ có quy mô , sự tập hợp và việc sở hữu các nguồn lực quý hiếm. Chính vì thế
những nhà cung cấp các sản phẩm đầu vào nhỏ lẻ (Nông dân, thợ thủ công.... ) sẽ có
rất ít quyền lực đàm phán đối với các doanh nghiệp mặc dù họ có số lượng lớn
nhưng họ lại thiếu tổ chức.
2. Áp lực cạnh tranh từ khách hàngKhách hàng là một áp lực cạnh tranh có thể ảnh
hưởng trực tiếp tới toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành.Khách hàng
được phân làm 2 nhóm:+Khách hàng lẻ+Nhà phân phốiCả hai nhóm đều gây áp lực
với doanh nghiệp về giá cả, chất lượng sản phẩm, dịch vụ đi kèm và chính họ là
người điểu khiển cạnh tranh trong ngành thông qua quyết định mua hàng.Tương tự
như áp lực từ phía nhà cung cấp ta xem xét các tác động đến áp lực cạnh tranh từ
khách hàng đối với ngành+ Quy mô+Tầm quan trọng+Chi phí chuyển đổi khách
hàng+Thông tin khách hàngĐặc biệt khi phân tích nhà phân phối ta phải chú ý tầm
quan trọng của họ, họ có thể trực tiếp đi sâu vào uy hiếp ngay trong nội bộ của
doanh nghiệp.Wal- Mart là nhà phân phối lớn có tầm ảnh hưởng toàn thế giới, hệ
thống phân phối của Wal mart có thể ảnh hưởng tới nhiều ngành hàng như thực
phẩm, hàng điện tử , các hàng hàng hóa tiêu dùng hàng ngày. Wal Mart có đủ
quyển lực để đàm phán với các doanh nghiệp khác về giá cả, chất lượng sản phẩm
cũng như các chính sách marketing khi đưa hàng vào trong hệ thống của mình.Đối
với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam, việc đưa các sản phẩm vào hệ thống
phân phối của các siêu thị luôn gặp phải khó khăn và trở ngại vì các áp lực về giá và

chất lượng. Hầu hết các sản phẩm của Việt Nam như dệt may, da giầy rất khó xâm
nhập vào các thị trường lớn như Mỹ ,EU nếu không qua hệ thống phân phối. Chính
vì vậy chúng ta đã được lắng nghe những câu chuyện về việc một đôi giầy sản xuất
ở Việt Nam bán cho nhà phân phối với giá thấp còn người dân Việt Nam khi mua
hàng ở nước ngoài thì phải chịu những cái giá cắt cổ so với sản phẩm cùng chủng
loại ở trong nước.3.Áp lực cạnh tranh từ đối thủ tiềm ẩn:Theo M-Porter, đối thủ
tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện chưa có mặt trên trong ngành nhưng có thể ảnh
hưởng tới ngành trong tương lai. Đối thủ tiềm ẩn nhiều hay ít, áp lực của họ tới
ngành mạnh hay yếu sẽ phụ thuộc vào các yếu tố sau+ Sức hấp dẫn của ngành: Yếu
tố này được thể hiện qua các chỉ tiêu như tỉ suất sinh lợi, số lượng khách hàng, số


lượng doanh nghiệp trong ngành.+Những rào cản gia nhập ngành : là những yếu tố
làm cho việc gia nhập vào một ngành khó khăn và tốn kém hơn .
1. Kỹ thuật
2. Vốn
3. Các yếu tố thương mại : Hệ thống phân phối, thương hiệu , hệ thống khách
hàng ...
4. Các nguồn lực đặc thù: Nguyên vật liệu đầu vào ( Bị kiểm soát ), Bằng cấp , phát
minh sáng chế, Nguồn nhân lực, sự bảo hộ của chính phủ ....Không ai có thể lường
được việc Apple sẽ cho ra đời máy nghe nhạc Ipod đánh bại người hùng về công
nghệ mutilmedia như Sony. Rõ ràng sức hấp dẫn của cầu các thiết bị nghe nhạc đã
đưa Ipod trở thành sản phẩm công nghệ được ưa chuộng nhất. Chính Sony đã tự
làm các rào cản về công nghệ, thương hiệu của mình giảm sút bằng việc quá chú
trọng vào phát triển theo chiều rộng nhiều ngành để người tí hon Apple thâm nhập
và kiểm soát toàn bộ thị trường, biến lợi thế cạnh tranh của Sony trở thành gánh
nặng cho chính họ.Tương tự như ví dụ trên chúng ta so sánh trong ngành công
nghiệp nặng như sản xuất máy bay. Rào cản gia nhập ngành quá lớn cả về vốn,
công nghệ, nguyên vật liệu đầu vào nên hiện tại chỉ có 2 hãng hàng không lớn cạnh
tranh với nhau là Airbus và Boeing. Nếu không có sự đột biến về công nghệ để chế

tạo ra sản phẩm mới hoặc là tối ưu hơn máy bay ( Loại máy nào đó có thể đi từ nơi
này sang nơi khác như truyện cổ tích) hoặc là tính năng tương tương nhưng giá và
công nghệ rẻ hơn thì chắc chắn rào cản gia nhập ngành chế tạo máy bay vẫn là đích
quá xa cho các doanh nghiệp khác.4. Áp lực cạnh tranh từ sản phẩm thay thếSản
phẩm và dịch vụ thay thế là những sản phẩm, dịch vụ có thể thỏa mãn nhu cầu
tương đương với các sản phẩm dịch vụ trong ngành.Ta có thể lấy luôn ví dụ sau đó
mới đưa ra các nhận định về áp lực cạnh tranh chủ yếu của sản phẩm thay thế :Phần
lớn thành viên trong Saga là các quý ông. Mà các quý ông thì có sở thích uống bia,
rượu khi đã uống vào rồi thì là say, say thì các phu nhân sẽ không thích. Các bác
thường đổ lỗi cho bạn bè, đồng nghiệp, đối tác .... để biện cớ cho việc mình tiêu thụ
lượng lớn bia để bổ sung doanh thu cho các hàng bia hơi. Vậy bia thỏa mãn nhu cầu
gì :+ Gặp gỡ đối tác+ Tụ họp bạn bè+ Bàn công việc với đồng nghiệp.... còn vô vàn
lý do khác nhưng ta xét trên phương diện công việc nên chỉ dùng một vài yếu tố để
nhận định.Vậy sản phẩm thay thế của bia, rượu là một hàng hóa ( hoặc dịch vụ có
thể thỏa mãn các nhu cầu ở trên). Tại đây tôi xin liệt kê một số hàng hóa có thể thay
thế được bia rượu : Uống cafe, uống trà, chơi thể thao .Các dịch vụ này có thể thỏa
mãn các nhu cầu trên và thêm vào một lợi ích là được chị em saganor hoan
nghênh.Qua ví dụ trên chúng ta thấy áp lực cạnh tranh chủ yếu của sản phẩm thay
thế là khả năng đáp ứng nhu cầu so với các sản phẩm trong ngành, thêm vào nữa là
các nhân tố về giá, chất lượng , các yếu tố khác của môi trường như văn hóa, chính
trị, công nghệ cũng sẽ ảnh hưởng tới sự đe dọa của sản phẩm thay thế.Tính bất ngờ,


khó dự đoán của sản phẩm thay thế : Ngay cả trong nội bộ ngành với sự phát triển
của công nghệ cũng có thể tạo ra sản phẩm thay thế cho ngành mình. Điện thoại di
động chính là sản phẩm thay thế cho điện thoại cố định và sắp tới là VOIP sẽ thay
thế cho cả hai sản phẩm cũ.Chi phí chuyển đổi: Chúng ta biết các phần mềm mã
nguồn mở như Linux hay như ở Việt Nam là Viet Key Linux giá thành rất rẻ thậm
chí là miễn phí nhưng rất ít người sử dụng vì chi phí chuyển đổi từ hệ điều hành
Window và các ứng dụng trong nó sang một hệ điều hành khác là rất cao và có thể

ảnh hưởng đến hoạt động, các công việc trên máy tính.
5. Áp lực cạnh tranh nội bộ ngànhCác doanh nghiệp đang kinh doanh trong ngành
sẽ cạnh tranh trực tiếp với nhau tạo ra sức ép trở lại lên ngành tạo nên một cường độ
cạnh tranh. Trong một ngành các yếu tố sau sẽ làm gia tăng sức ép cạnh tranh trên
các đối thủ+ Tình trạng ngành : Nhu cầu, độ tốc độ tăng trưởng ,số lượng đối thủ
cạnh tranh...+ Cấu trúc của ngành : Ngành tập trung hay phân tán* Ngành phân tán
là ngành có rất nhiều doanh nghiệp cạnh tranh với nhau nhưng không có doanh
nghiệp nào có đủ khả năng chi phối các doanh nghiệp còn lại* Ngành tập trung :
Ngành chỉ có một hoặc một vài doanh nghiệp nắm giữ vai trò chi phối ( Điều khiển
cạnh tranh- Có thể coi là độc quyền)+ Các rào cản rút lui (Exit Barries) : Giống như
các rào cản gia nhập ngành, rào cản rút lui là các yếu tố khiến cho việc rút lui khỏi
ngành của doanh nghiệp trở nên khó khăn :* Rào cản về công nghệ, vốn đầu tư*
Ràng buộc với người lao động* Ràng buộc với chính phủ, các tổ chức liên quan
(Stakeholder)* Các ràng buộc chiến lược, kế hoạch.Thị trường cung cấp dịch vụ
viễn thông di động Việt Nam hiện nay đã có rất nhiều nhà cung cấp nhưng quyền
lực chi phối thị trường vẫn nằm trong tay 3 nhà cung cấp dịch vụ viễn thông là Vina
Phone , Mobifone và Viettel.. Nhu cầu sử dụng dịch vụ của Việt Nam tăng khoảng
5-10%/ năm, doanh thu, lợi nhuận của các nhà cung cấp cũng tăng với con số tương
đương. Mặc dù cho các rào cản gia nhập ngành, rào cản rút lui .... là cao, áp lực từ
khách hàng không đáng kể nhưng đang có rất nhiều doanh nghiệp chuẩn bị gia nhập
vào thị trường . Một điều đáng mừng hơn nữa là sự ra đời của ngành dịch vụ kèm
theo dịch vu viễn thông như : Các tổng đài giải trí, cá cược, các dịch vụ khác mà
điển hình gần đây là xem giá chứng khoán qua mạng di động. Với xu hướng này
sức cạnh tranh trong nội bộ ngành sẽ ngày càng gia tăng và lúc đó người tiêu dùng
sẽ ngày càng được tôn trọng hơn.
6. Áp lực từ các bên liên quan mật thiếtĐây là áp lực không được đề cập trực tiếp
ngay trong ma trận nhưng trong quyển sách " Strategic Management & Business
Policy" của Thomas L. Wheelen và J. David Hunger có ghi chú về áp lực từ các bên
liên quan mật thiết.+ Chính phủ+ Cộng đồng+ Các hiệp hội+ Các chủ nợ, nhà tài
trợ+ Cổ đông+ Complementor ( Tạm hiểu là nhà cung cấp sản phẩm bổ sung cho

một hoặc nhiều ngành khác: Microsoft viết phần mềm để cho các công ty bán được
máy tính, các doanh nghiệp khác có thể soạn thảo văn bản để bán được hàng ...)Sau


khi phân tích xong mô hình 5 áp lực, chúng ta có thể sử dụng nhóm chiến lược để
mô tả các doanh nghiệp trong ngành trên một đồ thị.Trong điều kiện hạn hẹp tôi sẽ
đưa ra một số kiến thức cơ bản để xác định nhóm chiến lược.+ Phương pháp xác
định nhóm chiến lược: Xây dựng sơ đồ+ Mục đích xây dựng : Phân biệt các doanh
nghiệp với nhau và định vị các doanh nghiệp trên cùng một sơ đồ, từ đó giúp các
doanh nghiệp có thể xác định vị trí của mình trên thị trường+ Các tiêu chí sử dụng
để xây dựng sơ đồ: Giá, chất lượng, công nghệ, thương hiệu, thị phần ... và có thể
xây dựng thành nhiều sơ đồ, nhiều cấp tiêu chí.

Trang chủ >> Kinh tế Việt Nam
Người gửi: ASSET01 -- 28/07/2008 10:15 AM
Định hướng kinh tế Việt Nam năm 2009
( Bình chọn: 1
-- Thảo luận: 0 -- Số lượt đọc: 26360)
(28/07/2008) - Bộ KH - ĐT vừa đưa ra định hướng phát triển kinh tế - xã
hội năm 2009. Theo đó, chỉ tiêu thựchiện tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng
7-7,5% so năm 2008, GDP theo giá thực tế dự kiến khoảng 1.778 – 1.786 nghìn tỷ
đồng, tương đương khoảng 103 tỷ USD, GDP bình quân theo đầu người khoảng
1.180 USD.
Trong đó, giá trị tăng thêm của ngành nông, lâm, ngư
nghiệp tăng 3,0 – 3,3%, ngành công nghiệp và xây dựng
tăng 8-8,5%, ngành dịch vụ tăng 7,8 – 8,3%. Cơ cấu
GDP sẽ chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông,
lâm, ngư nghiệp từ 20% năm 2008 giảm xuống còn
19,7% năm 2009 và tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng
và dịch vụ từ 41,7% năm 2008 lên 41,8% năm 2009;

riêng dịch vụ tăng từ 38,3% năm 2008 lên 38,5% năm
2009.
Thu ngân sách nhà nước năm 2009 dự kiến từ 379 – 388 nghìn tỷ đồng, tăng 5,7 –


NGHIÊN CỨU-TRAO ĐỔI

Số 2 (170) năm 2009

Nhìn lại nền kinh tế Việt Nam 2008 phải trong bối cảnh khủng hoảng tài chính thế
giới
Vương Quân Hoàng
TS, Nghiên cứu viên cao cấp - Đại học Tổng hợp Brúc-xen (Bỉ)
(Cập nhật: 22/1/2009)
Kinh tế thế giới năm 2008 đã tác động rõ nét tới nền kinh tế nước ta. Chúng ta
đã phải đối mặt với những khó khăn về vấn đề thanh khoản của hệ thống tín
dụng, lãi suất ngân hàng cao, những cơn sốt giá lương thực và năng lượng, thị
trường chứng khoán tiếp tục bị sụt giảm… Dưới sự lãnh đạo thống nhất của
Đảng và Chính phủ, hệ thống kinh tế Việt Nam đã ghi nhận nhiều tín hiệu tích
cực từ thị trường. Đến nay có thể nhìn lại những khó khăn đã vượt qua, đánh
giá mức độ tác động của các yếu tố bên ngoài và xác định những thách thức sẽ
phải đương đầu trong năm 2009...
I - Nền kinh tế Việt Nam năm 2008
Trong hình ảnh “Cơn sóng thần thế kỷ” được ông Ây-lan Grin-spen (Alan
Greenspan), cựu Chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ sử dụng để nói về cuộc khủng
hoảng tài chính năm 2008, có thể thấy được sức mạnh “siêu nhiên” không gì cản
nổi của cơn bão tài chính này. Nhân loại có thể quan sát nó, đưa ra những cảnh báo
về nó, gắng sức chống đỡ nó, nhưng kết cục nền kinh tế của hàng loạt các quốc gia
trên thế giới đã bị tàn phá mạnh mẽ, khốc liệt. Các định chế tài chính, dù khổng lồ
tới đâu, vẫn bỗng chốc trở nên nhỏ nhoi trước những khoản thua lỗ tín dụng đổ ụp

xuống, như những cột nước cao hàng trăm mét ập vào bờ.
Kinh tế Việt Nam kết thúc năm 2007 với mức thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) đạt kỷ lục 17,8 tỉ USD và tăng trưởng kinh tế đạt 8,4%. Thị trường
chứng khoán có cả một năm thăng hoa với chỉ số Vn-Index thường xuyên ở trên
ngưỡng 1.000 điểm kể từ nửa cuối tháng 1-2007 cho đến giữa tháng 11-2007, xen
giữa là giai đoạn giảm nhẹ trong tháng 8 và 9-2007. Đến cuối 2007, Vn-Index vẫn
đạt trên 900 điểm. Tâm lý chung là lạc quan và phấn khởi. Bởi vậy, mức nhập siêu
tăng gấp gần 2,5 lần so với năm 2006(1) và chỉ số lạm phát lần đầu trở lại với 2 con


Thực tế là, rủi ro của các
khoản tín dụng bất động sản,
của khủng hoảng tài chính
mới chỉ bộc lộ một phần, do
được bao bọc trong nhiều
lớp công cụ tài chính phái
sinh. Quá trình sụp đổ lan
truyền rất khó dự báo đầy đủ
về quy mô và tính phức tạp.
Thị trường tín dụng Mỹ vẫn
tiếp tục trạng thái “co rút.”
Đây cũng là dấu hiệu cảnh
báo rủi ro tín dụng xuất phát
từ quan hệ liên thông giữa
các thị trường chứng khoán tiền tệ - bất động sản đang
biểu hiện ngày một rõ hơn
tại Việt Nam(3).
số sau hơn một thập kỷ kể từ 1995(2) đã không thực sự khiến nhiều nhà kinh tế và
giới kinh doanh lo âu.
Vào thời điểm đó, biến cố đã xảy ra trên thị trường tín dụng bất động sản của Mỹ.

Theo một dây chuyền trong sự liên thông giữa thị trường bất động sản - tiền tệ chứng khoán, biến cố này đẩy nhiều ngân hàng và định chế tài chính Mỹ nói riêng
và thế giới nói chung tới tình trạng thua lỗ nặng, mất tính thanh khoản, đối diện với
nguy cơ phá sản cao hoặc bị thâu tóm bởi các tổ chức khác, kể từ tháng 8-2007.
Chúng ta sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn hơn nữa khi bước vào năm 2009.
Nhưng trước hết, hãy cùng nhìn nhận về những khó khăn đã phải trải qua trong năm
2008 để nhận diện những vấn đề cần quan tâm và tập trung nguồn lực giải quyết
trong năm tới.
1 - Tín dụng và vấn đề thanh khoản của hệ thống ngân hàng
Trước những dấu hiệu gia tăng lạm phát xuất hiện từ cuối năm 2007, ngay từ đầu
năm 2008, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã theo đuổi chính sách tiền tệ thắt chặt.
Những động thái đầu tiên được thực thi trong quí I-2008 gồm: (I) quy định tỷ lệ dư
nợ cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư và kinh doanh chứng khoán không
vượt quá 20% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng;(4) (II) tăng lãi suất cơ bản lên mức


8,75%/năm (+ 0,5%); và (III), phát hành 20.300 tỉ đồng tín phiếu bắt buộc. Những
liệu pháp này đã gây “cú sốc” với nền kinh tế.
Chưa kể tới sự sụt giảm của thị trường chứng khoán, phản ứng của thị trường tín
dụng Việt Nam khá tiêu cực. Trước tiên là khan hiếm nguồn tín dụng. Dù NHNN
có “bơm” trở lại lưu thông 33.000 tỉ đồng ngay trong tháng 3-2008, nhưng trong
quá trình tái cơ cấu các khoản tín dụng và đáp ứng yêu cầu tham gia mua tín phiếu
bắt buộc, các ngân hàng thương mại (NHTM) khước từ phần lớn các yêu cầu tín
dụng của doanh nghiệp. Thêm vào đó, lạm phát gia tăng cũng đẩy mặt bằng lãi suất
lên cao theo nguyên lý “lãi suất dương”. Liên tiếp trong tháng 5 và 6-2008, lãi suất
cơ bản được nâng lên 12%, rồi 14%. Với biên độ dao động cho phép là 150%. Có
thời điểm, lãi suất huy động vượt trên 20%/năm. Với đầu vào như vậy, doanh
nghiệp có nhu cầu sử dụng vốn phải chấp nhận mức lãi suất rất cao để tồn tại.
Không ít đơn vị sản xuất kinh doanh chấp nhận dùng “thuốc độc tín dụng” để tồn
tại.
Giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 7-2008 cũng chứng kiến sự biến động mạnh mẽ

trong tương quan giữa đồng Việt Nam và đô la Mỹ (USD). Tỷ giá trên thị trường tự
do và tỷ giá bình quân ngân hàng có mức chênh lệch rất lớn. Khoảng cuối tháng 3
đầu tháng 4-2008, nhu cầu sử dụng USD rất thấp. Tỷ giá tự do thấp hơn tỷ giá niêm
yết chính thức. Sang tháng 5, đặc biệt vào nửa cuối tháng 6-2008, giá USD trên thị
trường tự do có những lúc tăng cao đột biến. Khoảng cách giữa hai hình thức tỷ giá
dao động từ 3.000 đồng đến 3.500 đồng/USD.
Mặc dù, tới cuối tháng 10-2008 mức lãi suất trần mới dần được hạ xuống, nhưng
với các can thiệp cương quyết bình ổn thị trường của Chính phủ và áp lực thanh
khoản giảm đáng kể của hệ thống NHTM, mặt bằng lãi suất đã bắt đầu giảm từ nửa
cuối tháng 7-2008. Trong quý IV-2008, chính sách tiền tệ được NHNN nới lỏng.
Lãi suất cơ bản được điều chỉnh giảm đều đặn mỗi tháng 1%. Từ ngày 5-12-2008,
lãi suất cơ bản ở mức 10%/năm.
Bước sang những ngày cuối năm 2008, cuộc đua trên chính trường Hoa Kỳ đã kết
thúc với phần thắng thuộc về đại diện của Đảng Dân chủ nhưng hệ thống tài chính tín dụng quốc tế vẫn chưa tìm lại được sự ổn định. Ông Ba-rắc Ô-ba-ma (Barack
Obama), người được giới tài phiệt phố Wall ủng hộ, đang tích cực xây dựng bộ
khung điều hành mới. “Thay đổi” (Change) là điều được người ta kỳ vọng nhiều
nhất trong các chính sách bình ổn và khôi phục kinh tế sắp được thi hành. Tuy vậy,
những chuyển biến tích cực khó mà xảy ra tức thì trong đầu năm 2009, bởi cần có
thời gian để ông chủ mới tiếp quản Nhà Trắng và các điều chỉnh chính sách phát
huy tác dụng.


Do đó, và cùng với nhiều nguyên nhân khác nữa, bài toán nguồn vốn tín dụng còn
tiếp tục gây đau đầu không chỉ với nhà quản trị kinh doanh, mà còn cả với các ngân
hàng nước ta. Câu chuyện này nhiều khả năng kéo dài trong suốt cả năm 2009.
Tăng trưởng tín dụng sau khi tăng cao tới 54% trong năm 2007 đã giảm xuống còn
24% trong năm 2008. Tuy lãi suất đi xuống từ tháng 7-2008, nhưng tăng trưởng tín
dụng giảm mạnh trong nửa cuối năm. Nếu trong nửa đầu năm 2008, tăng trưởng tín
dụng hằng tháng luôn dao động từ 2% - 5% thì tốc độ tăng của tháng 7 chỉ còn
0,7% và tiếp tục giảm xuống 0,56% trong tháng 8-2008.

2 - Đầu cơ và biến động giá cả
Bối cảnh kinh tế thế giới nhiều biến động đã tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt
động đầu cơ quốc tế. Các nhà ngân hàng và tập đoàn đa quốc gia với tài sản hàng
nghìn tỉ USD đang thao túng thị trường giao dịch hàng hóa thiết yếu và đầu vào sản
xuất quan trọng. Lần lượt dầu thô, lương thực, và vàng trở thành đối tượng tập
trung đầu cơ cao. Tiền tệ và tài sản tài chính của các quốc gia sẽ trở thành mục tiêu
kế tiếp, theo một kịch bản xấu. Tình trạng này đã dẫn đến những hệ lụy sau:
Diễn biến phức tạp của giá dầu mỏ: Mâu thuẫn địa - chính trị ở một số khu vực dầu
mỏ nhạy cảm trên thế giới và hoạt động tích cực của các nhà đầu cơ đã đẩy giá dầu
thô tăng mạnh trong suốt 6 tháng đầu năm 2008, lên mức đỉnh cao, lần đầu tiên
trong lịch sử kinh tế thế giới, dầu thô được giao dịch với giá 147 USD/thùng vào
ngày 11-7-2008. Giá nhiên liệu tăng cao đặt các nền kinh tế toàn cầu trong tình
trạng báo động đỏ về khủng hoảng năng lượng.
Xăng dầu là vật tư thiết yếu của sản xuất và hàng hóa quan trọng trong đời sống.
Chính phủ Việt Nam từ lâu vẫn duy trì sự điều tiết chặt chẽ thông qua thuế và quy
định giá. Đến ngày 21-7-2008, trước áp lực giá tăng kỷ lục của thị trường thế giới,
giá bán lẻ xăng A92 tại Việt Nam có sự điều chỉnh lớn, tăng tới trên 30%, từ 14.500
đồng/lít lên mức 19.000 đồng/lít. Thời kỳ tiêu dùng xăng giá cao dần qua đi kể từ
nửa sau tháng 8-2008. Giá xăng bán lẻ được điều chỉnh giảm từ từ qua nhiều lần.
Từ ngày 21-8 đến 8-12-2008 có 10 lần điều chỉnh giảm giá xăng trên thị trường, và
dừng ở mức 11.000 đồng/lít (xăng A92). Thời điểm này, giá dầu thô thế giới dao
động quanh mức 40 USD/thùng.
Quan hệ cùng chiều giữa giá dầu mỏ thế giới và giá xăng bán lẻ tại Việt Nam là rõ
ràng. Điểm đáng chú ý là trong thời kỳ tăng giá, tốc độ biến thiên giữa giá nội địa
và quốc tế tương đối đồng đều. Nhưng bước sang giai đoạn điều chỉnh giảm,
khoảng cách này nới rộng nhanh chóng. Đây là nguyên nhân dẫn tới nhiều bức xúc


của người tiêu dùng với các đơn vị cung cấp xăng dầu bán lẻ vì cho rằng, giá thế
giới giảm lớn hơn nhiều so với mức điều chỉnh trong nước.

Giá vàng lên xuống thất thường: Ở Việt Nam, vàng là hàng hóa đặc biệt, vừa là
hình thức tiết kiệm được ưa thích, vừa là phương tiện thanh toán phổ biến. Năm
2008, mức độ tăng giảm của giá vàng tương đối lớn. Trong tháng 2 và 3-2008, chỉ
số giá vàng liên tiếp tăng 11 và 13 điểm phần trăm. Hai tháng tiếp theo, chỉ số giá
vàng giảm tổng cộng 13 điểm phần trăm. Tháng 7-2008, chỉ số giá vàng tăng cao
nhất trong 10 tháng đầu năm, ở mức 220,46 điểm phần trăm. Nhưng đến hết tháng
9-2008, chỉ số giá vàng lại tụt xuống 200 điểm.
Các sàn giao dịch vàng ra đời bổ sung thêm một kênh đầu tư mới. Theo ghi nhận
chung từ các kênh truyền thông, đây là loại hình đầu tư ẩn chứa nhiều rủi ro bởi chỉ
trong một khoảng thời gian ngắn, thua lỗ có thể đạt tới quy mô rất lớn. Điều thú vị
là, trong lúc nhiều hàng hóa chịu sự kiểm soát chặt chẽ về giá cả như chứng khoán
(qua giới hạn biên độ dao động giá cổ phiểu), tiền tệ (qua cơ chế lãi suất cơ bản và
biên độ dao động), xăng dầu (qua quy định giá bán lẻ)... thì giá vàng trên thị trường
gần như được thả nổi.
“Sốt”giá lương thực: Nạn đầu cơ cũng khiến giá lương thực tăng nhanh từ tháng 4
đến tháng 6-2008. Trong ba tháng, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam lần lượt tăng
23,6%, 40,4% và 26,7%. So với tháng 1, giá gạo xuất khẩu của tháng 4-2008 đã
tăng gấp hơn hai lần. Giá gạo xuất khẩu của tháng 6-2008 tăng cao nhất, có lúc lên
đến 1.005 USD/tấn.
Trước tình hình giá lương thực tăng cao, nhiều nước xuất khẩu gạo chủ chốt (trong
đó có Việt Nam) đã lựa chọn giải pháp tạm ngừng xuất khẩu để quan sát. Trong khi
đó, các quốc gia nhập khẩu nỗ lực tích lũy lương thực để duy trì ổn định giá cả và
bảo đảm an ninh lương thực. Thực tế này dẫn tới hai hiệu ứng đồng thời: (I) giá
lương thực tiếp tục bị đẩy lên cao; và (II) hành động “bơm” thêm tiền để mua lương
thực của các chính phủ khiến tình hình lạm phát ở nhiều quốc gia càng thêm trầm
trọng.
Bảng 1: Tình hình xuất khẩu gạo qua 7 tháng đầu năm 2008
Tháng

Quy mô


Xuất khẩu
Giá bình
gạo Việt quân thế giới
Nam


(1.000 tấn) (USD/tấn)

(USD/tấn)

1

131

389

376

2

328

424

465

3

558


457

594

4

657

565

907

5

560

793

941

6

210

1.005

805

7


350

971

706

Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Hiện tượng đầu cơ, tạo khan hiếm giả tạo mặt hàng gạo đã xuất hiện trên thị trường
Việt Nam vào cuối tháng 4-2008. Chính phủ đã có những chỉ đạo kiên quyết hướng
tới bình ổn giá cả và trấn an tâm lý. Sang tháng 6-2008, xuất khẩu gạo đã được
phục hồi. Trong hai tháng 6 và 7-2008, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam còn cao
hơn mức giá bình quân thế giới.
3 - Lạm phát và tăng trưởng
Năm 2008 chứng kiến “căn bệnh” lạm phát hoành hành ở nhiều quốc gia. Trường
hợp Dim-ba-bu-ê là điển hình của lạm phát cao. Lạm phát của nước này vào tháng
11-2007 là 24.470%, tới tháng 10-2008 tăng lên tới 219.800.000%.
Để ứng phó với lạm phát, nhiều tổ chức quốc tế khuyến nghị các chính phủ thực thi
triệt để chính sách cắt giảm chi tiêu công, cải thiện hiệu suất đầu tư, thắt chặt tiền tệ
và tín dụng bằng biện pháp nâng cao lãi suất và dự trữ bắt buộc... Đây là những liệu
pháp phù hợp với lý thuyết kinh tế, nhưng việc áp dụng luôn tạo ra các hiệu ứng
phụ tiêu cực, nên cần có sự cân nhắc thấu đáo về thời điểm vận dụng và mức độ
phù hợp.
Vận hành kinh tế không chỉ cần chú ý đến các biến số kinh tế vĩ mô như đầu tư, tiết
kiệm, xuất và nhập khẩu..., mà còn phải hòa hợp tác động của các yếu tố hành vi
nhân dân như tinh thần đoàn kết dân tộc, truyền thống đùm bọc và chia sẻ khó khăn,
quyết định lựa chọn đáp ứng nhu cầu theo học thuyết Ma-xlâu (Maslow), lợi ích



×