MỤC LỤC
MỤC LỤC.................................................................................................................................................................1
B. NỘI DUNG CHÍNH................................................................................................................................................2
I. Khái quát chung...................................................................................................................................................2
1. Lý luận về phí......................................................................................................................................................2
2. Lý luận về lệ phí...................................................................................................................................................3
II. Pháp luật về thu ngân sách từ phí, lệ phí:...........................................................................................................3
1. Thẩm quyền quy định phí, lệ phí:........................................................................................................................3
2. Các loại phí, lệ phí thu ngân sách:.......................................................................................................................4
3. Thu ngân sách nhà nước từ phí, lệ phí:...............................................................................................................4
4. Nguyên tắc thu phí và lệ phí................................................................................................................................4
III. Thực trạng pháp luật về phí, lệ phí:....................................................................................................................5
Thành tựu đã đạt được......................................................................................................................................5
Hạn chế của pháp luật về thu phí, lệ phí.............................................................................................................6
1. Hệ thống các quy định pháp luật về thu phí, lệ phí cồng kềnh, chồng chéo, khó tìm hiểu, khó sử dụng............7
2. Thiếu cơ chế giám sát các khoản thu phí, lệ phí do địa phương ban hành..........................................................7
3. Tồn tại một số khoản phí, lệ phí lạc hậu..............................................................................................................8
4. Thiếu quy định về ban hành mới, điều chỉnh mức thu phí, lệ phí ở địa phương.................................................8
5. Thực trạng pháp luật ở một số lĩnh vực..............................................................................................................9
5.1. Đối với việc tính án phí, lệ phí Tòa án:..............................................................................................................9
5.2. Trong lĩnh vực giáo dục:.................................................................................................................................10
5.3. Trong lĩnh vực giao thông đường bộ:.............................................................................................................11
IV. Các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về thu phí, lệ phí:......................................................................11
1. Quy định rõ ràng thẩm quyền ban hành văn bản về thu phí, lệ phí của từng cấp, từng cơ quan......................11
2. Phối hợp hành động rà soát những vướng mắc về cơ chế chính sách chưa phù hợp.......................................12
3. Quy định cụ thể tỷ lệ điều chỉnh của mức thu phí và lệ phí và chứng từ thu phí..............................................12
4. Xây dựng hệ thống trang thông tin điện tử quản quá trình ban hành và mức thu phí, lệ phí và tiếp nhận kiến
nghị từ người dân.................................................................................................................................................13
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ:............................................................................................................................................13
- 14 -
A. MỞ ĐẦU
Phí và lệ phí hiện là đề tài nóng mà dư luận rất quan tâm. Sau gần 12 năm thực hiện Pháp lệnh
38/2001/PL-UBTVQH10 về phí, lệ phí (2002-2013), hoạt động thu phí, lệ phí đã được điều tiết theo
quy định của pháp luật, tránh tình trạng lạm thu và tăng khả năng cung cấp dịch vụ của tổ chức, cá nhân
cho xã hội.. Tuy nhiên, hiện hoạt động này cũng phát sinh nhiều điều bất cập, cần được sửa đổi, bổ
sung cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống.
Năm 2013 là được xem là năm bản lề của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 của
Quốc hội. Trước những bất cập của chính sách thu phí và lệ phí cần tập trung chỉ đạo triển khai đồng
bộ, quyết liệt, có hiệu quả các giải pháp khác nhau để tạo động lực phát triển cho giai đoạn 2011-2015.
Sau đây, em xin bình luận các quy định về thu ngân sách từ phí, lệ phí để có cái nhìn tổng quan về
những ưu và hạn chế trong chính sách thu phí và lệ phí từ đó bước đầu đề xuất các giải pháp hoàn thiện
trên cơ sở thực tiễn áp dụng 6 tháng đầu năm 2013.
B. NỘI DUNG CHÍNH
I. Khái quát chung.
1. Lý luận về phí.
a. Khái niệm:
Tại Điều 2 Pháp lệnh số 38/2001/PL-UBTVQH về Phí và lệ phí có quy định khái niệm phí như sau:
“Phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân khác cung cấp dịch vụ
được quy định trong Danh mục phí ban hành kèm theo Pháp lệnh này”. Từ khái niệm trên có thể thấy,
phí có thể khoản thu của Nhà nước hoặc cũng có thể là khoản thu của tư nhân khi cung cấp dịch vụ cho
tổ chức, cá nhân khác. Trong phạm vi bài viết này, chúng ta chỉ nghiên cứu những khoản thu từ phí vào
ngân sách nhà nước, tức là chỉ bao gồm những khoản thu từ những đối tượng thụ hưởng các dịch vụ do
Nhà nước cung cấp.
b. Phân loại: Các loại phí chia ra:
- Phí thuộc lãnh vực nông nhiệp, lâm nghiệp, thủy sản: thủy lợi phí…
- Phí thuộc lãnh vực công nghiệp, xây dựng: phí xây dựng…
- Phí thuộc lãnh vực thương mại, đầu tư: phí chợ…
- Phí thuộc lãnh vực lưu thông vận tải: phí sử dụng đường bộ…
- Phí thuộc lãnh vực thông tin, liên lạc: phí sử dụng và bảo vệ tần số vô tuyến điện…
- Phí thuộc lãnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội: phí trông giữ xe…
- Phí thuộc lãnh vực văn hóa xã hội: phí tham quan…
- Phí thuộc lãnh vực giáo dục và đào tạo: học phí…
- Phí thuộc lãnh vực y tế: viện phí…
- Phí thuộc lãnh vực khoa học, công nghệ và môi trường: phí vệ sinh…
- Phí thuộc lãnh vực tài chính, ngân hàng, hải quan: phí hoạt động chứng khoán…
- Phí thuộc lãnh vực tư pháp: án phí…
- 14 -
c. Tác dụng của phí:
- Tăng thu ngân sách, từ đó làm tăng khả năng đầu tư vào sản xuất trở lại hàng hóa dịch vụ đồng
thời duy trì bảo dưỡng, tái tạo chúng.
- Góp phần thực hiện công bằng xã hội giữa người hưởng và không hưởng dịch vụ, nâng cao ý thức
cộng đồng của người dân, nâng cao ý thức giữ gìn của công của người dân.
2. Lý luận về lệ phí.
a. Khái niệm:
Khái niệm lệ phí được quy định tại Điều 3 Pháp lệnh số 38/2001/PL-UBTVQH về Phí và lệ phí. Cụ
thể như sau: “Lệ phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải nộp khi được cơ quan nhà nước hoặc tổ
chức được ủy quyền phục vụ công việc quản lý nhà nước được quy định trong Danh mục lệ phí ban
hành kèm theo Pháp lệnh này”. Nói cách khác, khi được cơ quan nhà nước hay các tổ chức được ủy
quyền phục vụ một công việc quản lý nhà nước nào đó được quy định trong Danh mục lệ phí thì cá
nhân, tổ chức sẽ phải nộp một khoản tiền vào ngân sách nhà nước. Khoản tiền đó chính là lệ phí.
b. Phân loại:
Theo danh mục Phí và Lệ phí, được áp dụng ban hành kèm theo Pháp lệnh Phí và Lệ phí, các loại
phí chia ra:
- Lệ phí quản lý Nhà nước liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân: lệ phí tòa án..
- Lệ phí quản lý Nhà nước liên quan đến quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản: lệ phí trước bạ…
- Lệ phí quản lý Nhà nước liên quan đến sản xuất kinh doanh, cung cấp thông tin về Lệ phí Đăng ký
kinh doanh.
- Lệ phí quản lý Nhà nước đặc biệt về chủ quyền quốc gia: lệ phí ra vào cảng…
- Lệ phí quản lý Nhà nước trong các lĩnh vực khác: lệ phí hải quan, lệ phí chứng thực, lệ phí công
chứng.
c. Tác dụng của lệ phí:
Khoản tiền lệ phí được dùng để chi trả cho các chi phí cụ thể để tạo ra dịch vụ, ngoài ra phần lớn để
trả cho sự đảm bảo về mặt hành chính pháp lí của Nhà nước. Mục đích của từng loại lệ phí rất rõ ràng,
phù hợp với tên gọi của nó.
Lệ phí mang lại cho Nhà nước một khoản thu đáng kể vào ngân sách nhà nước giúp nhà nước thực
hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình.
II. Pháp luật về thu ngân sách từ phí, lệ phí:
1. Thẩm quyền quy định phí, lệ phí:
Trước hết, về vấn đề quy định về phí, lệ phí. UBTVQH có quyền ban hành danh mục phí và lệ phí
và Chính phủ quy định chi tiết Danh mục phí, lệ phí; nguyên tắc xác định mức thu phí, lệ phí và trình
UBTVQH sửa đổi, bổ sung Danh mục phí, lệ phí. Ngoài ra theo Luật Ngân sách nhà nước còn có hai
chủ thể nữa là Bộ Tài chính và Hội đồng nhân dân tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương.
- 14 -
- Bộ Tài chính thống nhất quản lý và chỉ đạo công tác thu thuế, phí, lệ phí. (Điều 21 Luật NSNN);
quy định mức thu cụ thể đối với từng loại phí, lệ phí; hướng dẫn xác định mức thu phí, lệ phí cho các
cơ quan được phân cấp quy định mức thu. Quy định chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng đối với các
loại phí, lệ phí thuộc thẩm quyền (Pháp lệnh Phí, lệ phí).
- Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định thu phí, lệ phí theo quy định của pháp luật (Điều 25 Luật
NSNN).
2. Các loại phí, lệ phí thu ngân sách:
Như đã đề cập phía trên, có rất nhiều loại phí, lệ phí. Các loại phí, lệ phí này hầu hết được thu về
cho ngân sách trung ương. Song cũng vẫn có những loại phí, lệ phí được thu về ngân sách địa phương.
Ví dụ như: Lệ phí trước bạ, các khoản phí, lệ phí thu từ các hoạt động sự nghiệp sẽ được thu về ngân
sách địa phương – địa phương hưởng 100% các khoản thu này.
Ngoài ra còn có khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách trung ương và ngân
sách địa phương như phí xăng, dầu (điều 30 Luật NSNN). Tuy nhiên, nếu theo Luật thuế bảo vệ môi
trường mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012 thì xăng, dầu sẽ phải chịu thuế bảo vệ môi trường
thay cho phí theo Luật NSNN. Lý do được Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích là: Mục tiêu ban
hành luật thuế này là nhằm điều chỉnh hành vi, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, không đặt quá cao
mục tiêu thu ngân sách.
3. Thu ngân sách nhà nước từ phí, lệ phí:
Trước hết, các khoản thu của ngân sách nhà nước phải nộp trực tiếp vào Kho bạc Nhà nước. Đối
với một số khoản thu phí, lệ phí, thu thuế đối với hộ kinh doanh không cố định, thu ngân sách ở địa bàn
xã vì lý do khách quan mà việc nộp trực tiếp vào Kho bạc Nhà nước có khó khăn thì cơ quan thu có thể
thu trực tiếp, song phải nộp Kho bạc Nhà nước theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Điều 28 Luật NSNN quy định tổ chức, cá nhân có trách nhiệm, nghĩa vụ nộp nộp đầy đủ, đúng hạn
các khoản phí, lệ phí và các khoản phải nộp khác vào ngân sách theo quy định của pháp luật.
Đối với tổ chức, cá nhân gặp khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền
cho phép chậm nộp ngân sách. Cơ quan có thẩm quyền có thể là cơ quan thuế, cơ quan Hải quan, cơ
quan Tài chính đối với từng loại phí, lệ phí. Đối với tổ chức, cá nhân chậm nộp thuế sẽ chịu phạt và bị
xử lý kỷ luật, bị xử lý phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo từng trường
hợp cụ thể. Ví dụ: Trường hợp nộp chậm tiền lệ phí trước bạ, tiền phạt so với ngày quy định phải nộp
ghi trên thông báo nộp tiền của cơ quan Thuế hoặc theo quyết định xử lý phạt vi phạm hành chính thì
ngoài việc phải nộp đủ số tiền lệ phí trước bạ, số tiền phạt phải nộp, mỗi ngày nộp chậm còn phải nộp
phạt bằng 0,1% số tiền chậm nộp.
4. Nguyên tắc thu phí và lệ phí.
Phí và Lệ phí là hai khoản thu lớn thứ hai cho NSNN đứng sau Thuế. Các nguyên tắc thu phí và lệ
phí có vai trò vô cùng quan trọng. Các nguyên tắc này đảm bảo thu đủ cho NSNN nhưng không lạm
- 14 -
thu, đảm bảo lợi ích cho các chủ thể phải nộp phí và lệ phí, đảm bảo hài hòa được lợi ích của Nhà nước
và lợi ích của nhân dân.
Theo Điều 8, Điều 9 Nghị định số 57/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh về Phí và
Lệ phí, thì hoạt động thu phí và lệ phí và Điều 4 Nghị định 24/2006/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 57/2002/NĐ-CP ngày 03/06/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp
lệnh Phí và Lệ phí được thực hiện theo một số nguyên tắc sau:
+ Nguyên tắc 1 : Nguyên tắc chung là mức thu phí phải bảo đảm thu hồi vốn trong thời gian hợp lý,
phù hợp với khả năng đóng góp của người nộp. Đây được coi là nguyên tắc chỉ đạo công tác thu phí.
Việc thu phí làm sao để vừa đảm bảo được nguồn kinh phí để Nhà nước thi hành các chính sách phát
triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước nhưng vẫn đảm bảo phù hợp với khả năng đóng góp của
người nộp là không hề dễ dàng. Việc thi hành các chính sách phát triển kinh tế - xã hội là vấn đề vĩ mô.
Rất khó để đặt vào tương quan với khả năng đóng góp của người dân.
+ Nguyên tắc 2 : Mức thu lệ phí được ấn định trước bằng một số tiền nhất định đối với từng công
việc quản lý nhà nước được thu lệ phí, không nhằm mục đích bù đắp chi phí để thực hiện công việc thu
lệ phí. Riêng đối với lệ phí trước bạ, mức thu được tính bằng tỷ lệ phần trăm (%) trên giá trị tài sản
trước bạ theo quy định của Chính phủ.
+ Nguyên tắc 3: Căn cứ vào hai nguyên tắc xác định mức thu phí, mức thu lệ phí trên, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền thu phí, lệ phí xây dựng mức thu phí, lệ phí trình cơ quan có thẩm quyền ban hành.
Ngoài ra có một số nguyên tắc như: Những loại phí, lệ phí có tên trong Nghị định mới được thu,
những loại phí chưa có hướng dẫn thi hành cũng không được thu; phân cấp rõ ràng cấp nào được ban
hành những loại phí gì; đặc biệt, lần đầu tiên đưa ra quy định về mức thu sao cho hợp lý....
III. Thực trạng pháp luật về phí, lệ phí:
Thành tựu đã đạt được.
Giai đoạn trước khi có Pháp lệnh Phí và Lệ phí, tình hình thu phí và lệ phí ở nước ta rất lộn xộn, tùy
tiện và không thể kiểm soát được. Pháp lệnh phí, lệ phí được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành
ngày 28/8/2001, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2002. Đây là một văn bản quy phạm pháp luật quan
trọng nhằm lập lại trật tự, kỷ cương trong việc ban hành, tổ chức thu, nộp, quản lý và sử dụng phí, lệ
phí; góp phần thực hiện chủ trương xã hội hoá và cải cách hành chính của Đảng và Nhà nước. Quan
trọng nhất là Nhà nước đã thống nhất được Danh mục tên các loại phí, lệ phí; quy định cụ thể các cơ
quan có thẩm quyền quy định về phí và lệ phí.. Các quy định về thu phí và lệ phí tạo khung pháp lý cho
hoạt động thu phí, lệ phí cũng như giúp người nộp phí và lệ phí xem xét tính đúng đắn của khoản phí,
lệ phí mà mình phải nộp.
Đóng góp phí, lệ phí là trách nhiệm của nhân dân. Nhân dân phải đóng góp vào ngân sách nhà
nước những khoản phí, lệ phí để sử dụng các dịch vụ hoặc một số công việc liên quan đến quản lý nhà
nước. Nguồn thu đó góp phần đầu tư vào các công trình phục vụ chính người dân. Tuy nhiên, người
- 14 -
dân tham gia mức độ nào, Nhà nước tham gia mức độ nào phải công khai, minh bạch. Để hạn chế tình
trạng lạm thu, các bộ, ngành và địa phương cần rà soát lại các loại phí, lệ phí dưới sự chủ trì của Bộ Tài
chính.
Bộ Tài chính đã rà soát và loại bỏ được trên 300 loại phí và lệ phí không có tên trong danh mục; hạ
được giá phí, lệ phí xuống mức hợp lý. Nhiều loại phí và lệ phí đã được rà soát lại, hầu hết các ngành
đều giảm được nhiều loại thu như: Hàng hải giảm được 30%, cầu đường giảm 20%, thông tin liên lạc.
Các thẻ ưu tiên cũng góp phần đem lại sự công bằng trong công tác nộp phí và lệ phí... Mặc dù, các
khoản thu có giảm nhưng tổng thu phí lại không những không giảm mà còn tăng, hằng năm thu về cho
ngân sách Nhà nước xấp xỉ 1.000 tỷ đồng. Theo bảng tổng kết về thu ngân sách 6 tháng đầu năm 2013
được đưa lên trang web của Bộ Tài chính thì trong 6 tháng đầu năm 2013, đã thu 4890 nghìn tỷ đồng từ
phí và lệ phí góp vào ngân sách nhà nước [2]. Thu từ phí, và lệ phí là một trong 6/14 khoản thu vượt
chỉ tiêu so với cùng kỳ năm 2012 [1].
Hạn chế của pháp luật về thu phí, lệ phí.
Sau hơn 10 năm thực hiện Pháp lệnh về Phí và Lệ phí, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn có
nhiều quy định không còn phù hợp, và nhiều địa phương, cơ quan lợi dụng danh nghĩa phí, lệ phí áp
dụng cho những khoản thu ngoài quy định mà chưa có biện pháp chấn chỉnh kịp thời. Không những
thế, trong hơn 10 năm qua, cơ quan quản lý nhà nước về phí, lệ phí chưa tổ chức được công tác kiểm
tra, kiểm soát một cách tổng thể, cập nhật các quy định về phí, lệ phí do cấp trung ương và cả cấp địa
phương ban hành.
Hiện nay trước những phát sinh từ thực tế cuộc sống một số điều trong Nghị định 57/2002/NĐ-CP
chưa phù hợp với tình hình thực tiễn ở Việt Nam. Cũng có những khoản phí, lệ phí mới phát sinh
không có tên trong danh mục nhưng lại phát sinh trong quá trình thực hiện các điều ước quốc tế như:
Phí phê duyệt, đánh giá kế hoạch an ninh tàu biển, lệ phí cầu chứng nhận an ninh tàu biển, phí thẩm
định đánh giá an ninh cảng biển... Chính vì thế cần phải sửa đổi bổ sung để công tác thu phí và lệ phí
phù hợp với tình hình hiện nay. Với sự ra đời của Nghị định 24/2006/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung đã thêm
vào danh mục 19 khoản phí và lệ phí mà pháp luật chuyên ngành mới ban hành nhưu: Phí thẩm định
thiết kế cơ sở, phí phá sản, lệ phí kháng cáo. Đồng thời, đưa ra khỏi danh mục 13 khoản phí đã được
thực hiện theo Pháp lệnh Giá hoặc trong thực tế không sử dụng: Phí sử dụng cơ sở hạ tầng cảng hàng
không, phí trọng tài, lệ phí dán tem kiểm soát xuất bản phẩm...
Tuy vậy, từ năm 2006 kể từ khi nghị định 24 ra đời cho tới hiện nay đã có không ít những hạn chế,
bất cập xảy ra trên thực tế về phí, lệ phí. Theo Vụ trưởng Vụ Pháp chế tài chính (Bộ Tài chính) Nguyễn
Trọng Nghĩa “để các quy định về phí và lệ phí thật sự đi vào cuộc sống thì việc đầu tiên cần làm là
phải siết chặt kỷ luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này” [13]. Có thể nói tình
trạng phí chồng chí, lệ phí tràn lan thì sự bất cập trong các quy định của pháp luật về phí và lệ phí là
nguyên nhân chính. Trong phạm vi bài này, với kiến thức hạn hẹp em xin trình bày một số hạn chế như
sau:
- 14 -
1. Hệ thống các quy định pháp luật về thu phí, lệ phí cồng kềnh, chồng chéo, khó tìm hiểu, khó sử
dụng.
Có thể nói rằng đây là tình trạng chung của hệ thống pháp luật Việt Nam. Các nhà lập pháp của
Việt Nam chưa dự liệu hết tình hình thực tế, do đó ban hành các văn bản pháp luật có “dung lượng”,
“chất lượng” không sử dụng được trong một thời gian dài. Văn bản vừa ban hành đã thể hiện sự không
phù hợp với thực tế. Các quy định về thu phí và lệ phí cũng đang gặp phải tình trạng này.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do sự phân cấp thẩm quyền ban hành các
loại phí và lệ phí. Thẩm quyền ban hành được giao cho nhiều chủ thể khác nhau, nhưng thiếu sự thống
nhất, phối hợp giữa các chủ thể cũng như thiếu cơ chế giám sát từ cấp trên. Có những loại phí, lệ phí
xuất hiện ở nhiều văn bản khác nhau, chịu sự điều chỉnh của các cơ quan khác nhau. Ví dụ: phí an ninh
trật tự đã chồng lên hình thức đóng góp quỹ an ninh quốc phòng theo Luật Dân quân tự vệ; phí phòng
chống thiên tai đã chồng lên hình thức đóng góp quỹ phòng chống thiên tai theo quy định của Luật
Phòng chống thiên tai,...Do đó, hệ thống các quy định về phí và lệ phí rất cồng kềnh, có sự chồng chéo
và mâu thuẫn với nhau.
2. Thiếu cơ chế giám sát các khoản thu phí, lệ phí do địa phương ban hành.
Pháp lệnh phí và lệ phí có quy định: HĐND tỉnh, TP trực thuộc trung ương quyết định thu phí, lệ
phí; được phân cấp UBND cùng cấp trình lên. Như vậy, tùy theo nhận định của từng cấp đơn vị hành
chính mà mỗi nơi sẽ quy định các loại phí theo các cách khác nhau. Khi có sự phân cấp về thẩm quyền
ban hành và thu phí, lệ phí cho các cấp nhưng lại thiếu quy định về cơ chế giám sát và quy định về
trách nhiệm ràng buộc khi các chủ thể tiến hành thu phí, lệ phí không hợp lý khiến cho việc quyết định
loại phí; mức phí; cách thức tổ chức thu, nộp, quản lý, sử dụng không đồng bộ, chồng chéo lên nhau.
Hoặc các văn bản quy định một đường nhưng thực tế lại làm một nẻo mà không thấy các cơ quan, ban ngành đưa ra giải pháp để xử lý. Trong 340 loại phí, lệ phí Chính phủ chỉ đạo các địa phương phải bãi
bỏ thì một số địa phương vẫn chưa có báo cáo cụ thể về việc đã bãi bỏ được những gì. Việc thiếu sự
phối hợp, giám sát giữa Trung ương với địa phương khiến cho các tình hình thu phí, lệ phí trở nên phức
tạp hơn bao giờ hết.
Bên cạnh đó, tình trạng nhiều địa phương đề ra các khoản thu, huy động đóng góp trái quy định lad
rất phổ biến. Không chỉ phải nộp quá nhiều loại phí, lệ phí, DN và người dân còn phải chịu tình cảnh
“phí chồng phí” và các chiêu giả danh, biến tướng của phí, lệ phí như: “nhầm” những khoản thu mang
tính chất đóng góp tự nguyện thành những khoản phí bắt buộc với nhiều tên gọi khác nhau. Do buông
lỏng kiểm tra, giám sát việc ban hành và thực hiện các quy định về phí, lệ phí dẫn đến nhiều khoản phí,
lệ phí “giả danh, núp bóng” gây bức xúc cho người dân và doanh nghiệp.
Cụ thể, 14 giờ ngày 17/10/2013, tức là sau hai ngày quyết định hủy bỏ việc thu phí giao thông
đường bộ tại trạm Bãi Cháy (Quảng Ninh) và trạm Hoàng Mai của Chính phủ có hiệu lực, lái xe của
Kho bạc Nhà nước trung ương vẫn phải chấp nhận mua vé tại trạm thu phí Bãi Cháy. Không riêng xe ôtô này mà tất cả các loại xe cơ giới khi qua trạm vào thời điểm đó đều phải mua vé mới được nhân viên
- 14 -
soát vé cho phép đi qua [16]. Ở nông thôn hiện nay, có nhiều khoản phát sinh thường xuyên không phải
là phí, lệ phí thuộc ngân sách nhà nước (NSNN) mà là các khoản thu dịch vụ nhưng người thu vẫn quen
gọi là phí, lệ phí; nhiều khoản nộp không phải là khoản thu thường xuyên NSNN hằng năm, có khoản
chỉ phải nộp một lần... nhưng vẫn bị gọi là phí, lệ phí. Hay tình trạng ở địa bàn Huyện Thường Xuân,
Thanh Hóa, năm 2013, các hộ dân ở thị trấn Thường Xuân (Thanh Hóa) phải đóng góp 12 loại “quỹ”.
Trong đó, có loại “quỹ” Nhà nước đã cấm nhưng UBND thị trấn Thường Xuân vẫn thu, như: “quỹ dân
phòng” (mức thu 20 nghìn đồng/hộ/năm), “quỹ xây dựng mới cơ sở vật chất trường lớp học” (mức thu
100 nghìn đồng/hộ/năm). Năm nay, UBND thị trấn Thường Xuân còn đề ra cả “quỹ mua xe tang” (mức
thu 30 nghìn đồng/hộ/năm), “quỹ làm đường nghĩa trang” (mức thu 100 nghìn đồng/hộ/năm, thu trong
vòng bốn năm).
3. Tồn tại một số khoản phí, lệ phí lạc hậu.
Sau gần 12 năm áp dụng, một số quy định về các khoản phí, lệ phí; mức thu một số loại phí, lệ phí
của Pháp lệnh Phí và Lệ phí 2001 không còn phù hợp với thực tiễn. Ví dụ như: phí bảo vệ môi trường
đối với nước thải và phí thoát nước; mức thu, khung mức thu sau một thời gian thực hiện đã lạc hậu,
thấp hơn mặt bằng giá cả tại thời điểm thu như: phí đo đạc bản đồ địa chính không quá 1.000 đồng/m2,
lệ phí cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không quá 25.000 đồng/giấy, lệ phí cấp phép xây dựng
nhà không quá 50.000 đồng/giấy phép...
Hiện nay, pháp luật về thu phí và lệ phí, thiếu cơ chế thẩm định lại sự hợp lý của các quy định về
phí và lệ phí so với thực tiễn. Các chủ thể chỉ “chăm chăm” ban hành các loại phí và lệ phí mà không
cần xem xét tính đúng đắn của quy định đó. Kết hợp với việc thiếu sự rà soát, thẩm định các quy định
hiện đang có hiệu lực khiến cho các khoản thu lạc hậu từ lâu vẫn có hiệu lực thi hành, còn các khoản
phí, lệ phí mới lại tiếp tục được ban hành và thực thi. Theo quy định của Pháp lệnh Phí và Lệ phí và
nghị định của Chính phủ, hiện nay có 357 khoản phí và 75 khoản lệ phí đang được tổ chức thu trên
phạm vi cả nước, trong đó thẩm quyền quyết định của Trung ương 393 khoản, phân cấp thẩm quyền
quyết định cho địa phương 39 khoản. Nhiều chuyên gia kinh tế chỉ ra rằng tỉ trọng các khoản thu từ
thuế và phí đang ngày càng gia tăng ở Việt Nam. Mức thu thuế và phí (trừ dầu thô) của Việt Nam hiện
nay đang rất cao so với các nước khác trong khu vực. Cụ thể, trung bình trong 5 năm gần đây, nếu tỉ lệ
thu thuế, phí/GDP của Việt Nam trên 20% thì ở Trung Quốc là 17,3%, Thái Lan và Malaysia xấp xỉ
15,5%, Philipines 13%, Indonesia 12,1% và Ấn Độ chỉ 7,8% [13]. Trên thực tế, chưa bao giờ người dân
phải nộp và có lẽ sẽ còn phải nộp nhiều loại phí và lệ phí với mức thu cao như hiện nay. Việc thu phí và
lệ phí đang bị lạm dụng, diễn ra ở mọi lĩnh vực trong đời sống của người dân, từ các loại phí dịch vụ
chung cư cho tới phí chồng phí trong giao thông, y tế, giáo dục.
4. Thiếu quy định về ban hành mới, điều chỉnh mức thu phí, lệ phí ở địa phương.
Hiện nay, pháp luật cho phép địa phương được điều chỉnh mức thu các khoản thu cho phù hợp với
thực tiễn. Tại Điều 7 Nghị định số 57/2002/NĐ-CP “trường hợp cần bổ sung, sửa đổi Danh mục phí,
lệ phí, mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng đối với phí, lệ phí, thì Bộ, Ủy ban nhân dân cấp
- 14 -
tỉnh phản ảnh về Bộ Tài chính để Bộ Tài chính trình Chính phủ xem xét, giải quyết theo thẩm quyền
quy định tại Điều 9 của Pháp lệnh Phí và lệ phí”. Tuy nhiên, việc không giới hạn mức điều chỉnh, thiếu
cơ chế giám sát dẫn đến tình trạng các địa phương tự ý điều chỉnh các khoản phí, lệ phí với mức thu rất
cao và không đồng đều ở mỗi địa phương.
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nông dân phải gánh đến 131 khoản
đóng góp, trong đó có 93 loại phí, lệ phí mà người dân phải đóng góp theo quy định của nhà nước và có
38 khoản đóng góp xã hội khác. Ngoài các khoản phí, lệ phí theo quy định, một hộ nông dân bình quân
mỗi năm phải đóng từ 250.000-800.000 đồng cho các khoản. Số lượng khoản và mức đóng góp phân
chia theo vùng miền, cụ thể: Trung du miền núi phía Bắc: 28 khoản với mức từ 250.000-450.000
đồng/hộ/năm; đồng bằng sông Hồng: 26 khoản, 350.000-500.000 đồng/hộ/năm; Bắc Trung Bộ: 24
khoản, 500.000-800.000 đồng/hộ/năm; duyên hải Nam Trung Bộ: 28 khoản, 400.000-700.000
đồng/hộ/năm; Tây Nguyên: 17 khoản, 400.000-600.000 đồng/hộ/năm; Đông Nam Bộ: 22 khoản,
350.000-550.000 đồng/hộ/năm; đồng bằng sông Cửu Long: 25 khoản, 300.000-700.000 đồng/hộ/năm
[13].
Theo đánh giá của cơ quan chức năng thuộc Quốc hội, một số địa phương huy động đóng góp quá
mức so với thu nhập của người dân, tạo thành gánh nặng cho người dân trong điều kiện thu nhập còn
thấp, đời sống khó khăn. Mức huy động đóng góp của người dân còn được thực hiện tùy tiện tại nhiều
nơi, gây ra bất hợp lý giữa các vùng.
5. Thực trạng pháp luật ở một số lĩnh vực.
5.1. Đối với việc tính án phí, lệ phí Tòa án:
Sau sự ra đời của Pháp lệnh Án phí, lệ phí Tòa án 2009, những bất cập của các văn bản luật trong
lĩnh vực này đã được khắc phục. Nhưng việc triển khai Pháp lệnh 2009 lại nảy sinh một số vướng mắc
cần được tháo gỡ.
Cụ thể như Pháp lệnh Án phí, lệ phí chưa có những quy định về mặt nguyên tắc hoặc những văn
bản hướng dẫn cụ thể khi xét miễn nộp toàn bộ, một phần án phí, lệ phí Tòa án nên trong nhiều trường
hợp thực tiễn còn gặp nhiều vướng mắc. Ví dụ: Trường hợp đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải
quyết toàn bộ vụ án (theo quy định tại khoản 2 điều 187 BLTTDS), trong đó có thỏa thuận để một bên
đương sự chịu toàn bộ hoặc phần lớn số tiền án phí phải nộp, đương sự này có đơn xin miễn, giảm án
phí và đủ điều kiện quy định tại điều 14 Pháp lệnh Án phí, lệ phí Tòa án thì Tòa án có miễn, giảm án
phí cho đương sự đó không?
Ngoài ra còn vấn đề về thời gian, với vụ án được Tòa án sơ thẩm thụ lý và giải quyết án trước ngày
1/7/2009 thì án phí được tính theo Nghị định số 70 ngày 12/6/1997 của Chính Phủ. Nhưng cũng vụ án
ấy, nếu đương sự kháng cáo, Tòa án thụ lý, giải quyết theo trình tự phúc thẩm sau ngày 1/7/2009 thì
trường hợp này Tòa án sẽ căn cứ vào Nghị định số 70 ngày 12/6/1997 hay Pháp lệnh Án phí, lệ phí Tòa
án để tính án phí sơ thẩm. Nếu căn cứ theo Nghị định số 70 thì vi phạm tố tụng vì Pháp lệnh Án phí, lệ
phí Tòa án đã có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2009. Nếu căn cứ theo Pháp lệnh Án phí, lệ phí Tòa
- 14 -
án thì phải sửa việc áp dụng pháp luật của bản án, quyết định sơ thẩm về án phí trước đó. Trong khi
Tòa án sơ thẩm không có lỗi.
Mặt khác, áp dụng quy định tại điều 27 Pháp lệnh cũng có nhiều ý kiến còn băn khoăn đề nghị cân
nhắc lại việc tính án phí trong vụ án ly hôn có tranh chấp về tài sản, vì trong thực tế đã có trường hợp
Tòa án tính án phí hai lần trên một giá trị tài sản. Ví dụ: trường hợp vợ chồng ly hôn có tranh chấp về
tài sản trị giá 900 triệu đồng. Bố mẹ bên chồng cho rằng trong khối tài sản đó họ đã cho đôi vợ chồng
kia 300 triệu đồng nay đòi lại. Khi xét xử, Tòa án không chấp nhận yêu cầu của bố mẹ chồng về việc
đòi lại 300 triệu đồng từ khối tài sản chung và buộc họ phải chịu án phí đối với yêu cầu không được
Tòa án chấp nhận. Phần tài sản chung trị giá 900 triệu đồng được chia cho hai vợ chồng và mỗi người
phải nộp án phí tương ứng với phần được nhận. Trong vụ này, Tòa án đã quyết định án phí hai lần đối
với phần tài sản trị giá 300 triệu đồng.
5.2. Trong lĩnh vực giáo dục:
Vấn đề học phí, lệ phí thi và một số khoản phí tự nguyện đang ngày càng tăng trong các trường
công lập, dân lập và các cơ sở dạy nghề khác. Đây luôn là vấn đề mà ai cũng quan tâm bởi nó có ý
nghĩa xã hội rất lớn.
Hiện nay, tuy có các văn bản pháp luật quy định về chế độ học phí, lệ phí nhưng thực tế vẫn các
trường vẫn không tuân thủ pháp luật. Ví dụ như lệ phí xét tuyển, đối với các trường cao đẳng có xu
hướng nâng giá lệ phí xét tuyển bởi trường cho rằng các chi phí thuê địa điểm, trả công giáo viên
chấm,... quá lớn so với chi tiêu của trường nên không thể theo lệ phí như Bộ Giáo dục đã ban hành.
Ngoài ra còn phải kể đến các khoản phí tự nguyện trong các cơ sở đào tạo lái xe. Ngoài số tiền “cứng”
về học phí theo quy định của Bộ Tài chính, học viên tham gia các khóa đào tọa lái xe ô tô hiện nay vẫn
phải “tự nguyện” đóng góp thêm rất nhiều khoản chi phí khác nhưng không được ghi nhận trong bất kỳ
chứng từ nào.
Thông tư số 26/2007/TT-BTC hướng dẫn mức thu học phí, quản lý và sử dụng học phí đào tạo lái
xe cơ giới đường bộ nêu rõ: “Học phí là khoản đóng góp của người học, tạo nguồn kinh phí để trang
trải toàn bộ chi cho các cơ sở đào tạo lái xe cơ giới đường bộ. Ngoài khoản thu học phí, các cơ sở đào
tạo không được thu thêm bất cứ một khoản thu nào khác của người học trái với chế độ quy định”. Văn
bản này cũng liệt kê chi tiết các khoản thu đối với học viên lái xe ô tô theo từng chương trình học.
Cụ thể, đối với học viên lái xe ô tô hạng B1 (cấp cho người không hành nghề lái xe điều khiển xe ô
tô chở người đến 9 chỗ ngồi, xe ô tô tải, máy kéo có trọng tải dưới 3.500kg) sẽ phải đóng 130.000 đồng
để học Luật GTĐB; 160.000 đồng học các môn cơ sở và 2.035.000 đồng học kỹ thuật và lái xe. Tổng
cộng trong cả khóa học, mỗi học viên sẽ phải đóng 2.275.000 đồng. Tương tự, học phí chương trình lái
xe hạng B2 sẽ phải đóng 2.710.000 đồng/học viên và lái xe hạng C sẽ phải đóng 3.875.000 đồng/học
viên. Đối với các chương trình học chuyển bằng từ hạng thấp lên hạng cao, thông tư cũng quy định các
mực học phí học viên phải đóng dao động từ 360.000 đến 1.500.000 đồng tùy từng hạng.
- 14 -
Tuy nhiên trên thực tế học viên khi học phải đóng gấp 2-3 lần số tiền đã được Bộ Tài Chính quy
định. Cụ thể tại trung tâm dạy ngề và đạo tạo lái xe (học viện Cảnh sát nhân dân) ở Cổ Nhuế, Từ Liêm,
Hà Nội và Trung tâm đào tạo lái xe Công binh trên đường Giải Phóng, Hà Nội, theo trang điện tử
banduong.vn, mức học viên phải đóng một khóa đào tạo lái xe ô tô hạng C khoảng 10 triệu đồng và 8
triệu đồng đối với GPLX hạng B1, B2. Tương tự, tại một số cơ sở đào tạo ở Bắc Ninh như: Thuận
Thành, Đông Đô, Bắc Hà, Âu Lạc..., tổng các khoản tiền học viên phải bỏ ra trong mỗi khóa học cũng
khoảng từ 6-8 triệu đồng. Điều này trước hết đã vi phạm pháp luật liên quan đến thu học phí của học
viên, tạo nên thói quen không đáng có cho mỗi học viên khi tham gia khóa đào tạo và gây ảnh hưởng
xấu đến quan niệm của người dân về phí, lệ phí.
5.3. Trong lĩnh vực giao thông đường bộ:
Tại thời điểm bài viết này, phí giao thông đường bộ đang là vấn đề cực kỳ nóng hổi bởi quyết định
thu phí đối với các phương thông giao thông là xe gắn máy và ô tô cá nhân của Bộ Giao Thông Vận
Tải. Xung quanh vấn đề này có nhiều ý kiến trái chiều. Có người cho là đúng bởi nếu đánh phí vào
những loại phương tiện này thì số lượng phương tiện lưu thông trên đường sẽ giảm, sẽ không còn cảnh
tắc đường cùng với những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra. Tuy nhiên, cũng có nhiều người phản đối ý
kiến này bởi cho rằng muốn phát triển nền kinh tế cần phải có phương tiện giao thông, nếu thu phí thì
sẽ dẫn đến nền kinh tế chậm phát triển. Ngoài ra, khi đề xuất các loại phí, Bộ GTVT đồng thời cũng
tính ra được những ngàn tỉ đồng sẽ thu được để bảo trì và xây dựng mạng lưới cầu, đường bộ. Thế
nhưng, bộ lại không tính đến thiệt hại đối với nguồn thu ngân sách và cả nền kinh tế do chính sách phí
này gây ra, mà nếu tính kỹ những thiệt hại đó có thể lớn gấp nhiều lần số tiền mà bộ kỳ vọng sẽ thu
được. Bởi ô tô hiện đang là mặt hàng mang lại nguồn thu lớn thứ hai cho ngân sách nhà nước sau dầu
thô.
Năm 2011, với lượng ô tô nguyên chiếc trị giá trên 1 tỉ đô la Mỹ nhập về Việt Nam, cộng với hơn 2
tỉ đô la Mỹ nhập dưới dạng linh kiện và trên 1 tỉ đô la cho các phương tiện vận tải và phụ tùng khác, chỉ
riêng các khoản thu qua ba loại thuế nhập khẩu, tiêu thụ đặc biệt, giá trị gia tăng đã đem về cho ngân
sách không dưới 4 tỉ đô la Mỹ. Đó là chưa tính tới hàng chục ngàn tỉ đồng phí trước bạ, lệ phí cấp biển
số và các khoản thu gián tiếp khác khi những chiếc ô tô này lưu thông. Như vậy một mặt nhập khẩu ô
tô gây nhập siêu nhưng mặt khác đây là nguồn thu ngân sách đáng kể. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa thể
xác định liệu chính sách này có làm chậm sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam hay không mà còn
trông chờ vào sự lãnh đạo của Nhà nước, các quy định pháp luật liên quan đến khoản phí này.
IV. Các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về thu phí, lệ phí:
1. Quy định rõ ràng thẩm quyền ban hành văn bản về thu phí, lệ phí của từng cấp, từng cơ quan.
Trên cơ sở điều chỉnh lại thẩm quyền ban hành các quy định về thu phí và lệ phí, kết hợp nghiên
cứu cách bố trí các khoản thu phí, lệ phí cần có sự nghiên cứu về cách bố cục, phân loại, kết hợp các
loại phí cùng loại, cùng tính chất hay cùng lĩnh vực để xây dựng sao cho hệ thống văn bản về phí và lệ
phí đơn giản, dễ tìm, dễ hiểu nhưng vẫn đầy đủ. Bộ Tài chính cần có văn bản quy định cụ thể những
- 14 -
loại phí, lệ phí nào được cơ quan nào ban hành. Trong quá trình ban hành cần có sự phối hợp với các cơ
quan liên quan, nghiên cứu đưa ra mức thu, sự điều chỉnh mức thu phù hợp (biên độ dao động về mức
thu ở các lĩnh vực) để trong lĩnh vực khác, liên quan đến các phí và lệ đó không cần có văn bản quy
định lại.
2. Phối hợp hành động rà soát những vướng mắc về cơ chế chính sách chưa phù hợp.
Đây được coi là biện pháp quan trọng và mang lại hiệu quả cao nhất. Cần thiết tiến hành rà soát,
tổng hợp đầy đủ kịp thời những vướng mắc về cơ chế, chính sách chưa phù hợp. Cần hành động một
cách tổng thể và mạnh mẽ hơn nữa mới có thể sửa đổi được thực trạng pháp luật về thu phí và lệ phí
hiện nay. Với khối lượng khổng lồ của các quy định trong pháp luật thu phí, lệ phí; chưa kể ở các địa
phương trên cả nước; hoạt động rà soát cần sự nổ lực, sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan, c ụ thể:
Vụ Chính sách thuế chủ trì phối hợp với Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan, Vụ Hành chính sự nghiệp
và các đơn vị có liên quan trình Bộ Tài chính, Chính phủ rà soát, điều chỉnh mức thu các loại phí lệ phí
không còn phù hợp, mức để lại cho đơn vị theo hưởng đảm bảo nguồn kinh phí để các đơn vị thực hiện
nhiệm vụ được giao, tăng cường quản lý sử dụng có hiệu quả, tránh tồn kinh phí lớn tại đơn vị. Sau
việc rà soát cần có những sửa đổi, bổ sung và ban hành kịp thời, đầy đủ các văn bản hướng dẫn, đảm
bảo cơ sở pháp lý để thu đúng, thu đủ các khoản thu từ phí, lệ phí vào NSNN.
Bên cạnh đó, kết hợp giao nhiệm vụ cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nhiệm vụ báo cáo khi xuất hiện
mức thu của khoản phí, lệ phí nào không phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương cho Bộ Tài chính
để có cách điều chỉnh phù hợp.
3. Quy định cụ thể tỷ lệ điều chỉnh của mức thu phí và lệ phí và chứng từ thu phí.
Đây là quy định được bổ sung trong Dự thảo Thông tư hướng dẫn về phí và lệ phí thuộc thẩm
quyền quyết định của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: “Trong quá
trình thực hiện, khi chỉ số giá tiêu dùng biến động trên 20% so với thời điểm Thông tư có hiệu lực, Uỷ
ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định điều chỉnh mức thu phí, lệ phí thuộc
thẩm quyền của Hội đồng nhân dân tỉnh tối đa 20% so với mức khung tối đa tại Thông tư này”. Việc
quy định tỷ lệ cụ thể sẽ hạn chế được tình trạng địa phương điều chỉnh mức thu quá cao so với biến
động thực tế, gây bức xúc cho nhân dân và các doanh nghiệp.
Về chứng từ thu phí: Đối với các khoản thu lệ phí và phí thuộc ngân sách nhà nước, tổ chức, cá
nhân khi thu phí, lệ phí phải lập và cấp biên lai thu tiền phí, lệ phí cho đối tượng nộp phí, lệ phí theo
quy định hiện hành của Bộ Tài chính về phát hành, quản lý, sử dụng ấn chỉ thuế; Đối với phí không
thuộc ngân sách nhà nước, tổ chức, cá nhân khi thu phí phải lập và giao hoá đơn cho đối tượng nộp phí
theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính về phát hành, quản lý, sử dụng hoá đơn bán hàng.
Trường hợp tổ chức, cá nhân thu phí, lệ phí có nhu cầu sử dụng hoá đơn tự in, chứng từ thu phí, lệ
phí khác với mẫu chứng từ quy định chung hoặc chứng từ đặc thù như tem, vé in sẵn mức thu phí, lệ
phí thì phải có văn bản đề nghị cơ quan thuế có thẩm quyền giải quyết theo chế độ quy định
- 14 -
4. Xây dựng hệ thống trang thông tin điện tử quản quá trình ban hành và mức thu phí, lệ phí và
tiếp nhận kiến nghị từ người dân.
Tăng cường sự tham gia của người dân vào quản lí nhà nước trong việc thu phí, lệ phí nhằm đảm
bảo tính minh bạch, hiệu quả, đúng mục đích trên cơ sở tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm
soát việc thực hiện thu – chi về phí, lệ phí trên các địa bàn trong cả nước và trong các lĩnh vực có liên
quan là yêu cầu tất yếu trong hoạt động thu nộp phí và lệ phí. Bởi nó tác động trực tiếp đến “túi tiền”
của người dân. Do đó, cần thiết xây dựng trang thông tin điện tử chuyên về quản lý hoạt động ban
hành, sửa đổi, hủy bỏ các loại phí, lệ phí ở trung ương cũng như địa phương; hoạt động thu phí, lệ phí;
các báo cáo của các chủ thể tiến hành thu phí, lệ phí... Từ đó công khai, minh bạch các khoản phí, lệ phí
đang thực hiện thu, sắp được ban hành hoặc đã được hủy bỏ trên địa bàn.
Không những vậy, trang thông tin này phải có cơ chế tiếp thu ý kiến của nhân dân. Và cơ quan nhà
nước có thẩm quyền có nhiệm vụ tổng hợp ý kiến, trả lời thắc mắc của người dân để tiến hành trình lên
cơ quan cấp trên tiến hành nghiên cứu sửa đổi bổ sung cho phù hợp. Kết hợp, đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, phổ biến để người dân hiểu rõ chính sách và quy định của pháp luật đối với từng khoản thu phí,
lệ phí; các khoản đóng góp và giá một số dịch vụ phải trả. Để nhân dân đóng góp ý kiến một cách đúng
đắn, tránh tình trạng dân liên tục khiếu nại nhưng cơ quan lại ngó lơ vì ý kiến của người dân không
đúng với thực tiễn.
Việc nâng các quy định pháp luật về phí, lệ phí từ Nghị định của Chính phủ lên thành Pháp lệnh về
phí và lệ phí đã là một bước ngoặt lớn, đặt nền tảng vững chắc cho các hoạt động thu, quản lí, sử dụng
phí, lệ phí đi vào khuôn khổ nhất định tạo điều kiện cho hoạt động này được phát triển trong hành lang
pháp lí an toàn. Tuy nhiên, phí và lệ phí là một lĩnh vực nhạy cảm, có liên quan trực tiếp đến lợi ích của
người dân, nó có tính phổ biến và đa dạng; đồng thời mức thu cũng phức tạp, không đồng nhất ở một
mức thu mà có sự phân hoá từng vùng, từng địa phương, đối tượng. Do vậy, cần thiết phải xây dựng
Luật về phí và lệ phí nhằm tạo ra giá trị pháp lí cao hơn cho các quy định về phí và lệ phí, đảm bảo việc
thực hiện có hiệu quả.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ:
Như vậy, qua những phân tích ở trên, ta thấy hiện nay phí, lệ phí là khoản thu chính của Nhà nước
nhưng các văn bản pháp luật liên quan đến nó vẫn chưa được xem trọng đúng mức. Các cơ quan luật
pháp cần có những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp lệnh phí, lệ phí; giảm thiểu khó khăn, vướng mắc
cho cả người dân và cơ quan nhà nước, tránh gây bức xúc trong dư luận như hiện nay. Tiến đến hoàn
thành nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 theo Nghị quyết của Quốc hội đó là: ổn định kinh
tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, từng bước thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng nâng cao chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, tạo sự chuyển biến ngay từ những tháng đầu năm, phấn đấu đạt mức
cao nhất các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 [1]
- 14 -
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ấn phẩm “Ngân sách nhà nước 2012-2013” của Bộ Tài chính phát hành ngày 20/6/2013. Có địa
chỉ:
/>
p_folder_id=94847770&p_recurrent_news_id=94849952
2. Bảng cân đối thu – chi ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm 2013.Có địa chỉ:
/>p_folder_id=80567275&p_recurrent_news_id=97123356
3. Chỉ thị 02/CT-BTC của Bộ Tài chính về việc tăng cường công tác quản lý thu ngân sách để đảm
bảo thực hiện dự toán ngân sách nhà nước năm 2013 ngày 08 tháng 08 năm 2013.
4. Giáo trình Luật Ngân sách nhà nước, trường Đại học Luật Hà Nội. Nxb Công An Nhân dân.
5. Luật Ngân sách nhà nước 2002.
6. Pháp lệnh về Phí và lệ phí 2001.
7. Pháp lệnh Án phí, lệ phí Tòa án 2009.
8. Luật thuế bảo vệ môi trường.
9. Thông tư 152/2011/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định số 67/2011/NĐ-CP của Chính Phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế Bảo vệ môi trường.
10. Nghị định số 57/2002/NĐ-CP ngày 3-6-2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp
lệnh về Phí và Lệ phí.
11. Nghị định 24/2006/NĐ-CP của Chính phủ về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định
số 57/2002/NĐ-CP ngày 03/6/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Phí và Lệ phí.
12. Luận văn thạc sĩ luật học – Trương Thị Thương Huyền. Hoàn thiện pháp luật về các loại phí
trong điều kiện Việt Nam hiện nay.
13. Bài viết “Ná thở vì phí, lệ phí” của PGS.TS Ngô Trí Long trên Báo Người lao động ngày
05/10/2013. Có địa chỉ:
/>14. Bài viết “Vẫn lạm thu phí và lệ phí” ngày 09/10/2013 trên báp Nhân Dân. Có địa chỉ:
/>15. Giảm chồng chéo thu phí và lệ phí. Bài viết trên Báo Nhân dân điện tử ngày 20/11/2013.
Có địa chỉ: />16. Dự thảo Thông tư hướng dẫn về phí và lệ phí thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Có địa chỉ:
/>- 14 -