Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Quan điểm của chủ nghĩa mác lê nin về độc lập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.53 KB, 16 trang )

ĐỀ CƯƠNG
1.Quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin về độc lập dân tộc.
1.1. Theo quan điểm của C.Mac và Angghen.
C.Mác và Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết cách mạng, khoa
học và nhân đạo để giải phóng giai cấp, xã hội, con người. Đó là chủ
nghĩa xã hội, giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản.
1.2. Theo quan điểm Lenin.
1.2.1 Cách mạng tháng Mười Nga và mô hình chủ nghĩa đầu tiên
trên thế giới.
Cách mạng tháng Mười Ngan thắng lợi đã mở ra một con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội mới, đầu tiên ở Liên Xô.
1.2.2 Sự ra đời của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa và những
thành tựu
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế
giới ra đời bao gồm nhiều nước và đạt được những thành tựu to lớn.
2.Chủ nghĩa xã hội ở các nước phương đông
2.1 Sự phù hợp chủ nghĩa xã hội các nươc phương Đông
2.1.1 Những mần mống tư tưởng xuất hiện
Theo HCM, những mần mống tư tưởng XHCN ở phương
Đông đã xuất hiện rất sớm còn thích ứng dễ hơn ở phương Tây (1921)
2.1.2 Những điều kiện về bối cảnh đất nước lúc bất giờ


- Văn hoá như dòng chảy liên tục và CNXH có thể ra đời ở
châu Á.
- Tiền đề kinh tế xă hội ở châu Á làm xuất hiện tư tưởng
CNXH từ sớm
- Dựa vào sự tàn bạo của CNTB ở các nước thuộc địa châu Á.
3.Thực tiễn Việt Nam
3.1 Trước khi giành chính quyền
3.1.1 Phong trào yêu nước giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX


Khi nước nhà bị bọn xâm lược giầy xéo thì dân tộc không
có khát vọng nào cao hơn là giành độc lập dân tộc. Các phong trào nổ
ra ở giai đoạn này chưa có đường lối đúng đắn nên đều thất bại.
3.1.2 Con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
Người đã đến với cách mạng tháng Mười và chủ nghĩa Lenin
tìm thấy con đường cứu nước cứu dân và giải phóng lao động và quả
quyết: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khác là con đường cách mạng vô sản, giành độc lập dân tộc”.
3.2. Sau khi giành được chính quyền
Sau khi giành được thắng lợi trong cuộc cách mạng tháng 8-1945,
chính quyền non trẻ của ta gặp phải tình thế vô cùng khó khăn, như
ngàn cân treo sợi tóc khi phải đối đầu với thù trong giặc ngoài.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh


4.1. Độc lập dân tộc: Điều kiện đầu tiên bảo đảm cho sự phát
triển của đất nước, ấm no của nhân dân.
4.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
-Một là, độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm
của các dân tộc.
-Hai là, kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân
tộc với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế.
4.1.2. Có độc lập dân tộc mới tạo được tiền đề đi đến ấm nó
hạnh phúc cho nhân dân.
Với Hồ Chí Minh, "trên đời ngàn vạn điều cay đắng, cay đắng
chi bằng mất tự do" (Nhật ký trong tù). Và để có tự do, thì trước hết là
phải giành lại độc lập cho Tổ quốc, giành lại quyền dân chủ cho nhân
dân Việt Nam.
4.2. Độc lập dân tộc phải gắn liền với hạnh phúc nhân dân
4.2.1. Có độc lập dân tộc tức là phải có hạnh phúc cho nhân dân

Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc luôn gắn liền với tự
do, hạnh phúc của nhân dân. Bác nói "...nếu nước độc lập mà dân
không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng không có nghĩa lý
gì”.
4.2.2. Muốn có hạnh phúc cho nhân dân chỉ có con đường
CNXH
-Mục tiêu của CNXH là “độc lập, tự do dân tộc, hạnh phúc nhân
dân”.
-Chỉ có CNXH mới đem lại hạnh phúc, ấm no cho nhân dân.
5. Tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộcCNXH-hạnh phúc nhân dân


5.1 Lý luận
Cũng như bao nhà Nho yêu nước khác có cùng quan điểm "ái
quốc là ái dân" nhưng trong tư tưởng Người không dừng lại ở ý thức
mà trở thành ý chí, quyết tâm thực hiện đến cùng sự nghiệp giải
phóng giai cấp, dân tộc.
5.2. Thực tiễn.
Hiện nay với sự phát triển của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nhanh chóng, nước ta đứng trước nhiều thử thách khó khăn, Đảng và
nhà nước cần giữ vững hệ tư tưởng, lấy dân làm gốc, phát triển về
mọi mặt cho nhân dân để đất nước được theo kịp với các nước phát
triển trên thế giới.

BÀI VIẾT
I, ĐẶT VẤN ĐỀ
Sáu mươi sáu năm đã trôi qua kể từ ngày đầu tiên của nền độc lập
non trẻ. Giá trị của độc lập có thể coi là vô giá, không gì có thể so
sánh được. Nhưng có một câu hỏi khác, thành quả đích thực mà nền



độc lập đem lại cho người dân là gì? Câu hỏi ấy chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng đã trả lời rất thấu đáo và chính xác: “Nếu nước được độc lập mà
dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có
nghĩa lý gì”.

1.Quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội.
1.1. Theo quan điểm của C.Mac và Ph.Angghen
C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết cách mạng,
khoa học và nhân đạo. C.Mác (1818-1883) và Ph.Ăngghen (18201895) đã kế thừa có phê phán những thành tựu khoa học và những giá
trị tư tưởng của nhân loại đạt được trước đó, bằng lao động khoa học
và sáng tạo hai ông đã phân tích xã hội tư bản, tổng kết thực tiễn
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
C.Mác và Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết cách mạng, khoa học
và nhân đạo để giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con
người. Trong học thuyết của mình, hai ông đã chứng minh sự sụp đổ
tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự quá độ sang một xã hội mới không
còn chế độ người bóc lột người. Đó là chủ nghĩa xã hội, giai đoạn đầu
của chủ nghĩa cộng sản.
1.2. Theo quan điểm Lenin.
1.2.1 Cách mạng tháng Mười Nga và mô hình chủ nghĩa đầu tiên trên
thế giới.
Cách mạng tháng Mười Nga (1917): ngày 17 tháng 11 năm
1917 dưới sự lảnh đạo của Đảng Bonsevich Nga, đứng đầu là


V.I.Lenn đã lãnh đạo quần chúng nhân dân đánh đổ giai cấp tư sản và
địa chủ phong kiến giành chính quyền xây dựng nhà nước Xô Viết
đầu tiên trên thế giới, là nhà nước của những người lao động, xây
dựng xã hội mới không có người bóc lột người.

Mô hình đầu tiên của chủ nghĩa xã hội ra đời trong bối cảnh hết
sức đặc biệt. Từ sau cách mạng Tháng Mười đến kết thúc chiến tranh
thế giới thứ hai, Liên Xô là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất. Điều kiện
xây dựng một chế độ mới cực kỳ khó khăn và phức tạp nhưng dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản Nga đứng đầu là V.I.Lenin, đất nước đã
thành công rực rỡ trong sự nghiệp công nghiệp hóa với thời gian ngắn
(chưa đầy 20 năm). Đó là thành tựu vĩ đại của nhân dân Liên Xô.
1.2.2 Sự ra đời của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa và những
thành tựu
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa
thế giới ra đời bao gồm nhiều nước trên thế giới.
Liên Xô và các nước Đông Âu đã có một thời kỳ phát triển
rực rỡ và đạt được rất nhiều thành tựu to lớn đóng góp chung vào sự
nghiệp phát triển của nhân loại trong thế kỷ XX: chế độ xã hội chủ
nghĩa đã từng bước đưa nhân dân lao động lên làm chủ xã hội, phát
triển mạnh mẽ về tiềm lực kinh tế, chính trị. Sức mạnh của chủ nghĩa
xã hội đóng vai trò quyết định đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hủy diệt,
bảo vệ hòa bình thế giới, tác động mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh
đòi dân sinh, dân chủ của nhân dân trong các nước tư bản chủ nghĩa.
2.Chủ nghĩa xã hội ở các nước phương đông


2.1 Sự phù hợp chủ nghĩa xã hội các nươc phương Đông
2.1.1 Những mần mống tư tưởng xuất hiện
Theo HCM, những mần mống tư tưởng XHCN ở phương Đông
đã xuất hiện rất sớm còn thích ứng dễ hơn ở phương Tây (1921) đó là:
quan điểm lấy dân là gốc, quan điểm vầ công bằng, bình đẳng tài sản
giữa những người lao động với nhau, tư tưởng về tình yêu thương hữu
ái giữa người và người, nhất là những người lao khổ.
2.1.2 Những điều kiện về bối cảnh đất nước bấy giờ.

- Văn hoá như dòng chảy liên tục và CNXH có thể ra đời ở
châu Á.
- Tiền đề kinh tế xă hội ở châu Á làm xuất hiện tư tưởng
CNXH từ sớm:
Do sản xuất nông nghiệp lúa nước, từ sớm đòi hỏi nhu cầu liên kết,
hợp tác sản xuất giữa người và người. Phương đông xuất hiện chế độ
công điền, công thổ (20% ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước), cơ sở
công hữu XHCN sau này.
- Dựa vào sự tàn bạo của CNTB ở các nước thuộc địa châu
Á.
Vào những năm 20 của thế kỷ 20 hầu hết các nước châu á trở
thành thuộc địa của các nước tư bản phương tây, CNTB đã để lại
những hệ quả sau: những tư tưởng cách mạng tiến bộ ban đầu; CNTB
tạo ra quá trình công nghiệp hoá cưỡng bức, hình thành cơ cấu giai


cấp xã hội mới, trong đó có giai cấp công nhân thuộc địa - lực lượng
vật chất của cách mạng vô sản; giai cấp Tư sản thiết lập ở các nước
thuộc địa sự thống trị dã man tàn bạo nhất, đẩy đa số quần chúng,
nhất là nông dân vào con đường cùng.CNTB tạo ra những điều kiện
tiền đề cho các nước thuộc địa, lựa chọn hợp lý con đường đi lên của
mình, không nhất thiết lặp lại con đường mà CNTB đã trải qua.

3.Thực tiễn Việt Nam
3.1 Trước khi giành chính quyền
3.1.1 Phong trào yêu nước giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX
Khi nước nhà bị bọn xâm lược giầy xéo thì dân tộc không có
khát vọng nào cao hơn là giành độc lập dân tộc. Nhưng chúng ta vẫn
biết là không phải bất cứ lúc nào những người con của dân tộc cũng
tìm thấy cho mình con đương cứu dân, cứu nước đúng đắn. khi thực

dân Pháp xâm lược nước ta đến năm đầu thế kỷ XX cho thấy nhân
dân ta, các thế hệ nối tiếp nhau đứng lên, mong đánh đuổi thực dân
Pháp, giành lại non song đất nước. Song chưa có đường lối đúng đắn
như con đường “Tây du” và “Đông du” của các cụ Phan khởi xướng,
do ngọn cờ tu tưởng phong kiến đã lỗi thời, nên các phong trào, các
cuộc khởi nghĩa yêu nước lần lượt thất bại, quần chúng cách mạng bị
dìm trong biển máu.
3.1.2 Con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc


Sinh ra trong cảnh nước mất, nhà tan, người thanh niên
Nguyễn Tất Thành sau nhiều năm trăn trở đã ra đi tìm đường cứu
nước vào năm 1911. Sau hơn 10 năm lăn lộn qua nhiều nước để tìm
tòi thử nghiệm, Người đã đến với Chủ nghĩa Mác-Lenin, đến với tư
tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Người cho rằng phải học
tập cách mạng Nga, khi được tiếp xúc: “Bản luận cương về vấn đề
dân tộc thuộc địa” của Lenin, Người đã sung sướng nói to lên: “ Hỡi
đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là
con đường giải phóng chúng ta !” và là từ lòng yêu nước, thương dân,
Người ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân thì đến với cách mạng
tháng Mười và chủ nghĩa Lenin đã tìm thấy con đường cứu nước cứu
dân và giải phóng lao động và quả quyết: “muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác là con đường cách mạng
vô sản, giành độc lập dân tộc” .
3.2. Sau khi giành được chính quyền
Sau khi giành được thắng lợi trong cuộc cách mạng tháng 81945, chính quyền non trẻ của ta gặp phải tình thế vô cùng khó khăn,
như ngàn cân treo sợi tóc khi phải đối đầu với thù trong-tình hình kinh
tế tài chính kiệt quệ, dân chúng lầm than với 2 thứ giặc đói và giặc
dốt, và giặc ngoài-quân thù lăm le xâm lược trở lại nước ta. Việc xác
định những nhiệm vụ cấp bách phải giải quyết trước mắt trở nên quan

trong hơn bao giờ hết, đặt Đảng ta, một Đảng non trẻ đứng trước thử
thách lớn lao của lịch sử.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh


4.1. Độc lập dân tộc: Điều kiện đầu tiên bảo đảm cho sự phát
triển của đất nước, ấm no của nhân dân.
4.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
-Một là, độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm
phạm của các dân tộc.
Đối với một người dân mất nước, cái quý nhất là độc lập của tổ
quốc, tự do của nhân dân. Trên con đường tiếp cận chân lý cứu nước,
HCM đã tìm hiểu tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyền 1791 của CM Pháp và tiếp nhận những
nhân tố có gía trị trong 2 bản tuyên ngôn này. Từ đó Người đã khái
quát nên chân lý về quyền cơ bản của các dân tộc: “tất cả các dân tộc
trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do”.
Trong chính cương vắn tắt cũng như lời kêu gọi sau khi thành
lập Đảng, HCM đã xác định mục tiêu chính trị của Đảng là đánh đổ
đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho đất nước Việt
Nam hoàn toàn độc lập. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, quyết tâm
bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc của HCM thể hiện bằng lời
khẳng định: “chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu
mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Khi đế quốc Mỹ leo thang
chiến tranh, mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, HCM lại đưa
ra một chân lý bất hủ: “không có gì quý hơn độc lập tự do”.


-Hai là, kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập

dân tộc với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc
tế.
Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa xã hội.
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện này là mốc son
đánh dấu sự kết hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc
tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong bản chất của Đảng. Đảng
tuyên bố: “Chủ trương tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội Cộng sản”. Một cách tự nhiên, ngay sau lời
tuyên bố ấy của Đảng, chủ nghĩa Xã hội không chỉ là mục tiêu lựa
chọn mà đã thực sự thúc đẩy lịch sử dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ rõ, chỉ có chủ nghĩa Xã hội, chủ nghĩa Cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên
thế giới khỏi ách nô lệ; chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại,
đem lại cho mọi người, không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc, có
một xã hội tốt lành gắn liền với tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm
no; bảo đảm việc làm cho mọi người, tất cả vì niềm vui, hoà bình,
hạnh phúc của con người.
Độc lập dân tộc thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh tế,
văn hoá, đối ngoại; xoá bỏ tình trạng áp bức bóc lột và nô dịch của
dân tộc này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Do
đó, độc lập gắn liền với tự do và bình đẳng, công việc nội bộ quốc gia
– dân tộc nào phải do quốc gia – dân tộc đó giải quyết, không có sự
can thiệp từ bên ngoài.


4.1.2. Có độc lập dân tộc mới tạo được tiền đề đi đến ấm nó
hạnh phúc cho nhân dân..
Với Hồ Chí Minh, "trên đời ngàn vạn điều cay đắng, cay đắng
chi bằng mất tự do" (Nhật ký trong tù). Và để có tự do, thì trước hết là
phải giành lại độc lập cho Tổ quốc, giành lại quyền dân chủ cho nhân

dân Việt Nam.
Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân – tư tưởng đó của Hồ
Chí Minh đã trở thành mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng đó được quán triệt trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt
Nam và nó được thể hiện nổi bật trong các thời điểm có tính bước
ngoặt lịch sử.
Trong nền độc lập đó mọi người đều ấm no, tự do, hạnh phúc,
nếu không độc lập chẳng có nghĩa gì. HCM nói: “chúng ta đã hy sinh,
đã giành được độc lập, dân chỉ thấy giá trị của độc lập khi ăn no mặc
đủ ấm”. Từ tư tưởng này thể hiện tính nhân văn cao cả và triệt để cách
mạng của HCM. Điều này thể hiện ở mục tiêu của cách mạng Việt
Nam là: đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến, làm cho nước nhà hoàn
toàn độc lập. Sau cách mạng tháng Tám thành công, HCM đã đọc bản
tuyên ngôn độc lập khẳng định: “nước Việt Nam….và của cải để giữ
quyền tự do độc lập ấy”.
Hòa bình chân chính trong nền độc lập dân tộc để nhân dân xây
dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cũng là quyền cơ bản của dân tộc.
Hòa bình không thể tách rời độc lập dân tộc và muốn có hòa bình thật
sự phải có độc lập thật sự. HCM đã nêu: “nhân dân chúng tôi thành


thật mong muôn hòa bình nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết
chiến đấu đến cùng để bảo vệ độc lập toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ Quốc
và độc lập cho đất nước”. Chân lý có giá trị cho mọi thời đại: “không
có gì quý hơn độc lập tự do”. Độc lập dân tộc phải gắn liền với toàn
vẹn lãnh thổ quốc gia.
4.2. Độc lập dân tộc phải gắn liền với hạnh phúc nhân dân
4.2.1. Có độc lập dân tộc tức là phải có hạnh phúc cho nhân
dân
“Tự do” không phải là giá trị bất biến, luôn thay đổi theo

thời gian. “Tự do” mà cụ Hồ nói sáu mươi sáu năm trước đã khác xa
với những giá trị của tự do bây giờ. Nói tự do ngày nay tức là tự do
của người dân, nhân dân chỉ có được tự do khi nhà nước được lập ra
phải là một nhà nước hợp hiến, chịu giới hạn quyền lực bởi một bản
hiến pháp được phúc quyết bởi toàn dân, trong đó xác định rõ những
quyền cơ bản và việc người dân có quyền được lựa chọn, thay đổi
Quốc hội, Chính phủ thông qua cuộc bầu cử chân chính.2
Có được độc lập chưa đủ, độc lập nhưng người dân phải
được hưởng hạnh phúc, tự do. Đấy chính là đòi hỏi chính đáng, điều
mà không phải ai khác chính cụ Hồ đã chỉ ra. Hạnh phúc, tự do mới
chính là mục đích cuối cùng, là mong ước thẳm sâu nhất của mỗi
người dân nước Việt
4.2.2. Muốn có hạnh phúc cho nhân dân chỉ có con đường
CNXH


-Mục tiêu của CNXH là “độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc
cho nhân dân, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”, “CNXH là làm sao cho
nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học,
ốm đau có thuốc, gì cả không lao động được thì nghỉ ngơi, những
phong tục tập quán không dần dần được xóa bỏ...Tóm lại xã hội ngày
càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt đó là
CNXh”.
-Chỉ có CNXH mới đem lại hạnh phúc, ấm no cho nhân dân
Chủ nghĩa xã hội xoá bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của tình
trạng người bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất sinh ra. Nhờ đó, nó xoá bỏ cơ sở kinh tế sinh ra ách áp bức con
người về chính trị và sự nô dịch con người về tinh thần, ý thức và tư
tưởng. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới đạt tới mục tiêu

phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm cho mọi
thành viên của cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự, có
cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ và đời sống tinh thần ngày càng
phong phú. Nó cũng bảo đảm cho dân tộc vượt qua tình trạng đói
nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong tương quan với các dân tộc khác trong
thế giới và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn để đạt tới sự bình đẳng
trong các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cộng đồng
dân tộc này với cộng đồng dân tộc khác. Toàn bộ khả năng và điều
kiện bảo đảm chỉ có thể được tìm thấy và giải quyết bằng con đường
phát triển chủ nghĩa xã hội.


5. Tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộcCNXH-hạnh phúc nhân dân.
5.1 Lý luận
Cũng như bao nhà Nho yêu nước khác có cùng quan điểm "ái
quốc là ái dân", nhưng điểm khác cơ bản trong tư tưởng "ái dân" của
Người là tình thương ấy không bao giờ dừng lại ở ý thức, tư tưởng mà
đã trở thành ý chí, quyết tâm thực hiện đến cùng sự nghiệp giải phóng
giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại cần lao, xóa bỏ đau
khổ, áp bức bất công giành lại tự do, nhân phẩm và giá trị làm người
cho con người. Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước gắn bó không
tách rời với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Tình thương yêu cũng như
toàn bộ tư tưởng về nhân dân của Người không bị giới hạn trong chủ
nghĩa dân tộc hẹp hòi mà nó tồn tại trong mối quan hệ khăng khít giữa
các vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia với quốc tế. Yêu thương nhân
dân Việt Nam, Người đồng thời yêu thương nhân dân các dân tộc bị
áp bức trên toàn thế giới. Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Hồ
Chí Minh luôn coi trọng sức mạnh đoàn kết toàn dân và sự đồng tình
ủng hộ to lớn của bè bạn khắp năm châu, của cả nhân loại tiến bộ.
5.2. Thực tiễn

Mặc dù hiện nay đất nước ta trong môi trường hòa bình xây dựng
CNXH, nhưng các lực lượng thù địch đang ra sức dùng nhiều con
đường, bằng nhiều biện pháp khác nhau, từ kinh tế đến văn hóa, khoa
học, công nghệ, dân tộc và tôn giáo, nhằm thay đổi bản chất của chế
độ chúng ta. Hơn lúc nào hết mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân luôn


nâng cao cảnh giác cách mạng, đồng thuận trong nhận thức và hành
động để tư tưởng của Bác Hồ kính yêu về độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH được hiện thực hóa, lấy dân làm gốc.
III, KẾT LUẬN
Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy
biến động, cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh
gay gắt của cộng đồng quốc tế. Đảng và nhà nước cần giữ vững độc
lập dân tộc đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, đưa
nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa trong
sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ Quốc.



×