Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Giải Pháp Hạn Chế Rủi Ro Trong Hoạt Động Tín Dụng Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.36 KB, 66 trang )

Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thò Thùy Linh
______________________________________________________________

LỜI NÓI ĐẦU
Công cuộc đổi mới đất nước ta được khởi xướng từ Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI và hiện nay chúng ta đang trong quá trình thực
hiện.Tại Đại hội VI Đảng đã khẳng đònh “ Việc chuyển nền kinh tế mang
tính tực cấp với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thò trường có sự quản lý Vó
mô của Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn, là cần thiết để giải phóng và
phát huy các tiềm năng sản xuất của xã hội”. Sự nghiệp này đồng nghóa
với việc vực dậy và phát triển một nền kinh tế lạc hậu, cơ sở hạ tầng yếu
kém về nhiều mặt do đó chúng ta cần có rất nhiều vốn. Đảng và Nhà
nước đã chỉ rõ “ Nguồn vốn trong nước là chủ yếu, nguồn vốn nước ngoài
là quan trọng”, phải đi lên bằng chính đôi chân của mình, bằng nội lực
của mình là chính. Thực hiện chủ trương đó chúng ta cần phải tổ chức
thật tốt các kênh dẫn vốn mà quan trọng nhất là hệ thống Ngân hàng.
Đây là hệ thống huyết mạch của nền kinh tế giúp vốn lưu chuyển đến
những nơi cần thiết, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên,
để hệ thống này có thể phát huy hết khả năng, hoàn thành tốt nhiệm vụ
đó thì còn nhiều vấn đề được đặt ra cần giải quyết trong đó có vấn đề rủi
ro tín dụng.
Tín dụng Ngân hàng được coi như là“ đòn bẩy” cho sự phát triển
kinh tế, là nguồn vốn quan trọng chủ động để phát triển nguồn vốn trong
nước. Nghiệp vụ tín dụng cũng là nghiệp vụ hàng đầu, có ý nghóa quan
trọng quyết đònh của mỗi Ngân hàng. Giống như mọi hoạt động kinh
doanh khác, hoạt động tính dụng cũng chứa đựng những rủi ro. Do đặc
thù kinh doanh tín dụng là kinh doanh của yếu dựa trên tiền của người



Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thò Thùy Linh
______________________________________________________________
khác, kinh doanh qua tay người khác nên rủi ro trong hoạt động tín dụng
của Ngân hàng còn cao hơn rủi ro của các doanh nghiệp vì nó vừa phụ
thuộc vào kết qủa kinh doanh của Ngân hàng, vừa phụ thuộc vào kết qủa
kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn nữa, rủi ro xảy ra trong hoạt động của
Ngân hàng nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng còn nguy hiểm hơn rất
nhiều so với rủi ro trong các ngành kinh doanh khác. Hậu qủa của nó rất
dễ lan truyền trong cả hệ thống Ngân hàng, gây ra những vụ sụp đổ hàng
loạt Ngân hàng và những hậu qủa nghiêm trọng về kinh tế xã hội và đặc
biệt là suy giảm lòng tin của người dân vào sự lãnh đạo của Đảng và
Chính phủ, điển hình là vụ đổ vỡ hàng loạt của gần 500 quỹ tín dụng đô
thò và hàng nghìn hợp tác xã tín dụng nông thôn ở nước ta những năm
1989-1900.
Với các Ngân hàng thương mại Việt Namhiện nay, rủi ro tín dụng
đang là vấn đề cấp bách như là thách thức đối với các nhà quản trò Ngân
hàng. Sự gia tăng các khoản nợ qúa hạn, nợ khó đòi, thất thoát vốn tín
dụng do bò lừa đảo, chiếm dụng… đã khiến cho nhiều Ngân hàng điêu
đứng, đẩy nhiều Ngân hàng vào tình trạng co cụm không dám đầu tư, cho
vay. Nhưng đã kinh doanh thì phải chấp nhận rủi ro. Chính vì vậy, vấn đề
đặt ra cho các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay là cần biết
chấp nhận rủi ro và tìm ra biện pháp giảm thiểu rủi ro đến mức thấp nhất
có thể, để trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng lợi nhận và
góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.
Nhân thấy tính cấp bách của vấn đề, sau một thời gian thực tập ở
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội, dưới sự hướng


Luận văn tốt nghiệp

Nguyễn Thò Thùy Linh
______________________________________________________________
dẫn tận tình của cô giáo Nguyễn Minh Hạnh và các cán bộ phòng kinh
doanh em đã lựa chọn đề tài :
“ Một số giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội.
Kết cấu luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 chương :
Chương I : Những vấn đề lý luận chung về rủi ro tín dụng trong
hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng Thương mại
Chương II : Thực trạng rỷi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn Hà Nội.
Chương III : Một số giải pháp, kiến nghò nhằm hạn chế rủi ro tín
dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội.


Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thò Thùy Linh
______________________________________________________________

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ RỦI RO
TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
I. VÀI NÉT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1. Khái niệm Ngân hàng thương mại :
“ Ngân hàng thương mại là một tổ chức tín dụng kinh doanh trên
lónh vực tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng mà hoạt động chủ yếu
thường xuyên của nó là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm
hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, để đầu tư, chiết khấu và làm

phương tiện thanh toán”
Như vậy, ngân hàng thương mại trước hết là một trung gian tài
chính trên thò trường tài chính, làm nhiệm vụ thu hút và chuyển giao vốn
giữa người có vốn nhàn rỗi và người cần vốn để đầu tư. Trong nền kinh tế
luôn xảy ra trạng thái mất cân bằng về vốn giữa các doanh nghiệp, dân
cư…Tại một thời điểm có người thừa vốn sẽ có nhu cầu cho vay lấy lãi, lại
ó những người thiếu vốn muốn có vốn để kinh doanh. Với tư cách là trung
gian tài chính, ngân hàng thương mại đứng ra thu hút mọi khoản tiền
nhàn rỗi trong xã hội để cung cấp cho nền kinh tế dưới nhiều hình thức


Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thò Thùy Linh
______________________________________________________________
khác nhau, làm cho đồng tiền luôn ở trạng thái vận động mang lại lợi
nhuận đồng thời góp phần điều hòa vốn cho toàn bộ nền kinh tế.
2. Các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại trong nền kinh
tế thò trường :
Trong nền kinh tế thò trường Ngân hàng thương mại thực hiện các
nghiệp vụ sau :
2.1. Nghiệp vụ huy động vốn :
Đây là nghiệp vụ cơ bản, đầu tiên của Ngân hàng thương mại.
Chính qua nghiệp vụ này, các Ngân hàng thương mại đã thực hiện chức
năng tạo tiền. Ngân hàng thương mại có thể huy động vốn nhàn rỗi trong
nền kinh tế bằng cách nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế, cá nhân, tổ
chức tín dụng khác thông qua hình thức gửi tiền không kỳ hạn, tiền gửi có
kỳ hạn, tiền gưi tiết kiệm và các loại tiền khác. Ngoài ra, khi cần thêm
vốn, Ngân hàng thương mại có thể phát hành các chứng chỉ tiền gửi, trái
phiếu và các giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước. Ngân hàng thương mại cũng có thể vay vốn

của các tổ chức tín dụng khác trong và ngoài nước hoặc vay vốn của
Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, Ngân hàng phải huy động vốn trên cơ
sở vốn tự có được quy đònh theo luật của mỗi nước. Luật của Việt Nam
quy đònh các Ngân hàng thương mại không được huy động vốn quá 20 lần
vốn tự có và quỹ dự trữ.
2.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn :


Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thò Thùy Linh
______________________________________________________________
Đây là nghiệp vụ kinh doanh mang lại phần lớn lợi nhuận cho
Ngân hàng thương mại. Trong nghiệp vụ này, Ngân hàng thương mại
dùng vốn tự có và vốn huy động cấp tín dụng cho khách hàng, có nghóa là
Ngân hàng thương mại thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền
với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi bằng các nghiệp vụ cho vay,
chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ
khác. Là hoạt động kinh doanh mang lại nhiều lợi nhuận nhưng đồng thời
cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất, do vậy các Ngân hàng
thương mại luôn chú trọng tới việc thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc
tín dụng để đảm bảo thu về cả gốc và lãi đúng hạn.
2.3. Nghiệp vụ trung gian :
- Nghiệp vụ thanh toán :
Các Ngân hàng mại thực hiện nghiệp vụ thanh toán thông qua việc
phát hành các công cụ thanh toán như thẻ tín dụng, thẻ thanh toán, séc,
cung cấp các dòch vụ thanh toán cho công chúng, thực hiện các dòch vụ
thu chi hộ. Để làm tốt chức năng này Ngân hàng đã tham gia vào hệ
thống thanh toán liên ngân hàng, hệ thống thanh toán bù trừ hay thông
qua các ngân hàng đại lý.
- Tham gia hoạt động trên thò trường ngoại hối :

Nghiệp vụ này xuất phát từ sự phát triển hoạt động kinh doanh theo
xu hướng hội nhập và phân công lao động quốc tế. Đồng thời, nó cũng là
động lực thúc đẩy trở lại sự phát triển của hoạt động này. Các Ngân hàng
thương mại thu được lợi nhuận từ việc mua bán ngoại tệ, kim loại quý…
trên thò trường ngoại hối trên cơ sở mua vào với giá thấp, bán ra với giá


Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thò Thùy Linh
______________________________________________________________
cao. Ngoài ra, các Ngân hàng thương mại còn kinh doanh trên cơ sở chên
lệch tỷ giá giao dòch ngay, giao dòch có kỳ hạn…
- Tham gia các hoạt động trên thò trường chứng khoán :
Trên thò trường chứng khoán, các Ngân hàng thương mại tham gia
với tư cách là người phát hành, người mua bán, người môi giới, người đầu
tư… trong đó chức năng môi giới của Ngân hàng rất được quan tâm thông
qua các hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán cho các công ty, mua
chứng khoán hộ khách hàng.
- Cung cấp các dòch vụ khác cho khách hàng:
Lợi nhuận đem lại từ việc cung cấp dòch vụ cho khách hàng chiếm
tỷ trọng ngày càng cao trong tổng lợi nhuận của ngân hàng. Do đó ngân
hàng rất chú trọng tới việc đa dạng hoá các dòch vụ, nâng cao hiệu quả
chất lương phục vụ. Hiện nay, các dòch vụ của Ngân hàng rất đa dạng
phong phú từ việc bảo lãnh đến việc cung cấp các dòch vụ tư vấn tài
chính, quản lý tài sản cho khách hàng, lưu giữ và bảo quản các chứng từ,
tài sản có giá, cho thuê két, thực hiện nghiệp vụ đại lý ủy thác, quản lý
danh mục đầu tư……
3. Vai trò của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thò
trường:
Là một ngành kinh doanh đặc biệt, hoạt động của Ngân hàng thương mại,

có những đặc thù riêng gắn liền với loại hàng hoá đặc biệt đó là tiền tệ.
Trong nền kinh tế thò trường, hoạt động của Ngân hàng thương mại rất đa


Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thò Thùy Linh
______________________________________________________________
dạng và phong phú, nó đóng vai trò quan trọng đến sự phát triển của nền
kinh tế thể hiện trên một số khía cạnh sau :
- Ngân hàng thương mại tạo ra tín dụng, giúp cho doanh
nghiệp có điềi kiện mở rộng sản xuất kinh doanh. Như chúng
ta đã biết, Ngân hàng thương mại là nơi tích tụ và tập trung
vốn, nơi khơi dậy và thu hút mọi tiềm năng của xã hội, phục
vụ cho các mục tiêu kinh tế xã hội như giải quyết công ăn
việc làm, tăng trưởng kinh tế… Do vậy, giữa các Ngân hàng
thương mại và các ngành kinh tế có mối quan hệ hữu cơ với
nhau : trên cơ sở các nguốn tiền nhàn rỗi, tạm thời chưa sử
dụng trong nền kinh tế mà Ngân hàng huy động được, Ngân
hàng tiến hành phân phối cho các nhu cầu của các doanh
nghiệp. Trong cơ chế thò trường, vấn đề vốn là vấn đề rất
quan trọng đối với các doanh nghiệp, nhu cầu về vốn của các
doanh nghiệp cho việc đầu tư phát triển mở rộn sản xuất kinh
doanh là rất lớn, trong khi đó nguồn vốn tự có của doanh
nghiệp là có giới hạn, do đó muốn thực hiện được nhu cầu
mở rộng sản xuất kinh doanh thì các doanh nghiệp cần thiết
phải nhờ đến các nguồn vốn khác, mà lớn nhất là nguồn vốn
tiết kiệm trong xã hội.
- Ngân hàng thương mại giúp cho các doanh nghiệp quản lý
hoạt động sản xuất kinh doanh có hệu quả. Đăc trưng cơ bản
của tín dụng Ngân hàng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả và

có lợi tức. Như ta đã biết giá cả của tiền vay là lãi suất, qua
lãi suất Ngân hàng thúc đẩy các doanh nghiệp phải hạch toán
kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng khả năng sinh
lợi… để doanh nghiệp có thể trả được lãi vay mà Ngân hàng


Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thò Thùy Linh
______________________________________________________________
vẫn đảm bảo có lãi. Mặt khác, qua khâu thẩm đònh dự án vay
của doanh nghiệp, Ngân hàng chỉ quyết đònh cho vay với
những đơn vò có khả năng hoàn trả nợ và lãi vay. Vì vậy. Để
được Ngân hàng cho vay vốn thì các doanh nghiệp cần phải
sắp xếp tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh sao cho tốt
nhất và sao cho tạo được lòng tin đối với Ngân hàng.
- Ngân hàng giúp cho nền kinh tế phân bổ vốn giữa các vùng
trong một quốc gia, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
kinh tế vùng. Do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên mà giữa
các vùng thường có sự phát triển kinh tế xã hội không đồng
đều. Ngân hàng TW sẽ đứng ra điều hoà vốn từ
nơê(thừa(không sử dụng hết) sang nơi thiếu(huy động không
đủ) đảm bảo thuận lợi cho sự phát triển kinh tế vùng, xoá
dần sự khác biệt giữa các vùng trên lãnh thổ về kinh tế xã
hội.
- Ngân hàng góp phần chống lạm phát và là một trong những
công cụ quản lý Nhà nước có hiệu quả, tạo nên sự ổn đònh và
tăng trưởng trong nền kinh tế.
- Ngân hàng là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước và nền
kinh tế thế giới, tạo môi trường quyết đònh phát triển ngoại
thương và các ngành kinh tế có liên quan. Ngày nay, sự phát

triển kinh tế của một nước luôn gắn liền với thò trường thế
giới và Ngân hàng thương mại có vai trò quan trọng trong
việc mua bán hàng hoá giữa các nước, đồng thời nhờ nguồn
tín dụng ở bên ngoài để có thể công nghiệp hoá và hiện đại
hoá đất nước.


Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thò Thùy Linh
______________________________________________________________
II. MẠI RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG:
1. Rủi ro trong kinh doanh nói chung :
1.1.Khái niệm rủi ro kinh doanh :
Các hoạt động trong lónh vực kinh tế cũng như trong mọi lónh vực
khác của đời sống đều phải chòu ảnh hưởng của nhiều yếu tố của môi
trường xung quanh và của chính bản thân hoạt động đó. Những yếu tố
này do chủ quan hay khách quan có thể có tác động tích cực hay tiêu cực.
Những yếu tố tác động theo hướng tiêu cực sẽ làm cản trở thậm chí phá
hoại quá trình thực hiện công việc, chúng được coi là những yếu tố gây
rủi ro. Vậy rủi ro là gì? Đã có nhiều quan niệm khác nhau về rủi ro.
Học giả người Mỹ, Frank Knight cho rằng “ Rủi ro là sự bất trắc có
thể đo lường được”. Allan Willett cho rằng “ Rủi ro là sự bất trắc cụ thể
liên quan đến một biến cố không mong đợi”. Còn theo Inring Perfer “
Rủi ro là tổng hợp của những sự ngẫu nhiên có thể đo lường bằng xác
suất”. Như vậy, các đònh nghóa tuy có những mặt khác nhau nhưng đều
thống nhất một nội dung, coi rủi ro là sự bất trắc không mong đợi gây ra
mất mát thiệt hại và có thể đo lường được.
Từ đó có thể thấy rủi ro trong kinh doanh là một tất yếu như người
ta thường nói “ Rủi ro là người bạn đồng hành nhưng xấu bụng của các

nhà kinh doanh”. Nó có thể xuất hiện trong bất cứ khâu nào của quá trình
sản xuất kinh doanh, có khi còn dẫn đến sự phá sản của doanh nghiệp.
Đặc biệt trong nền kinh tế thò trường cạnh tranh khốc liệt, kinh doanh
luôn gắn liền với rủi ro. Chiến lược kinh doanh càng táo bạo thì các nhà
kinh doanh càng dễ thu lợi nhuận nhưng cũng rất dễ gặp rủi ro, tổn thất


Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thò Thùy Linh
______________________________________________________________
nặng nề. Ngay cả những người biết kinh doanh cũng chỉ có thể giảm bớt
rủi ro chứ không thể hoàn toàn loại trừ nó. Nó luôn xuất hiện bất ngờ đe
dọa từ những người kinh doanh nhỏ đến các công ty đa quốc gia.Chính vì
vậy, để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp không còn con đường nào
khác là phải đương đầu với rủi ro bằng cách phán đoán các rủi ro có thể
xảy ra và tìm biện pháp phòng ngừa, hạn chế nhằm giảm đến mức tối
thiểu thiệt hại do rủi ro gây ra. Như vậy, sau khi đã phân tích kỹ doanh
nghiệp phải biết các chấp nhận rủi ro, điều đó cũng có nghóa là mạo hiểm
nhưng không phải là sự liều lónh, thiếu cân nhắc.
1.2. Phân loại rủi ro :
Tùy theo mục đích nghiên cứu, người ta đã phân loại rủi ro theo
những tiêu thức khác nhau.
Vào thế kỷ XIX, John Bates Clavek, học giả người Mỹ đã chia rủi
ro thành 2 loại : rủi ro tónh và rủi ro động. Cách phân loại này dựa trên cơ
sở phân biệt trạng thái tónh và trạng thái động của nền kinh tế từ đó có
thể phân biệt các rủi ro tónh và rủi ro động do xuất phát điểm của nó là
tónh hay động.
Có 3 cách phân biệt :
- Cách thứ nhất : dựa vào cách thức ảnh hưởng đến tài sản.
Các rủi ro tónh xảy ra khi tài sản bò hủy hoại về vật chất

( cháy, bão lụt … ) hoặc bò chuyển giao sở hữu cho người khác
bằng các hành vi phi pháp như : giả mạo giấy tờ. n cắp, lừa
đảo. Trái lại, các rủi ro động xảy ra khi giá trò của một số sản
phẩm hoặc một dòch vụ bò suy giảm do kết quả của quá trình


Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thò Thùy Linh
______________________________________________________________
vận động của nền kinh tế : cung cầu, giá cả sản phẩm thay
đổi, năng suất lao động tăng…
- Cách thứ hai : là dựa vào mức độ ảnh hưởng. Các rủi ro tónh
thường ảnh hưởng tương đối ít đến các tài sản và thường là
trong mỗi trường hợp riêng biệt nào đó. Còn các rủi ro động
thường ảnh hưởng đến nhiều loại tài sản với mức độ nặng nề
hơn.
- Cách thứ ba : là dựa vào mức độ đều đặn hay bất thường của
các rủi ro. Các rủi ro tónh thường xuất hiện đều đặn trong một
giai đoạn nào đó.Trong khi đó các rủi ro động thường xuất
hiện bất thường cả về thời gian và không gian. Ví dụ như hỏa
hoạn, bão lụt thường xảy ra đều đặn hơn ở những thời kỳ nào
đó hàng năm, còn biến động giá cả thò trường thì có thể xuất
hiện bất kỳ lúc nào, ở đâu.
Đến đầu thế kỷ XX, một số nhà kinh tế học lại cố gắng phân đònh
rõ và tách biệt hai loại rủi ro, đó là rủi ro có thể tính toán được và rủi ro
không thể tính toán được. Họ cho rằng các rủi ro có tần số xuất hiện của
chúng mà có thể dự đoán được ở một mức độ tin cậy nào đó gọi là rủi ro
có thể tính toán được. Còn những loại rủi ro mà tần số xuất hiện quá bất
thường đến nỗi thách thức sự tiên đoán trong bất cứ phạm vi nào gọi là
rủi ro không thể tính toán được. Tuy nhiên, sự đo lường chỉ có tính chất

tương đối, một số hiện tượng có thể đo lường nhiều hơn, một số khác lại
đo lường ít hơn và cũng có vô số mức độ chính xác, mức độ tin cậy khác
nhau. Rất ít rủi ro kinh doanh hoàn toàn đo lường được. Do đó, về sau khi
đề cập đến các vấn đề rủi ro kinh doanh vì các loại rủi ro đó không thể
xử lý bằng kỹ thuật bảo hiểm hay bảo vệ trực tiếp.


Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thò Thùy Linh
______________________________________________________________
Ngày nay, khi nói đến rủi ro thuộc về tài chính, người ta phân chia
thành hai loại rủi ro là rủi ro thuần tuý( khách quan) và rủi ro có thể dự
đoán (chủ quan). Rủi ro thuần túy là rủi ro thường liên quan đến việc phá
hủy tài sản hoặc mất mát, tổn thất như thiên tai, lừa đảo, trộm cắp…
thường được chống đỡ, phòng ngừa bằng kỹ thuật bảo hiểm hay bảo vệ
trực tiếp. Rủi ro có thể dự đoán là rủi ro liên quan đến hoạt động có thể
sinh lời hoặc lỗ vốn như giá cả thay đổi, cung cầu thay đổi… Những rủi ro
này không thể chống đỡ bằng kỹ thuật bảo hiểm hay biện pháp an ninh
mà phải sử dụng các phương pháp phân tích kinh tế rất phức tạp.
2. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng thương mại :
Cũng như bất kỳ ngành kinh doanh nào khác, Ngân hàng có thể
gặp rủi ro và có thể mất vốn. Hơn nữa, Ngân hàng là một ngành kinh tế
nhạy cảm, hoạt động Ngân hàng với bản chất của nó, chòu ảnh hưởng của
rất nhiều loại rủi ro.. Bản thân người quản lý Ngân hàng và người lập
chính sách cần biết và hiểu những rủi ro này để tìm mọi cách hạn chế sự
đổ vỡ dễ gây thiệt hại, trước hết là đến Ngân hàng sau đó là đến toàn bộ
nền kinh tế. Có rất nhiều loại rủi ro phát sinh trong hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng thương mại, bao gồm các loại chủ yếu sau :
2.1. Rủi ro lãi suất :

Lãi suất được đònh nghóa là chi phí để vay hoặc giá phải trả để thuê
vốn trong một thời gian nào đó. Trong Ngân hàng có 2 loại lãi suất : lãi


Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thò Thùy Linh
______________________________________________________________
suất cho vay và lãi suất huy động, chúng tạo ra thu nhập và chi phí cho
Ngân hàng. Trong nền kinh tế thò trường, lãi suất là một loại giá cả luôn
biến động theo quy luật cung cầu. Rủi ro lãi suất mà Ngân hàng phải
gánh chòu là sự biến động về lãi suất làm thay đổi tiền lãi của Ngân
hàng. Chẳng hạn, lãi suất cho vay giảm trong khi lãi suất tiền gửi hoặc
trái phiếu giữ nguyên làm giảm thu nhập của Ngân hàng. Những thiệt hại
do rủi ro lãi suất gây ra làm cho chi phí nguồn vốn cao hơn thu nhập từ sử
dụng vốn làm cho kinh doanh Ngân hàng bò thua lỗ.
2.2. Rủi ro hối đoái :
Là rủi ro xảy ra khi có sự biến động giá cả ngoại tệ so với bản tệ
của Ngân hàng. Việc Ngân hàng nắm giữ các chứng khoán, các khoản
vay ngoại tệ hoặc ngoại tệ tiền mặt sẽ khiến Ngân hàng gặp rủi ro khi tỷ
giá thay đổi. Ngân hàng lỗ hay lãi phụ thuộc phụ thuộc vào Ngân hàng có
tình thế ngoại hối trường hay đoản. Khi Ngân hàng có tình thế trường một
ngoại tệ, nếu ngoại tệ đó lên giá, Ngân hàng có lãi qua đánh giá lại và
Ngân hàng lỗ khi ngoại tệ xuống giá. Ngược lại, Ngân hàng có tình thế
ngoại hối đoản, Ngân hàng này bò lỗ khi ngoại tệ đó lên giá và có lãi khi
ngoại tệ đó xuống giá.
2.3. Rủi ro hoạt động ngoại bảng :
Một xu hướng đang phát triển mạnh mẽ trong hoạt động của một
Ngân hàng hiện đại là việc mở rộng các nghiệp vụ ngoại bảng. Theo đònh
nghóa hoạt động ngoại bảng là các hoạt động không thuộc bảng cân đối
tài sản ( nội bảng). Tuy nhiên, các hoạt động ngoại bảng có ảnh hưởng



Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thò Thùy Linh
______________________________________________________________
tới trạng thái tương lai của bảng cân đối tài sản nội bảng, bởi vì các hoạt
động ngoại bảng có thể tạo ra những tài sản có và tài sản nợ bổ sung cho
bảng cân đối nội bảng. Ví dụ về hoạt động ngoại bảng của Ngân hàng
như phát hành tín dụng dự phòng bảo lãnh cho công ty phát hành trái
phiếu. Rất nhiều công ty không thể phát hành được trái phiếu nếu không
có bảo lãnh thư của ngân hàng.
Xuất phát từ tính chất của các hoạt động ngoaiï bảng là Ngân hàng
thu được lãi trong khi không phải sử dụng vốn kinh doanh cho nên đã
khuyến khích các hoạt động ngoại bảng ngày càng phát triển. Tuy nhiên,
những hoạt động này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Chẳng hạn, trong trường
hợp công ty phát hành trái phiếu phá sản thì Ngân hàng phải đứng ra
thanh toán toàn bộ gốc và lãi chứng khoán do công ty đó phát hành, điều
này dẫn đến bảo lãnh thư đã trở thành một bộ phận trong bảng cân đối tài
sản nội bảng, nghóa là Ngân hàng phải sử dụng vốn kinh doanh của mình
để trang trải những gì cam kết trong thư bảo lãnh. Trong thực tế, những
trường hợp thua lỗ nghiêm trọng trong các hoạt động ngoại bảng đã trở
thành những nguyên nhân chính khiến cho Ngân hàng có thể phá sản.
2.4. Rủi ro ứ đọng vốn :
Rủi ro này xuất hiện trong trường hợp nguồn vốn của ngân hàng bò
ứ đọng, không ho vay được hoặc không thể chuyển sang các tài sản sinh
lời khác. Điều này gây ra rủi ro lớn cho Ngân hàng, bởi vì ngân hàng
thương mại kiếm lợi nhuận bằng cách “ Nhận gửi để cho vay”, nguồn vốn
tự có rất ít, chỉ là cái đệm để chống đỡ sự sụt giá của tài sản có, nguồn
vốn hoạt động chủ yếu của Ngân hàng làvốn huy động. Nếu vì một lý do
nào đó, Ngân hàng không cho vay ta được nguồn vốn này hoặc không sử



Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thò Thùy Linh
______________________________________________________________
dụng hết nghóa là tồn tại tiền dự trữ quá mức không sinh lãi, trong khi đến
hàng ngân hàng vẫn phải trả lãi cho số tiền huy động và các chi phí
nghiệp vụ khác có liên quan, như vậy sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của
Ngân hàng. Tình trạng này kéo dài đến một mức nào đó sẽ đẩy Ngân
hàng vào hoàn cảnh khó khăn thua lỗ hoặc thậm chí phá sản.
2.5. Rủi ro tín dụng :
Là rủi ro xảy ra trong hoạt động tín dụng và là loại rủi ro lớn nhất
và thường xuyên nhất vì các món cho vay của Ngân hàng thương mại
chiếm tới 2/3 tổng tài sản có. Hoạt động cho vay sẽ mang lại nguồn thu
nhập lớn nhất cho các Ngân hàng thương mại nếu các khoản tín dụng
được cấp ra không gặp phải rủi ro, ngược lại các khoản tín dụng được cấp
ra cũng có thể gây nên nhiều phiền toái, tổn thất cho Ngân hàng nếu các
khoản tín dụng đó không được thu hồi cả gốc và lãi. Trong nhiều trường
hợp rủi ro tín dụng quá lớn so với vốn tự có của Ngân hàng thì Ngân hàng
sẽ gặp rất nhiều khó khăn và thậm chí có thể bò vỡ nợ hoặc phá sản.
2.6. Rủi ro mất khả năng thanh toán :
Rủi ro thanh toán phát sinh khi dân chúng mất lòng tin vào Ngân hàng
hoặc nhu cầu rút tiền có tính chất thời vụ mà ngân hàng không dự tính
trước được đòi hỏi Ngân hàng phải chi trả tức thời một khoản tiền lớn hơn
mức bình thường. Trong bối cảnh đó, hầu hết các ngân hàng đều phải đối
phó với tình huống tương tự, thì chi phí để huy động vốn bổ sung tăng lên
một cách đáng kể do lượng vốn cung ứng trên thò trường giảm. Hậu quả
là ngân hàng phải bán một số tài sản có độ thanh khoản thấp càng ngày



Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thò Thùy Linh
______________________________________________________________
càng nghiêm trọng, nếu tất cả người gửi tiền đồng loạt yêu cầu chi trả
toàn bộ tiền gửi của họ thì dẫn đến Ngân hàng chỉ đang từ chỗ phải đối
phó với rủi ro thanh khoản đến chỗ phải đối mặt với rủi ro phá sản.
2.7.Các rủi ro thuần túy khác :
Đó là những rủi ro do biến động của thiên nhiên gây ra như thiên
tai, hoả hoạn, động đất… hoặc các rủi ro như lừa đảo, trộm cắp, tham
nhũng… làm thiệt hại hay phá hủy các tài sản của Ngân hàng. Các chính
sách của Nhà nước cũng có ảnh hưởng dẫn đến làm mất cơ hội kinh
doanh của Ngân hàng.
III. RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA NGÂN HÀNG.
1. Khái niệm và phân loại rủi ro tín dụng :
Tín dụng là qua vay mượn dưới dạng tiền tệ có hoàn trả gốc và lãi
giữa người có vốn (Ngân hàng) và người thiếu vốn (doanh nghiệp, dân
cư). Tín dụng hoàn toàn khác các nghiệp vụ tài trợ đang cấp vốn của Nhà
nước cho doanh nghiệp. Trong quan hệ tín dụng, quyền sử dụng tạm tách
rời quyền sở hữu. Theo nghóa nguyên thủy của khái niệm tín dụng là tin
mà đưa tiền cho sử dụng thì hoạt động tín dụng tốt hay xấu phụ thuộc rất
nhiều vào chữ tín của người vay tiền. Theo nghóa rộng chữ tín này bao
hàm cả năng lực tài chính và sự sẵn sàn trả tiền của người đi vay hay
không. Hoạt động tín dụng là hoạt động tiêu biểu của hầu hết các Ngân
hàng phải tìm mọi các để kiểm soát được khả năng hoàn trả nợ của khách
hàng, ít nhất cũng là dự tính, phán đoán khả năng này.


Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thò Thùy Linh

______________________________________________________________
Qua tìm hiểu về hoạt động của Ngân hàng thương mại nói chung
cũng như hoạt động tín dụng nói riêng cùng những khái niệm rủi ro,
chúng ta có thể rút ra khái niệm rủi ro tín dụng như sau :
“ Rủi ro tín dụng là rủi ro trong hoạt động tín dụng xảy ra khi người đi
vay khôn có khả năng hoàn trả được hoặc lãi hoặc gốc hoặc cả hai”
Rủi ro tín dụng thường được biểu hiện bằng các khoản nợ khó đòi, nợ quá
hạn, nợ khoanh… hay ở dạng tiềm ẩn như các khoản nợ gia hạn, nợ đảo…
Rủi ro tín dụng được phân loại theo nhiều tiêu thức :
- Theo thời hạn cho vay : gồm rủi ro tín dụng ngắn hạn, và rủi
ro tín dụng trung-dài hạn.
- Theo các hình thức cho vay : gồm rủi ro tín dụng thông
thường, rủi ro tín dụng chiết khấu, rủi ro tín dụng thuê mua…
- Theo các lónh vực cho vay : gồm rủi to tín dụng nông nghiệp,
rủi ro tín dụng công nghiệp, rủi ro tín dụng thương nghiệp…
- Theo thành phần kinh tế : gồm rủi ro tín dụng kinh tế quốc
doanh và rủi ro tín dụng kinh tế ngoài quốc doanh.
2. nh hưởng của rủi ro tín dụng :
Rủi ro của Ngân hàng thương mại tùy theo các mức độ có thể ảnh
hưởng ít hay nhiều đến bản thân ngân hàng và khách hàng, thậm chí toàn
bộ nền kinh tế.
Đối với bản thân Ngân hàng, tác hại của rủi ro tín dụng là rất rõ, nó ảnh
hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của Ngân hàng. Khi rủi ro xảy ra ở mức độ
nhỏ, Ngân hàng có thể sử dụng qũy dự phòng, vốn tự có để bù đắp, ở


Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thò Thùy Linh
______________________________________________________________
mức độ này Ngân hàng chỉ bò giảm lợi nhuận kinh doanh. Nhưng nếu rủi

ro ở mức độ cao hơn, vốn tự có cũng không đủ bù đắp thì Ngân hàng có
nguy cơ phá sản. Rủi ro tín dụng còn gây ra khó khăn cho Ngân hàng đến
việc thanh toán tiền gửi đến hạn cho khách hàng. Vốn vay không may
chưa thu hồi đủ tron gkhi đến hạn Ngân hàng vẫn phải trả đủ cả gốc và
lãi cho người gửi. Như vậy, các kế hoạch chi trả của Ngân hàng đều bò
đảo lộn.Trong trường hợp đến hạn trả tiền mà Ngân hàng chưa có đủ tiền
trả cho người gửi thì Ngân hàng còn phải mất các chi phí cho việc bán
chứng khoán, vay Ngân hàng trung ương hay vay các Ngân hàng thương
mại khác… Ngoài ra, rủi ro còn làm giảm uy tín của Ngân hàng trên thò
trường, ảnh hưởng đến việc huy động vốn cũng như tác động xấu đến
quan hệ với các Ngân hàng khác.
Không dừng lại ở đó, rủi ro tín dụng còn ảnh hưởng tới toàn bộ nền
kinh tế. Ngân hàng được coi như trung tâm thần kinh của nền kinh tế và
hoạt động của nó thể hiện một bức tranh kinh tế thu nhỏ của đòa bàn nơi
Ngân hàng đặt trụ sở. Qua đánh giá hoạt động của Ngân hàng, người ta
có thể biết được tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, tình
hình thu nhập của dân cư… Khi Ngân hàng gặp rủi ro tín dụng đến một
mức độ nào đó sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống kinh tế xã hội. Rủi ro
tín dụng xảy ra, Ngân hàng không thu hồi được vốn cho vay đúng hạn sẽ
ảnh hưởng đến khả năng chi trả, tình trạng này kéo dài đến một mức độ
nào đó sẽ làm người gửi tiền mất lòng tin và ồ ạt kéo đến Ngân hàng đòi
rút tiền. Nếu Ngân hàng không kòp thời chuẩn bò cho tình huống này hoặc
không đủ khả đáp ứng được nhu cầu rút tiền lớn nhu vậy thì Ngân hàng
sẽ lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán và có thể dẫn tới phá sản.
Tâm lý hoang man mất lòng tin vào Ngân hàng sẽ làm nhiều người gửi


Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thò Thùy Linh
______________________________________________________________

tiền khác kéo đến Ngân hàng khác rút tiền hàng loạt gây mất ổn đònh
trên thò trường, ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.
3. Kinh nghiệm các nước trong việc phòng ngừa và hạn chế
rủi ro tín dụng.
3.1. Kinh nghiệm phòng chống rủi ro tín dụng của Ngân hàng Đức :
Đức là một quốc gia có hệ thống tài chính thuộc loại phát triển trên
thế giới để có được kết qủa đó, công tác phòng chống rủi ro của họ khá
hoàn thiện. Nó đảm bảo an toàn của đầu ra cũng như đầu vào của các
khoản tín dụng thông qua “Qũy đảm bảo tiền gửi” và “Ngân hàng bảo
lãnh”.
“Qũy bảo hiểm tiền gửi” là một hiệp hội do các Ngân hàng thương mại
Đức thành lập từ năm 1956, hiện nay nó có trên 300 hội viên là các Ngân
hàng thương mại cổ phần. Chức năng chính của Qũy là tạo ra khả năng
thanh toán cho các Ngân hàng thương mại là thành viên của hiệp hội và
đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền khi Ngân hàng bò phá sản.
Qũy bảo hiểm tiền gửi của Ngân hàng Đức chỉ đơn thuần là một tổ chức
với chức năng bảo đảm mà không hề kinh doanh. Tỷ lệ đóng góp của các
thành viên là 0.03% tính trên tổng số tiền gửi. Tổng số tiền đóng góp của
các thành viên có thể được dùng để mua tín phiếu kho bạc nhà nước hoặc
gửi vào một Ngân hàng thương mại có uy tín là một trong những thành
viên của Qũy. Tuy nhiên, việc gửi hay mua tín phiếu không nhằm mục
đích sinh lời nên qua các kỳ hạn gửi hay mua tín phiếu hết sức linh hoạt,


Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thò Thùy Linh
______________________________________________________________
nó có khả năng chi trả khách hàng cả vốn lẫn lãi trong vòng 3 tuần lễ nếu
như một Ngân hàng thành viên phá sản hay thiếu khả năng thanh khoản.
“Ngân hàng bảo lãnh” là một tổ chức được thành lập theo luật

công ty với chức năng chính là bảo lãnh các doanh nghiệp vay vốn Ngân
hàng nếu các doanh nghiệp không có đủ tài sản thế chấp. Nguồn thu chủ
yếu của các Ngân hàng bảo lãnh là từ lệ phí bảo lãnh và lợi nhuận từ
kinh doanh chứng khoán.
Để đủ điều kiên bảo lãnh, các doanh nghiệp đệ trình các dự án đầu
tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình đến Ngân hàn g bảo lãnh.
Sau đó Ngân hàng bảo lãnh có trách nhiệm thẩm đònh xem có tính khả
thi hay không. Nếu kết thúc quá trình thẩm đònh cho kết quả tốt mà doanh
nghiệp không đủ tài sản thế chấp cho khoản tín dụng thì Ngân hàng bảo
lãnh sẽ đứng ra bảo lãnh cho doanh nghiệp được vay vốn. Theo luật đònh,
nếu có rủi ro xảy ra Ngân hàng bảo lãnh sẽ chòu 80% giá trò tài sản thiệt
hại và Ngân hàng thương mại chòu 20%.
Theo luật Ngân hàng Đức quy đònh thì tổng mức bảo lãnh tối đa
bằng 36 lần vốn tự có của Ngân hàng, không được bảo lãnh cho doanh
nghiệp quá 1 triệu ĐM, thời hạn bảo lãnh đối với các công trình xây dựng
là 23 năm, các trường hợp khác tối đa là 15 năm. Các khoản tín dụng
dùng để mua sắm vật liệu sản xuất thì chỉ được bảo lãnh từ 35% đến
50% vốn vay. Thông qua Bộ tài chính, Nhà nước hỗ trợ một phần vốn cho
Ngân hàng bảo lãnh bằng các hình thức tái bảo lãnh miễn phí, miễn thuế
doanh thu nhằm đảm bảo chính sách giá cả và tăng trưởng kinh tế.


Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thò Thùy Linh
______________________________________________________________
3.2. Kinh nghiệm hạn chế rủi ro tín dụng của Mỹ và một số nước
Châu á.
Khoản nợ khó đòi khổng lồ của hệ thống ngân hàng đang trở thành
trở lực chính trong quá trình cả cách và phục hồi kinh tế của các nền kinh
tế Châu á. Theo ước tính của các nhà phân tích, số nợ thực tế lớn hơn rất

nhiều so với con số mà Chính phủ công bố, thường chiếm từ 25% đến
35% tổng dư nợ của hệ thống Ngân hàng. Cụ thể, nợ khó đòi của hệ
thống Ngân hàng Trung Quốc lên tới 2,5 nghìn tỷ nhân dân tệ, tương
đương 300 tỷ USD, Nhật Bản là 250 tỷ USD, Hàn Quốc 100 tỷ USD,
Thán Lan 70 tỷ USD, Malaisia 10 tỷ USD… Số nợ khó đòi này nếu không
được nhanh chóng tháo gỡ, hệ thống Ngân hàng sẽ có nguy cơ rơi vào
tình trạng mất khả năng thanh toán và sự sụp đổ hệ thống là khó tránh
khỏi.
Có nhiều cách để xử lý số nợ này, đơn giản nhất là xoá nợ hoặc cơ
cấu lại các khoản nợ này bằng nguồn vốn của Chính phủ. Nhưng do số nợ
của hệ thống Ngân hàng quá lớn nên chi phí sẽ rất tốn kém. Mặt khác,
làm như vậy sẽ không thúc đẩy được quá trình cải cách nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của hệ thống Ngân hàng. Có một phương pháp khác
đáp ứng cả hai mục tiêu tiết kiệm chi phí và thúc đẩy quá trình cải cách
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng đó là mô
hình công ty quản ký tài sản (Asset Management Company-AMC).
AMC lần đầu tiên được đưa ra và áp dụng ở Mỹ để giải quyết cuộc
khủng hoảng và tiết kiệm vào cuối những năm 80. Do một số quỹ tiết
kiệm quá lớn để có thể đóng cửa một cách đơn giản mà không gây ra


Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thò Thùy Linh
______________________________________________________________
những tác động xã hội nhất đònh nên Chính phủ Mỹ đã đưa ra giải pháp
thành lập “Công ty ủy thác xử lý tài sản”, một loại hình của AMC. Công
ty này với tư cách là một cơ quan Trung ương đứng ra mua lại các khoản
nợ khó đòi của các quỹ tiết kiệm và sau đó tìm mọi các làm tối đa hoá
khả năng thu hồi thông qua các khoản nợ thông qua việc bán trên thò
trường. Sự thành công của mô hình này đã giúp Mỹ thoát ra khỏi cuộc

khủng hoảng một cách nhẹ nhàng.
Từ kinh nghiệm của Mỹ có thể nêu một số đặc điểm chung của
AMC như sau:
- AMC là một đònh chế tài chính phi ngân hàng có mục tiêu
đặc biệt, có trách nhiệm và quyền lực đặc biệt trong việc
thực hiện chức năng mua các khoản nợ khó đòi từ hệ thống
ngân hàng và xử lý các khoản nợ khó đòi đó một cách tối ưu.
- Mục tiêu hoạt động của AMC không vì lợi ích của chính bản
thân công ty mà nhằm phục hồi lại sức mạnh cho cả hệ thống
ngân hàng.
- Vai trò: AMC là một tổ chức đóng vai trò trung gian hay như
một công cụ của Chính phủ trong việc giải quyết các khó
khăn của hệ thống Ngân hàng. Nhờ có AMC, chi phí cho quá
trình cải tổ hệ thống Ngân hàng sẽ được giảm nhẹ, hiệu quả
cả về mặt kinh tế và xã hội đều được nâng lên.
- Chức năng: AMC mua lại các khoản nợ của Ngân hàng, sau
đó tìm mọi cách để tối đa hoá khả năng thu hồi nợ thông qua
các biện pháp khác nhau như: sử dụng tài sản thế chấp để
góp vốn liên doanh, liên kết; cho thuê; sửa chữa, đầu tư làm
tăng giá trò tài sản trước khi bán; chuyển nợ thành cổ phần để
tham gia vào công việc điều hành các công ty con nợ nhằm


Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thò Thùy Linh
______________________________________________________________
làm cho các công ty này hoạt động có hiệu quả hơn và có
khả năng trả nợ…
Sự cần thiết phải thành lập AMC:
Một câu hỏi đặt ra là nếu chuyển toàn bộ số nợ khó đòi của Ngân

hàng sang cho AMC thì có nghóa là các Ngân hàng sẽ không phải chòu
trách nhiệm gì về những thiệt hại do chính mình gây ra?
Trước hết, sức khỏe của hệ thống ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến
sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Vì vậy, khi hệ thống Ngân hàng
rơi vào tình trạng khó khăn, Chính phủ cần phải có sự trợ giúp để khôi
phục lại hệ thống Ngân hàng để đạt được mục tiêu tăng trưởng chung của
nền kinh tế. Thứ hai, thực tế cho thấy, tình trạng nợ khó đòi quá lớn ở hầu
hết các nước bò khủng hoảng không thể nói không có liên quan tới việc
điều hành kinh tế sai lầm của Chính phủ.
Mặt khác, chuyển nợ từ các Ngân hàng sang AMC không có nghóa
là các Ngân hàng được xoá sạch nợ và trở nên hoàn toàn trong sạch. Quy
trình mua bán nợ của các AMC nhu sau: AMC phát hành trái phiếu do
Chính phủ (Bộ tài chính) đứng ra bảo lãnh và các Ngân hàng sẽ mua toàn
bộ số trái phiếu này. AMC dùng số tiền thu được từ việc phát hành trái
phiếu đó để mua lại toàn bộ số nợ của các Ngân hàng theo mệnh giá
hoặc theo tỷ lệ chiết khấu nhất đònh. Như vậy, thực chất của quá trình
trên là các Ngân hàng đổi nợ của mình để lấy trái phiếu do AMC phát
hành. Tất nhiên, trong quá trình xử lý nợ sẽ phát sinh rất nhiều vấn đề
phức tạp và không phải khoản nợ nào cũng có thể thu hồi được đầy đủ
( theo kinh nghiệm các nước đã áp dụng mô hình này, tỷ lệ thu hồi vào


Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thò Thùy Linh
______________________________________________________________
khoản từ 40% - 60%). Cuối cùng Chính phủ vẫn phải bỏ ra một khoản chi
phí để trang trải cho các hoạt động của công ty và số nợ không thể thu
hồi được.
Nhưng ở đây cần lưu ý rằng nếu không có AMC, chi phí để xử lý
các khoản nợ khó đòi sẽ lớn hơn rất nhiều, do:

- Các Ngân hàng không có đủ nguồn lực và kỹ năng cần thiết
để xử lý các khoản nợ trong khi đó AMC được chuyên môn
hoá để thực hiện công việc này.
- Các Ngân hàng bò hạn chế và thiếu quyền lực đặc biệt để xử
lý nợ trong kho AMC có thể thúc đẩy các thay đổi pháp lý
cần thiết.
- Các Ngân hàng chỉ được áp dụng biện pháp duy nhất để thu
hồi nợ là bán đấu giá các tài sản thế chấp trong khia AMC có
thể tối đa hoá khả năng thu hồi nợ thông qua nhiều biện
pháp.
Dù là một công cụ hữu hiệu, nhưng AMC cũng chỉ là một giải pháp
tình thế để giải quyết số nợ khó đòi quá lớn đã phát sinh. Để giải quyết
vấn đề một các căn bản các Ngân hàng vẫn phải cải tổ, nâng cao hiệu
quả các hoạt động đặc biệt là trong hoạt động tín dụng. Vì lý do này,
AMC có thời hạn hoạt động không dài, thông thường từ 5-10 năm. Sau
khi giải quyết xong số nợ, AMC sẽ được giải thể, hoặc cổ phần hoá hoặc
sát nhập lại với các Ngân hàng. Thời gian tồn tại của AMC càng ngắn
cộng với tỷ lệ thu hồi nợ cao chứng tỏ mức độ thành công của mô hình
này.


×