Tải bản đầy đủ (.pdf) (224 trang)

Quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học việt nam nửa đầu thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 224 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

DƯƠNG THU THỦY

QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA
HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
Chuyên ngành:
Mã số:

Văn học Việt Nam
62 22 34 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS TRẦN HỮU TÁ

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2010


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

DƯƠNG THU THỦY

QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA
HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX
Chuyên ngành:
Mã số


:

Văn học Việt Nam
62 22 34 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS TRẦN HỮU TÁ

Thành phố Hồ Chí Minh - 2010


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong Luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả Luận án

Dương Thu Thủy



MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa .................................................................................................
Lời cam đoan .................................................................................................
Mục lục ...................................................................................................... 01
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 03

1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 03
2. Mục đích nghiên cứu .............................................................................. 04
3. Lịch sử vấn đề ........................................................................................ 04
4. Giới hạn của đề tài.................................................................................. 12
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 16
6. Đóng góp của luận án ............................................................................. 16
7. Cấu trúc luận án ..................................................................................... 17
NỘI DUNG
Chương 1 - Những tiền đề cơ bản của quá trình hiện đại hóa hoạt động
nghiên cứu văn học Việt Nam .............................................. 18
1.1. Tiền đề lịch sử - xã hội...................................................................... 18
1.2. Tiền đề văn hóa - văn học ................................................................. 25
1.3. Tiền đề vật chất - kỹ thuật ................................................................. 48
Chương 2 - Những chặng đường phát triển của hoạt động nghiên cứu
văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX ................................. 54
2.1. Giai đoạn 30 năm đầu thế kỷ XX ...................................................... 55
2.1.1. Ảnh hưởng của quan niệm cổ điển trong hoạt động nghiên cứu
văn học ..................................................................................... 55
2.1.2. Bước khởi đầu của quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu
văn học ..................................................................................... 58
2.2. Giai đoạn 1930 - 1945 - Những chuyển biến trong quá trình hiện đại
hóa hoạt động nghiên cứu văn học ................................................... 71
1


2.2.1. Nghiên cứu văn học sử - Thành tựu và hạn chế ........................... 72
2.2.1.1. Những công trình riêng về từng thời kỳ, từng lĩnh vực văn học
......................................................................................................... 72
2.2.1.2. Những công trình khái quát cả quá trình văn học ............... 103
2.2.2. Nghiên cứu văn học nước ngoài - Thành tựu và hạn chế............ 129

2.2.3. Nghiên cứu lý luận văn học - Thành tựu và hạn chế .................. 134
Chương 3 - Những đổi mới về phương pháp nghiên cứu ..................... 145
3.1. Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu............................................. 146
3.1.1. Phương pháp so sánh .............................................................. 146
3.1.2. Phương pháp trực giác ............................................................ 156
3.1.3. Phương pháp xã hội học .......................................................... 161
3.1.4. Phương pháp tiểu sử................................................................ 166
3.1.5. Phương pháp xã hội học mác - xít ........................................... 173
3.2. Ngọn nguồn của những đổi mới ...................................................... 183
3.2.1. Những yếu tố nội sinh ............................................................. 184
3.2.2. Những yếu tố ngoại nhập ........................................................ 190
KẾT LUẬN ............................................................................................. 200
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................... 204
DANH MỤC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI................... 220

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngành nghiên cứu văn học Việt Nam hiện đại đã phát triển qua một thế
kỷ với nhiều thành tựu to lớn. Các thành tựu về nghiên cứu văn học sử Việt
Nam đã được nhắc tới trong các bộ lịch sử văn học cũng như trong các cuốn
sách chuyên khảo của cá nhân hoặc tập thể tác giả kể từ đầu thế kỷ XX đến
nay. Trong các cuốn sách đó, chúng ta thấy các tác giả đã cố gắng đánh giá và
tổng kết các thành tựu của văn học nước nhà cả về mặt sáng tác lẫn nghiên
cứu. Những thành tựu về nghiên cứu như các quan điểm nghệ thuật, các lý
thuyết và các phương pháp nghiên cứu, đã được tổng kết xen lẫn với các
thành tựu về sáng tác trong cùng giai đoạn, cùng một thời kỳ văn học. Những
bộ sách lịch sử văn học như Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam (1957) của

nhóm Lê Quý Đôn, Văn học Việt Nam (1900 - 1945) (1999) do Phan Cự Đệ
chủ biên, Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945 (1976), Văn học Việt Nam
giai đoạn 1930 - 1945 (1981), Văn học Việt Nam thế kỷ XX (Những vấn đề
lịch sử và lý luận) (2004),... của các tập thể tác giả, và một số cuốn sách khác
như bộ sách Lược khảo văn học (1963, 1968) của Nguyễn Văn Trung, Việt
Nam văn học sử giản ước tân biên (1965) của Phạm Thế Ngũ, bộ sách Bảng
lược đồ văn học Việt Nam (1967) của Thanh Lãng, Văn học sử thời kháng
Pháp 1858 - 1945 (1972) của Lê Văn Siêu, ... đều có đề cập ít nhiều đến
thành tựu của hoạt động nghiên cứu văn học bên cạnh các thành tựu của sáng
tác văn học đầu thế kỷ XX.
Tuy nhiên, việc tổng kết riêng về lĩnh vực nghiên cứu văn học, đặc biệt
là giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, vẫn chưa được quan tâm thỏa đáng. Những
cuốn sách tổng kết riêng về lĩnh vực nghiên cứu văn học Việt Nam nói chung
và đối với giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX nói riêng hầu như rất hiếm. Không
thoả mãn với những thành tựu của lĩnh vực nghiên cứu văn học phần lớn mới
3


chỉ được nhắc đến bên cạnh những thành tựu về sáng tác trong các cuốn lịch
sử văn học, chúng tôi cho rằng chỉ có việc nghiên cứu chuyên biệt để tổng kết
riêng các thành tựu nghiên cứu văn học thì mới đánh giá được thỏa đáng hoạt
động của lĩnh vực này. Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: “Quá trình hiện
đại hoá hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX” để
thực hiện luận án nhằm đáp ứng phần nào mối quan tâm về quá trình hiện đại
hóa và sự đóng góp của hoạt động nghiên cứu văn học trong quá trình hiện
đại hóa nền văn học dân tộc nói chung.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “Quá trình hiện đại hoá hoạt động nghiên cứu văn
học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX”, chúng tôi nhằm hướng đến những mục
đích sau:

- Đánh giá một cách khách quan, khoa học những thành tựu và hạn
chế của quá trình hiện đại hoá hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam trong
giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX.
- Nêu lên những đóng góp của hoạt động nghiên cứu văn học trong
thành tựu chung của quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XX.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm về quá trình hiện đại hoá văn học
nhằm vận dụng vào công cuộc hiện đại hoá văn học hiện nay.
3. Lịch sử vấn đề
Ngành nghiên cứu văn học Việt Nam thời trung đại chủ yếu thiên về xu
hướng sưu tầm, bình điểm. Xu hướng này mang tính chất của tiếp nhận cảm
tính nhiều hơn là tư duy khoa học. Chính vì vậy, mặc dù xu hướng này có ưu
điểm là cung cấp cho ta những kiến thức đánh giá độc đáo về mặt thẩm mỹ và
nghệ thuật, nhưng nó chưa phác họa được một bức tranh văn học có hệ thống
với những lý giải khoa học và biện chứng về quá trình phát triển của văn học.
4


Phải đến đầu thế kỷ XX, khi văn hoá Việt Nam có điều kiện được tiếp xúc với
văn hoá phương Tây, các nhà nghiên cứu và phê bình văn học Việt Nam nhận
thấy rằng: đổi mới phương pháp nghiên cứu văn học là một nhu cầu không thể
thiếu được trong quá trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc. Họ bắt đầu tìm
hiểu các lý thuyết và phương pháp nghiên cứu, phê bình văn học của phương
Tây để vận dụng vào Việt Nam. Kết quả là chưa bao giờ nền văn học Việt
Nam chuyển biến và phát triển mạnh mẽ như ở giai đoạn này. Riêng hoạt
động nghiên cứu văn học trong nửa đầu thế kỷ XX đã để lại một di sản khá
phong phú và đa dạng. Từ những bài nghiên cứu còn mang đậm dư âm của
quan niệm cổ điển trong buổi đầu tiếp thu học thuật nước ngoài, đến những
tác phẩm vận dụng phương pháp khoa học vào việc nghiên cứu các tác gia,
tác phẩm, các giai đoạn văn học thời kỳ văn học…, các nhà nghiên cứu đã

đóng góp không nhỏ vào quá trình hiện đại hóa văn học đương thời và đặt nền
móng quan trọng cho hoạt động nghiên cứu văn học của giai đoạn sau này.
Tuy nhiên, cho đến nay, bên cạnh những thành tựu về sáng tác, lý luận, phê
bình đang được giới nghiên cứu quan tâm, có thể nói, chưa có một công trình
khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện về những thành tựu và hạn chế
của quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam giai đoạn
nửa đầu thế kỷ XX.
Từ trước năm 1945, lĩnh vực nghiên cứu, phê bình cũng đã được nhiều
nhà nghiên cứu đề cập đến. Các vấn đề như quan điểm, phương pháp, thể loại,
tác giả, tác phẩm đã được các tác giả Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Thạch Lam,
Kiều Thanh Quế, Diệu Anh Đinh Gia Trinh, Nguyễn Văn Tố… đem ra bàn
bạc. Toàn bộ hoạt động nghiên cứu văn học giai đoạn này đều được các nhà
nghiên cứu gọi chung là: phê bình văn học. Và như thế là xuất hiện một kiểu
“phê bình của phê bình”. Trong Nhà văn hiện đại (1942) của Vũ Ngọc Phan,
chúng ta thấy tác giả đã có ý xếp riêng những nhà văn viết phê bình và nghiên
5


cứu vào cùng một phần để đánh giá và phê bình các tác giả đó.
Từ sau năm 1945 đến 1975, các bộ lịch sử văn học đều dành sự quan
tâm khảo sát giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX. Bên cạnh phần nói về hoạt động
sáng tác, các công trình đều có đề cập ít nhiều đến hoạt động nghiên cứu văn
học. Tuy vậy, các công trình phần lớn đều xem hoạt động nghiên cứu văn học
giai đoạn này như là một hình thức của phê bình văn học. Có thể kể những
công trình tiêu biểu có đề cập đến hoạt động phê bình, nghiên cứu văn học
giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX như: Lược thảo văn học Việt Nam (tập 3, 1957,
Nhóm Lê Quý Đôn soạn); Bảng lược đồ văn học Việt Nam (Nxb Phong trào
Văn hóa, Sài Gòn, 1967) và Phê bình văn học thế hệ 1932 - 1945 (Nxb Phong
trào Văn hóa, Sài gòn, 2 tập, 1972 - 1975) của Thanh Lãng; Việt Nam văn học
sử giản ước tân biên 1862 - 1945 (Nxb Quốc học tùng thư, Sài Gòn, 1965)

của Phạm Thế Ngũ, Lược khảo văn học: Nghiên cứu và phê bình văn học (tập
3, Nxb Nam Sơn, Sài Gòn, 1968) của Nguyễn Văn Trung.
Trong những công trình nêu trên, công trình Phê bình văn học thế hệ
1932-1945 của Thanh Lãng có tầm bao quát rộng hơn cả. Trong tác phẩm này
và một phần của Bảng lược đồ văn học Việt Nam, Thanh Lãng đã phác họa
tổng quát bức tranh nghiên cứu - phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XX như: Đặc điểm của giai đoạn, Lý thuyết về phê bình, Sự phân hóa của lực
lượng cầm bút, Mười vụ án văn học, Sáu khuynh hướng phê bình; Giới thiệu
và nhận định về 17 nhà phê bình... Các công trình của Thanh Lãng có một đặc
điểm chung là mang tính khảo cứu, mô tả và liệt kê sự kiện; cho nên chưa thể
hiện rõ quá trình và những quy luật phát triển của ngành nghiên cứu văn học
Việt Nam trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX. Đã thế, ở tập I của bộ sách Phê
bình văn học thế hệ 1932, tác giả lại dành cả chương II để phát biểu chung về
phê bình văn học và giới thiệu một số trường phái phê bình của thế giới. Sau
đó, sang tập II, ông lại giới thiệu các trường phái của thế giới đã dẫn ở tập I.
6


Vì vậy, ấn tượng tản mạn của bộ sách lại càng thể hiện rõ rệt. Nhưng cái đáng
quý của các công trình này là đã cung cấp một khối lượng tư liệu giá trị rất
cần thiết cho các thế hệ nghiên cứu sau này.
Tập 3 của bộ Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (1862 - 1945) của
Phạm Thế Ngũ là công trình biên khảo được viết một cách nghiêm túc về tình
hình văn học trong khoảng thời gian từ 1862 đến 1945. Trong công trình này,
Phạm Thế Ngũ chủ yếu đề cập đến thành tựu về sáng tác văn học. Tuy vậy,
ông cũng có dành một số trang để giới thiệu hoạt động biên khảo và phê bình
giai đoạn từ 1907 đến 1932, cũng như để đánh giá cao hoạt động phê bình giai
đoạn 1940 - 1945.
Trong Lược khảo văn học (tập 3) sau khi đề cập qua về sự ra đời của
phê bình văn học, Nguyễn Văn Trung đã mô hình hóa các dạng hoạt động của

phê bình và các loại tác gia phê bình. Theo tác giả, giai đoạn này có năm quan
niệm phê bình: Phê bình ấn tượng chủ quan giáo điều (Đào Duy Anh, Thiếu
Sơn, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Trương Chính), Phê bình giáo khoa (Trần
Thanh Mại, Lê Thanh, Kiều Thanh Quế, Dương Quảng Hàm…), Phê bình
luân lý (Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng,
Hải Triều, Mộng Sơn, Thái Phỉ, Lê Thanh…), Phê bình phân tâm học
(Nguyễn Văn Hanh, Trương Tửu), Phê bình xã hội (Hải Triều, Nguyễn Bách
Khoa)...
Ngoài những công trình vừa nêu, rải rác trong cuốn sách Văn học sử thời
kháng Pháp 1858 - 1945 (Nxb Trí Đăng, Sài Gòn, 1972), Lê Văn Siêu có đề
cập đến vấn đề biên khảo và phê bình, cũng như có giới thiệu qua các nhà phê
bình, nghiên cứu văn học như Đào Duy Anh, Đặng Thai Mai, Phan Văn Hùm,
Hồ Hữu Tường, Trần Thanh Mại, Hoài Thanh, Trương Tửu.
Sau 1975, các công trình nghiên cứu về hoạt động phê bình, nghiên cứu
văn học giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX ngày càng được quan tâm. Bên cạnh các
7


bộ Lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn 1900 - 1930 (Nxb Giáo dục, Hà Nội,
1981) và Lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 do Huỳnh Lý,
Nguyễn Trác, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Hoành Khung, Hoàng Dung biên
soạn chỉ dành một số trang viết khiêm tốn về hoạt động phê bình, nghiên cứu
văn học so với hoạt động sáng tác, thì gần đây, chúng ta thấy có nhiều bài
viết, sách chuyên khảo, luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ đề cập riêng đến
thành tựu nghiên cứu và phê bình của một số nhà nghiên cứu - phê bình đã
sống qua cả hai thời kỳ. Luận văn thạc sĩ của Phạm Thị Mến: Những đóng
góp về mặt lý luận phê bình của Hoài Thanh trước Cách mạng tháng Tám
(Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội, 2001); luận án tiến
sĩ của Trần Hạnh Mai: Sự nghiệp phê bình văn học của Hoài Thanh (Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội, 2000, Nxb Giáo dục, 2003); luận văn thạc

sĩ của Dương Thu Thuỷ: Đóng góp về phê bình và nghiên cứu lịch sử văn học
của Trần Thanh Mại (Trường Đại học Sư phạm Huế, Huế, 2004); luận văn
thạc sĩ của Hồ Vi Thường: Khuynh hướng phê bình mác - xít ở Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XX (1900 - 1945) (Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí
Minh, 2005)… Nghiên cứu về lý luận, phê bình những thập niên đầu thế kỷ
XX phải kể đến cuốn sách Lý luận phê bình văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX
của Trần Mạnh Tiến (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2001). Có một công trình được
tác giả cho là “công trình chuyên biệt đầu tiên tập trung nghiên cứu một cách
toàn diện, toàn bộ hoạt động phê bình văn học thời trước Cách mạng” mang
tên: Lịch sử phê bình văn học Việt Nam (giai đoạn đầu thế kỷ XX đến năm
1945) của Trần Thị Việt Trung (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội,
2002). Công trình Phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX (1900 1945) của Nguyễn Thị Thanh Xuân (Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh) cũng ra đời vào năm 2004.
Lịch sử phê bình văn học Việt Nam (Giai đoạn đầu thế kỷ XX đến năm
8


1945) của Trần Thị Việt Trung là cuốn sách nghiên cứu về phê bình văn học
giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945. Trong công trình này, tác giả đã
nêu lên những tiền đề về lịch sử xã hội và văn hoá của phê bình văn học Việt
Nam từ đầu thế kỷ đến năm 1945, trong đó có đề cập đến vai trò của hoạt
động báo chí, đội ngũ những nhà văn tham gia hoạt động phê bình văn học....
Tác giả giới thiệu diện mạo và đặc điểm của phê bình văn học Việt Nam giai
đoạn nửa đầu thế kỷ XX, dựng lên một số chân dung nhà phê bình chủ yếu ở
giai đoạn 1930 - 1945 như Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Hải Triều.
Vì vậy, theo chúng tôi, cuốn sách Lịch sử phê bình văn học Việt Nam (Giai
đoạn đầu thế kỷ XX đến năm 1945) của Trần Thị Việt Trung chủ yếu đánh giá
về hoạt động phê bình văn học như mục đích của tác giả đặt ra chứ chưa thể
hiện rõ toàn bộ hoạt động nghiên cứu văn học.
Trong công trình Lý luận phê bình văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX,

Trần Mạnh Tiến đã khái quát một cách toàn diện và có hệ thống về tình hình,
đặc điểm và thành tựu lý luận phê bình văn học 30 năm đầu thế kỷ. Tác giả đã
nêu lên một số đặc trưng của văn học, các mối quan hệ cơ bản của văn học,
tác dụng của văn học; quan niệm về tác phẩm văn học và đề cập đến hai thể
loại chính là thơ và tiểu thuyết; về phê bình văn học, Trần Mạnh Tiến nêu ra
hai khuynh hướng trong phê bình văn học đầu thế kỷ là phê bình truyền thống
và phê bình mới, giới thiệu các quan điểm cũng như những đánh giá về cuộc
tranh luận Truyện Kiều giữa những năm 20 của thế kỷ XX. Tóm lại, cuốn
sách trên chỉ đề cập về lý luận phê bình văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Cũng nghiên cứu về phê bình văn học, Nguyễn Thị Thanh Xuân trong
công trình Phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX (1900 - 1945) đã
khái quát sự hình thành và phát triển của phê bình văn học Việt Nam giai
đoạn nửa đầu thế kỷ XX, đồng thời giới thiệu 12 tác giả phê bình tiêu biểu ở
giai đoạn này là: Phạm Quỳnh, Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Trần Thanh Mại,
9


Trương Chính, Dương Quảng Hàm, Vũ Ngọc Phan, Hải Triều, Trương Tửu Nguyễn Bách Khoa, Đặng Thai Mai, Lê Thanh, Kiều Thanh Quế. Theo tác
giả, phê bình văn học giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX là một nền phê bình văn
học “đã có cơ sở lý luận tuy chưa hoàn chỉnh”, phê bình văn học giai đoạn
này đã phát triển một cách nhanh chóng về nhiều mặt, trong đó rõ nhất là
ngôn ngữ phê bình. Và cuốn sách cũng tập trung đề cập đến mảng phê bình
của ngành nghiên cứu văn học.
Gần đây, trong cuốn Phương pháp luận nghiên cứu văn học (Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội, 2004), Nguyễn Văn Dân cũng đã đánh giá sự đóng góp
về mặt phương pháp nghiên cứu của một số tác giả thời trước Cách mạng như
Trần Thanh Mại, Hoài Thanh và Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa, đồng thời
chỉ ra những hạn chế về quan điểm phương pháp luận của họ. Nhưng đây vốn
là một cuốn sách bàn về Phương pháp luận nên tác giả chỉ chủ yếu nêu lên
những đóng góp cũng như những hạn chế về phương pháp nghiên cứu của các

tác giả Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám để minh họa cho vấn đề
“phương pháp luận nghiên cứu văn học” chứ chưa phải là cuốn sách chuyên
sâu về hoạt động nghiên cứu văn học giai đoạn này.
Cuốn sách Văn học Việt Nam thế kỷ XX - Những vấn đề lý luận và lịch
sử (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004) do Phan Cự Đệ chủ biên chủ yếu đề cập đến
lý luận, phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX. Nghiên cứu lý luận, phê bình
thời kỳ nửa đầu thế kỷ, Trần Đình Sử phân chia làm hai giai đoạn: Lý luận,
phê bình văn học Việt Nam giai đoạn 1900 - 1932; Lý luận, phê bình văn học
1932- 1945. Ở giai đoạn đầu, sau khi nêu diện mạo chung của đời sống lý
luận, phê bình văn học ba mươi năm đầu thế kỷ; cuộc tranh luận văn học đầu
tiên mở đầu thế kỷ: Tranh luận Truyện Kiều; tác giả đã giới thiệu những nhà
nghiên cứu, phê bình văn học đầu tiên gồm: Phan Kế Bính, Phạm Quỳnh, Võ
Liêm Sơn. Sang giai đoạn từ 1932 đến 1945, Trần Đình Sử cho rằng đặc điểm
10


chủ yếu của giai đoạn này là giai đoạn hình thành tư tưởng mới; phủ nhận tư
tưởng cũ, nổ ra nhiều cuộc tranh luận quan trọng, và đây cũng là giai đoạn
hình thành lý luận văn học như là một “thể loại mới” xưa nay chưa từng có và
đồng thời xuất hiện những nhà lý luận, phê bình văn học chuyên nghiệp. Trần
Đình Sử chia ra sáu thể loại phê bình chủ yếu ở giai đoạn này gồm: thể bút
chiến, thể phê bình tác giả, thể danh nhân truyện ký, thể phê bình khoa học
hay nghiên cứu chuyên đề, thể loại bình chú, bình văn, thể loại văn học sử.
Ông phân chia thế hệ các nhà lý luận, phê bình văn học giai đoạn 1932 - 1945
theo bốn khuynh hướng: các nhà phê bình có xu hướng tổng kết (Thiếu Sơn,
Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan); các nhà phê bình mác-xít (Hải Triều, Đặng Thai
Mai); các nhà phê bình, nghiên cứu văn học theo phương pháp khoa học
(Trần Thanh Mại, Đào Duy Anh, Nguyễn Bách Khoa); các nhà văn học sử và
biên khảo (Dương Quảng Hàm, Nguyễn Đổng Chi, Ngô Tất Tố, Lê Thanh,
Kiều Thanh Quế). Trong mỗi tác giả, Trần Đình Sử có giới thiệu những tác

phẩm tiêu biểu, kèm theo vài lời nhận định hết sức ngắn gọn.
Chuyên luận Lý luận, phê bình văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến
1945 (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2005) do Nguyễn Ngọc Thiện chủ biên
đã giới thiệu 27 bài viết về hoạt động lý luận, phê bình nửa đầu thế kỷ của các
tác giả: Nguyễn Ngọc Thiện, Hà Công Tài, Cao Kim Lan, Trịnh Bá Đĩnh, Tôn
Thảo Miên, Nguyễn Đăng Điệp, Đinh Thị Minh Hằng. Cuốn sách ngoài phần
mở đầu (Khái quát: Động lực lớn của lý luận - phê bình văn học Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX) và phần kết luận (Sự phát triển tiếp nối của lý luận, phê
bình văn học nửa đầu thế kỷ XX đến nay) có ba chương. Chương một và
chương hai, nghiên cứu về sự phát triển của lý luận và phê bình văn học Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX. Chương ba giới thiệu mười tác gia lý luận, phê bình
văn học tiêu biểu gồm: Phan Khôi, Thiếu Sơn, Hải Triều, Hoài Thanh, Trần
Thanh Mại, Trương Chính, Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa, Lê Thanh, Vũ
11


Ngọc Phan, Đặng Thai Mai. Tóm lại, nội dung chính của cuốn sách là nghiên
cứu về lý luận, phê bình văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945.
Ngoài các cuốn sách nói trên, ta còn có thể tìm gặp những ý kiến nhận
xét, đánh giá về từng tác gia, hay từng tác phẩm phê bình, nghiên cứu văn học
giai đoạn này trên nhiều sách, bài báo, tạp chí của các nhà nghiên cứu, nhà
văn có uy tín. Tuy nhiên, hầu như chưa có một cuốn sách nào tập trung khảo
sát và tổng kết về quá trình hiện đại hoá hoạt động nghiên cứu văn học ở giai
đoạn nửa đầu thế kỷ XX. Đây vẫn còn là một lĩnh vực cần phải bổ khuyết, và
đề tài Quá trình hiện đại hoá hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX của chúng tôi sẽ cố gắng đóng góp cho công việc tổng
kết này.
4. Giới hạn của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là các công
trình nghiên cứu văn học ở giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX đã có độ lùi thời gian

nhất định của các nhà nghiên cứu văn học chuyên nghiệp hoặc không chuyên.
Trong đó, luận án tập trung chủ yếu vào sự hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu
văn học giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX qua những thành tựu chủ yếu, qua các
phương pháp nghiên cứu và nguyên nhân dẫn đến những thành tựu đó. Những
vấn đề khác không phải là đối tượng nghiên cứu của luận án. Với yêu cầu
nhằm vào sự hiện đại hoá, chúng tôi sẽ tập trung vào những công trình nghiên
cứu tiêu biểu, có đóng góp về mặt đổi mới trong quan điểm lý thuyết và
phương pháp thực hành.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: phạm vi của đề tài, chúng tôi xác định chỉ tập
trung nghiên cứu những yếu tố nổi trội đã góp phần làm nên quá trình hiện đại
hóa trong hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XX (từ
năm 1900 đến năm 1945); không có tham vọng nghiên cứu toàn bộ các tác giả
và tác phẩm xuất hiện ở giai đoạn này mà chỉ giới hạn ở phạm vi những tác
12


phẩm tiêu biểu nhất của những tác giả có những đóng góp cụ thể trong hoạt
động nghiên cứu văn học giai đoạn này.
4.3. Giới thuyết một số khái niệm
4.3.1. Khái niệm nghiên cứu văn học
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: Nghiên cứu văn học còn gọi là khoa
văn học hoặc khoa học về văn học, là khoa học nghiên cứu các quy luật và
hiện tượng trong sự tồn tại và phát triển của văn học. Từ điển văn học (Bộ
mới - xuất bản năm 2004) định nghĩa: Nghiên cứu văn học là một chuyên
ngành khoa học xã hội và nhân văn mà đối tượng nghiên cứu là nghệ thuật
ngôn từ (văn học).
Nghiên cứu văn học, theo truyền thống, bao gồm ba bộ môn chính: Lý
luận văn học, Lịch sử văn học, Phê bình văn học. Trong đó, Lý luận văn học
nghiên cứu những quy luật chung của cấu trúc và sự phát triển văn học; Lịch
sử văn học (còn gọi là văn học sử) lấy đối tượng nghiên cứu là văn học quá

khứ, khảo sát nó như một quá trình, hoặc khảo sát một trong số các thời đoạn
của quá trình đó; Phê bình văn học chú ý đến trạng thái hiện tại của văn học
đương thời, nó cũng chú ý lý giải văn học quá khứ từ quan điểm những vấn
đề xã hội và nghệ thuật hiện thời. Ở trình độ phát triển cao và tính chuyên
môn sâu, nghiên cứu văn học là tên gọi chung cho nhiều bộ môn nghiên cứu
cụ thể, tương đối độc lập, tiếp cận cùng một đối tượng nghiên cứu là văn học
từ những góc độ khác nhau.
Căn cứ vào những nội hàm khái niệm vừa nêu, chúng ta thấy rằng phê
bình văn học và nghiên cứu văn học là hai bộ phận có mối quan hệ gần gũi
nhưng là hai bộ phận khác nhau. Phê bình văn học có tính chất khen chê
những tác phẩm mang tính thời sự, kịp thời; trong khi nghiên cứu văn học
nhìn một cách toàn diện, thấy được bản chất bên trong và ngoài của đối tượng
thường là đã ổn định. Từ phê bình văn học chuyển sang nghiên cứu văn học
13


chỉ là một bước đơn giản. Chẳng hạn: Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam,
Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại, nghiên cứu về những nhà văn, nhà thơ
đương thời vừa có chất phê bình nhưng giá trị nghiên cứu vẫn rõ nét vì chất
khái quát của người viết. Nghiên cứu văn học và phê bình văn học đều phải
lấy lý luận làm nền. Sự phát triển mạnh mẽ của nghiên cứu nằm chung trong
hệ thống nghiên cứu, lý luận, phê bình chứng tỏ nền văn học dân tộc đã phát
triển tới mức toàn diện.
Trên cơ sở tích hợp và tiếp biến những khái niệm nghiên cứu văn học
trong các công trình đã nêu trên, chúng tôi quan niệm: hoạt động nghiên cứu
văn học là quá trình xem xét, tìm hiểu, đánh giá một cách hệ thống, toàn diện
các tác gia, tác phẩm, hiện tượng văn học quá khứ hoặc đương thời đã có độ
lùi thời gian nhất định (kể cả văn học trong nước và nước ngoài).
4.3.2. Khái niệm “Quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn
học”

Đến đầu thế kỷ XX, hiện đại hóa văn học đã trở thành một yêu cầu tất
yếu của lịch sử văn học Việt Nam. Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn
hóa, giáo dục … lúc này đã hội đủ các yếu tố nội sinh và ngoại nhập, tạo nên
các nhân tố thúc đẩy văn học phát triển theo hướng hiện đại hóa.
Nói đến văn học hiện đại là nói đến văn học phát triển trong môi trường
kinh tế tư bản chủ nghĩa, có sự hình thành giai cấp tư sản, giai cấp vô sản ….
Như vậy, khái niệm hiện đại hóa xuất hiện và được sử dụng khi con người
bước sang thời kỳ chủ nghĩa tư bản và ở mỗi lĩnh vực nó mang một nội hàm
khái niệm khác nhau. Theo nhà nghiên cứu Lê Ngọc Trà: Hiện đại hóa trong
chừng mực nhất định, nó đồng nghĩa với khái niệm phương Tây hóa, là quá
trình thu nhận những ảnh hưởng của văn học phương Tây để có những đặc
điểm của văn học phương Tây [192, tr.40].
Khái niệm hiện đại hóa văn học ở đây được sử dụng theo nghĩa phân
14


biệt với khái niệm văn học trung đại. Đó là quá trình chuyển từ loại hình văn
học cũ sang loại hình văn học mới hiện đại hơn, nghĩa là, khi mà nền văn học
phong kiến không còn thích ứng nữa thì yêu cầu của xã hội là phải đổi mới để
thực hiện chức năng phản ánh hiện thực một cách đầy đủ và hiệu quả hơn.
Văn học hiện đại hóa là văn học đã thoát khỏi hệ thống thi pháp của văn học
trung đại để xác định một hệ thống thi pháp mới, thi pháp văn học hiện đại
nhằm đáp ứng yêu cầu phản ánh xã hội mới và đáp ứng thị hiếu mới của công
chúng thời điểm ấy.
Như vậy, hiện đại hóa là quá trình tất yếu của một nền văn học. “Nó
xuất phát từ nhu cầu sáng tạo nội tại của văn học, từ tác động của hoàn cảnh
xã hội, từ đòi hỏi của công chúng và từ kết quả của sự giao lưu văn hóa giữa
các quốc gia, các dân tộc” [192, tr.40].
Quá trình hiện đại hóa của văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến
1945 tất nhiên không phải một sớm một chiều mà nó là cả một quá trình diễn

ra liên tục không ngừng. Ở giai đoạn ba mươi năm đầu thế kỷ (từ 1900 đến
1930) là bước chuẩn bị cho sự chuyển mình của văn học, trong đó mười năm
cuối của giai đoạn này, công cuộc hiện đại hóa văn học đã đạt được một số
thành tựu đáng ghi nhận. Giai đoạn từ 1930 đến 1945, quá trình hiện đại hóa
nền văn học được đẩy lên một bước mới với nhiều cuộc cách tân văn học sâu
sắc và toàn diện, đặc biệt là sự ra đời các thể loại văn học mới. Đến đây, sự
đổi mới đã thể hiện một cách toàn diện, triệt để. Nền văn học Việt Nam lúc
này, nhìn tổng thể, đã mang tính hiện đại từ nội dung đến hình thức, không
còn lạc điệu trong văn học của thế giới hiện đại.
Đặt vào bối cảnh chung của quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam
giai đoạn này, theo chúng tôi: hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học là
sự thay đổi về tư duy của các nhà nghiên cứu để từ đó có sự đổi mới trong
cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu cũng như phương pháp nghiên cứu nhằm
15


đánh giá đối tượng một cách khách quan, khoa học và toàn diện. Đó là một
quá trình diễn ra liên tục, không ngừng, khiến văn học nói chung và hoạt động
nghiên cứu văn học nói riêng dần dần mang những đặc điểm và tính chất
riêng của văn học đương thời so với văn học thời trung đại.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Đây là đề tài nghiên cứu một giai đoạn trong lịch sử nghiên cứu văn học
Việt Nam, nhằm tổng kết và đánh giá những thành tựu và hạn chế của công
cuộc hiện đại hoá hoạt động nghiên cứu văn học, do vậy, phương pháp chủ
yếu được sử dụng trong luận án này là phương pháp nghiên cứu văn học sử.
Sử dụng phương pháp này đòi hỏi người thực hiện phải đặt đối tượng nghiên
cứu trong mối quan hệ với môi trường văn hóa, xã hội, lịch sử giai đoạn nửa
đầu thế kỷ XX, đồng thời phải xem xét và khảo sát chúng trong sự vận động
chung của văn học Việt Nam trong thời điểm nghiên cứu.
5.2. Ngoài phương pháp chủ yếu nói trên, chúng tôi đã sử dụng các phương

pháp khác như sau:
- Phương pháp hệ thống loại hình được dùng để hệ thống hóa và phân
loại các công trình nghiên cứu, từ đó xác định vị trí và ý nghĩa của các công
trình nghiên cứu. Qua đó, có thể phân ra các xu hướng, trường phái để đánh
giá những đóng góp của chúng về mặt lý thuyết và phương pháp.
- Phương pháp lịch sử loại hình: phương pháp này cho phép chúng tôi
nghiên cứu so sánh các đối tượng cùng loại trong lịch đại và đồng đại để thấy
được tính hiện đại của chúng.
Đồng thời phối hợp nhiều thao tác như: phân tích, tổng hợp, phân loại…
6. Đóng góp của luận án: hoàn thành đề tài, chúng tôi dự kiến sẽ có những
đóng góp như sau:

16


6.1. Trình bày một bức tranh tổng thể về hoạt động nghiên cứu văn học Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX, với những điểm nhấn về tiến trình hiện đại hoá hoạt
động này.
6.2. Đánh giá thành tựu và hạn chế của công tác nghiên cứu văn học Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX; rút ra được những kinh nghiệm cần thiết về phương
pháp đổi mới nghiên cứu văn học; đóng góp và gợi ý cho việc soạn thảo lịch
sử văn học Việt Nam hiện đại.
6.3. Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo giảng dạy về lĩnh
vực nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
7. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận cũng như Danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận án gồm ba chương:
Chương 1- Những tiền đề cơ bản của quá trình hiện đại hóa hoạt
động nghiên cứu văn học Việt Nam
Chương 2- Những chặng đường phát triển của hoạt động nghiên

cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX
Chương 3- Những đổi mới về phương pháp nghiên cứu

17


NỘI DUNG
Chương 1 - NHỮNG TIỀN ĐỀ CƠ BẢN CỦA QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA
HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC VIỆT NAM

1.1. Những tiền đề lịch sử - xã hội
1.1.1. Quá trình xâm lăng của thực dân Pháp và những chuyển biến về
thể chế chính trị
1.1.1.1. Năm 1858, thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên ở Đà Nẵng, báo
hiệu cuộc xâm lược chính thức nước ta. Tính từ khi đồn Kỳ Hòa thất thủ
(1861), Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông (1862) rồi chiếm cả sáu tỉnh Nam Kỳ
(1867), cho đến hòa ước Patenôtre (1884) thì Việt Nam hoàn toàn mất hết độc
lập chủ quyền. Từ đó đã dẫn đến nhiều chuyển biến cực kỳ quan trọng trong
xã hội: nước Việt Nam phong kiến nông nghiệp trở thành nước thuộc địa nửa
phong kiến với hai tầng áp bức: thực dân Pháp và vua quan, địa chủ phong
kiến. Chính biến cố trọng đại này đã làm biến đổi sâu xa mọi phương diện,
trong đó có văn học nghệ thuật, của đất nước ta.
Ngay sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhân dân Nam Kỳ đã
không ngừng đứng lên chống Pháp, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa của
Trương Định, Hồ Huân Nghiệp, Nguyễn Hữu Huân, Võ Duy Dương, Nguyễn
Trung Trực… Trong hoàn cảnh bấy giờ, tuyệt đại đa số nhân dân không hợp
tác với chính quyền địch. Có nhiều nơi, người dân tự tay đốt nhà cửa, vườn
tược. Những người không có điều kiện đi theo nghĩa quân thì họ cũng “tị địa”
ra khỏi “đất quỷ” (vùng đất bị Pháp chiếm - Dương Thu Thủy).
Tuy nhiên, các phong trào kháng Pháp lần lượt đi vào bế tắc, thất bại.

Năm 1896, với sự tuẫn tiết của Phan Đình Phùng, phong trào chống Pháp
dưới lá cờ Cần Vương rầm rộ suốt mấy mươi năm nổ ra ở hầu hết các tỉnh đã
chấm dứt. Như vậy đến lúc này, về căn bản, thực dân Pháp đã hoàn thành
công cuộc “bình định” Việt Nam về mặt quân sự, và trên cơ sở đó, họ đã có
18


thể bắt tay vào khai thác thuộc địa Việt Nam nói riêng cũng như Đông Dương
nói chung.
Chính sách khai thác thuộc địa về kinh tế được thực hiện một cách triệt
để như độc chiếm thị trường, mua rẻ nông phẩm; độc quyền ngoại thương và
các ngành kinh doanh quan trọng (khai mỏ, giao thông, làm muối, nấu rượu,
thuốc phiện,…). Độc quyền ngân hàng đầu tư vào các ngành có lợi cho việc
vơ vét tài nguyên, hàng hóa để xuất khẩu.
Với mục đích biến Việt Nam trở thành một bộ phận của “Pháp quốc hải
ngoại”, thực dân Pháp đã đầu tư với tốc độ nhanh, qui mô lớn vào các ngành
kinh tế ở Việt Nam. Theo thống kê: chỉ trong vòng 6 năm (1924 - 1929), số
vốn đầu tư vào Đông Dương, chủ yếu là vào Việt Nam, lên khoảng 4 tỷ
phrăng (Lịch sử 12 - Nhà xuất bản Giáo dục năm 2008). Trong đó, vốn đầu tư
vào nông nghiệp, chủ yếu là cho đồn điền cao su. Diện tích trồng cao su được
mở rộng, nhiều đồn điền cao su xuất hiện như: đồn điền cao su Cam Tiêm,
đồn điền cao su Phú Riềng... Pháp còn mở rộng một số ngành công nghiệp
như: dệt, muối, xay sát… Các nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà máy cưa Bến
Thủy … lần lượt ra đời. Nhà máy dệt Nam Định được xây dựng từ những
năm cuối thế kỷ XIX nay được mở rộng, nâng cấp để trở thành một trung tâm
dệt nổi tiếng trên toàn quốc với một tổ hợp nhà máy khép kín từ khâu đầu đến
khâu cuối. Tư bản Pháp rất coi trọng đến việc khai thác mỏ, trước hết là than.
Công ty than Hòn Gai thành lập năm 1888, một năm sau tổng sản lượng than
ở Đông Dương đã lên tới 260.000 tấn. Từ năm 1890 đến 1904 các công trình
khai thác than càng được đẩy mạnh. Ngoài than, các cơ sở khai thác thiếc ở

Tĩnh Túc (Cao Bằng), bạc ở Ngân Sơn (Bắc Cạn), vàng ở Bồng Miêu (Quảng
Nam)… đều được bổ sung thêm vốn, nhân công và đẩy mạnh tiến độ khai
thác. Giao thông vận tải, đã được thực dân Pháp đầu tư xây dựng ngay từ
đầu, nay được tiếp tục đầu tư vốn và kỹ thuật. Ngoài các tuyến đường sắt ở
19


miền Nam, thực dân Pháp tiếp tục xây dựng các tuyến đường sắt như Vinh Đông Hà, Đồng Đăng - Na Sầm. Đường bộ cũng tiếp tục được xây dựng. Nếu
như đường sắt, đường bộ có vị trí quan trọng trong kinh tế đối nội, thì đường
thủy đóng vai trò chủ đạo trong kinh tế đối ngoại. Vì thế, cùng với các hải
cảng đã xây dựng trong đợt khai thác thuộc địa lần thứ nhất như cảng Sài
Gòn, Hải Phòng, Đà Nẵng, thực dân Pháp tiếp tục cho xây dựng các hải cảng
mới như Hòn Gai, Bến Thủy... Mạng lưới vận tải đường sông vùng châu thổ
sông Hồng và sông Cửu Long cũng được khai thác triệt để.
Bên cạnh đó, thực dân Pháp còn lợi dụng quyền thống trị về chính trị để
duy trì bộ máy quan liêu, cường hào và những luật lệ của chế độ phong kiến
để ra sức chiếm đoạt ruộng đất, tăng cường bóc lột sưu thuế, sưu dịch, làm
phá sản nông dân và thợ thủ công, tạo ra nguồn nhân công rẻ mạt để thực hiện
công cuộc khai thác tại thuộc địa và xuất khẩu lao động sang Pháp. Kết quả
của các chính sách ấy là nền kinh tế cổ xưa bị phân giải, lưu thông hàng hóa
phát triển, nước ta bị kéo vào quỹ đạo chủ nghĩa tư bản. Thực dân Pháp biến
Việt Nam từ một nước đang theo chế độ “quân chủ” thành một nước theo chế
độ “thực dân nửa phong kiến”.
1.1.1.2. Sau khi đặt xong bộ máy chính quyền ở Việt Nam, thực dân
Pháp bắt đầu thực hiện âm mưu và chính sách Pháp hóa đối với dân tộc ta.
Với chính sách chia để trị, thực dân Pháp chia Việt Nam ra làm ba kỳ riêng
biệt (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ). Mỗi kỳ có một chính sách luật lệ riêng,
trong đó Nam Kỳ trở thành xứ thuộc Pháp với những nét riêng về chính trị,
kinh tế, xã hội rộng, thoáng hơn so với Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Pháp tăng cường
tuyển mộ lính và khai thác kinh tế thuộc địa, lập nhiều đồn điền ở Nam Bộ,

xây dựng cảng Sài Gòn, mở đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho, xây cầu trên
sông Vàm Cỏ, lập nhiều công xưởng như đóng tàu, nhà máy xay lúa ở Sài
Gòn, Chợ Lớn…. Những cơ sở kinh tế ban đầu này khiến nền kinh tế Nam Kỳ
20


phát triển mạnh mẽ, tạo độ chênh lớn giữa ba miền Bắc - Trung - Nam.
Cùng với những chính sách về kinh tế, thực dân Pháp còn tiến hành
nhiều chủ trương và biện pháp chính trị vừa mang tính chất cải lương vừa thể
hiện sự giả dối bịp bợm, nhằm mục đích củng cố quyền vị thống trị của
chúng. Chẳng hạn: thành lập các Viện dân biểu Bắc Kỳ, Trung Kỳ. Các
phòng thương mại và canh nông của những thành phố lớn được mở rộng cho
người Việt tham gia. Năm 1928, thực dân Pháp lập ra Đại hội đồng Kinh
tế Tài chính Đông Dương với tư cách là cơ quan tư vấn về vấn đề kinh tế, tài
chính trong Liên bang Đông Dương. Ở khu vực nông thôn, thực dân Pháp tiến
hành "cải lương hương chính” nhằm từng bước can thiệp trực tiếp vào công
việc nội bộ của làng xã, loại bỏ dần tính chất tự trị của nó. Mặc dù, trên
nguyên tắc, công cuộc “cải lương hương chính” vẫn chấp nhận cơ chế quản lý
làng xã cổ truyền, nhưng trong một chừng mực nào đó thực dân Pháp đã đạt
được mục tiêu can thiệp trực tiếp vào công việc làng xã bằng cách kiểm soát
nhân sự, tài chính của bộ máy làng xã. Song song đó, chúng đẩy mạnh chính
sách văn hóa ngu dân và tư tưởng nô dịch đối với quần chúng nhân dân.
Chúng mở nhiều nhà tù hơn trường học, chúng bắt học sinh từ 18 tuổi trở lên
ở các trường tư thục phải đóng thuế thân để hạn chế việc học tập của con em
tầng lớp nghèo. Chính quyền thực dân cấm nhân dân ta đọc và lưu hành
những tác phẩm có nội dung, tư tưởng tiến bộ. Trước thế chiến thứ II, do
phong trào đấu tranh của quần chúng, chế độ kiểm duyệt của thực dân Pháp
có lúc được nới lỏng, nhưng từ khi đại chiến thế giới lần thứ II sắp bùng nổ,
lệnh kiểm duyệt của chúng trở nên gắt gao hơn. Mặt khác, chúng cho du nhập
những sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy của phương Tây vào Việt Nam.

Chúng lại không ngừng rêu rao quan điểm: thực dân Pháp sang Việt Nam với
sứ mệnh đem ngọn đuốc văn minh của nước mẹ Đại Pháp sang truyền bá cho
nhân dân Việt Nam. Và để đạt được mục đích, chúng chủ trương mị dân như:
21


×