Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Chức năng giáo dục gia đình ở nước ta hiện nay¬

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.17 KB, 25 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọ đề tài
“Gia đình là môi trường đầu tiên trong quá trình xã hội hoá của mỗi con
người. Chính thông qua gia đình, các thành viên lĩnh hội được các giá trị cơ bản
của cuộc sống, chuẩn bị những hành trang để hoà nhập vào cuộc sống cộng
đồng. Qua gia đình , mỗingười học hỏi được các chuẩn mực, giá trị xã hội đã
thống nhất ...Trong gia đình, cha mẹ giữ một vai trò không ai có thể thay thế
đựơc trong việc giáo dục con cái. Cuộc sống của cha mẹ chính là trường học đầu
tiên của con trẻ về các giá trị của cuộc sống gia đình.
Thông qua giáo dục trong gia đình, mỗi con người từ khi còn nhỏ đã biết
điều chỉnh mình trong các mối quan hệ. Có thể nói , những mầm mống ban đầu
của nhân cách, những sở thích , những suy nghĩ về cuộc sống đề được hình
thành ngay trong cuộc sống gia đình.
Song thực tế hiện nay cho thấy, vấn đề gia đình nói chung và giáo dục gia
đình nói riêng đang bị tác động của cơ chế thị trường với cả mặt tích cực và cả
những yếu tố còn hạn chế . Thực tế đó đã làm cho vấn đề gia đình cũng nh giáo
dục gia đình trở thành vấn đề cấp bách và dã thu hút sự quan tâm chú ý của các
tổ chức chính trị- xã hội, đoàn thể và các cá nhân...
Là sinh viên khối nghành Khoa học xã hội và nhân văn, bản thân tôi ý thức
sâu sắc về vai trò của gia đình cũng nh chức năng giáo dục của gia đình, nhất là
trong bối cảnh hiện nay đất nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh Công nghiệp
hoá- Hiện đại hoá, nhằm xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ lý do trên đây, tác giả quyết định lựa chọn đề tài:“ Chức năng
giáo dục gia đình ở nước ta hiện nay ’’làm báo cáo khoa học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu.
Do xu thế phát triển của thời đại , do thực tiễn cuộc sống, vấn đề gia đình
và giáo dục gia đình đã và ngày càng được nhiều nhà nghiên cứu, các tổ chức
quốc tế quan tâm, đặc biệt là UNFA, UNETCO... Ở Việt Nam, giáo dục đời
sống gia đình đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực
như: Xã hôi học, Tâm lí học, Chủ nghĩa xã hội khoa học... Đã có nhiều hội thảo



khoa học quy mô toàn cầu và khu vực được tổ chức và đã có nhiều công trình
nghiên cứu về gia đình nói nói chung cũng nh chức năng giáo dục gia đình nói
riêng . Đặc biệt giáo dục đời sống gia đình đã được đa vào giảng dạy ở các
trường phổ thông, các trường đại học- cao đẳng và chuyển tải trên các phơng
tiện thông tin đại chúng...nhằm nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi của
mọingười trong vấn đề giáo dục gia đình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
- Làm nổi bật vai trò của gia đình qua chức năng giáo dục, ảnh hưởng của
giáo dục tới sự hình thành và phát triển nhân cách cá nhân.
- Làm nổi bật vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục con cái.
- Phân tích sự biến đổi chức năng giáo dục gia đình trong sự biến đổi

kinh

tế, văn hoá- xã hội của thời kỳ đổi mới .
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của chức năng giáo dục
trong gia đình.
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu.
a. Cơ sở lý luận.
- Quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Gia đình và giáo dục trong gia đình
b. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích tài liệu.
- Phương pháp so sánh đối chiếu.
- Phương pháp điều tra.


NỘI DUNG
Chơng 1: GIA ĐÌNH, GIÁO DỤC GIA ĐÌNH

1.1 Gia đình
Cho đến nay, đã có nhiều cách định nghĩa khác nhau về gia đình .Mỗi
nghành khoa học khác nhau lại có cách định nghĩa khác nhau về gia đình.
Dới góc độ Triết học, quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng: Gia
đình chỉ là mối quan hệ giữa vợ chồng, con cái...( viết trong Nguồn gốc của gia
đình, của chế độ hữu và của nhà nước.)
Dới góc độ Xã hội học, một nhà nghiên cứungười Nga là:T.A.Phana- xeva
lại cho rằng: ‘ Gia đình là một nhóm nhỏ xã hội liên kết với nhau bởi một ngân
sách chung, bằng một chỗ ở và bằng mối quan hệ huyết thống”.
“Gia đình là một nhóm nhỏ xã hội mà các thành viên bố mẹ , con cái của
một vài thế hệ. Các thành viên này có mối quan hệ ràng buộc về mặt vật chất và
tinh thần theo những nguyên tắc, mục đích sống nh nhau về các vấn đề chủ yếu
trong sinh hoạt như: văn hoá, kinh tế, tình cảm, lao động vui chơi, học tập, sinhư
con và dạy con.’’
Với tư cách là một tổ chức quốc tế phụ trách các vấn đề chung của thế giới,
gia đình được tổ chức UNESCO của Liên hợp quốc coi là một giá trị vô cùng
quí báu của nhân loại . Theo UNESCO thì : gia đình là một nhóm xã hội gồm
hai hay nhiềungười , gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết
thống hoặc quan hệ nhận con nuôi nhằm thoả mãn nhu cầu xã hội và thoả mãn
nhu cầu xã hội và tái sản xuất theo cả nghĩa thể xác và tinh thần. Gia đình là nơi
đầu tiên đặt nền móng cho sự phát triển nhân cách của trẻ em và có ảnh hưởng
lâu dài suốt cuộc đời cá nhân.
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng đã có nhiều cách định nghĩa về gia
đình :
PTS Ngô Công Hoàn viết trong Tâm lí học gia đình nh sau:” Gia đình là
một nhóm nhỏ xã hội, các thành viên có mối quan hệ gắn bó về hôn nhân hoặc
huyết thống, tâm sinh lý, có chung các giá trị vật chất, tinh thần ổn định trong


các thời diểm nhất định .’’(1993). ‘ Gia đình là một đơn vị , một nhóm nhỏ nhất

của xã hội với số lợng thành viên ít nhất là hai người: vợ và chồng, sau đó sinh
sôi , này nở thêm con cái trong đó mối quan hệ vợ chồng là giờng cột’'.
Giáo sư Trần Trọng Thuỷ lại có thêm một quan điểm nữa về gia đình nh
sau:” Gia đình là một nhóm nhỏ xã hội, liên kết với nhau bởi những mối quan hệ
hôn nhân, huyết thống hay nhận con nuôi, tạo thành một hệ thống riêng biệt , tác
động qua lại và giao tiếp lẫn nhau qua vai trò xã hội của từngngười: là chồng, là
vợ, là cha, là mẹ, là con trai, là con gái, anh em, tạo thành một nền văn hoá
chung’’. Như vậy, theo Giáo sư Trần Trọng Thuỷ, gia đình còn là một cộng
đồng văn hoá thu nhỏ trong nền văn hoá của dân tộc- đó là cái làm nên gia
phong, gia lễ của gia đình.
Các khái niệm trên đều tìm cách đa ra một tư cách hiểu chung nhất về gia
đình, dù có khác nhau về hình thức ngôn từ , ta thấy gữa chúng vẫn có những
điểm chung, đó là:
- Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù của loàingười,một đơn vị xã hội cơ
bản , là một tế bào của xã hội. Nói cách khác, gia đình chính là một xã hội vi mô
trong cái xã hội vĩ mô- cộng đồng, dân tộc. Gia đình chính là cái gốc để tạo nên
xã hội; cái nôI để hình thành và hoàn thiện con người.
- Gia đình nh nó vốn có được liên kết trong mối quan hệ huyết thống giữa
các thế hệ, các thành viên; với những nét tương đồng về tình cảm..
- Gia đình là tế bào của cơ thể xã hội. Gia đình hạnh phúc sẽ là nguồn dinh dỡng cho sự ổn định của cộng đồng, cho sự phát triển của xã hội,
Tóm lại, gia đình là một nhóm nhỏ, được liên kết bởi mối quan hệ vợ –
chồng ( hôn nhân) theo quy luật xã hội trước tiên, sau đó mới là quan hệ theo
tính dục tự nhiên.
2.2 Giáo dục gia đình.
Giáo dục là quá trình tác động có mục đích,có kế hoạch của nhà giáo dục đến
thế hệ trẻ nhằm đạt được mục đích đã đề ra. Dới góc độ Xã hội học, giáo dục là
quá trình giáo hoá con người ,tức là quá trình giáo hoá, dạy dỗ một động vật cao
cấp thành một con người mang màu sắc xã hội.



Theo Tâm lí học,giáo dục là một quá trình hình thành nhân cách con người hay
còn gọi là quá trình nội tâm hoá và ngoại tâm hoá của con người trong hoạt
động- lao động, vui chơi, giao tiếp và học tập
Giáo dục là một quá trình bao gồm nhiều khâu, nhiều mắt xích, tác động một tư
cách liên tục, qua lại một tư cách biện chứng giữa chủ thể giáo dụ và khách thể
giáo dục trong một thể thống nhất.Về cơ bản quá trình giáo dục được chia thành
ba khâu: Xây dựng nhận thức, xây dựng tình cảm và rèn luyện các hành vi hoạt
độngthực tiễn . Sự kết hợp giữa các khâu này trong quá trình giáo dục có thể xảy
ra theo những tiến trình sau đay:
+ Nhận thức – tình cảm- hành động: đây là tiến trình thường áp dụng cho
công tác giáo dục, tức là quá trình đI từ nhận thức, hiểu biết đến co tình cảm
yêu ghét và trên cơ sở đó hành động . Đó là quy luật hành động của con người.
Mọi hành động phải được chỉ huy bằng sự suy nghĩ mới sâu sắc, đúng đắn.
+ Hành động – nhận thức – tình cảm :Tiến trình này thường áp dụng đối với
lứa tuổi còn quá bé, cha đủ khả năng nhận thức, tiếp thu các chuẩn mực đạo đức
xã hội. Phương pháp này bắt đầu bằng việc trẻ em hành động, làm theo người
lớn, sau đó dần dần thành thói quen và tới một độ tuổi nhất định mới hiểu được
điềi hay, lẽ phải , điều đúng sai, trên cơ sở dó hình thành nên tình cảm: yêu cái
tốt, cái đẹp, ghét cái xấu cái ác ...
+Tình cảm – hành động – nhận thức :Qúa trình nay thường áp dụng đối với
những con người lạc hậu, nặng tình nhẹ lý. Phương pháp này làm cho con người
ta từ sự yêu ghét mà hành động và cuối cùng mới nhận thức ra việc đó, nhận
thúc việc đó là cần phải làm hoặc không nên làm.
Đối với mỗi đối tượng khác nhau, có thể vận dung từng tiến trình giáo dục khác
nhau sao cho tiến trình giáo dục đạt được kết quả tốt nhát .
Giáo dục gia đình là hình thức giáo dục đầu tiên , liên tục và suốt đời mỗi
con người . Giáo dục gia đình ấn định vào các chuẩn mực và giá trị xã hội ( xã
hội hoá ), cho việc phát triển năng lực hành vi cá nhân ( nhân cách hoá ) và sự
truyền thụ các hệ thống biểu tợng ( tiếp thu văn hoá ). Giáo dục gia đình có các
nội dung sau: giáo dục đạo đức, giáo dục văn hoá , giáo dục hớng nghiệp, giáo



dục sức khoẻ , giáo dục giới tính ... nó là một bộ phận của giáo dục xã hội và chỉ
diễn ra trong khuôn khổ quan hệ các gia đình.
Về cơ bản, giáo dục gia đình là thống nhất với giáo dục xã hội ở quan điểm:
xây dựng và hình thành mẫungười lý tởng vừa mang phong cách hiện đại, vừa
đậm đà tính truyền thống.
Giáo dục gia đình mang tinh đa dạng vì nó phối hợp nhiều mặt: từ kiến thức,
tư tưởng đến đạo đức và quan hệ , nhưng đông thời nó lại thể hiện tính cá biệt ở
đối tượng giáo dục là những đứa trẻ không ai giống ai. Giáo dục gia đình xuất
phát từ tình cảm và các mô hình hành vi của người lớn để trở thành khuôn mẫu
chuẩn mực để trẻ em học theo. Trong gia đình có một hệ thống các phơng pháp
giáo dục, vừa kết hợp mềm dẻo giữa phương pháp truyền thống và hiện đại, gia
uy quyền và tình thơng ; giữa cỡng ép bắt buộc với bao dung tự do... Tóm lại,
giáo dục gia đình là một loại hình giáo dục mang tính hệ thống, có mục đích của
những người lớn đối với những người ít tuổi hơn trong gia đình.
Giáo dục gia đình bao gồm nhiều khâu, nhiều mắt xích nhằm xây dựng,
chuẩn bị cho thế hệ trẻ những hành trang cần thiết khi bước vào cuộc sống như:
học vấn , nhân cách , đạo đức...giúp cho cá nhân đứng vững và khẳng định được
địa vị của bản thân trong xã hội.
Vai trò của gia đình nói chung và giáo dục gia đình nói riêng trong xã hội là
rất quan trọng vì nó anh hưởng tới các thiết chế khác như: đoàn thể, nhà trường,
các tổ chức xã hội ...Gia đình là nơi đặt nền móng cho sự phát triển nhân các
của trẻ và có ảnh hưởng lâu dài suốt cuộc đời cá nhân. Trong gia đình, cha mẹ
giữ một vị trí quan trọng trong việc giáo dục con cái. Vai trò của người cha ảnh
hưởng đến việc hình thành nhân cách, chí hướng của con cái đặc biệt là con
trai.người mẹ có vai rò giáo dục tình cảm và sự khéo léo, đồng thời là tấm g ơng
sáng và đạo đức “ Công- Dung – Ngôn – Hạnh” để con gái hoc tập, tiếp thu
những vốn sống, kinh nghiệm , biết là việc cho cá nhân và xã hội , đặc biệt là có
ảnh hưởng đối với con gái . Ngược lại con cái cũng có vai trò tiếp thu những

vốn sống , cách ứng xử , kinh nghiệm quý báu của cha mẹ để lại , cố gắng học
hỏi, tiếp thu những kiến thức từ gia đình, phải biết kính trên nhường dưới ;


trách nhiệm của người con trước hết là hiếu thảo với cha mẹ . Nó thể hiện thái
độ biết ơn đối với những công lao to lớn của cha mẹ . Đó là thứ tình cảm thiêng
liêng . Để đạt được sự bền vững , gia đình phải thực hiện các chức năng của nó .
Chức năng của gia đình là sự đóng góp của nó vào sự tồn tại của hệ thống xã hội
, có nghĩa là: gia đình được xây dựng, tồn tại và phát triển chính là do xứ mệnh
đảm đương những chức năng xã hội ,tự nhiên trao cho mà không một thiết chế
xã hội nào khác có thể thay thế được.
Từ việc phân tích này, ta có thể rút ra những đặc trng trong chức năng giáo
dục của gia đình nh sau:
- Đợc tiến hành đối với đứa trẻ ngay từ khi mới chào đời , với nhiều hình
thức và nội dung phong phú .
- Được tiến hành trong quan hệ ruột thịt, đầy tình cảm thân thơng , trước
hết là tình cảm sâu nặng của người mẹ .
- Được diễn ra trong sự tác động qua lại của các thành viên trong gia đình ,
trong bầu không khí ấm cúng .
- Giáo dục trong gia đình tác động lên cá nhân một tư cách nhẹ nhàng, ổn
định . Sự tác động này diễn ra theo hai hớng: nếu trong gia đình hoà
thuận, lành mạnh sẽ có khả năng điều chỉnh bản năng tự nhiên của đứa
trẻ ; ngược lai trong các gia đình lục đục, không lành mạnh, không có văn
hoá sẽ biến đứa trẻ thànhư con người không ổn định, những khiếm khuyết
là đương nhiên .


Chương2:

CHA MẸ –NGƯỜI GIỮ VỊ TRÍ TRUNG TÂM

TRONG GIA ĐÌNH
“ Công cha như núi thái sơn

Nghĩa mẹ nh nước trong nguồn chảy ra”
Sự trưởng thành của mỗi cá nhân phải kể tới nền tảng gia đình và cái làm
nên nền tảng gia đình, trước đó phải là cha mẹ. Câu tục ngữ từ bao đời nay giản
dị , mộc mạc vậy thôi song đã nói lên được công lao trời biển của cha mẹ đối
với con cái.
Nói đến trách nhiệm làm cha, làm mẹ là nói đến thiên chức thiêng liêng, cao
cả nhất của loài người , của mỗi con người. Khi sinh con phải có trách nhiệm
nuôi dỡng, dạy dỗ con cái trưởng thành. Đồng thời, ngoài thiên chức ấy, cha mẹ
còn có trách nhiệm nặng nề của một công dân đối với đất nước, dòng họ, gia
đình và với chính bản thân mình .
2.1. Vai trò của người mẹ.
Sau chín tháng mòi ngày mang nặng đẻ đau đứa bé cất tiếng khóc chào đời,
bắt đầu hoà mình vào cuộc sống của gia đình gia đinh mà truớc tiên là người mẹ
là người mang lại tình thương cho đúa trẻ.
Sự thơng yêu đó được chuyển sang đứa trẻ bằng bế bồng, chuyển thành lời
ru sự săn sóc lo lắng cho con cái, khi cho con bú, khi cho con ngủ đến bế bồng,
đến mọi hành vi cử chỉ của sự no đói khó chiu, dễ chịu khóc hờn cời đùa. Tình
thương yêu đó vừa ân cần dịu dàng, vừa thông hiểu bằng trực giác và bàng cả
cảm giác của người mẹ.Tình thương yêu đó vừa do bẩm sinh đồng thời do học
tâp mà có. Chính vì vậy tình cảm sau này của đứa trẻ sẽ phụ thuộc rất nhiều vò
tính chất của tình mẹ con được hình thành bởi người mẹ và ảnh hưởng đó sẽ duy
trì mãi mãi trong tâm khảm người con khi đã trưởng thành.
Ở cả phương Đông và phương Tây người ta đều quan niệm: một đứa trẻ
không tự tồn tại; trẻ em không tự mình tạo dựng đựơc cuộc sống.Thế nên mới có
câu:’’trẻ cậy cha...” Trẻ em cần có cha mẹ cần môi trường xã hội để phát triển
vai trò của cha mẹ đặ biệt là của người mẹ phải mang tính chủ động.



Trong thời kỳ đầu tiên này, mọi sự tác động của gia đình đều thông qua
người mẹ mà có ảnh hưởng đối với đứa trẻ. Đứa trẻ sẽ nhận từ phía mẹ sự âu
yếm, nâng niu trìu mến và những tình cảm này sẽ ảnh hưởng rất lớn tới tính cách
cuả trẻ sau này. Nhiều công trình khoa học đẫ chứng minh rằng sự cách li giữa
mẹ và con càng sớm, càng làm cho trẻ hụt hẫng về đời sống tình cảm dễ dẫn tới
sự mất cân bằng trong đời sống tình cảm, dễ dẫn tới sự mất cân bằng trong đời
sống tinh thần của trẻ, trẻ dễ nổi nóng, thiếu tình thơng.
người mẹ không chỉ làngười đầu tiên đem lại tình thơng mà còn làngười
thầy đầu tiên của đá trẻ.
Những tiếng bi bô đầu tiên của đứa trẻ là kết quả của quá trình tiếp thu, là
sự đáp lại sự âu yếm, thơng yêu của người mẹ. Mẹ làngười dạy cho con mọi
hành vi ứng xử với các thành viên trong gia đìnhư: cô dì, chú bác, ông bà và
hàng xóm. Nhân cách và cách ứng xử của mẹ đối với con ảnh hưởng tới đời
sống tâm lý của con cái trong tơng lai.
Mặt khác,ngời mẹ cũng là một thành viên của gia đình, cách xử của người
mẹ đối với con phụ thuộc vào các mối quan hệ khác của ngơì mẹ tron vai trò g
gia đình nhất là quan hệ với chồng. Nói tóm lại, những quan hệ đầu tiên của đứa
bé bề ngoài chỉ chuyên với mẹ nhưng thực chất phần lớn lại phụ thuộc vào tất cả
các mối quan hệ nội tại của gia đình ; đứa trẻ sẽ bắt chước mẹ trong cách c xử
với mọingười sau đó mẹ sẽ dạy cho con nói, đi, ngồi, ăn uống,cùng hàng lọat
hành vi lễ độ trong sinh hoạt hành ngày với mọingười xung quanh .Vì vậy đứa
bé không chỉ bú bầu sữa sinh lý của người mẹ mà còn “ bú’’ luôn cả bầu sữa
tâm hồn trí tụê của mẹ. Cho nên dân gian mới có câu: ” phúc đức tại mẫu”, “con
h tại mẹ”, ”mẹ nào con nấy rau nào sâu nấy’’...
2.2.Vai trò của người cha.
Trong mối quan hệ về vai trò giữa vai trò của người cha vàngười mẹ ta có
thể thấy rằng vai trò của người mẹ sẽ từ đỉnh cao lúc trẻ mới sinh ra, vầ vai trò
này sẽ giảm dần cùng với sự trơng thành của trẻ, ngược lại vai trò của người
cha từ lúc rất bé nhỏ lúc trẻ mới sinh ra sẽ tăng dần khi trẻ lớn lên và đồng thời

với sự giảm vai trò của người mẹ. Tới một lúc nào đó vai trò của cha mẹ sẽ đạt


tới sự cân bằng. Vai trò của cha mẹ sẽ giảm dần cho tới khi đứa trẻ dạt mục tiêu
mong muốn là sự tự lập hoàn toàn. Lúc đó giũa cha mẹ và con cái là mối quan
hệ giữa người lớn với người lớn .
Đứa trẻ trông mong tình yêu thơng ở người mẹ, còn ở người cha, trước tiên
là uy quyền.
Tình thương yêu của người mẹ và uy quền của cha là hai trong những nền
tảng rất cần thiết cho đứa con giữ được thế cân bằng giữa “Cương” và “Nhu”.
Tuy nhiên, cha cũng có tình thương yêu và mẹ cũng có uy quyền song với tỉ lệ ít
hơn. Uy quyền và tình thương trong trường hợp này không có gì mâu thuẫn với
nhau, trái lại, chúng hoà hợp với nhau, bổ sung cho nhau và đôi khi anh hưởng
lẫn nhau.
Uy quyền không phải là chuyên chế, áp bức. Michaux – một nhà Tâm lí học
đã xác định điều đó nh sau:Hầu hết trẻ em thích được cảm thấy trên chúng có sự
bảo vệ của một thứ uy quyền, nhung chúng thích cái đó ở mức độ vừa phải và
công bằng. Vì trong thực tế cũng nh trong cuộc chơi, chúng ham thích kỷ luật
quân đội có thứ bậc. Trẻ em luôn khinh ghét những người áp chế chúng và ghét
cả những người bảo vệ yếu ớt làm cho chúng mất chỗ dựa mong muốn. Sau vai
trò quyền uy làm chỗ dựa, người cha có vai trò thứ hai là hỗ trợ người mẹ.
Trong thời kỳ đầu tiên của trẻ thơ, sự ứng xử của người cha và tác động của
sự ứng xử đó tới trẻ cũng không quan trọng hơn những thành viên khác như: ông
bà, anh chị em...Người cha có thể lộ rõ tác động của mình vào đứa bé một tư
cách gián tiếp thông qua người vợ. Chính người cha yêu thương, săn sóc và săn
sóc người vợ, làm cho người vợ hạnh phúc, an tâm...sẽ dành tình thương yêu
lành mạnh cho đứa trẻ. Ngược lại,nếu do mâu thuẫn trong gia đình, người chồng
đối xử lạnh nhạt hoặc đối xử thiếu sự yêu thương thì người vợ (người mẹ ) lúc
nào cũng lo lắng, vất vả, sẽ không dành hết tình thương cho đứa trẻ, hoặc tâm
trạng lo lắng qua biểu hiện của người mẹ sẽ tác động tới đứa trẻ. Như vậy, sự hỗ

trợ của người cha đối với người mẹ trong việc chăm sóc, giáo dục con cái có ảnh
hưởng rất lớn tới sự hình thành và phát triển nhân cách của con trẻ.


Bên cạnh vai trò gián tiếp, người cha còn có sự tác đọng trực tiếp vào con
cái để dạy dỗ con cái lên người. Thiếu vai trò này, người cha sẽ trở thành kẻ vô
thách nhiệm . Uy quyền của người cha được thể hiện rõ bằng sự can thiệp trực
tiếp, nó là yếu tố then chốt của sự hoà hợp gia đình, nhưng nó cũng đòi hỏi một
sự điều chỉnh tế nhị. Uy quyền phải được kết hợp với độ lượng, bao dung thì tác
dụng của nó đối với con trẻ sẽ đem lại hiệu quả tích cực hơn.người cha cần
mang ánh sáng của trí tụê và kinh nghiệm của mình đến với con, Có như vậy
mới tránh được những xung đột giữa cha và còn trong gia đình.
Tóm lại, người cha đóng vai trò trụ cột trong gia đình, làm nòng cốt và chỗ
dựa vững chắc cho vợ cũng như con. Vai trò của người cha được cha ông ta khái
quát trong câu tục ngữ :”Con có cha như nhà có nóc ’’, “ con không cha như nhà
mất nóc ’’. Cha vừa là sức mạnh cơ bắp, vừa là sức mạnh tinh thần cho con an
tâm vui sống, học tập... Nếu người cha nào bỏ mất vai trò này, con cái thường h
hỏng hoặc khó khăn trên đường đời.

Trong gia đình, bên cạnh vai

trò của cha mẹ, đóng góp vào sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ còn
phải kể đến vai trò của các thành viên khác, đó là:ông bà, anh chị em... Khi trẻ
bắt đầu có khả năng nhận thức, thì vốn kinh nghiệm , nhất là qua những câu
chuyện cổ tích của bà sẽ góp phần làm phong phú đời sống tinh thần của trẻ,
hình thành nên ở trẻ quan niệm về cái tốt cái đẹp; cái xấu, cái ác ...Đối với
những trẻ không được sống ở gần ông bà hoặc ông bà đã mất thì đay chính là
một thiệt thòi lớn trong quá trình hình thành nhân cách. Anh chị qua việc cung
chơi đùa với trẻ, nên cũng góp phần hình thành tính cách của trẻ. Qúa trình nô
đùa, học tập từ các anh, chị sẽ làm cho trẻ dễ hoà mình vào cộng đồng hơn.,

Như vậy, với tư cách là một cộng đồng, xã hội thu nhỏ, mỗi thành viên trong gia
đình sẽ có tác động đến quá trình xã hội hoá cá nhân (con trẻ), trong đó cha mẹ
là nền tảng của quá trình đó.



Chơng 3:

NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH VÀ GIÁO DỤC

TRONG GIA ĐÌNH
Gia đình với tư cách là một thiết chế xã hội thu nhỏ, một phạm trù lịch sử, có
tác động rất lớn tới xã hội. Đồng thời, sự biến đổi của các điều kiện kinh tế- xã
hội-văn hoá cũng tác đọng mạnh mẽ, sâu sắc tới thiết chế gia đình, Gia đình là
một hệ thống các vai trò, chức năng và ở từng thời kỳ lịch sử, mỗi nền văn hoá
mà chức năng này hay chức năng khác của gia đình trở nên quan trọng hơn.
3.1.Giáo dục gia đình trong gia đình truyền thống.
Gia đình truyền thống với nền tảng kinh tế chủ yếu là hoạt động sản xuất
nông nghiệp; hoạt động sản xuất của gia đình chủ yếu là gắn với công việc đồng
áng và các nghề thủ công, nên sinh hoạt trong gia đình đa phần là tự cấp, tự túc.
Tài sản trong gia đình nông nghiệp là tài sản chung của cả gia đình, bởi vậy mà
nền kinh tế trong gia đình khá ổn định, xã hội vì thế mà cũng ít có những biến
động, xáo trộn.
Gia đình Việt Nam truyền thống chiếm tỉ lệ khá lớn là kiểu gia đình mở
rộng- bao gồm nhiều thế hệ cùng chung sống: ba thế hệ (ông bà, cha mẹ- tam đại
đồng đường), thậm chí có tới bốn thế hệ cùng chung sống (tứ đại đồng đường).
Nền sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đòi hỏi cần nhiều lao động,
nên các gia đình thường sinh đông con, thậm chí còn tồn tại quan niệm, cho
rằng: lắm con hơn nhiều của.
Đi cùng với gia đình truyền thống là nền văn hoá nho học với tính gia trưởng

ăn sâu vào trong cung cách sinh hoạt trong các gia đình. Quyền lực trong gia
đình hoàn toàn thuộc về người chồng, người cha; các thành viên trong gia đình
suy nghĩ và hành động theo vị trí trên dưới đã được ấn định sẵn.
Những đặc điểm trên đã ảnh tói chức năng giáo dục của gia đình. Việc giáo
dục con cái được thực hiện ngay trong lòng gia đình cả về mặt đạo đức, nghề
nghiệp và cả mặt tri thức. Trong gia đình có rất đông các thành viên với những
mỗi quan hệ phức tạp (mẹ chồng nàng dâu, bà cô ông chú...) đã ảnh hưởng
không nhỏ tới chức năng giáo dục của gia đình. Cha mẹ vì sinh nhiều con nên


không có đủ điều kiện để chăm sóc, dạy bảo chu đáo đối với con cái. Ngược lại
người con phải nắm giữ đúng các vai trò của mình. Từ rất sớm , người con phải
tham gia vào các công việc của gia đình, nên tuổi thiếu niên của chúng không
kéo dài được bao lâu. Công việc thay thế các trò chơi dần già trẻ em chia tay vơí
tuổi thơ và bước vào thế giới của người trưởng thành.
Tính gia trưởng trong gia đình thể hiện ở chỗ: người chồng , người cha có uy
quyền rất lớn, họ làngười chủ của gia đình, có quyền quyết định tất cả các công
việc từ “To” tới “ Nhỏ” trong gia đình nh :sản xuất, sinhư con , dựng vợ gả
chồng cho con... Giáo dục trong gia đình theo kiểu” cha mẹ đặt đâu con ngồi
đấy”, quan hệ giữa cha mẹ và con cái thể hiện sự phục tùng tuyệt đối. Phương
pháp giáo dục là buộc phải tuân theo, phải chấp hành chứ không được tranh
luận, phân tích đúng sai. Các đối

tượng giáo dục là các cá nhân hoàn toàn phụ

thuộc, chỉ biết vâng lời . Đối với trẻ em, đường lối giáo dục đó không giúp cho
việc hình thành nhân cách độc lập mà trở thành một con người thụ động chỉ biết
vâng lời và bắt chước một tư cách mù quáng, không cần biết đến lý do, không
cần đến giả thích.
Giáo dục của cha mẹ đối với con cái trong gia đình truyền thống chịu ảnh

hưởng sâu sắc của tư tưởng:’’ Trọng nam khinh nữ”. Khi đã có con, cha mẹ đối
xử, dạy dỗ con giá khác với con trai: con trai sẽ được chăm sóc tốt hơn, được
chiều chuộng hơn và có nhiều đặc quyền đặc lợi hơn chị em gái, được dạy dỗ
nhằm vào những thăng tiến xã hội sau; trong khi đó con gái có phần“ yếu thế ”
hơn , được dạy dỗ những đức tính đảm đang, quán xuyến việc nhà, ngoan ngoãn
vâng lời, chịu nhịn ...Trong các đức tínhư: giỏi việc nhà và tính tích cực xã hội ,
thì xã hội truyền thống quan niệm rằng : giỏi việc nhà là đức tính cần thiết đối
với nữ và không cần thiết đối với nam; ngược lại tính tích cực xã hội ở nam là
cần thiết nhưng ở nữ lại không quan trọng . Chính cách quan niệm như vậy đã
phần nào thể hiện sự chậm biến đổi của các giá trị của xã hội từ thế hệ này sang
thế hệ khác và sự tái tạo lại nó trong gia đình là khá nguyên vẹn .Nguyện vọng
của cha mẹ đối với con cái cũng mang tính chất hớng ngoại đối với con trai và
hớng nội đối với con gái. Đa số cha mẹ mong muốn con trai thoát li khỏi nông


nghiệp trong khi phần lớn lại muốn co gái làm nông nghiệp. Tóm lại, trong quan
niệm về nghề nghiệp, cha mẹ thường “nhắm” cho con trai những nghề nghiệp có
uy tín hơn con giá .
Tư tưởng “Trọng nam khinh nữ”, còn được thể hiện ở chỗ: con trai được u
đãi và có nhiều cơ hội sử dụng phúc lợi gia đình hơn, đặc biệt là khi gia đình
phải lựa chọn do chỉ có khả năng thanh toán cho nhu cầu của của con trai hoặc
con gái (ví dụ: trong chuyện học hành... ) thì thường con gái phải chịu thiệt thòi.
Tóm lại, gia đình trong xã hội nông nghiệp là kiểu gia đình với nhưng thành
viên đã thấm nhuần những truyền thống của đa số.
Tuy vậy, giáo dục trong gia đình truyền thống cũng chứa đựng nhiều yếu tố
tích cực. Do sống quây quần gồm nhiều thành viên của các thế hệ, nên các thành
viên trong gia đình có sự tác động, ảnh hưởng lẫn nhau một tư cách mật thiết.
Đặc biệt trẻ em trong gia đình truyền thống được thừa hưởng những giá trị
phong phú của đời sống tinh thần( nhất là của bà của mẹ), làm nên sự phong phú
trong đời sống tinh thần của trẻ.

3.2 Gia đình và giáo dục gia đình hiện nay
Có thể nói , một xã hội với đặc trưng cơ bản là nông thôn nông
nghiệp và nông dân đã từng trải qua hàng ngàn năm tồn tại , đã bảo lưu
và truyền lại cho gia đình nói chung và giáo dục gia đình nói riêng hệ
giá trị và chuẩn mực khó phai nhạt theo thời gian năm tháng . Những giá
trị của gia đình, giáo dục gia đình trong xã hội truyền thống được kế
thừa và phát huy trong những điều kiện mới để tạo nên sắc thái của gia
đình ngày nay.
Công cuộc đổi mới được bắt đầu từ năm 1986 nhằm khắc phục những
hậu quả của khủng hoảng kinh tế- xã hội , đưa đất nước thoát khỏi cuộc
khủng hoảng, đạt được thành tựu trên các lĩnh vực... Để thực hiện quyết
tâm đó , đảng và nhà nước đã chủ chương xoá bỏ cơ chế kinh tế tập trung
, bao cấp, thay vào đó là việc phát triển kinh tế thị trường theo định
hướng xã hôị chủ nghĩa , đẩy mạnh thành một nước công nghệ phát


triển .Nằm trong sự biến đổi đó, gia đình và giáo dục gia đình có sự thay
đổi đáng kể :Gia đình như một nhóm gắn liền ,bị bung ra và cùng với
những thay đổi tích cực, cơ chế thị trường với những yếu tố tiêu cực đã
xâm nhập làm suy giảm một số chức năng của vai trò củat gia đình.
Một tư cách tổng quan, gia đình việt nam hiện nay có những đặc điểm
chính sau:
+ Về quy mô gia đình : Gia đình hạt nhân ( gồm cha mẹ và con cái )
chiếm tỉ lệ cao và ngày càng phổ biến
+ Xưa kia ở việt nam, ly hôn là hiếm thì ngày nay xảy ra ngày càng
nhiều và để lại nhiều hậu qủa nghiêm trọng.
+ Kinh tế gia đình phát triển đã góp phần nâng cao đời sống vật chất
cho các thành viên . Tuy nhiên kinh tế thị trường cũng đã làm cho sự
phân hoá về mặt kinh tế giữa các gia đình ngày càng tăng lên : Nhiều gia
đình trở nên khá giả, giàu có song bên cạnh đó cũng có nhiều gia đình

rơi vào hoàn cảnh khó khăn.
Sự tác động của kinh tế - xã hội tới giáo dục gia đình diễn ra theo
chiều hướng
Thứ nhất : Sự phát triển của kinh tế – xã hội đã tạo ra tiềm lực kinh
tế cho các gia đình.Sự hưởng thụ về vật chất khèm theo đó là tinh thần
của con người được nâng cao rõ rệt .Sự cải thiện nay được thể hiện trên
một loại chỉ tiêu :Sức khoẻ tuổi thọ của người dân được nâng cao .Hiện
nay tuổi thọ trung bình của người dân Việt Nam là 68 tuổi ,là khá cao so
với các nước trong khu vực; Hệ thống dịch vụ phụ vụ các nhu cầu vui
chơi ,giải trí phát triển rộng khắp ; Giáo dục từ phổ thông đến Đại Học
,trung học chuyên nghiệp phát triển. Hiện nay tỉ lệ dân số >95%- là một
trong số những nước có tỉ lệ dân biết chữ cao nhất ở khu vực Đông Nam
á cùng với sụ thay đổi đó, giáo dục gia đình có nhiều biến triển tốt :
Điều kiện vật chất ngày càng được cải thiện phải cha cha mẹ có điều
kiện chăm sóc con cái, đảm bảo cho sự phát triển toàn diện của con cái
cha mẹ có điều kiện không chỉ nuôi nấng giáo dưỡng, dạy bảo lễ nghĩa


mà còn đóng vai trò làm thầy cô giáo ở nhà, kèm cặp con cái cả về thời
gian lẫn nội dung học tập . Trong thời đại ngày nay mỗi gia đình thường
chỉ có một đến hai con nên có điều kiện chăm sóc nuôi dạy con cái một
tư cách toàn diện hơn họ quan tâm đặc biệt về giáo dục con cái thành
người trưởng thành.
Nếu như trước đây ,việc cho con cái đi học ( nhất là các bậc học cao)
quả là một vấn đề khó khăn đôi khi không thể vượt qua đặc biệt là các
gia đình nông thôn nhưng ngày nay điều kiện học hành đã được phổ cập
và bình đẳng với tất cả mọi người .Thêm vào đó, mục tiêu của việc đạt
được học vấn cao là rất rõ ràng nó không chỉ việc thuận lợi cho việc tìm
kiếm công ăn việc làm mà còn thoả mãn được một giá trị xã hội- hy vọng
có một vị trí xã hội nhất định sau nay. Do đó các gia đình đều đặt sự

quan tâm của cả hai vợ chồng về sự học hành của con cái họ.
Như vậy điều đó thể hiện sự chuyển biến trong nhận thức của các bậc
cha mẹ về giáo dục con cái ,giáo dục gia đình đã có sự gắn bó với giáo
dục nhà trường và xã hội .Giáo dục gia đình tạo nền tảng cho giáo dục
nhà trưòng và xã hội
hình thành nên một xã hội học tập đưa nước ta nhanh chóng thoát khỏi
nghèo nàn lạc hậu. Cũng về nhận thức của cha mẹ trong quan điểm giáo
dục đối sử với con trai con gái trong việc giáo dục dạy bảo định hướng
học tập nghệ nghiệp cũng có sự thay đổi .Có thể nói rằng trong điều kiện
kinh tế xã hội trước đây do ảnh hưởng của tư tưởng “trọng nam khinh nữ
“việc đầu tư cho học hành chỉ dành riêng cho con trai, con con gái phải
chịu thiệt thòi và phải chấp nhận việc đối sử không công bằng; thì giờ
đây thái độ ứng sử về vấn đề này đã được thay đổi. Con trai và con gái
đêù được bố mẹ tạo điều kiện cho học tập miễn sao là chăn chỉ học tập
và tỏ ra có triển vọng học tập tôt sẽ được gia đình thu vén để đầu tư.
Bảng : Tự định cấp- bậc học cho con tỉ lệ phần trăm cho đối tượng dự
định :


Dự định
Với con trai
Với con gái
Không phân biệt trai –gái

Cấp III
34,9%
31,3%
27,9%

Cấp-bậc học

Đaị học
57,7%
53,6%
64,9%

(nguồn khảo sát xã hội học của khoa xã hội học, tâm lý học “biến đổi
của gia đình nông thôn đồng bằng sông hồng trong thời ky đổi mới”
6/1995- tại một số địa phương tỉnh Nam Hà) 1
Điều đó đã cho thấy nhận thức các nhóm gia đình trong việc giáo dục
con cái trở thành người thành đạt. Định hướng nghề nghiệp trong tương
lai cho con cái , nhất là cho con gái đang phản ánh sự chuyển biến của
hệ giá trị chuẩn mực hiện nay của các gia đình nông thôn đó là thoát ly
khỏi nông nghiệp và nông thôn
Qua điều tra 300 sinh viên của trường Đại Học Khoa Học Xa Hội Nhân
Văn - Đai Học Quốc Gia Hà Nội. Cho thấy có tới gần 100% số sinh viên
nữ được hỏi cho rằng: mình vào Đại Học là tự nghuyện (trong đó có sự
định hướng của bố mẹ) , được gia đình khuyến khích thi vào và tạo điều
kiện để học tập tốt . Điều đó một lần nữa cho thấy nhận thức đứng đắn
của cha mẹ trong định hướng nghề nghiệp tương lai cho con cái không
kể là nam hay nữ .
Thư hai: Tuy vậy kinh tế thị trường với đặc trưng chuyển
Từ nền kinh tế nông nghiệp sang cơ chế nhiều thành phần đã kéo
theo một loạt sự biến đổi cơ cấu kinh tế – xã hội – văn hoá . Do đó đã
dẫn đến sự thay đổi nhanh về cấu trúc và chức năngcủa gia đình. Sự thay
đổi đó đôi khi phải thực hiện ngay trong một thế hệ, Sự đòi hỏi này đòi
hỏi phải có sự thích nghi tuy nhiên không phải lúc nào người ta cũng có
thể đạt ngay được . Chính môi trường của thế giới hiện đại đã tạo ra bối
cảnh cho sự giáo dục các trẻ em .
Trong nền kinh tế thị trường , chức năng kinh tế của gia đình đã thu
hút sự chú ý của nhiều thành viên, do vậy mà có sự suy giảm ở các chức

Biến đổi cơ cấu nghề nghiệp v à tác đọng của nó đến quan hệ giới trong gia đình
nông thôn( Lê Thái Thị Bằng Tâm ĐHKHXH&NV) tr.34
1


năng khác trong gia đình cha mẹ phải lao vào công việc đẻ đảm bảo cho
các nhu cầu của gia đình thậm chí là làm giàu , công việc chiếm hết quỹ
thời gian cha mẹ không có nhiều thì giờ để quan tâm tới nhau không có
thời gian để chăm sóc giáo dục con cái.
Trong nhiều gia đình ( nhất là các gia đình ở đô thị) ,buổi sáng người ta
phải chia tay nhau , để dành thời gian cho công việc để rồi chỉ xum họp
vào buổi tối bên máy thu hình trong khoảng xa rời tổ ấm đó (vợ chồng
vì công việc ở công sở ;con cái ở trường bán trú- nhất là trong các gia
đình trẻ) mỗi người đã sống một thế giới khác hẳn nhau .Vậy thì ,khơi
gợi lại nhau sự mệt mỏi và căng thẳng khiến họ còn điều gì chung để
chia sẻ... Sự lo toan cho gia đình đi tới chổ mờ nhạt dần .
Trong gia đình ngày nay, người phụ nữ giữ vai trò đảm bảo sự bền
vững,chống lại các yếu tố gây bất ổn định ,chống lại sự phân tán .Vì giữ
một vai trò quan trọng như thế nên trình độ học vấn và triển vọng nghề
của người phụ nữ trở thành một yếu tố đáng kể . Những gia đình mà
người vợ bận bịu suốt ngày trong công sở , nhất là những bà mẹ có con
dại trong hoàn cảnh đó họ phải giao phó trách nhiệm của chính mình
cho người thân ,tổ chức tập thể và thậm chí là người ngoài...Nơi đó con
cái của họ chẳng biết chi tới sự phong phú khi được gần mẹ- một việc rất
cần không thể thiếu để trẻ thơ được khai sáng và khoẻ mạnh.
Một số biểu hiện thể hiện mặt trái của kinh tế thị trường như :Tình
trạng thanh thiếu niên phạm pháp, một số biểu hiện trong ứng sử và giao
tiếp xã hội , những hành vi lệch chuẩn trong quan hệ giữa người với con
người.... không thể không truy tìm nguyên nhân từ trong các gia đình ,
trong sự giáo dục của gia đình .Sự quan tâm không đúng mực của các

thành viên, sự giáo dục thiếu tới nơi tới chốn của cha mẹ đối với con cái
sẽ dẫn tới những nhân cách không hoàn thiện .
Thêm vào đó nữa , phải kể đến tỉ lệ ly hôn của các cặp vợ chồng ngày
càng tăng lên - nhất là ở thành thị . Điều đó dẫn tới các gia đình khuyết
thiếu ngày càng nhiều chính ở đó các chức năng của gia đình nói chung


và chức năng giáo dục nói riêng bị suy giảm rõ rệt . Con cái lẽ ra phải
được nhận sự giáo dục của cả cha và mẹ thì ở đây chỉ còn nhận được từ
phía cha hoặc mẹ điều đó có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển toàn
diện nhân cách của cá nhân.
Nói tóm lại , bối cảnh xã hội mới với những biến đổi về kinh tế – văn
hoá- xã hội đang tạo ra sự biến đổi các giá trị trong gia đình và giáo dục
gia đình với cả những yếu tố tích cực nhưng cũng bao hàm trong đó
những hạn chế cần phải khắc phục.


C: KẾT LUẬN
1. KẾT LUẬN CHUNG.
Như vậy quá trình hình thành và phát triển của nhân cách cá nhân
không thể tách rời với gia đình . Điều đó cho thấy vai trò đặc biệt quan
trọng của gia đình đối với cá nhân .
Xã hội hiện nay với những biến đổi về kinh tế – xã hội – văn hoá đã tác
động tới gia đình . Mặc dù gia đình ngày nay ở một số mặt nào đấy có sự
suy giảm ở các chức năng , mối quan hệ giữa các chức năng , mối quan
hệ giữa các thành viên trong gia đình có phần hơi lỏng lẻo so với trước ,
nhưng gia đình vẫn là môi trường quan trọng cho sự phát triển của cá
nhân . Trước những biến động lớn , con người lại có xu hướng quy cụm
về gia đình để tìm lại sự cân bằng .
Trong việc thực hiện các chức năng của gia đình nói chung và các

chức năng giáo dục gia đình nói riêng cha mẹ là người giữ vị trí trung
tâm . Đó là quyền đặc trưng mà tạo hoá ban cho con người đồng thời
cũng là trách nhiệm của các bậc làm cha làm mẹ .
2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ .
- Hiện nay nước ta đang trong tiến trình đổi mới , đẩy mạnh công nghiệp
hoá - hiện đại hoá , việc thực hiện các chiến lược , kế hoạch phát triển
kinh tế phải hướng tới phát triển và giải quyết tốt các vấn đề xã hội
trong đó có xây dựng gia đình mới no ấm , bình đẳng tiến bộ và hạnh
phúc. Đồng thời phải xây dựng gia đình thành một hạt nhân lành mạnh
đóng góp cho sự phát triển của xã hội . Gia đình lành mạnh ở đây phải
gắn với việc thực hiện tốt các vai trò , chức năng của nó , trong đó bên
cạnh chức năng kinh tế phải quan tâm đến chức năng tổ chức đời sống
gia đình và nhất là chức năng nuôi dưỡng , giáo dục con cái , bởi thực
chất đó là quan tâm phát triển nguồn lực con người – vấn đề có tính
quyết định đối với sự phát triển của bất kỳ quốc gia nào .


- Chính sách xã hội phải đảm bảo cho sự bình đẳng , dân chủ và công
bằng trong xã hội đây là cơ sở hiện dân chủ bình đẳng trong gia đình tạo
điều kiện cho các thành viên tiến bộ về mọi mặt
- Trong việc thực hiện các nhiệm vụ chức năng của gia đình trong đó có
chức năng nuôi dưỡng giáo dục con cái thì người phụ nữ có vai trò đặc
biệt quan trọng Do vậy các chiến lựơc phát triển kinh tế xã hội cần quan
tâm hơn nữa tới vấn đề giải phóng ở phụ nữ vừa tạo điều kiện để họ
tham gia nhiều hơn vào các hoạt động xã hội ,vừa làm tốt vai trò của
người vợ người mẹ trong gia đình.
- Trước thực tiễn của vấn đề gia đình nói chung và chức năng giáo dục
gia đình nói riêng đang đứng trước những bối cảnh mới, cấn có những
cuộc hội thảo khoa học , các buổi toạ đàm , trao đổi nhằm tìm ra các biện
pháp hướng đi thích hợp để phát huy vai trò của gia đình nói chung ,

khắc phục nhũng hạn chế nảy sinh trong quá trình thực hiện các chức
năng của gia đình .
* Để nâng cao vai trò của chức năng giáo dục gia đình cần phải thực
hiện một số biện pháp cụ thể sau đây:
- Cha mẹ muốn con cái ngoan tốt , trước hết cha mẹ phải là một tấm
gương sáng về nhân cách đạo đức để con cái học tập noi gương.
+ Cha mẹ phải tổ chức , sắp sếp một tư cách khoa học đời sống gia
đình ;sắp sếp công việc hợp lý tạo nên bầu không khí ấm cúng trong gia
đình .
+ Cha mẹ cần linh hoạt trong các biện pháp giáo dục . Sao cho phù hợp
với tâm sinh lý lứa tuổi của con cái ;sao cho kích thích được sự sáng
tạo , ham học hỏi của con trẻ .
+ Để đạt được những điều trên đây , cha mẹ phải không ngừng học hỏi ,
tiếp thu vốn khó khăn truyền thống đồng thời học tập những tri thức mới
áp dụng nó trong việc tổ chức đời sống và giáo dục trong gia đình .
+ Cần đẩy mạnh phong trào gia đình văn hoá góp phần định hướng giá
trị . Đề ra mục tiêu phấn đấu của gia đình


DANH MUC TAI LIEU THAM KHAO
1.

Nguyễn Thu Hồng. Tác
NXB Thế giới (2002)

2.

Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học .Bộ giáo dục và đào tạo
NXB chính trị quốc gia (2004)


3.

Giáo trình chủ nghĩa xã họi khoa học .khoa triết học
ĐHKHXH&NH

4.

Nguồn gốc của gia đình , của chế độ tư hữu và của nhà nước
P.ăng ghen
NXB sự thật (1961)

5. Giáo dục trong gia đình Mac (Tập 4,5)
Tác giả: Nguyễn Quỳnh Nam
Mai Nhi .NXB Thanh niên (1977)
6 . Gia đình trong tấm gương xã hội học
Tác giả :Nguyễn Linh Khiếu
NXB :Khoa học xã hội (2002)
7.

Gia đình và phụ nữ trong biến đổi văn hoá nông thôn.
Tác giả :Nguyễn Linh Khiếu
NXB: Khoa học xã hội (2001)

8. Bàn về xây dựng gia đình xã hội chủ nghĩa
Tác giả :Nguyễn Văn Khiêu
NXB sự thật (1983)
9. Hôn nhân và gia đình trong xã hội hiện đại
Tác giả :Nguyễn Thi Minh Hoà
NXB Trẻ (2000)
10. Những nghiên cứu xã hội học trong gia đình Việt Nam

NXB khoa học xã hội (1991)
11. Nuôi con như thế nào


Tác giả :Nguyễn Thị Thất
NXB :Phụ nữ (1983)
12. Nói chuyện về giáo dục gia đình
Tác giả :Macarencô
NXB :Kim đồng (1971)
13. 100 lời khuyên trong gia đình ( Tập 4,5 )
NXB Khoa học kỹ thuật (1994)
14.

Tác giả : Văn Linh
NXB Thanh niên (2004)

15.

Xây dựng gia đình văn hoá mới
NXB :Phụ nữ (1978)

16.

Tác giả :

Lê Thị Thái Băng Tâm (ĐH KHXH&NV)

Biến đổi cơ cấu nghề nghiệp và tác đọng của nó đến quan hệ giơi
trong gia đình nông thôn



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1; GIA ĐÌNH VÀ GIÁO DỤC GIA ĐÌNH
1.1

Gia đình

1.2

Giáo dục gia đình

CHƯƠNG 2: CHA MẸ - NGƯỜI GIỮ VỊ TRÍ TRUNG TÂM
TRONG GIÁO DỤC GIA ĐÌNH
2.1

Vai trò của người mẹ

2.2

Vai trò của người cha

CHƯƠNG 3: NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH VÀ GIÁO DỤC
TRONG GIA ĐÌNH
3.1

Gia đình và giáo dục gia đình trong xã hội truyền thống

3.2


Gia đình và giáo dục gia đình hiện nay

KẾT LUẬN
1.

Kết luận chung

2.

Một số khyến nghị

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


×