Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Lý luận của chủ nghĩa mác – lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.19 KB, 22 trang )

Mục lục

1


A. Mở đầu
Lịch sử phát triển của xã hội có giai cấp là lịch sử đấu tranh giai cấp.
Trong mỗi thời kỳ chuyển biến cách mạng từ hình thái kinh tế – xã hội
này sang hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn luôn có một giai cấp
đứng ở vị trí trung tâm, đó là giai cấp cách mạng, đóng vai trò là động lực
chủ yếu, là lực lượng lãnh đạo quá trình chuyển biến đó. Giai cấp cách
mạng này có sứ mệnh lịch sử là thủ tiêu xã hội cũ, xây dựng xã hội mới
phù hợp với tiến trình phát triển khách quan của lịch sử. Trong thời đại
ngày nay đó là giai cấp công nhân. Mác đã khẳng định “Chỉ có giai cấp
công nhân mới có Sứ Mệnh Lịch Sử”. Giai cấp công nhân xoá bỏ chế độ
tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi áp bức, bóc
lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh. Từ
vai trò to lớn đó của giai cấp công nhân, việc khẳng định sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân thế giới và khảng định sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân Việt Nam có ý nghĩa quan trong cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang tiến hành công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chủ nghĩa xã hội đang ở trong thời kỳ
thoái trào, có nhiều trào lưu, tư tưởng mới, cũng không có ít những điều
đưa ra để “bàn lại” về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam.
Thời đại ngày nay vẫn đang là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới còn đang có nhiều biến động, tiêu
cực... thì vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt

2



Nam được đặt ra trở nên bức thiết hơn bao giờ hết, cả trên hai phương
diện lý luận và thực tiễn.
Với tất cả lý do trên em xin chọn đề tài “Lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và sự vận
dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc thực hiện sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay”

B. Nội dung
Chương 1. Lý luận của Mác – Lênin về giai cấp công nhân và sứ
mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân
1.1. Khái niệm về giai cấp công nhân
C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Vấn đề là ở chỗ tìm hiểu xem giai
cấp vô sản thực ra là gì và phù hợp với tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp
vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử”. Để chỉ giai cấp công nhân, các
nhà kinh điển dùng nhiều khái niệm như: giai cấp vô sản, giai cấp vô sản
hiện đại, giai cấp công nhân ... hoàn toàn chỉ dựa vào việc bán sức lao
động của mình và lao động làm thuê ở thế kỷ XIX, giai cấp vô sản hiện
đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp như
những cụm từ đồng nghĩa để biểu thị cùng một khái niệm thống nhất, đó
là chỉ giai cấp công nhân hiện đại, con đẻ của nền đại công nghiệp TBCN,
giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản
xuất hiện đại. Giai cấp công nhân hiện đại chỉ bắt đầu sản sinh từ cuộc
cách mạng công nghiệp cơ khí - là công nhân đại công nghiệp. Các ông
rất thận trọng khi nói vô sản công nghiệp, phân biệt rất rõ với loại vô sản
lưu manh, các loại tầng lớp vô sản nông thôn và thị thành là những lực
3


lượng khác nhau về chất lượng. Các ông đã viết: "còn tầng lớp vô sản lưu

manh, cái sản phẩm tiêu cực ấy của sự thối nát của những tầng lớp thấp
nhất trong xã hội cũ, có thể được cách mạng vô sản lôi cuốn vào phong
trào; nhưng điều kiện sinh hoạt của họ lại khiến họ sẵn sàng bán mình cho
phe phản động hơn”.
Để tìm hiểu bản chất giai cấp công nhân là gì, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã xét trên 2 tiêu chí:
Thứ nhất, về phương thức lao động, phương thức sản xuất: Giai cấp
công nhân là những tập đoàn người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận
hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và
ngày càng có trình độ xã hội hoá cao.
Thứ hai, về vị trí trong quan hệ sản xuất TBCN: đó là những người
lao động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản
và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư.
Trong hai tiêu chí này, C.Mác và Ph.Ăngghen nói tới tiêu chí: một
đó là công nhân công xưởng, được coi là bộ phận tiêu biểu cho giai cấp
công nhân hiện đại; hai ông cho rằng: “Tất cả các giai cấp khác đều suy
tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp
vô sản lại là sản phẩm của nền đại công nghiệp”; “công nhân cũng là một
phát minh của thời đại mới, giống như máy móc cũng vậy ... công nhân
Anh là đứa con đầu lòng của nền đại công nghiệp hiện đại”.
Với tiêu chí thứ hai, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đặc biệt nhấn
mạnh vì chính điều này khiến cho người công nhân trở thành giai cấp đối
kháng với giai cấp tư sản: “giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì
giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại - tức là giai cấp chỉ có thể
sống với điều kiện là kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu
lao động của họ làm tăng thêm tư bản - cũng phát triển theo. Những công
4


nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một, là một hàng

hóa, tức là một món hàng đem bán như bất cứ một món hàng nào khác, vì
thế họ phải chịu hết sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị
trường”. Tiêu chí này đã nói lên một trong những đặc trưng cơ bản nhất
của giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản, do đó C.Mác và Ph.Ăngghen
còn gọi giai cấp công nhân là giai cấp vô sản.
1.2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Cống hiến vô cùng to lớn của C.Mác, Ph.Ăngghen đối với phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế là các ông đã phát hiện ra sứ mệnh
lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân. Nhờ phát hiện này, các ông
đã khắc phục được hạn chế của các nhà tư tưởng của chủ nghĩa xã hội
không tưởng; chỉ ra được lực lượng xã hội to lớn là giai cấp công nhân,
giai cấp có khả năng tổ chức, lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền
phong là Đảng Cộng Sản nhằm xóa bỏ CNTB xây dựng CNXH, chủ
nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới và trong phạm vi từng quốc gia.
Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền công nghiệp hiện đại, lực
lượng đại biểu cho sự phát triển của lực lượng sản xuất tiến bộ, cho xu
hướng phát triển của phương thức sản xuất tương lai; do vậy, về mặt
khách quan nó là giai cấp có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo nhân dân lao động
đấu tranh xóa bỏ chế độ TBCN, xóa bỏ mọi chế độ áp bức bóc lột và xây
dựng xã hội mới – XHCN và cộng sản chủ nghĩa.
Trong tác phẩm Chống Đuyrrinh, khi nói về vai trò lịch sử của giai
cấp công nhân, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “… phương thức sản xuất TBCN
tạo ra một lực lượng bị buộc phải hoàn thành cuộc cách mạng ấy, nếu
không thì sẽ bị diệt vong” và “thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy,
đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại”.

5


Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, việc thực hiện sứ mệnh

lịch sử của giai cấp công nhân cần phải trải qua hai bước: Bước thứ nhất:
“… giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị”. Và “Giai cấp vô sản
chiếm lấy chính quyền nhà nước”. Bước thứ hai là: “ Giai cấp vô sản sẽ
dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư
bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất
vào tay nhà nước, tức là trong tay giai cấp vô sản đã được tổ chức thành
giai cấp thống trị và để tăng nhanh số lượng những lực lượng sản xuất”
Để hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân
nhất định phải tập hợp được các tầng lớp nhân dân lao động xung quanh
nó, tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng xóa bỏ xã hội cũ và xây dựng xã
hội mới về mọi mặt kinh tế, chính trị và văn hóa, tư tưởng. Đó là một quá
trình lịch sử hết sức lâu dài và khó khăn.
Trong rất nhiều tác phẩm C.Mác và Ph.Ăngghen đều khẳng định
giai cấp công nhân vừa là sản phẩm cơ bản nhất vừa là chủ thể trực tiếp
nhất của nền công nghiệp hiện đại, là giai cấp đại diện cho lực lượng sản
xuất tiên tiến, nhưng lại là giai cấp phải làm thuê cho giai cấp tư sản.
Trong tác phẩm phê phán cương lĩnh Gôta, C.Mác khẳng định: “
Giai cấp vô sản là một giai cấp cách mạng so với giai cấp tư sản, bởi vì
bản thân nó, tuy lớn lên trên mảnh đất của đại công nghiệp, nhưng lại
muốn làm cho nền sản xuất trút bỏ các tính chất TBCN mà giai cấp tư
sản đang cố duy trì”[2; tr38]. Ph.Ăngghen còn chỉ rõ: “thực hiện sự
nghiệp giải phóng thế giới ấy, đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản
hiện đại [3; tr393].
Phân tích phương thức sản xuất TBCN, từ khi ra đời và trong quá
trình phát triển của nó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ vai trò to lớn của

6


giai cấp tư sản. Các ông khẳng định rằng: giai cấp tư sản là giai cấp đầu

tiên đã cho chúng ta thấy “hoạt động của loài người có khả năng làm được
những gì”. Bởi vì, giai cấp ấy trong quá trình thống trị chưa đầy một thế
kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn, đồ sộ hơn lực lượng sản
xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại. Mặt khác, cùng với sự phát
triển của lực lượng sản xuất to lớn, mâu thuẫn cơ bản của phương thức
sản xuất TBCN đồng thời nảy sinh. Đó là: mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất mang tính chất xã hội hóa, với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN.
Việc chạy theo lợi nhuận bằng mọi giá, với thủ đoạn giá trị thặng dư của
công nhân đã dẫn đến kết cục là: “ Giai cấp tư sản không những đã đúc
những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng những vũ
khí ấy, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản. Sự sụp đổ
của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều tất yếu như
nhau.” [1; tr613]
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, kế tục sự nghiệp của C.Mác
và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã tiếp tục khẳng định vai trò sứ mệnh lịch sử
toàn thế giới của giai cấp công nhân, đồng thời bổ sung, phát triển thêm
nhiều luận điểm và nội dung lý luận quan trọng. V.I.Lênin đã khẳng đinh
“Lực lượng sản xuất của toàn thể nhân loại là công nhân, rằng giai cấp
công nhân đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất” [13; tr430].
V.I.Lênin nêu quan niệm về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
trong điều kiện mới là “Giai cấp thống trị về chính trị, giai cấp lãnh đạo
toàn xã hội trong cuộc đấu tranh lật đổ ách tư bản, trong sự nghiệp sáng
tạo ra xã hội mới, trong toàn bộ cuộc đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các
giai cấp”. V.I.Lênin còn chỉ rõ “… chỉ có một giai cấp nhất định - chính
là công nhân thành thị và, nói chung, công nhân nhà máy, công nhân
7


công nghiệp - mới có khả năng lãnh đạo được toàn thể quần chúng lao
động và những người bị bóc lột trong cuộc đấu tranh để lật đổ ách tư

bản, trong chính ngay quá trình lật đổ đó, trong cuộc đấu tranh để duy trì
và củng cố thắng lợi, trong sự nghiệp sáng tạo ra một chế độ xã hội mới,
chế độ XHCN, trong toàn bộ cuộc đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các
giai cấp”[14; tr 17].
Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân là do những
điều kiện khách quan quy định. Tuy nhiên, để giai cấp công nhân có thể
thực hiện được sứ mệnh vẻ vang đó lại phải đòi hỏi hàng loạt nhân tố chủ
quan, trong đó; quan trọng quyết định nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng Sản
Ngay trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã luận giải rất thuyết phục về quan hệ giữa Đảng Cộng sản với giai cấp
công nhân, trước hết từ quan hệ lợi ích: “Những người cộng sản không
phải là một Đảng riêng biệt, đối lập với các Đảng công nhân khác. Họ
tuyệt nhiên không có lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô
sản. Họ không đặt ra nguyên tắc riêng biệt nhằm khuôn phong trào vô
sản theo những nguyên tắc ấy”[1;tr614]. Mục đích trước mắt của những
người công sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các Đảng vô sản
khác; tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của
giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền.
Với tư cách là đội tiên phong, những người dẫn dắt phong trào công
nhân, trước hết về tư tưởng, lý luận, những người cộng sản, tập hợp trong
Đảng Cộng sản sẽ là tổ chức mà thông qua đó giai cấp công nhân thể hiện
vai trò lãnh đạo của một giai cấp, vươn lên thành giai cấp thống trị.

8


Sự đổ vỡ của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu đã chứng minh
vai trò to lớn, quyết định của Đảng Cộng sản với tư cách là nhân tố chủ
quan quyết định việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

Công cuộc cải cách, đổi mới với những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa
lịch sử của Trung Quốc, Việt Nam do Đảng Cộng sản khởi xướng và lãnh
đạo là những minh chứng hùng hồn thể hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng Sản.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ của Đảng, của giai cấp và dân tộc
Việt Nam đã từng khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân Việt
Nam trong luận điểm nổi tiếng: “Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm
nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực
dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô
sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng
nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”[ 11; tr9].
Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng Sản việt
nam về vai trò, sứ mệnh của giai cấp công nhân Việt Nam, mối quan hệ
giữa Đảng Cộng Sản Việt Nam và giai cấp công nhân Việt Nam là cơ sở
đánh giá về vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam trong cách mạng việt
nam qua các thời kỳ lịch sử.

9


Chương 2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam.
2.1. Khái niệm, đặc điểm và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Việt Nam
“ Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang
phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm
công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ
công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công
nghiệp.”
Để đánh giá đúng về việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân Việt Nam, trước hết cần thấy rõ những đặc điểm của giai cấp

công nhân Việt Nam, từ lịch sử ra đời đến quá trình phát triển.
Thứ nhất: Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ một nước thuộc
địa, nửa phong kiến, dù số lượng ít, cơ cấu chưa hợp lý nhưng giai cấp
công nhân Việt Nam đã kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước nồng
nàn của dân tộc Việt Nam.
Là sản phẩm trực tiếp của hai cuộc khai thác thuộc địa (cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX), giai cấp công nhân Việt Nam chính là sản phẩm của
nền đại công nghiệp thực dân, một nền công nghiệp du nhập vào Việt
Nam vì mục đích duy nhất là khai thác tài nguyên khoáng sản từ thuộc địa
của tư bản Pháp.
Theo số liệu thống kê, đến trước cuộc chiến tranh thế giới lần thứ
nhất, giai cấp công nhân Việt Nam mới chỉ gần 10 vạn. Sau cuộc khai
thác thuộc địa lần thứ hai vào năm 1929, giai cấp công nhân Việt Nam đã
lên tới 22 vạn. Từ khi mới ra đời giai cấp công nhân Việt Nam đã tiếp thu
truyền thống yêu nước, ý chí tự cường, tự tôn dân tộc, vì vậy giai cấp
công nhân đã sớm đảm đương sứ mệnh lịch sử của mình khi có Đảng

10


Cộng sản Việt Nam ra đời (1930), lợi ích của giai cấp công nhân thống
nhất với lợi ích của dân tộc.
Thứ hai: công nhân Việt Nam xuất thân chủ yếu từ nông dân lao
động, có mối quan hệ mật thiết với nông dân, khối liên minh công – nông
sớm được tạo lập.
Đây là đặc điểm nổi bật trong lịch sử trưởng thành của giai cấp công
nhân Việt Nam. Một mặt xuất thân từ nông dân, chịu cả hai tầng áp bức
của thực dân Pháp và phong kiến giai cấp công nhân Việt Nam gắn bó lợi
ích với giai cấp nông dân trong sự nghiệp chung là giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp khỏi ách áp bức, bất công. Mặt khác, do xuất thân từ

nông dân, chưa được tôi luyện trong nền đại công nghiệp, công nhân Việt
Nam, vì chịu ảnh hưởng khá nặng tư tưởng tiểu nông, chậm hình thành
tác phong công nghiệp.
Thứ ba: Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản
dân tộc, sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập vào ngày 3/2/1930 là mốc chấm dứt tình trạng tự phát của phong
trào công nhân Việt Nam. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai
cấp tư sản dân tộc, nên sớm đảm nhận sứ mệnh lịch sử mà dân tộc giao
phó là lãnh đạo cách mạng Việt Nam thông qua đội tiền phong là Đảng
Cộng sản. Vì thế, không có sự cạnh tranh, giành giật vị thế, vai trò lãnh
đạo cách mạng với giai cấp tư sản dân tộc, sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân Việt Nam gắn liền với sứ mệnh lãnh đạo cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Thứ tư: Quá trình trưởng thành của giai cấp công nhân Việt Nam
chủ yếu gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ nên sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân gắn liền với sự nghiệp giải phóng
11


dân tộc do Đảng lãnh đạo. Việc chuyển giai đoạn, từ chiến tranh sang hòa
bình, từ chiến đấu sang xây dựng và bảo vệ tổ quốc đã và đang đặt ra
nhiều khó khăn, thách thức đối với giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
trong quá trình đẩy mạnh CNH-HĐH, phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế.
Những đặc điểm trên đã tạo điều kiện cho giai cấp công nhân Việt
Nam sớm bước lên vũ đài lịch sử, trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng
Việt Nam thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam được thực hiện
từng bước trong quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Xô Viết

Nghệ Tĩnh (1930–1931); phong trào đấu tranh dân chủ (1936-1939);
phong trào vận động cách mạng tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính
quyền về tay giai cấp công nhân, nhân dân lao động (1939-1945). Cuộc
kháng chiến chống Pháp trường kỳ gian khổ do Đảng lãnh đạo, kết thúc
bằng chiến thắng Điện Biên Phủ, thể hiện sinh động vai trò nòng cốt của
giai cấp công nhân trong khối liên minh công – nông – binh vững chắc.
Bản chất cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiền phong
của giai cấp công nhân Việt Nam còn thể hiện rõ rệt trong việc xác định
tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược – đưa Miền Bắc tiến lên
CNXH; tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam
giành độc lập dân tộc trọn vẹn cho cả nước. Kết thúc thắng lợi cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước đã thể hiện hào hùng việc thực hiện sứ mệnh
vẻ vang của giai cấp công nhân trong giai đoạn xây dựng và bảo vệ chính
quyền cách mạng.
Báo cáo chính trị tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng
Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống

12


Mỹ cứu nước là thành quả tổng hợp của một loạt nhân tố tạo nên sức
mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam. Nguồn gốc của mọi nhân tố ấy
chính là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta, đội tiên phong dày dạn của
giai cấp công nhân Việt Nam, người đại biểu trung thành và đầy đủ lợi
ích sống còn, những nguyện vọng sâu xa và chính đáng của nhân dân
Việt Nam, của cả dân tộc Việt Nam, người kết hợp nhuần nhuyễn và
thành công khoa học cách mạng của giai cấp công nhân là chủ nghĩa
Mác – Lê nin. Với nghị lực chiến đấu phi thường và sức sáng tạo vô tận
của nhân dân ta, với những tinh hoa trong truyền thống bồn nghìn năm
của dân tộc ta”[4;tr 8].

Bước chuyển giai đoạn từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân sang
cách mạng XHCN trên phạm vi cả nước đồng thời cũng là bước chuyển
trong nội dung, nhiệm vụ thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân Việt Nam.
Từ năm 1976, giai cấp công nhân Việt Nam thực hiện bước thứ hai:
tức là sử dụng chính quyền của mình tổ chức quản lý, phát triển lực lượng
sản xuất, từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN. Giai cấp công
nhân Việt Nam trong thời kỳ này đóng vai trò là lực lượng đi đầu trong
thực hiện đường lối chung của cách mạng XHCN mà Đảng Cộng sản Việt
Nam đã vạch ra.
Đường lối chung đó đã được đại hội xác định: “Nắm vững chuyên
chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến
hành động thời ba cuộc cách mạng…góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
CNXH”[10; tr998].

13


Thực hiện sứ mệnh lịch sử to lớn – là giai cấp tổ chức xây dựng xã
hội mới, xã hội XHCN, giai cấp công nhân Việt Nam còn là lực lượng
tiên phong trong thực hiện đường lối kinh tế mà Đảng Cộng sản Việt Nam
đã đề ra tư tưởng chỉ đạo của đại hội IV của Đảng Cộng sản Việt Nam là
“phấn đấu hoàn thành về cơ bản quá trình đưa nền kinh tế nước ta từ sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN trong khoảng 20 năm”.
Nhưng do nóng vội, chủ quan, duy ý chí, quản lý kinh tế với kế
hoạch hóa, nhà nước quản lý bằng các biện pháp hành chính, bao cấp nên
chủ trương phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất tạo dựng cơ sở vật chất
– kỹ thuật của CNXH dựa trên nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa
XHCN, coi cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt không đạt hiệu quả

như mong muốn. Từ năm 1979 đất nước ta lâm vào khó khăn, khủng
hoảng kinh tế kéo dài, lạm phát gia tăng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó
khăn. Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những đổi mới từng phần trong
đường lối phát triển kinh tế để đến đại hội VI (12/1986) chủ trương đổi
mới đất nước toàn diện, sâu sắc.
Lập trường, bản lĩnh giai cấp công nhân của Đảng được thể hiện
trong việc nêu rõ những sai lầm, khuyết điểm trong 10 năm xây dựng
CNXH trên phạm vi cả nước. Cả nhận thức cúng như hành động chúng ta
chưa thực sự thừa nhận cơ chế kinh tế nhiều thành phần ở nước ta sẽ còn
tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa năm vững và vận đúng quy
luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất. Về chủ trương công nghiệp hóa, quá nóng vội khi đặt vấn
đề “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng dựa trên cơ sở phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ”; nội dung và lộ trình của công nghiệp hóa
chưa được xác định rõ, chưa gắn CNH với HĐH. Cũng chính vì vậy việc
14


thực hiện vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam – với tư cách là lực
lượng đi đầu của công nghiệp hóa, nòng cốt của liên minh công – nông –
trí thức, gặp nhiều khó khăn.
2.2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân việt nam trong thời kỳ
CNH-HĐH, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội
nhập kinh tế quốc tế
Quan niệm từ công nghiệp hóa XHCN nói chung đến đẩy mạnh CNHHĐH với phát triển kinh tế tri thức, phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình đổi mới
nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Bản thân
sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, chiến lược phát triển CNH-HĐH cơ sở
kinh tế - xã hội là những cơ sở để Đảng xác định, bổ sung, hoàn thiện vai
trò, nhiệm vụ của giai cấp công nhân Việt Nam.

Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (1991) Đảng Cộng sản Việt Nam, lần đầu tiên xác định 6 đặc
trưng của xã hội XHCN mà ta xây dựng, đồng thời xác định 7 phương
hướng cần thực hiện trong thời kỳ quá độ lện CNXH. Trong đó có
phương hướng “Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước
theo hướng hiện đại gắn với một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ
trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải
thiện đời sống nhân dân”[ 5;tr9]
Quan điểm về CNH-HĐH cũng đã được Đảng ta xác định rõ là: giữ
vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa,
đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi
đối với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng một nền kinh tế

15


mở, hội nhập với khu vực và thế giới. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải
thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; khoa học và công nghệ là động lực
của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến
nông, lâm, thủy sản; phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu. Mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ; đẩy mạnh các
hoạt động kinh tế đối ngoại; hình thành một số ngành mũi nhọn như chế
biến nông, lâm, thủy sản, khai thác và chế biến dầu khí, công nghiệp điện
tử và công nghệ thông tin; phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ.
Để phát huy vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong

thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, Đảng ta chủ trương: “Xây dựng giai cấp
công nhân lớn mạnh về mọi mặt, phát triển về số lượng, giác ngộ về giai
cấp, nâng cao trình độ học vấn và tay nghề, có năng lực ứng dụng và
sáng tạo công nghệ mới, có tác phong công nghiệp và ý thức tổ chức, kỷ
luật, lao động đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, làm
nòng cốt trong việc xây dựng khối liên minh công nhân, nông dân, trí
thức và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc”[6; tr123].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam
có những bước tiến mới trong nhận thức, lý luận về giai cấp công nhân
trong quá trình đẩy mạnh CNH-HĐH, phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là cơ sở lý luận mới để
xem xét về nội dung, nhiệm vụ của quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân Việt Nam. Đại hội IX của Đảng xác định: “Trong
16


thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành
phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ cấu, tính
chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng với
những biến đổi to lớn về kinh tế - xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp,
các tầng lớp xã hội là mối quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ
nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống
nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn
liến với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”[7; tr85-86].
Cũng tại đại hội IX, nhận thức của Đảng về kinh tế thị trường định
hướng XHCN đã được khẳng định, đó chính là kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng XHCN. Đại hội cũng bổ sung, xác định rõ thêm về thành

phần kinh tế ở nước ta. Theo đó, ở Việt Nam có 6 thành phần kinh tế, bao
gồm: Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực
lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều
tiết vĩ mô nền kinh tế; kinh tế tập thể được phát triển với nhiều hình thức
đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt; kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển
cả ở nông thôn và thành thị, có vị trí quan trong lâu dài; kinh tế tư bản tư
nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản
xuất; kinh tế tư bản nhà nước với các hình thức liên doanh, liên kết giữa
tư bản nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và nước ngoài; và
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Để giai cấp công nhân thực hiện được sứ mệnh lịch sử to lớn, vẻ
vang lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới, Đảng Cộng sản Việt Nam
17


nêu lên những định hướng xây dựng, phát triển về số lượng và chất lượng:
“Đối với giai cấp công nhân, coi trọng phát triển về số lượng và chất
lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề
nghiệp thực hiện trí thức hóa công nhân, nâng cao năng lực ứng dụng và
sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả
ngày càng cao, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vai trò lãnh đạo cách mạng trong
thời kỳ mới. Bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của giai cấp công nhân trong điều kiện thực hiện cơ chế thị trường. Tăng
cường đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý và kết nạp Đảng viên từ công
nhân ưu tú, tăng thành phần công nhân trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo
các cấp, các ngành”[7; tr124-125].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam
nêu những quan điểm về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng XHCN, khắng định: “Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức

sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo; trong đó kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”[8; tr77].
Để giai cấp công nhân có thể thực hiện, hoàn thành sứ mệnh của
mình trong giai đoạn mới, đại hội X của Đảng tiếp tục chỉ rõ: “Đối với
giai cấp công nhân, phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng
cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghệ nghiệp, xứng
đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước”[7;tr 77].
Những quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN về đẩy mạnh CNH-HĐH, mở rộng
18


và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế với vị trí, vai trò, nhiệm vụ to lớn
của giai cấp công nhân chính là cơ sở lý luận để làm rõ sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam đã xác định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam: “Giai
cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: là giai cấp lãnh đạo
cách mạng cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt
Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên
phong trong sự nhiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; lực lượng nòng cốt trong
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng”[9; tr43 -44].

19



Kết luận
Tóm lại, từ các phân tích trên về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân cả về lý luận lẫn thực tiễn đã khẳng định tính khách quan của sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đúng như lời của C.Mác nói: giai
cấp công nhân là một giai cấp tiên tiến, có vai trò to lớn trong lịch sử phát
triển của thế giới, là một lực lượng xã hội tiên phong trong công cuộc cải
tạo khoa học công nghệ vào sản xuất của xã hội. Hiểu được rõ về giai cấp
công nhân, đặc biệt là hiểu được sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
là một vấn đề hết sức quan trọng trong nhận thức của mỗi chúng ta, giúp
ta có những nhận thức đúng đắn đối với các giai cấp trong xã hội nói
chung và giai cấp công nhân nói riêng. Qua đó, mỗi cá nhân trong xã hội
cần không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm về giai cấp, về nhận thức
xã hội để nâng cao tri thức văn hóa của mình.
Trước những đòi hỏi mới của công cuộc đổi mới hiện nay, để đảm
bảo thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng
ta luôn đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa bản chất giai cấp công nhân thì
mới đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới.
Cùng với việc đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay, giai cấp công
nhân Việt Nam sẽ tăng nhanh về số lượng. Việc tăng cường giáo dục chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đường lối chính sách
của Đảng và Nhà nước trong giai cấp công nhân là một yêu cầu cấp thiết
cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân
dân ta đã lựa chọn.

20


1.
2.

3.
4.

A. Danh mục tài liệu tham khảo
C. Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 4; NXB CTQG, Hà Nội, 1995
C. Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 19; NXB CTQG, Hà Nội, 1995
C. Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 20; NXB CTQG, Hà Nội, 1995
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung
ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc thứ IV của Đảng; NXB Sự thật,

Hà Nội, 1977.
5.
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội; NXB Sự thật, Hà Nội, 1991
6.
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII; NXB CTQG, Hà Nội, 1996
7.
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX; NXB CTQG, Hà Nội, 2001
8.
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X; NXB CTQG, Hà Nội, 2006
9.
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện hội nghị lần thứ sáu Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa X; NXB CTQG, Hà Nội, 2008
10. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện đảng toàn tập, tập 37; NXB
CTQG, Hà Nội, 2004
11. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10; NXB CTQG, Hà Nội, 2000
12. Lênin toàn tập, tập 26; NXB Tiến bộ, M, 1986

13. Lênin toàn tập, tập 38; NXB Tiến bộ, M, 1977
14. Lênin toàn tập, tập 39; NXB Tiến bộ, M, 1977

21


22



×