Tải bản đầy đủ (.doc) (180 trang)

CÁC tội xâm PHẠM AN NINH QUỐC GIA TRONG LUẬT HÌNH sự VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (700.77 KB, 180 trang )

Ketnooi.com din n chia s kin thc, cụng ngh

5

mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đấu tranh chống các tội xâm phạm ANQG là nội dung chủ yếu của
cuộc đấu tranh chống phản cách mạng. Yêu cầu đặt ra trong cuộc đấu tranh
này là làm thất bại âm mu và hoạt động của các thế lực thù địch ở trong và
ngoài nớc nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc, bảo vệ sự tồn tại và vững mạnh của chế độ XHCN và Nhà nớc
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, từ khi chính quyền thuộc về
nhân dân (8/1945) cho đến nay, Đảng và Nhà nớc ta luôn coi sự nghiệp bảo
vệ ANQG là sự nghiệp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị dới sự lãnh
đạo của Đảng. Nhà nớc cũng đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng và hoàn
thiện các văn bản pháp luật quy định trách nhiệm hình sự đối với các tội
xâm phạm ANQG phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách
mạng, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho cuộc đấu tranh này.
Hiện nay, chúng ta đang tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất
nớc, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ
chế thị trờng, có sự quản lý của Nhà nớc, theo định hớng XHCN và đã
giành đợc những thành tựu to lớn, đa đất nớc ta thoát khỏi tình trạng khủng
hoảng về kinh tế - xã hội, giữ vững thế ổn định và phát triển. Tuy nhiên, bên
cạnh những thành tựu đạt đợc, đã nảy sinh không ít tiêu cực trong đời sống
xã hội cũng nh những khó khăn, thách thức mới. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu, Liên Xô sụp đổ đã tác động mạnh vào t tởng, tình cảm, niềm tin
của cán bộ và nhân dân ta. Các thế lực chống cộng, chống CNXH đang lợi
dụng cơ hội này để ráo riết hoạt động hòng làm tan rã từ bên trong, tiến
đến xóa bỏ chế độ XHCN ở nớc ta. Trong tình hình đó, nhiệm vụ bảo vệ
ANQG, giữ vững ổn định chính trị, tạo môi trờng thuận lợi để nhân dân ta
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc, đa đất




Ketnooi.com din n chia s kin thc, cụng ngh

6

nớc ta phát triển vững chắc theo định hớng XHCN, là một nhiệm vụ có ý
nghĩa vô cùng quan trọng. Mặt khác thực tiễn đấu tranh phòng chống các
tội xâm phạm ANQG ở nớc ta trong thời gian qua đã đặt ra nhiều vấn đề
cần đợc nghiên cứu giải quyết về mặt lý luận nh: phạm vi các tội xâm phạm
ANQG, dấu hiệu pháp lý đặc trng của từng tội phạm; đờng lối xử lý đối với
các tội xâm phạm ANQG nói chung và chế tài quy định cho từng tội phạm
cụ thể ... Vì vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống những
vấn đề lý luận và thực tiễn về đấu tranh phòng chống các tội phạm xâm
phạm ANQG và chế định trách nhiệm hình sự với các tội xâm phạm
ANQG, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh
phòng chống các tội phạm này là vấn đề có ý nghĩa cấp bách và quan trọng
về lý luận và thực tiễn trong khoa học pháp lý hình sự hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trách nhiệm hình sự với các tội xâm phạm ANQG là đề tài đợc các
nhà hình sự học trên thế giới và trong nớc quan tâm nghiên cứu.
Các nhà hình sự học Xô viết trớc đây đã có nhiều công trình nghiên
cứu về đề tài này nh V.X. Kliagin Về trách nhiệm hình sự với các tội quốc
sự đặc biệt nguy hiểm; X.V.Điakôv, A.A Ignatiev, M.P. Karpusin Về trách
nhiệm hình sự với các tội quốc sự...
ở trong nớc, một số nhà hình sự học cũng đã dành không ít công
sức cho việc nghiên cứu đề tài này. PGS.TS Kiều Đình Thụ đã có các công
trình nghiên cứu nh: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia - Lịch sử, thực
trạng và phơng hớng hoàn thiện, (Tạp chí Thông tin khoa học pháp lý, Bộ
T pháp, số 9-1994); Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm hình sự với

các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia, (Tạp chí Nhà nớc
và Pháp luật, số 3-1995); Về các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh
quốc gia (Tạp chí Khoa học Công an, số 3-1995). TS. Trần Đình Nhã đã có
công trình Về sửa đổi bổ sung chơng I Phần các tội phạm của Bộ luật hình


Ketnooi.com din n chia s kin thc, cụng ngh

7

sự (Tạp chí Khoa học Công an, số 11-1996). TS. Nguyễn Vạn Nguyên đã có
bài báo về Trách nhiệm hình sự về tội phản bội Tổ quốc (Tạp chí Tòa án
nhân dân, số 5-1989)... Tuy nhiên, các công trình đó chỉ mới đề cập tới
từng khía cạnh của vấn đề hoặc từ các góc độ khác nhau của đề tài này
nh hoàn thiện pháp luật hình sự, thực tiễn áp dụng các quy định của pháp
luật v.v... Cho đến nay, cha có một công trình chuyên khảo nào dành cho
việc nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện từ lịch sử vấn đề đến quy định
của pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng, cũng nh đồng thời từ các góc
độ luật hình sự và tội phạm học để từ đó đề ra các biện pháp hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả đấu tranh chống và phòng ngừa loại tội
phạm này.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tợng và phạm vi nghiên cứu của
luận án
- Mục đích
Trớc yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm
ANQG, mục đích của luận án là làm sáng tỏ một cách có hệ thống những
vấn đề lý luận và thực tiễn của chế định các tội xâm phạm ANQG, đánh giá
tình hình tội phạm và thực tiễn đấu tranh phòng chống các loại tội phạm
này đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội
xâm phạm ANQG.

- Nhiệm vụ
Với mục đích nêu trên, luận án có các nhiệm vụ sau đây:
- Khái quát sự hình thành và phát triển của chế định các tội xâm
phạm ANQG trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam từ 1945 đến nay.
- Nghiên cứu từ khía cạnh so sánh pháp luật về chế định các tội xâm
phạm ANQG trong luật hình sự một số nớc trên thế giới.


Ketnooi.com din n chia s kin thc, cụng ngh

8

- Làm rõ khái niệm trách nhiệm hình sự, ANQG và các tội xâm
phạm ANQG; chính sách xử lý của Nhà nớc ta với tội xâm phạm ANQG.
- Làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý đặc trng của các tội xâm phạm
ANQG theo luật hình sự hiện hành của Nhà nớc ta và hình phạt đối với các
tội này.
- Phân tích và đánh giá tình hình các tội xâm phạm ANQG ở Việt
Nam từ 1975 đến 1999, thực tiễn đấu tranh phòng chống loại tội phạm này
và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội
xâm phạm ANQG.
Đối tợng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu chế định các tội xâm phạm ANQG trong luật
hình sự Việt nam, tình hình tội phạm và thực tiễn áp dụng các quy phạm
thuộc chế định này trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu các tội xâm phạm ANQG từ góc độ luật hình sự
và từ góc độ tội phạm học trong thời gian qua từ năm 1975 đến năm 1999.
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu của luận án
Cơ sở lý luận của luận án là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,

t tởng Hồ Chí Minh, đờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nớc ta về xây
dựng nhà nớc và pháp luật, về chính sách hình sự, đặc biệt về đờng lối đấu
tranh chống phản cách mạng trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trờng, có sự quản lý của Nhà nớc, theo định hớng XHCN ở nớc ta. Trong quá
trình nghiên cứu, tác giả đã nghiên cứu và khảo sát thực tiễn hàng trăm vụ
án thuộc nhóm các tội xâm phạm ANQG, các báo cáo tổng kết thực tiễn xét
xử và nhiều tài liệu ở trong và ngoài nớc về trách nhiệm hình sự và công tác
đấu tranh phòng, chống loại tội này.


Ketnooi.com din n chia s kin thc, cụng ngh

9

Dựa trên cơ sở phơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận án đặc biệt coi trọng các phơng pháp hệ
thống, lịch sử, lôgíc, phân tích, tổng hợp, thống kê t pháp hình sự và tham
khảo ý kiến của các chuyên gia.
5. Những đóng góp mới của luận án
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học luật hình sự
Việt Nam nghiên cứu toàn diện và có hệ thống chế định các tội xâm phạm
ANQG, tình hình tội phạm và thực tiễn đấu tranh phòng chống các loại tội
phạm này, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống
các tội xâm phạm ANQG.
Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án thể hiện trong
các điểm sau:
1. Đã khái quát đợc một cách có hệ thống sự hình thành và phát
triển chế định các tội xâm phạm ANQG trong luật hình sự Việt Nam từ
năm 1945 đến nay; đã phân tích và đánh giá đợc ý nghĩa và tác dụng của
chế định này trớc yêu cầu đấu tranh bảo vệ ANQG qua các giai đoạn cách
mạng, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi cả nớc đang đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, trớc âm mu
"diễn biến hòa bình" và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trong
và ngoài nớc đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
2. Đã phân tích và so sánh chế định các tội xâm phạm ANQG của
pháp luật hình sự một số nớc trên thế giới để rút ra những giá trị hợp lý trong
lập pháp hình sự, bổ sung cho những luận cứ và giải pháp đợc đề xuất trong
luận án.
3. Luận án đi sâu phân tích thực trạng tình hình tội phạm, công tác
đấu tranh với các tội xâm phạm ANQG ở Việt Nam từ năm 1975 đến năm
1999; đa ra những nhận xét, đánh giá về cái đợc và cha đợc trong đấu tranh


Ketnooi.com din n chia s kin thc, cụng ngh

10

phòng chống các tội xâm phạm ANQG, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống loại tội này.
4. Đề xuất đợc nhóm các giải pháp mang tính đồng bộ và toàn diện
nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm ANQG.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Những phân tích, đánh giá và kiến nghị nêu trong luận án có ý
nghĩa thiết thực về lý luận và thực tiễn trong công tác đấu tranh phòng
chống các tội xâm phạm ANQG, góp phần xây dựng nhận thức đầy đủ và
đúng đắn về chế định các tội xâm phạm ANQG, góp phần đổi mới nội dung
và phơng pháp đấu tranh phòng, chống các tội phạm này trong tình hình mới.
Luận án có thể đợc sử dụng nh một tài liệu tham khảo trong công
tác nghiên cứu, giảng dạy, đào tạo cán bộ t pháp hình sự.
7. Bố cục của luận án
Luận án có 170 trang, ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh

mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án gồm 3 chơng 13 mục.


Ketnooi.com din n chia s kin thc, cụng ngh

11

Chơng 1
lịch sử lập pháp hình sự việt nam về các tội xâm
phạm an ninh quốc gia từ năm 1945 đến nay

1.1. các tội xâm phạm an ninh quốc gia trong pháp luật
hình sự việt nam trớc khi pháp điển hóa hình sự năm 1985

Trong hơn nửa thế kỷ xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân ở
Việt Nam, kể từ tháng 8 năm 1945 đến nay đã khẳng định nhiệm vụ bảo vệ
ANQG và đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm ANQG là vấn đề có
tính quy luật để Nhà nớc kiểu mới tồn tại và phát triển. Trong cuộc đấu
tranh này, pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng là hình thức
ghi nhận của Nhà nớc về các nhu cầu khách quan bảo vệ và phát triển các
thành quả cách mạng do nhân dân tiến hành dới sự lãnh đạo của Đảng.
Nghiên cứu lịch sử pháp luật hình sự không thể tách rời nghiên cứu nhiệm
vụ cách mạng trong từng giai đoạn cụ thể cũng nh các quan hệ xã hội đợc
pháp luật hình sự ghi nhận bảo vệ, càng không thể thoát ly các đặc điểm về
chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của từng thời kỳ lịch sử mà trong đó các
văn bản pháp luật hình sự đợc ban hành. Pháp luật hình sự luôn luôn thể
hiện hai mặt cơ bản: trớc hết đó là sự kết tinh những giá trị phổ biến, những
kinh nghiệm về đấu tranh phòng chống tội phạm của các giai đoạn, thời kỳ
trớc đó và tại giai đoạn nó đợc ban hành; mặt khác, pháp luật hình sự đợc ban
hành để bảo vệ lợi ích giai cấp và trật tự xã hội theo quan điểm của giai cấp

thống trị. Do vậy, cả hai mặt đó đều phải đợc nghiên cứu đồng thời để rút ra
những giá trị hợp lý nhằm kế thừa và phát triển.
Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự trên cơ sở những quan điểm
nêu trên, chúng ta mới thấy rõ vai trò, chức năng nhiệm vụ của pháp luật
hình sự trong từng giai đoạn lịch sử, mới có thể hiểu đầy đủ, đúng đắn nội
dung của các qui phạm và chính sách hình sự của nhà nớc. Lịch sử lập pháp


Ketnooi.com din n chia s kin thc, cụng ngh

12

hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm ANQG từ năm 1945 đến trớc khi
pháp điển hóa hình sự năm 1985, có thể chia thành các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1945 - 1960
Cách mạng tháng Tám thành công, nớc Việt Nam dân chủ cộng hòa
ra đời, lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân ta thực sự trở thành chủ nhân
của đất nớc và làm chủ vận mệnh của mình. Ngay từ những ngày chính
quyền còn đang "trứng nớc", ở miền Bắc, nhân dân ta phải chống chọi với
hậu quả của nạn đói, do chính sách vơ vét đến kiệt quệ của Nhật - Pháp và
hậu quả của lụt lội gây ra, mặt khác phải đối phó với 20 vạn quân Tởng và
bè lũ tay sai lợi dụng danh nghĩa đồng minh hòng thực hiện âm mu thủ tiêu
chính quyền cách mạng; ở miền Nam, thực dân Anh và quân đội Pháp kéo
đến chiếm lại Nam Bộ, mu toan dùng địa bàn này làm bàn đạp chiếm lại
toàn bộ nớc ta.
Trớc âm mu thâm độc của kẻ thù, nhiệm vụ hàng đầu của toàn dân
ta là sử dụng mọi lực lợng, biện pháp và hình thức đấu tranh để bảo vệ
chính quyền cách mạng, chống lại những âm mu đen tối của kẻ thù bên
trong và các thế lực đế quốc. Xét trên phơng diện pháp luật hình sự, việc
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định các tội xâm phạm

ANQG đợc Nhà nớc ta rất chú trọng và luôn luôn có những bổ sung kịp
thời trớc những đòi hỏi khách quan của tình hình và nhiệm vụ chung của sự
nghiệp cách mạng. Có thể thấy rõ nhận xét này qua tìm hiểu các văn bản
quy phạm pháp luật hình sự đợc ban hành trong giai đoạn này.
Ngay trong tháng 9/1945, lực lợng Liêm phóng đã kịp thời tham mu
cho Đảng, Nhà nớc ban hành Sắc lệnh số 08 ngày 5/9/1945 về giải tán
những đảng phái phản động. Sắc lệnh nêu rõ: "Xét theo các cuộc điều tra
của Ty Liêm phóng Bắc Bộ, Đại việt quốc gia xã hội đảng đã t thông với
ngoại quốc để mu những việc có hại cho sự độc lập của quốc gia và nền
kinh tế Việt Nam, nên giải tán Đại việt quốc gia xã hội đảng và Đại việt


Ketnooi.com din n chia s kin thc, cụng ngh

13

quốc dân đảng. Nếu hai đảng ấy còn tiếp tục hoạt động thì những ngời can
phạm sẽ bị đem ra Tòa án chiểu luật nghiêm trị". Ngày 12/9/1945, Chủ tịch
Chính phủ ra Sắc lệnh số 30 giải tán Việt Nam hng quốc thanh niên và Việt
Nam ái quốc thanh niên. Sắc lệnh số 08 và Sắc lệnh số 30 là cơ sở pháp lý
đầu tiên cho phép trấn áp các đối tợng và các đảng phái phản động. Ngay
sau khi Sắc lệnh đợc ban hành, lực lợng Liêm phóng, Quốc gia tự vệ cuộc đã
tổ chức trừng trị những tên đầu sỏ, đa đi an trí những tên nguy hiểm. Ngày
9/9/1945, ta đã trấn áp vụ bạo loạn ở Cần Thơ do bọn phản động lợi dụng
Đạo Hòa Hảo cầm đầu. Các địa phơng khác trên toàn quốc cũng trấn áp
mạnh các phần tử và các tổ chức phản động, làm mất chỗ dựa xã hội của
các thế lực thù địch núp dới danh nghĩa Đồng minh kéo vào nớc ta hòng thủ
tiêu các thành quả cách mạng mà nhân dân ta vừa giành đợc.
Sắc lệnh số 06 ngày 5/9/1945 đợc ban hành cấm nhân dân Việt Nam
không đợc đăng lính, bán thực phẩm, dẫn đờng, liên lạc làm tay sai cho

quân đội Pháp đã nói rõ kẻ nào trái lệnh sẽ bị Tòa án quân sự nghiêm trị.
Liền sau đó, Sắc lệnh số 31 đợc ban hành ngày 13/9/1945 đã qui định buộc
phải khai trình các cuộc biểu tình trớc 24 giờ với ủy ban nhân dân để tránh
những sự bất trắc có thể ảnh hởng đáng tiếc đến việc nội trị hay ngoại giao,
chống lại việc bọn phản động Việt Nam quốc dân đảng dùng tiền thuê lu
manh tạo ra các cuộc biểu tình chống Chính phủ.
Việc ban hành các Sắc lệnh trên phản ánh yêu cầu cấp bách của
cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài, bảo vệ nền độc lập tự do mới
giành đợc.
Ngày 25/11/1945, trong Chỉ thị kháng chiến cứu quốc Đảng ta đã
chỉ rõ nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân trong giai đoạn này là: "Củng cố
chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lợc, bài trừ nội phản, cải thiện đời
sống nhân dân".


Ketnooi.com din n chia s kin thc, cụng ngh

14

Để thực hiện nhiệm vụ đó, trong hoàn cảnh đang gặp muôn vàn khó
khăn, Nhà nớc ta đã quan tâm và coi trọng xây dựng các cơ sở pháp lý cho
việc trấn áp kẻ thù. Trên cơ sở rút kinh nghiệm hoạt động của các Tòa án
quân sự từ tháng 9/1945, Chủ tịch chính phủ đã ra Sắc lệnh số 21 ngày
14/2/1946 về tổ chức Tòa án quân sự. Điều 2 Sắc lệnh 21 quy định: "Tòa án
quân sự xét xử tất cả những ngời nào phạm một việc gì sau hay trớc ngày
19/8/1945 có phơng hại đến nền độc lập của nớc Việt Nam dân chủ cộng
hòa". Điều 8 của Sắc lệnh này đã quy định cụ thể: "Tòa án quân sự có thể
tuyên án: 1- Tha bổng; 2- Tịch thu một phần hay tất cả tài sản; 3- Phạt tù từ 1
năm đến 10 năm; 4- Phạt khổ sai từ 5 năm đến 20 năm; 5- Xử tử. Tòa án có
thể vừa tuyên phạt giam hay phạt tử hình, vừa xử tịch thu một phần hay tất

cả tài sản của tội nhân...".
Sắc lệnh số 21 này cho thấy: nhằm bảo vệ các thành quả cách
mạng, Nhà nớc đã cho phép vận dụng nguyên tắc hồi tố để trừng phạt
những tên tay sai đắc lực nhất của thực dân Pháp, phát xít Nhật đã có những
hành vi phá hoại nghiêm trọng sự nghiệp đấu tranh giành tự do và độc lập
của dân tộc ta. Quy định thêm hình phạt khổ sai thực chất là hình phạt tù từ
5 năm đến 20 năm để việc quyết định hình phạt đợc linh hoạt phù hợp với
từng đối tợng cụ thể.
Đi đôi với việc trấn áp bọn việt gian phản động, Nhà nớc ta đã ban
hành một loạt Sắc lệnh qui định việc trừng trị những hành vi xâm phạm
nghiêm trọng nền kinh tế, tài chính, trật tự, trị an xã hội. Ngày 9/10/1945,
Sắc lệnh số 45 về cấm xuất khẩu thóc gạo đợc ban hành; Điều 1 của Sắc
lệnh quy định: "Từ ngày ký Sắc lệnh này cho đến khi có lệnh mới, khắp
toàn cõi Việt Nam, cấm hẳn việc xuất cảng ra ngoại quốc thóc, gạo, ngô, đỗ
hoặc các chế phẩm thuộc về ngũ cốc [3, tr. 145]. Tiếp sau đó, ngày
25/2/1946, Nhà nớc ban hành tiếp Sắc lệnh số 26 về trừng trị tội phá hoại
công sản, điều 1 quy định:


Ketnooi.com din n chia s kin thc, cụng ngh

15

Sẽ bị phạt từ 2 năm đến 10 năm tù và có thể bị xử tử
những ngời phạm trong những tội sau đây, bất cứ chính phạm hay
tòng phạm:
1. Cố ý phá hoại một phần hay toàn thể các cầu cống, kênh
hay sông đào, vận hà, nông giang thuộc công ích, đờng xe lửa và
những kiến trúc thuộc về xe lửa, cùng các đờng giao thông công
hay t, đờng bộ hay đờng thủy, đê đập, các công sở kho tàng hoặc

các nhà máy điện, máy nớc.
2. Cố ý hủy hoại hoặc ăn trộm các dây điện thoại hay
điện tín cùng các cột dây điện và dây thép.
3. Đặt ở các nơi nói trên cơ giới, khí cụ dùng để giết ngời
hay tác liệt [1, tr. 113].
Ngày 28/2/1946, Sắc lệnh số 27 đợc ban hành nhằm trừng trị các tội
bắt cóc, tống tiền và ám sát quy định: "Những ngời phạm tội bắt cóc, tống
tiền và ám sát sẽ bị phạt từ 2 năm đến 10 năm tù và có thể bị xử tử" [3, tr. 79].
Có thể nói, từ ngày Cách mạng tháng Tám thành công đến ngày
toàn quốc kháng chiến, hoạt động lập pháp hình sự của nhà nớc ta diễn ra
rất dồn dập và phong phú, nhằm tăng cờng sức mạnh chuyên chính đối với
các kẻ thù của chính quyền non trẻ, các văn bản quy phạm pháp luật hình
sự đợc ban hành đã thể hiện rõ chính sách phân hóa hình sự của Nhà nớc
ta. Mặc dù cha đa ra quy phạm định nghĩa các tội xâm phạm ANQG nhng
các văn bản pháp luật đợc ban hành đã đề cập đến hành vi "làm phơng hại
đến nền độc lập của nớc Việt Nam dân chủ cộng hòa" chính là hành vi cấu
thành tội xâm phạm ANQG nh cách hiểu trong Luật hình sự hiện hành.
Ngoài các hành vi trên, Nhà nớc ta còn quy định những hành vi nguy hiểm
cho xã hội xâm phạm lợi ích của Nhà nớc Việt Nam dân chủ cộng hòa trên
các lĩnh vực Giao thông, Thủy lợi, Bu điện và an toàn chung của xã hội mà
sau đó đợc gọi là các tội khác xâm phạm ANQG trong BLHS năm 1985.


Ketnooi.com din n chia s kin thc, cụng ngh

16

Chúng tôi không đi sâu phân tích nhóm các tội này vì không thuộc phạm vi
nghiên cứu của đề tài luận án.
Có thể rút ra nhận xét, thời kỳ này các nhà làm luật đã ý thức rõ sự

phân biệt giữa nhóm các tội xâm phạm ANQG có mục đích chống chính
quyền nhân dân với những hành vi khác xâm phạm ANQG nhng không có
mục đích này. Bên cạnh những văn bản quy phạm pháp luật hình sự mới đợc ban hành, nhà nớc dân chủ mới còn cho phép áp dụng một số điều
khoản của pháp luật hình sự cũ phục vụ cho ổn định trật tự xã hội mới
trong lúc cha xây dựng kịp các văn bản mới với lu ý rằng việc áp dụng một
số điều khoản đợc quy định trong An Nam Hoàng việt hình luật và Bộ hình
luật tu chính phải đảm bảo điều kiện là nội dung không trái với nguyên tắc
độc lập của nớc Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa.
Ngày 19/12/1946, toàn quốc bớc vào cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp. Với chính sách rất thâm độc là "dùng ngời Việt đánh ngời Việt,
lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" thực dân Pháp đã sử dụng bọn phản động,
gian ác nhất trong các đảng phái phản động, trong bọn phản động lợi dụng
Thiên chúa giáo, Phật giáo, bọn địa chủ, cờng hào gian ác và bọn lu manh,
côn đồ để chống phá cách mạng, tăng cờng hoạt động do thám nhằm tiêu
diệt bộ phận đầu não của cách mạng, tiêu diệt lực lợng vũ trang nhân dân.
Về kinh tế, thực dân Pháp tích cực phá hoại kết cấu hạ tầng ở vùng kháng
chiến, tung nhiều hàng ngoại hóa vào vùng tự do để lũng đoạn thị trờng. Trớc tình hình đó, từ ngày 15 đến 17/1/1948, Hội nghị Trung ơng Đảng mở
rộng đã ra Nghị quyết chuyển cuộc kháng chiến sang giai đoạn mới. Nghị
quyết đề cập đến nhiều vấn đề quan trọng, trong đó nhấn mạnh nhiệm vụ
chống chính quyền bù nhìn và phá "hội tề". Ngày 19/1/1948, Ban Thờng vụ
Trung ơng Đảng ra chỉ thị về "phá hội tề" đã xác định chủ trơng đối với hội
tề cũng nh đối với mọi tổ chức bù nhìn là phải tìm hết cách phá, đồng thời
củng cố cơ quan, chính quyền cách mạng ngay trong lòng địch. Thời kỳ này,


Ketnooi.com din n chia s kin thc, cụng ngh

17

Nhà nớc đã ban hành nhiều Sắc lệnh và chính sách nhằm củng cố chính

quyền dân chủ nhân dân trong các vùng tự do, đẩy mạnh công cuộc kháng
chiến, giành độc lập thống nhất cho dân tộc.
Từ năm 1948, thực dân Pháp tăng cờng hoạt động do thám, gián
điệp, chúng chú trọng tung gián điệp vào nội bộ các cơ quan kháng chiến,
các đơn vị quân đội. Nhiều cơ quan, đơn vị mất cảnh giác đã để lộ tài liệu
hoặc để cho bọn do thám hoạt động gây tác hại lớn. Trớc tình hình đó, Ban
Thờng vụ Trung ơng Đảng ra Chỉ thị số 25-CT-TW ngày 25/9/1948 về việc
"Đề phòng gián điệp chui vào hàng ngũ Đảng và các cơ quan chính quyền".
Đồng thời, Nhà nớc đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hình sự
quy định trách nhiệm hình sự với các tội xâm phạm ANQG, cụ thể hóa các
chủ trơng chính sách của Đảng về đấu tranh chống phản cách mạng, bảo vệ
an toàn các cơ quan lãnh đạo và góp phần đảm bảo cho cuộc kháng chiến
thắng lợi. Ngoài hình phạt chính, để cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình
phạt, xử lý ngời phạm tội gián điệp hay phản quốc một cách triệt để, Sắc
lệnh 146 ngày 2/3/1948 quy định: "Các Tòa án quân sự và Tòa án binh khi
xử một vụ gián điệp hay phản quốc bắt buộc phải tuyên ngoài hình phạt
chính theo luật hiện hành, hình phạt phụ là tịch thu một phần hay tất cả gia
sản của phạm nhân" [3, tr. 215]. Đáng chú ý, Nhà nớc ta đã ban hành hàng
loạt Sắc lệnh quy định về việc giữ gìn bí mật nh Sắc lệnh 95 ngày 13/8/1949
về bí mật kinh tế; Sắc lệnh 128 ngày 17/7/1950 về bí mật công văn, th tín;
Sắc lệnh số 154 ngày 17/11/1950 về bí mật cơ quan, bí mật công tác của
Chính phủ; Sắc lệnh số 69 ngày 10/12/1951 về bí mật của Nhà nớc. Đặc
biệt, Sắc lệnh số 69 đã quy định cụ thể những hành vi dới đây sẽ bị truy tố
trớc Tòa án nh tội phản quốc:
1- Cố ý tiết lộ hoặc bán bí mật quốc gia cho địch, hay là cho tay sai
của địch.
2- Lợi dụng bí mật quốc gia để lấy lợi.


Ketnooi.com din n chia s kin thc, cụng ngh


18

3- Dò xét bí mật quốc gia, mua, lấy cắp những tài liệu bí mật quốc
gia [3, tr. 133].
Ngày 21/1/1949, Ban Thờng vụ Trung ơng ra Thông tri về việc
"Pháp mua chuộc công an làm gián điệp", căn cứ vào chỉ thị của Đảng, lực
lợng bảo vệ chính trị đã thực hiện công tác chống nội gián trong các cơ
quan kháng chiến, rà soát nội bộ, bảo vệ lực lợng, ngăn chặn các cơ quan
gián điệp Pháp đánh ngời vào công an. Những tên gián điệp bị phát hiện ở
thời kỳ này, đều bị xét xử về tội phản quốc.
Nhà nớc còn ban hành một số văn bản pháp luật quy định trách
nhiệm hình sự về những tội phạm mà sau này trong bộ luật hình sự năm
1985 đợc gọi là các tội khác xâm phạm ANQG. Ví dụ Sắc lệnh số 180 ngày
20/12/1950 về việc trừng trị các tội phá hoại tiền tệ, phá hoại giấy bạc Việt
Nam quy định:
- Những ngời đầu cơ tiền tệ làm giấy bạc giả, lu hành
giấy bạc giả, tàng trữ hay lu hành những giấy bạc của địch hay đã
có lệnh cấm hoặc có những hành động cố tình phá hoại nền tài
chính quốc gia sẽ bị truy tố trớc Tòa án quân sự.
- Những ngời không chịu tiêu những tiền của Chính phủ
đã cho phép lu hành hoặc từ chối không tiêu số tiền rách từ 100
đồng trở lên sẽ bị phạt tù từ 1 tháng đến 1 năm và tiền từ 500
đồng đến 10.000 đồng hoặc một trong hai hình phạt ấy.
Những vụ phạm pháp nói trên trong điều này thuộc thẩm
quyền của Tòa án thờng [3, tr. 132].
Năm 1953, tình hình và nhiệm vụ cụ thể của cách mạng có những
thay đổi nhất định, trên cơ sở tổng kết, rút kinh nghiệm thực tiễn đấu tranh
chống bọn phản cách mạng, Nhà nớc ta đã ban hành Sắc lệnh số 133 ngày
20/1/1953 qui định trừng trị những tội phạm xâm hại đến an toàn nhà nớc,

đối nội và đối ngoại. Khái niệm "những ngời phạm một việc gì... có phơng hại


Ketnooi.com din n chia s kin thc, cụng ngh

19

đến nền độc lập của nớc Việt Nam dân chủ cộng hòa..." đợc quy định trong
Sắc lệnh số 21 ngày 14/2/1946 đợc thay bằng khái niệm xâm phạm an toàn
Nhà nớc về đối nội và đối ngoại. Điều 1 của Sắc lệnh 133 qui định: "Để củng
cố chính quyền dân chủ nhân dân, đẩy mạnh cuộc kháng chiến giành độc
lập, thống nhất cho dân tộc, nay ban hành Sắc lệnh này nhằm mục đích
trừng trị các loại việt gian, phản động và xét xử những âm mu và hành động
phản quốc". Sắc lệnh số 133 đã đạt đợc bớc tiến bộ về kỹ thuật lập pháp,
chỉ rõ những quan hệ xã hội cụ thể có tầm quan trọng nhất bị hành vi phạm
tội xâm phạm tới - là cơ sở để xây dựng nhóm khách thể của các tội đặc
biệt nguy hiểm xâm phạm ANQG sau này. Đây là một văn bản pháp luật
hình sự tơng đối hoàn chỉnh, qui định nguyên tắc có tính chất phân hóa của
Nhà nớc ta trong xử lý các tội phạm. Theo chúng tôi, những nguyên tắc và
điểm mới của Sắc lệnh đó thể hiện nh sau:
a) Đề cao nguyên tắc trừng trị có phân hóa: nghiêm trị bọn chủ mu,
cầm đầu, bọn ngoan cố, khoan hồng đối với những ngời bị lừa phỉnh, bị ép
buộc, lầm đờng (Điều 2)
b) Các hành vi hoạt động phản cách mạng đợc phân thành 9 loại tội
phạm cụ thể, đó là:
1- Tội cấu kết với địch (đế quốc xâm lợc và bù nhìn phản động),
cầm đầu những tổ chức quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, phản bội
Tổ quốc (Điều 3).
2- Tội vây quét, bắt giết, tra tấn, khủng bố, hãm hiếp cán bộ và nhân
dân, áp bức bóc lột, cớp phá nhân dân, bắt phu, bắt lính, thu thuế cho địch

(Điều 4).
3- Tội tổ chức lực lợng vũ trang làm loạn chống lại chính quyền dân
chủ nhân dân, khủng bố nhân dân (Điều 5).


Ketnooi.com din n chia s kin thc, cụng ngh

20

4- Tội tham gia các đảng phái, các tổ chức việt gian, phản động, tuyên
truyền lôi kéo nhân dân theo địch, hoặc hoạt động gián điệp cho địch (Điều
6).
5- Tội làm gián điệp cho địch nh:
- Làm nội gián trong các tổ chức quân, dân, chính.
- Cố ý tiết lộ hoặc bán bí mật quốc gia cho địch;
- Dò xét bí mật quốc gia
- Mua, cớp, lấy cắp những tài liệu bí mật quốc gia.
- Làm dấu hiệu cho địch bắn phá hoặc lùng bắt cơ quan, cán bộ,
nhân dân.
- Làm liên lạc, đa th, tài liệu, tin tức, đa ngời cho địch (Điều 7).
6- Tội cản trở hoặc xúi giục, vận động nhân dân chống sự thực hiện
chủ trơng, chính sách và những cuộc vận động của Chính phủ và Mặt trận
vì mục đích phản quốc (Điều 8).
7- Tội phá hoại nền kinh tế, tài chính quốc gia vì mục đích phản
quốc qui định ở Điều 9 và Điều 10 gồm các hành vi cụ thể:
- Làm, tàng trữ, lu hành giấy bạc Việt Nam giả.
- Tàng trữ, hoặc lu hành giấy bạc của địch hay của bù nhìn đã bị cấm.
- Mua bán có tính chất phá giá, làm ảnh hởng đến vật giá ở thị trờng;
- Phá hoại tiền tệ;
- Mua thóc gạo và các thực phẩm khác tiếp tế cho địch hay để thiêu

hủy.
- Bỏ thuốc độc, gieo rắc vi trùng, sâu bọ hoặc dùng cách nào khác
gây bệnh, phá hoại lơng thực và mùa màng.


Ketnooi.com din n chia s kin thc, cụng ngh

21

- Cớp, phá các công trình quân sự, thủy lợi, đê điều, kho tàng, công
xởng, cắt đờng dây điện tín, điện thoại, các phơng tiện giao thông vận tải.
8- Tội tuyên truyền cổ động cho địch biểu hiện cụ thể là:
- Phao tin đồn nhảm làm cho nhân dân hoang mang.
- Bất cứ cách gì để tuyên truyền cho chính sách, áp bức, bóc lột, lừa
phỉnh của địch.
- Đầu độc, trụy lạc nhân dân bằng văn hóa nô dịch.
- Tuyển mộ ngụy binh hay mộ phu cho địch.
- Dụ dỗ bộ đội, cán bộ, nhân dân bỏ hàng ngũ kháng chiến đi theo
địch (Điều 11).
9- Tội phá hoại sự đoàn kết kháng chiến của các dân tộc trong nớc,
các tầng lớp nhân dân, các tôn giáo, các đảng phái và đoàn thể dân chủ,
chia rẽ nhân dân với Chính phủ, chia rẽ nhân dân Việt Nam với các nớc bạn
Miên, Lào, phá hoại tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân
Liên Xô và các nớc dân chủ nhân dân khác (Điều 12).
Nh vậy, cấu thành của các tội phạm đợc nêu ra từ Điều 3 cho đến
Điều 7 không nêu ra dấu hiệu mục đích phản quốc, nhng các hành vi này
uy hiếp trực tiếp đến sự tồn tại của chính quyền nhân dân, đã thể hiện rõ
ràng mục đích chống cách mạng, chống lại Tổ quốc của kẻ phạm tội.
Những tội còn lại nh chống lại các chủ trơng chính sách của Chính phủ
(Điều 8), phá hoại kinh tế, tài chính (Điều 9), phá hoại cơ sở vật chất và môi

sinh (Điều 10), tuyên truyền và cổ động cho địch (Điều 11); phá hoại khối
đoàn kết kháng chiến (Điều 12) là những tội uy hiếp sự vững mạnh của
chính quyền nhân dân, hành vi khách quan có đặc điểm giống với các hành
vi cấu thành các tội phạm khác, vì vậy để phân biệt với chúng, các nhà làm
luật đã nêu ra dấu hiệu "mục đích phản quốc" hoặc "cho địch" trong cấu
thành tội phạm.


Ketnooi.com din n chia s kin thc, cụng ngh

22

c) Căn cứ vào mức độ và tính chất nguy hiểm của hành vi (hoạt
động đắc lực, làm hại nhiều, tội trạng tơng đối nhẹ), vai trò của bị cáo (chủ
mu, tổ chức, chỉ huy, bọn tay chân đắc lực, bọn đỡ đầu hay giúp đỡ, bọn tay
chân thờng, bọn hùa theo), Sắc lệnh 133 quy định các khung hình phạt có
mức độ nghiêm khắc tơng ứng. Ngoài ra, Sắc lệnh cũng quy định những trờng hợp ngời phạm tội đợc xét xử một cách khoan hồng (giảm nhẹ tội hoặc
tha bổng).
d) Mức hình phạt tù cao nhất đợc nâng lên tù chung thân, qui định
hình phạt phụ tớc quyền tự do.
đ) Cho phép áp dụng nguyên tắc tơng tự để xét xử những hành vi
phạm tội phản quốc khác nhng cha đợc quy định trong Sắc lệnh này.
Với mục đích phân hóa triệt để kẻ thù, Nhà nớc đã khẳng định
chính sách khoan hồng đối với ngụy binh và nhân viên ngụy quyền bỏ hàng
ngũ địch trở về với nhân dân; đồng thời ban hành chính sách dân tộc
(Thông t số 281-Ttg ngày 22/6/1953) và chính sách tôn giáo (Thông t số
315-Ttg ngày 4/10/1953).
Thực hiện chủ trơng cải cách ruộng đất, xóa bỏ chế độ chiếm hữu
ruộng đất của địa chủ phong kiến và cơ sở chính trị, xã hội của chế độ đó ở
nớc ta là nhiệm vụ cấp bách thứ hai của cách mạng dân tộc dân chủ trong

thời kỳ này. Về pháp luật hình sự, Nhà nớc ta đã Ban hành Sắc lệnh số 89
ngày 22/5/1950 quy định việc trừng trị đối với những kẻ dùng thủ đoạn man
trá hoặc đầu cơ, bóc lột để cho vay. Ngày 4/12/1953, Nhà nớc ta đã thông qua
luật cải cách ruộng đất, tuyên bố tịch thu toàn bộ ruộng đất và tài sản của thực
dân Pháp và bọn đế quốc xâm lợc khác. Đối với địa chủ việt gian thì tùy tội
nặng nhẹ mà tịch thu toàn bộ hay một phần ruộng đất, nông cụ, lơng thực
thừa, nhà cửa thừa hay tài sản khác, phần không tịch thu thì trng thu. Để đảm
bảo việc thi hành chính sách cải cách ruộng đất, giữ gìn trật tự xã hội, củng cố


Ketnooi.com din n chia s kin thc, cụng ngh

23

chính quyền nhân dân, đẩy nhanh cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng
lợi, Sắc lệnh số 151 đợc ban hành ngày 12/4/1953 quy định:
Trừng trị những địa chủ chống pháp luật trong khi và ở
những nơi phát động quần chúng thi hành chính sách ruộng đất
nhằm mục đích giữ gìn tính mệnh và tài sản của nhân dân,
nghiêm cấm mọi hành động phá hoại của địa chủ không tuân luật
pháp, giữ gìn trật tự cách mạng, củng cố khối đoàn kết kháng
chiến của nhân dân [3, tr. 98].
Nội dung Sắc lệnh 151 có 5 điều quy định tội danh và hình phạt tơng ứng, đó là:
1- Tội chống chính sách ruộng đất: dùng thủ đoạn trái phép để cỡng
bức nộp tô hoặc trả nợ cũ, lấy lại ruộng đất, nhà cửa, đuổi ngời làm công.
2- Tội phân tán tài sản, của cải, ruộng đất bằng cách cầm, bán, cho,
chia gia tài hoặc các thủ đoạn lén lút khác.
3- Tội phá hoại tài sản nh: giết hại hay làm bị thơng các súc vật, phá
hoại lơng thực, đồ đạc, nông cụ, cây cối, hoa màu, ruộng đất, công trình
thủy lợi... để gây thiệt hại cho nông dân và làm hại cho sản xuất.

4- Tội bịa đặt tin bậy để gây d luận chống Chính phủ, chống pháp
luật. Dùng thủ đoạn gây xung đột trong nội bộ nông dân làm tổn hại đến sự
đoàn kết của nhân dân; dùng tiền của hoặc những thủ đoạn khác để mua
chuộc, uy hiếp cán bộ và nhân dân, chui vào cơ quan, chính quyền, nông
hội với ý định phá hoại việc thi hành chính sách ruộng đất; dùng mọi thủ
đoạn lừa bịp, uy hiếp để cớp lại những lơng thực, tài sản, ruộng đất của
nông dân đã do đấu tranh mà giành đợc.
5- Tội cấu kết với đế quốc, ngụy quyền, gián điệp, thành lập hay
cầm đầu, những tổ chức đảng phái phản động để chống Chính phủ, phá
hoại kháng chiến, làm hại nhân dân, giết hại nông dân, cán bộ và nhân


Ketnooi.com din n chia s kin thc, cụng ngh

24

viên; cấu kết với đế quốc, ngụy quyền thành lập các tổ chức vũ trang hay
bạo động, đánh bị thơng, đánh chết, ám sát nông dân, cán bộ và nhân viên;
đốt phá nhà cửa, kho tàng, lơng thực, hoa màu, công trình thủy lợi; xúi giục
hay cầm đầu một số ngời để gây phiến loạn.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ đợc ký kết,
miền Bắc bớc sang giai đoạn cách mạng XHCN, đồng thời tiếp tục chống
đế quốc Mỹ xâm lợc, nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trên
phạm vi cả nớc, tiến tới thống nhất Tổ quốc. Đáp ứng yêu cầu bảo vệ
ANQG trong giai đoạn mới, Nhà nớc đã ban hành Sắc lệnh số 267 ngày
15/6/1956 trừng trị những âm mu và hành động phá hoại tài sản của Nhà nớc, của hợp tác xã, của nhân dân và cản trở việc thực hiện chính sách kế
hoạch Nhà nớc. Điều 1 của Sắc lệnh này quy định:
Để góp phần vào việc bảo vệ sự nghiệp xây dựng kinh tế
và văn hóa, nay ban hành Sắc lệnh này nhằm trừng trị những âm
mu, hành động phá hoại hoặc làm thiệt hại đến tài sản nhà nớc,

của hợp tác xã và của nhân dân, làm cản trở việc thực hiện chính
sách, kế hoạch xây dựng kinh tế và văn hóa [3, tr. 115].
Sắc lệnh 267 qui định nghiêm trị những kẻ vì mục đích phá hoại có
những hành vi sau đây:
- Trộm cắp, lãng phí, làm hỏng, hủy hoại, cớp bóc tài sản của Nhà
nớc, của hợp tác xã và của nhân dân.
- Tiết lộ, đánh cắp, mua bán, do thám bí mật nhà nớc.
- Cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch kinh tế và văn hóa của
Nhà nớc bằng bất cứ cách nào nh: tuyên truyền chống chính sách, chống kế
hoạch, phao đồn tin bịa gây sự nghi ngờ, hoang mang trong quần chúng;
hành động chống chính sách, chống kế hoạch; không làm hoặc làm sai công
việc mình phụ trách; làm gián đoạn công việc thờng xuyên; kìm hãm sự


Ketnooi.com din n chia s kin thc, cụng ngh

25

phát triển của một bộ phận, một ngành hoạt động; gây mâu thuẫn, chia rẽ
nội bộ công nhân viên, cán bộ, xã viên hoặc chia rẽ nhân dân và cán bộ.
So sánh với các văn bản quy phạm pháp luật hình sự đợc ban hành
trớc đó, nội dung cấu thành tội phạm của các tội đợc quy định tại các điều
2, 3, 4 của Sắc lệnh 267 có rất nhiều điểm tơng đồng với nhóm các tội uy
hiếp đến sự vững mạnh của chính quyền, trong đó dấu hiệu "mục đích phá
hoại" đã đợc thay thế cho dấu hiệu "mục đích phản quốc". Hơn nữa, trong
Sắc lệnh 267, các tội có "mục đích phá hoại" đã đợc phân biệt với các tội có
hành vi khách quan tơng tự nhng đợc thực hiện với mục đích khác nh tham
lam, t lợi (Điều 7), thiếu tinh thần trách nhiệm (Điều 10). Có thể nói, đây là
bớc tiến rõ rệt trong kỹ thuật lập pháp hình sự nớc ta qui định trách nhiệm
hình sự với các tội xâm phạm ANQG.

Tại khóa họp tháng 3/1955, Quốc hội nớc Việt Nam dân chủ cộng hòa
đã quyết định 6 nguyên tắc bảo đảm tự do tín ngỡng, nhng đồng thời cũng
chỉ rõ: "phải trừng trị những phần tử lợi dụng tôn giáo để chống chế độ". Căn
cứ vào nguyên tắc đó, ngày 14/6/1955, Nhà nớc ta đã ban hành Sắc lệnh số 234
về chính sách tôn giáo. Điều 7 của Sắc lệnh quy định:
Pháp luật sẽ trừng trị những kẻ mợn danh nghĩa tôn giáo
để phá hoại hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, tuyên truyền
chiến tranh, phá hoại đoàn kết, ngăn trở tín đồ làm nghĩa vụ công
dân, xâm phạm đến tự do tín ngỡng và tự do t tởng của ngời khác,
hoặc làm những việc khác trái pháp luật [3, tr. 72].
Ngày 24/1/1957, Quốc hội đã ban hành ba đạo luật về tự do báo chí,
tự do lập hội, tự do hội họp. Trong các đạo luật đó đều có những điều khoản
quy định việc trừng trị những kẻ lợi dụng các quyền tự do dân chủ để hoạt
động chống chế độ. Điều 7 luật tự do hội họp quy định:
Ngời nào lợi dụng quyền tự do hội họp để hoạt động trái
pháp luật, chống lại chế độ, chống lại chính quyền dân chủ nhân


Ketnooi.com din n chia s kin thc, cụng ngh

26

dân, chia rẽ dân tộc, phá tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân
dân các nớc, tuyên truyền chiến tranh, âm mu phá hoại sự nghiệp
đấu tranh cho hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, hành động
có phơng hại đến trật tự an ninh chung hoặc thuần phong mỹ tục
sẽ bị truy tố trớc Tòa án [3, tr. 64].
Nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật hình sự giai đoạn 1945 1960, chúng ta có thể rút ra ba nhận xét sau:
Thứ nhất, pháp luật hình sự trong giai đoạn này mang tính chất thời
chiến nhng đã kịp thời quy định hầu hết các hành vi xâm phạm ANQG là

tội phạm (tội phạm hóa), những biện pháp trách nhiệm tơng xứng để trừng
phạt, trấn áp ngời nào thực hiện hành vi đó (hình sự hóa), từ đó góp phần
vào việc đấu tranh chống thực dân Pháp và bọn tay sai.
Thứ hai, các tội xâm phạm ANQG đợc quy định tản mạn trong nhiều
văn bản đơn hành dẫn tới khó khăn trong việc thống nhất áp dụng pháp
luật. Một số văn bản quy phạm pháp luật hình sự còn bộc lộ nhợc điểm về
kỹ thuật lập pháp hình sự nh chỉ nêu nguyên tắc mà không quy định tội
phạm và hình phạt (Sắc lệnh số 234, ba đạo luật về tự do báo chí, tự do lập
hội, tự do hội họp).
Thứ ba, ngày từ thời kỳ này, các nhà làm luật đã có ý thức phân biệt
rõ rệt nhóm các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm ANQG với các nhóm tội
xâm phạm ANQG khác.
Giai đoạn 1960 - 1975
Sau những thắng lợi cơ bản của thời kỳ khôi phục và cải tạo nền
kinh tế, miền Bắc bắt tay vào việc xây dựng những cơ sở kinh tế và kỹ thuật
đầu tiên của chủ nghĩa xã hội, tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần để chi
viện cho cách mạng miền Nam. ở miền Nam, sau những vụ đàn áp tàn khốc
của Mỹ - Ngụy, nhân dân ta đã tiến hành những cuộc khởi nghĩa từng phần


Ketnooi.com din n chia s kin thc, cụng ngh

27

kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, đồng thời từng bớc
chuyển sang chiến tranh cách mạng, cuối cùng giành chính quyền toàn miền.
Trớc yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng
mới, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ hậu phơng miền Bắc XHCN đã đợc
Đảng và Nhà nớc ta quan tâm. Trong thời kỳ này, ngoài việc ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật hình sự quy định việc trừng trị các tội xâm phạm

ANQG, ủy ban Thờng vụ Quốc hội còn ban hành Nghị quyết số 49 ngày
20/5/1961 về việc tập trung, giáo dục những phần tử phản cách mạng ngoan
cố có hành động phơng hại đến an ninh chung, nhng xét không cần đa ra
Tòa án nhân dân để xử phạt. Việc giáo dục, cải tạo những phần tử này đợc
thực hiện theo phơng châm kết hợp lao động với giáo dục chính trị, cải tạo
t tởng để trở thành ngời lơng thiện.
Năm 1964, đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc,
tăng cờng các hoạt động tình báo, gián điệp, chiến tranh tâm lý nhằm thực
hiện chính sách xâm lợc của chúng. Trớc những âm mu, phơng thức, thủ đoạn
chống phá cách mạng mới của bọn phản cách mạng, những văn bản quy
phạm pháp luật hình sự quy định các tội xâm phạm ANQG đã bộc lộ những
nhợc điểm nhất định, so với yêu cầu đấu tranh phòng, chống loại tội phạm
này trong giai đoạn mới. Vào thời điểm quyết liệt của cuộc kháng chiến
chống đế quốc Mỹ xâm lợc, ủy ban Thờng vụ Quốc hội đã ban hành Pháp
lệnh trừng trị các tội phản cách mạng và Hồ Chủ tịch đã ký Lệnh công bố
ngày 30/10/1967. Nghiên cứu Pháp lệnh này, chúng ta có thể rút ra một số
nhận xét sau đây:
Một là, sự ra đời của Pháp lệnh này là một sự kiện pháp lý quan
trọng trong đời sống pháp luật nớc ta. Nó là công cụ sắc bén để tăng cờng
chuyên chính đối với kẻ thù của nhân dân ta, dân tộc ta. Nội dung Pháp
lệnh trừng trị các tội phản cách mạng là sự phát triển có kế thừa và hoàn


Ketnooi.com din n chia s kin thc, cụng ngh

28

thiện một bớc quan trọng các quy định về cấu thành tội phạm của các tội
xâm phạm ANQG và hình phạt với các tội phạm đó.
Hai là, khái niệm "mục đích phản cách mạng" đợc sử dụng, thay thế

các khái niệm "mục đích phản quốc" trong Sắc lệnh số 133 và khái niệm
"mục đích phá hoại" trong Sắc lệnh số 267. Lần đầu tiên, Pháp lệnh nêu lên
khái niệm tội phản cách mạng tại Điều 1:
Tội phản cách mạng là tội chống lại Tổ quốc, chống lại
chính quyền dân chủ nhân dân, phá hoại công cuộc cải tạo xã hội
chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, phá hoại quốc phòng,
phá hoại sự nghiệp chống Mỹ cứu nớc, bảo vệ miền Bắc, giải
phóng miền Nam, thực hiện hòa bình thống nhất nớc nhà [39, tr.
153].
Cần chú ý rằng, về mặt pháp lý, tội phản cách mạng là một thể thống
nhất giữa ý thức và hành động chống lại cách mạng của kẻ phạm tội. Do
đó, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, phải làm rõ mục đích của kẻ
phạm tội, nó là yếu tố cần thiết, không thể thiếu đợc, về mặt chủ quan của
kẻ phạm tội. Xác định rõ mục đích của kẻ phạm tội là cơ sở để phân biệt
hành vi phản cách mạng với hành vi không phải phản cách mạng (nh phân
biệt phản tuyên truyền, phao đồn tin nhảm gây hoang mang trong quần
chúng vì mục đích phản cách mạng với phản tuyên truyền, phao đồn tin
thất thiệt vì t lợi, vì kém giác ngộ...).
Ba là, căn cứ vào khách thể trực tiếp bị xâm hại, Pháp lệnh đã quy
định 15 loại tội phản cách mạng. Việc các tội phạm đó đều có tiêu đề về tội
danh và đợc mô tả rõ ràng, chặt chẽ cho thấy đây là một bớc tiến lớn về mặt
kỹ thuật lập pháp. Các cấu thành tội phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng
nặng, cấu thành tội phạm giảm nhẹ đợc quy định cụ thể đối với một số tội
phạm tùy thuộc vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã


Ketnooi.com din n chia s kin thc, cụng ngh

29


thực hiện, vị trí, vai trò của kẻ phạm tội, mức độ thiệt hại gây ra cho cách
mạng. Ngoài ra, Pháp lệnh này còn có quy định mang tính nguyên tắc
chung của chính sách hình sự mở ra một giai đoạn phát triển mới của pháp
luật hình sự Việt Nam.
Các tội trong Pháp lệnh đợc sắp xếp dựa vào tính chất và mức độ
nghiêm trọng cho xã hội của hành vi và có thể chia thành hai nhóm:
- Nhóm tội trực tiếp xâm phạm an ninh đối nội, an ninh đối ngoại
của Nhà nớc bao gồm 7 tội đợc quy định từ Điều 3 đến Điều 9 của Pháp
lệnh. Đó là các tội: 1- Tội phản quốc (Điều 3); 2- Tội âm mu lật đổ chính
quyền dân chủ nhân dân (Điều 4); 3- Tội gián điệp (Điều 5); 4- Tội xâm
phạm an ninh lãnh thổ (Điều 6); 5- Tội bạo loạn (Điều 7); 6- Tội hoạt động
phỉ (Điều 8); 7- Tội trốn theo địch hoặc vì mục đích phản cách mạng mà
trốn ra nớc ngoài (Điều 9).
- Nhóm tội làm suy yếu chính quyền, chế độ, kinh tế, văn hóa, xã
hội bao gồm 7 tội đợc quy định từ Điều 10 đến Điều 16 của Pháp lệnh. Đó
là các tội: 1- Tội giết ngời, đánh ngời, gây thơng tích, bắt giữ ngời, dọa giết
ngời vì mục đích phản cách mạng (Điều 10); 2- Tội phá hoại (Điều 11); 3Tội phá hoại khối đoàn kết toàn dân (Điều 12); 4- Tội chống lại hoặc phá
hoại việc thực hiện các chính sách, pháp luật của Nhà nớc (Điều 13); 5- Tội
phá rối trật tự, an ninh (Điều 14); 6- Tội tuyên truyền phản cách mạng
(Điều 15); 7- Tội phá trại giam, đánh cớp can phạm, tổ chức vợt trại giam,
trốn tù (Điều 16).
Nghiên cứu cấu thành tội phạm của các tội đợc quy định trong Pháp
lệnh, có thể thấy rõ những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trng của từng tội cụ
thể nh sau:


×