Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

ĐỀ CƯƠNG cơ sở văn hóa VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.58 KB, 21 trang )

ĐỀ CƯƠNG CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM.
Câu 1: Khái niệm văn hóa, văn vật, văn hiến, văn minh. Phân biệt văn hóa với
các khái niệm này và cho ví dụ.
* Khái niệm:
- Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người
với môi trường tự nhiên và xã hội.
- Văn hiến là truyền thống văn hóa lâu đời.
- Văn vật là truyền thống văn hóa biểu hiện ở nhiều nhân tài và di tích lịch sử.
- Văn minh là chỉ cho ta biết trình độ phát triển của văn hóa nhưng thiên về giá trị
vật chất kĩ thuật.
* Phân biệt văn hóa với các khái niệm và cho ví dụ:
- Phân biệt văn hóa với văn minh: Đây là những khái niệm gần gũi có liên quan tới
nhau nhưng không đồng nhất.
+ Văn hóa có chứa giá trị vật chất và tinh thần, văn hóa mang tính lịch sử, tính dân
tộc.
+ Văn minh chỉ cho ta biết trình độ phát triển của văn học nhưng thiên về giá trị vật
chất kĩ thuật.
+ Sự khác biệt giữa văn hóa với văn minh. Khác biệt về phạm vi: văn hóa mang tính
dân tộc, văn minh mang tính quốc tế. Khác biệt về nguồn gốc : văn hóa gắn bó
nhiều hơn với phương Đông, nông nghiệp, văn minh gắn liền với phương Tây đô
thị.
+ VD:
- Phân biệt văn hóa với văn hến, văn vật: văn hiến, văn vật chỉ là những khái niệm
bộ phận của “ văn hóa”, chúng khác văn hóa ở độ bao quát các giá trị: văn hiến là
văn hóa thiên nhiên về “truyền thống lâu đời”, mà truyền thống lâu đời còn lưu giữ
được chính là các giá trị tinh thần; còn văn vật là văn hóa thiên nhiên về các giá trị
vật chất( nhân tài, di tích, hiện vật) .
+ VD:
Câu 2: Các đặc trưng và chức năng tiêu biểu của văn hóa( lấy ví dụ dẫn chứng
minh họa.)



1


- Văn hóa trước hết có tính hệ thống là đặc trưng hàng đầu của văn hóa. Chính nhờ
tính hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một đối tượng bao trùm mọi hoạt động của
xã hội, thực hiện một trong ba chức năng cơ bản của mình là chức năng tổ chức xã
hội. Chính văn hóa thường xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã
hội mọi phương tiện cần thiết để ứng phó với môi trường tự nhiên và xã hội của
mình.
- Đặc trưng thứ 2 của văn hóa là tính giá trị. Văn hóa có nghĩa là “ trở thành đẹp, trở
thành có giá trị” văn hóa chỉ chứa cái đẹp, chứa các giá trị. Nó là thước đo mức độ
nhân bản của xã hội và con người. Đặc trưng tính giá trị cho phép phân biệt văn hóa
với hậu quả của văn hóa hoặc những hiện tượng phi văn hóa. Các giá trị văn hóa
theo chất liệu có thể chia thành giá trị vật chất và giá trị tinh thần, theo ý nghĩa có
thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mĩ, theo thời gian có
thể chia thành giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất thời. Sự phân biệt các giá trị theo thời
gian cho phép ta có được cái nhìn biện chứng và khách quan trong việc đánh giá
tính giá trị của sự vật, hiện tượng. Tránh được những xu hướng cực đoan- phủ nhận
sạch trơn hoặc tán dương hết lời.
Chức năng điều chỉnh xã hội, giúp xã hội duy trì được trạng thái cân bằng động,
không ngừng tự hoàn thiện và thích ứng với những biến đổi của môi trường, giúp
định hướng các chuẩn mực, làm động lực cho sự phát triển của xã hội.
- Đặc trưng thứ 3 của văn hóa là tính nhân sinh. Tính nhân sinh cho phép phân biệt
văn hóa như một hiện tượng xã hội với các giá trị tự nhiên. Văn hóa là cái tự nhiên
được biến đổi bởi con người. Sự tác động của con người vào tự nhiên có thể mang
tính vật chất( luyện quặng, đẽo gỗ..) hoặc tinh thần( đặt tên, truyền thuyết cho các
quang cảnh thiên nhiên).
Do mang tính nhân sinh, văn hóa trở thành sợi dây nối liền con người với con
người, nó thực hiện cức năng giao tiếp và có tác dụng liên kết họ lại với nhau. Nếu

ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó.
- Đặc trưng thứ 4 của văn hóa là tính lịch sử. Nó cho phép phân biệt văn hóa như
sản phẩm của một quá trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ với văn minh như sản
phẩm cuối cùng, chỉ ra trình độ phát triển của từng giai đoạn. Tính lịch sử tạo nên
văn hóa một bề dày, một chiều sâu, nó buộc văn hóa thường xuyên phải điều chỉnh,
tiến hành phân loại và phân bố lại các giá trị. Tính lịch sử được duy trì bằng truyền
thống văn hóa.
Chức năng giáo dục là chức năng quan trọng thứ tư của văn hóa. Nhưng văn hóa
thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng những giá trị đã ổn định, mà còn bằng
2


cả những giá trị đang hình thành. Hai loại giá trị này tạo thành một hệ thống chuẩn
mực mà con người hướng tới. Nhờ nó mà văn hóa đóng vai trò quyết định trong
việc hình thành nhân cách. Từ chức năng giáo dục, văn hóa có chức năng phái sinh
là đảm bảo tính kế tục của lịch sử.
Câu 3: Sự du nhập của kitogiao vào Việt Nam và những ảnh hưởng của nó đến
văn hóa Việt Nam, trên hai phương diện van hóa vật chất và tinh thần.
- Kitô giáo du nhập vào Việt Nam từ khoảng giữa thế kỷ XVI. Trải qua nhiều biến
cố thăng trầm vì nhiều lý do chủ quan và khách quan, đến nay, số lượng tín đồ Kitô
giáo có khoảng bảy triệu người. Trong đó, khoảng sáu triệu người Công giáo và
khoảng 1 triệu người Tin Lành phân bố gần như khắp các vùng trên lĩnh thổ Việt
Nam.
- Kitô giáo đã có một số đóng góp đáng trân trọng, như đóng vai trò là cầu nối văn
hóa của Việt Nam với phương Tây, sáng tạo ra chữ quốc ngữ, du nhập ngành in và
báo chí vào Việt Nam, làm phong phú về kiến trúc, nghệ thuật, không gian thiêng,
thời gian thiêng trong văn hóa Việt nam. Tuy nhiên, cũng có những hạn chế nhất
định như, quá tự tôn, tự mãn, quá áp đặt văn hóa.
- Sự giao lưu đó đã làm văn hóa Việt Nam biến đổi mọi phương diện , lối tư duy
phân tích phương Tây đã bổ sung khá nhuần nhuyễn cho lối tư duy tổng hợp truyền

thống, ý thức về vai trò cá nhân được nâng cao dần bổ sung cho ý thức cộng đồng
truyền thống, đô thị ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, quá trình
đô thị hóa diễn ra ngày càng một nhanh hơn. Tất cả khiến cho lịch sử văn hóa Việt
Nam lật sang một tranh mới.
- Tư tưởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo đã ảnh hưởng vào trong đời sống văn hóa
của một bộ phận người Việt Nam. Cụ thể là những tư tưởng ấy đã ảnh hưởng đến
văn hóa nhận thức, văn hóa ứng xử và văn hóa tổ chức của những người tín đồ Kitô
giáo ở Việt Nam; sự ảnh hưởng đó đã tạo nên một sắc thái trong đời sống văn hóa
Việt Nam, góp phần cụ thể hóa hững chuẩn mực đạo đức của văn hóa Việt Nam,
làm phong phú thêm các quan niệm về nhân sinh quan, về những giá trị nhân văn và
đạo đức trong đời sống văn hóa Việt Nam.
Câu 4: Phong tục tang ma của người Việt( nghi lễ tiến hành, quan niệm triết lí
âm dương ngũ hành).
- Nghi lễ tiến hành:
Người Việt Nam có truyền thống văn hóa lâu đời chính vì vậy trong những việc
trọng đại như cưới xin, lễ tết, tang ma… người Việt có những nghi thức, phong tục
được lưu giữ qua bao đời nay.
3


Do cho rằng trong con người có phần xác và phần hồn, sau khi chết. linh hồn sẽ về
nơi "thế giới bên kia" và với thói quen sống bằng tương lai. Mặt khác là quan niệm
trần tục coi chết là hết nên việc tang ma là thương xót.
Người Việt Nam chuẩn bị khá chu đáo, kĩ càng cho cái chết của chính mình hoặc
của người thân. Các cụ già tự mình lo sắm cỗ hậu. Quan tài của ta làm hình vuông
tượng trưng cho cõi âm theo triết lí âm dương.
Khi trong nhà có người nhà hấp hối, việc quan trọng là đặt lên hèm (tên thụy) cho
người sắp chết. Đó là một tên mới (do người sắp chết tự đặt hoặc con cháu đặt cho)
mà chỉ có người chết, con cháu và thần Thổ công nhà đó biết mà thôi.
Khi cúng giỗ, con trưởng sẽ khấn bằng tên hèm. Thổ thần có trách nhiệm chỉ cho

phép linh hồn có "mật đanh" đúng như thế vào thôi (vì vậy, tên này còn gọi là tên
cúng cơm). Làm như vậy là đề phòng ngừa những cô hồn lang thang vào ăn tranh
cỗ cúng sau này.
Trước khi khâm liệm, phải làm lễ mộc đục (tắm gội cho người chết) và lễ phạn
hàm: bỏ một nhúm gạo nếp và ba đồng tiền vào miệng (gạo để dùng thay bữa, tiền
để đi đò - quan niệm của người vùng sông nước). Khi khâm liệm, phải có miếng vải
đắp mặt người chết để khỏi trông thấy cháu con sinh buồn.
Trong áo quan, từ thời Hùng Vương đã có tục chia tài sản cho người chết mang
theo. Ngày nay, người Việt vẫn để kèm trong áo quan các đồ vật tùy thân như quần
áo, gương lược. .. và hằng năm khi giỗ thì "gửi thêm" vàng (giấy), quần áo (giấy)....
Trước khi đưa quan tài đến nơi chôn cất, người ta cúng thần coi sóc các ngả đường
để xin phép đưa tang. Trên đường đi có tục rắc các thỏi vàng giấy làm lộ phí cho ma
quỷ để chúng khỏi quấy nhiễu. Đến nơi, làm lễ tế Thồ thần nơi đó để xin phép cho
người chết được nhập cư".
Chôn cất xong, trên nấm mộ đặt bát cơm, quả trứng, đôi đũa (cắm trên bát cơm),
nhiều nơi còn đặt thêm mớ bùi nhùi. Tục này mang ý nghĩa chúc tụng : mớ bùi nhùi
tượng trưng cho thế giới hỗn mang, trong hỗn mang hình thành nên thái cực (tượng
trưng bằng bát cơm), thái cực sinh ra lưỡng nghi (tượng trưng bằng đôi đũa), có
lưỡng nghi (âm dương) là có sự sống (tượng trưng bằng quả trứng).
Toàn bộ toát lên ý cầu chúc cho người chết sớm đầu thai trở lại. Nhiều nơi có tục
làm nhà mồ cho người chết với đủ những tiện nghi. vật dụng tối thiếu.
- Quan niệm triết lí âm dương ngũ hành:
Về màu sắc: Tang lễ Việt Nam truyền thống dùng màu trắng là màu của hành Kim
( hướng Tây). Mọi thứ liên quan đến hướng tây là xấu, nơi để mồ mả của người Việt
và người dân tộc thường là hướng tây của làng. Sau màu trắng là màu đen. Chỉ khi
chắt, chút để tang cụ, kị thì mới dùng các màu tốt như màu đỏ và vàng.
Về số loại: Theo triết li âm dương, âm ứng với số chẵn, dương ứng với số lẻ, vì vậy
mọi thứ liên quan đến chết đều phải là số chẵn, lạy trước linh cữu thì phải lạy 2
hoặc 4 lạy.
Cũng theo luật âm dương là việc phân biệt tang cha với tang mẹ. Khi con trai chống

gậy để tang cha thì cha gậy tre, mẹ gậy vông. Đưa tang và để tang còn có tục cha
đưa mẹ đón( tang cha đi sau quan tài, tang mẹ đi giật lùi phía đầu quan tài.) và tục
4


áo tang cha mặc trở đằng sống lưng ra, tang mẹ mặc trở đằng sống lưng vô. hai tục
sau cũng đều thể hiện triết lí âm dương qua cặp nghĩa hướng ngoại, hướng nội. Thọ
Mai gia lễ của ta quy định cha mẹ phải để tang con, ông bà và cụ kị cũng để tang
hàng cháu hàng chắt.
Câu 5: Phong tục tập quán ăn uống của người Việt, cơ cấu bữa ăn nguồn
nguyên liệu và quy tắc văn hóa trong hoạt động của người Việt.
- Phong tục tập quán ăn uống của người Việt: Người Việt Nam nông nghiệp với tính
thiết thực thì trái lại, công khai nói to lên rằng ăn quan trọng lắm: Có thực mới vưc
được đạo, nó quan trọng tới mức trời cũng không dám xâm phạm: Trời đánh tránh
miếng ăn, mọi hành động của người Việt Nam đều lấy ăn làm đầu: ăn uống, ăn ở, ăn
mặc…Ngay cả khi tính thời gín cũng lấy ăn uống và cấy trồng làm đơn vị. Ăn uống
là văn hóa chính xác hơn nó là văn hóa tận dụng môi trường tự nhiên. Trong ăn
uống của người Việt thường có tính cộng đồng cao: ăn tổng hợp, ăn chung, trong
lúc ăn uống người Việt Nam rất thích trò chuyện, còn đòi hỏi trong khi ăn người ăn
đừng ăn quá nhanh, quá chậm, quá nhiều, quá it, đừng ăn hết, đừng ăn còn…Trong
việc ăn uống không chỉ thể hiện ở việc ăn phải hợp thời tiết, phải đúng mùa…
- Cơ cấu bữa ăn nguồn nguyên liệu: Đó là một cơ cấu ăn thiên về thực vật và trong
thực vật thì lúa gạo đứng đầu bảng vì nước ta là truyền thống văn hóa về lúa nước.
trong bữa ăn người Việt Nam sau lúa gạo thì đến rau quả nằm ở một trong những
trung tâm trồng trọt, Việt Nam có một danh mục rau quả mùa nào thức ấy, phong
phú vô cùng. Đứng thứ 3 trong cơ cấu bũa ăn và đứng đầu hành thức ăn động vật
của người Việt Nam là các loại thủy sản, sản phẩm của vùng sông nước. Ở vị trí
cuối cùng trong cơ cấu bữa ăn người Việt mới là thịt, phổ biến như thịt gà, heo, trâu,
bò…
- Quy tắc văn hóa trong hoạt động của người Việt Nam:

+ Tính tổng hợp: trong nghệ thuật ăn uống của người Việt trước hết thể hiện trong
cách chế biến đồ ăn. Hầu hết các món ăn đều là sản phẩm của sự pha chế tổng hợp
rau này với rau khác, rau với các loại gia vị, rau quả với cá tôm…tính tổng hợp còn
thể hiện ngay cả trong cách ăn. Mâm cơm của người Việt cũng đồng thời nhiều
món: rau, cá, thịt, luộc, kho, nấu…suốt bữa ăn là cả một quá trình tổng hợp các món
ăn.
+ Tính cộng đồng và tính mực thước: Ăn tổng hợp, ăn chung cho nên các thành
viên của bữa ăn liên quan và phụ thuộc chặt chẽ vào nhau. Tính cộng đồng đòi hỏi ở
con người một thứ văn hóa cao trong ăn uống. Vì mọi người đều phụ thuộc lẫn nhau

5


nên phải ý tứ khi ngồi và mực thước khi ăn. Tính mực thước là biểu hiện của
khuynh hướng quân bình âm – dương.
+ Tính biện chứng: Trong việc ăn uống không chỉ thể hiện ở việc ăn phải hợp thời
tiết, phải đúng mùa và người Việt sành ăn còn phải biết chọn đúng bộ phận có giá
trị, đúng trạng thái có giá trị và đúng thời điểm có giá trị.
+ Tính linh hoạt: thể hiện rõ trong cách ăn, ăn theo lối Việt Nam là một quá trình
tổng hợp các món ăn, nhưng có bao nhiêu người ăn thì có bấy nhiêu cách tổng hợp
khác nhau đó là cả một kuoon khổ rộng rãi đến kì lạ cho sự linh hoạt của con người,
tính linh hoạt còn thể hiện trong dụng cụ ăn, truyền thống Việt Nam ăn chỉ dùng
đũa.
Câu 6: Phong tục hôn nhân của người Việt, các nghi thức tiến hành trong hôn
nhân. So sánh hôn nhân tuyền thống với hôn nhân hiện nay.
- Hôn nhân người Việt Nam truyền thống không phải là việc hai người lấy nhau mà
là việc hai họ dựng vợ gả chồng cho con cái. tục lệ này xuất phát từ quyền lợi của
tập thể.
+ Trước hết là quyền lợi của gia tộc: xác lập quan hệ giữa hai gia tộc. Vì vậy điều
cần làm đầu tiên chưa phải là lựa chọn một cá nhân cụ thể, mà lựa chọn một dòng

họ, một gia đình xem cửa nhà hai bên có tương xứng không, có môn đăng hộ đối
không
+ Quyền lợi của làng xã: Sự ổn định của làng xã đã hình thành quan niệm chọn vợ
chồng cùng làng.
+ Nhu cầu riêng tư: Sự phù hợp của đôi trai gái, tuổi tác xem đôi trai gái có hợp hay
không, nếu xung khắc thì thôi, để cho quan hệ vợ chồng được bền vững.
+ Quan hệ mẹ chồng- nàng dâu: cũng rất được chú ý.
- Các nghi thức tiến hành:
+ Kén chọn: Lệ xưa việc lấy vợ, gả chồng là việc của cha mẹ, vậy con cái đến tuổi
trưởng thành thì cha mẹ tiến hành kén rể, kén dâu. Kén rể, kén dâu là một công việc
tiền hôn lễ nhưng rất quan trọng. Trước hết là việc xem xét gia đình dự định trở
thành thông gia xem thuộc loại gia đình như thế nào, có môn đǎng hộ đối không?
+ Giạm ngõ hay chạm mặt: Đó là lần đầu tiên đại diện nhà trai đến nhà gái, sau khi
đã chọn được dâu đúng với “tiêu chuẩn”. Lần “đặt vấn đề” này hoàn toàn có tính
“đánh tiếng”, “làm quen”. Nếu sau lần giạm ngõ này không có vấn đề gì thì lễ ǎn
hỏi chính thức được tiến hành. Điều đáng chú ý là trong lần chạm mặt này, cô dâu,
chú rể tương lai sẽ được thấy mặt nhau, vì thế còn được gọi là lễ xem mặt.
6


+ Ǎn hỏi: Có nơi gọi là lễ bỏ trầu cau, khi hai bên trai gái đã thống nhất được với
nhau về mặt gia đình, đối tượng cụ thể, vào “ngày lành tháng tốt” sẽ tổ chức ǎn hỏi.
Nhà trai mang lễ vật gồm trầu cau, chè thuốc, có khi là xôi gà đến nhà gái để chính
thức bàn chuyện cưới xin. Trong xã hội cũ thì lễ này là lễ “ngã giá” người con gái.
Nhà gái sẽ được đưa ra yêu cầu, tức là nơi thách cưới
+ Lễ cưới: Sau khi các điều (yêu sách) đã được nhà trai thực hiện, người ta chọn
ngày lành tháng tốt để tổ chức lễ cưới.
+ Lễ lại mặt: Sau đêm tân hôn, vợ chồng mới dắt nhau về nhà gái.
+ Lễ nộp cheo: là một nghi lễ phụ trong đám cưới, nhưng nhất thiết phải có. Không
có bữa khao này thì đôi vợ chồng mới không được coi là thành viên của làng xóm.

- So sánh hôn nhân truyền thống với hôn nhân hiện nay:
+ Quan niệm về lễ cưới
Truyền thống
Để tiến đến được hôn nhân, cô dâu chú rể phải được sự đồng ý của gia đình hai bên,
đôi khi phải căn cứ theo hoàn cảnh hai nhà, cả hai gia đình đều phải phù hợp , "môn
đăng hộ đối" thì đôi uyên ương mới được chúc phúc.
Hiện đại
Quan niệm về tầm quan trọng của lễ cưới trong xã hội hiện đại vẫn được bảo tồn và
gìn giữ. Nhưng hiện nay, đôi uyên ương đã có nhiều quyền quyết định hạnh phúc
của mình hơn, họ có quyền tìm hiểu và quyết định đến với nhau bằng đám cưới.. Lễ
cưới không còn phụ thuộc nhiều vào việc gia đình hai bên có "môn đăng hộ đối"
hay không nữa.
Ngoài việc tổ chức lễ cưới, đôi uyên ương cũng cần đăng ký kết hôn và đây là điều
không thể thiếu, đảm bảo cho cuộc sống vợ chồng. Tuy nhiên quan niệm của các
đôi uyên ương vẫn là phải được gia đình hai nhà đồng ý và được bạn bè, người thân
chúc phúc.
+. Nghi thức cưới hỏi
Truyền thống
Nghi lễ cưới hỏi trong xã hội truyền thống có phần rườm rà, nhiều thủ tục hơn. Các
thủ tục xưa thường bao gồm:
- Mai mối để đôi bạn trẻ tìm hiểu nhau
- Lễ cheo: lễ này có thể tiến hành trước nhiều ngày, hoặc sau lễ cưới một ngày. Lễ
cheo là nhà trai phải có lễ vật hoặc tiền bạc đem đến cho làng hoặc xóm của cô dâu
để cộng đồng làng xóm tiếp nhận thành viên mới.
- Chạm ngõ
- Ăn hỏi
- Báo hỷ, chia trầu cau
- Nạp tài: nhà trai đem sinh lễ gồm trầu cau, gạo nếp, thịt lợn, quần áo, đồ trang sức
sang nhà gái. Lễ này có ý nghĩa nhà trai góp chi phí cỗ bàn và cho nhà gái biết họ
đã chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ cho cô dâu mới về nhà chồng.

- Xin dâu
7


- Đón dâu.
- Lại mặt: chú rể đem lễ vật về lễ tổ tiên ở nhà gái.
Hiện đại
Một số tục lệ trong đám cưới xưa đã được lược bớt để phù hợp với đời sống hiện
đại. Hiện nay chỉ còn giữ lại 5 lễ chính là dạm ngõ, ăn hỏi, xin dâu, đón dâu, lại
mặt. Lễ cưới sẽ được tổ chức tại nhà của cô dâu, chú rể hoặc tại các nhà hàng. Nếu
tổ chức tại nhà hàng, cô dâu chú rể sẽ có các nghi lễ như rót rượu mời bố mẹ, cắt
bánh cưới, trao nhẫn và mời khách dùng tiệc.
+ Trang phục
Truyền thống
Trước kia cô dâu dâu thường mặc áo mớ ba, bên trong là áo có màu rực rỡ như
hồng, xanh, vàng... bên ngoài phủ áo the thâm. Đến thời gian sau này, cô dâu
thường mặc áo dài trắng hoặc váy trắng dài đơn giản. Chú rể sẽ mặc trang phục
quần âu, áo sơ mi.
Hiện đại
Trong lễ ăn hỏi, cô dâu thường mặc áo dài truyền thống, áo thường có màu tươi tắn,
cũng có thể thêu hoa văn, họa tiết rồng phượng. Trong đám cưới ngày nay, cô dâu
chú rể mặc trang phục theo kiểu phương Tây. Cô dâu diện váy cưới trắng, chú rể
mặc vest. Các loại trang phục cưới này cũng đa dạng hơn theo thời gian.
Câu 7: Quá trình du nhập, đặc điểm, ảnh hưởng của phật giáo đối với Việt
Nam.
* Quá trình du nhập:
- Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công
nguyên. Đầu Công nguyên với truyện cổ tích Chử Đồng Tử (ở Hưng Yên ngày nay)
học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Luy Lâu (thuộc tỉnh Bắc Ninh) là trị sở của
quận Giao Chỉ sớm trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng. Các truyền thuyết

về Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu xuất hiện cùng với sự giảng đạo của
Khâu Đà La. Thế kỉ 2, Phật giáo hình thành nên hệ thống tín ngưỡng thờ Tứ Pháp.
- Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến đời nhà Lý, nhà Trần, Phật
giáo phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn đề
trong cuộc sống. Đến đời nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là quốc giáo và Phật
giáo đi vào giai đoạn suy thoái. Đến cuối thế kỷ XVIII, vua Quang Trung cố gắng
chấn hưng đạo Phật, chỉnh đốn xây chùa, nhưng vì mất sớm nên việc này không có
nhiều kết quả. Đến thế kỷ 20, mặc dù ảnh hưởng mạnh của quá trình Âu hóa, Phật
giáo Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô thị miền Nam với các
đóng góp quan trọng của các nhà sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu [5].
Tóm lại, lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua bốn giai đoạn:



từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và phát
triển rộng khắp;
thời Nhà Lý - Nhà Trần là giai đoạn cực thịnh;
8





từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái;
từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn phục hưng.

Đại thừa có ba tông phái được truyền vào Việt Nam là Thiền tông, Tịnh Độ
tông và Mật tông.
* Đặc điểm của phật giáo:
- Tính tổng hợp

Tổng hợp là một trong những đặc tính của lối tư duy nông nghiệp, chính vì thế tổng
hợp là đặc tính nổi bật nhất của Phật giáo Việt Nam.
+ Tổng hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng truyền thống
Phật giáo thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam là
thờ thần trong miếu và thờ Mẫu trong phủ, bốn vị thần được thờ nhiều nhất là Tứ
pháp: Mây-Mưa-Sấm-Chớp. Tuy nhiên bốn vị thần này đã được "Phật hóa". Các
pho tượng này thường được gọi tượng Phật Pháp Vân, Phật Pháp Vũ, Phật Pháp Lôi
và Phật Pháp Điện, trên thực tế các tượng này hoàn toàn điêu khắc theo tiêu chuẩn
của một pho tượng Phật. Nghĩa là đầy đủ 32 tướng tốt cùng 80 vẽ đẹp, mà một
trong những nét tiêu biểu chính là tướng nhục kế, những khế ấn, và khuôn mặt đầy
lòng từ mẫn v.v. Các hệ thống thờ phụ này tổng hợp với nhau tạo nên các ngôi chùa
"tiền Phật, hậu thần" hay "tiền Phật, hậu Mẫu". Người Việt Nam đưa các vị Thần,
Thánh, Mẫu, thành hoàng thổ địa, anh hùng dân tộc... vào thờ trong chùa. Đa số các
chùa còn để cả bia hậu, bát nhang cho các linh hồn đã khuất.
+ Tổng hợp giữa các tông phái Phật giáo
Các tông phái Phật giáo Đại thừa sau khi du nhập vào Việt Nam trộn lẫn với nhau.
Dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi pha trộn với Mật giáo. Nhiều vị thiền sư đời Lý
như Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không,... đều giỏi pháp thuật và có tài
thần thông biến hóa. Thiền tông còn kết hợp với Tịnh Độ tông như là trong việc
tụng niệm Phật A Di Đà và Bồ Tát.
Các điện thờ ở chùa miền Bắc có vô cùng phong phú các loại tượng Phật, bồ tát, la
hán của các tông phái khác nhau. Các chùa miền Nam còn có xu hướng kết
hợp Tiểu thừavới Đại thừa. Nhiều chùa mang hình thức Tiểu thừa (thờ Phật Thích
Ca Mâu Ni, sư mặc áo vàng) nhưng lại theo giáo lý Đại thừa; bên cạnh Phật Thích
Ca Mâu Ni còn có các tượng Phật nhỏ khác, bên cạnh áo vàng còn có áo nâu, áo
lam.
+ Tổng hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác.
Tín ngưỡng truyền thống đã tiếp nhận Phật giáo ngay từ đầu Công nguyên. Sau đó
Phật giáo cùng tín ngưỡng truyền thống tiếp nhận Đạo giáo. Rồi tất cả cùng tiếp
nhận Nho giáo để làm nên "Tam giáo đồng nguyên" (cả ba tôn giáo có cùng một

gốc) và "Tam giáo đồng quy" (cả ba tôn giáo có cùng một mục đích). Ba tôn giáo
9


trợ giúp lẫn nhau: Nho giáo lo tổ chức xã hội, Đạo giáo lo thể xác con người, Phật
giáo lo tâm linh, kiếp sau của con người. Trong nhiều thế kỷ, hình ảnh "Tam giáo tổ
sư" với Thích Ca Mâu Ni ở giữa,Lão Tử ở bên trái, Khổng Tử ở bên phải đã in sâu
vào tâm thức mọi người Việt[14].
Ngoài ra Phật giáo Việt Nam còn được hòa trộn với tất cả các tôn giáo khác để hình
thành Đạo Cao Đài vào thập niên 1920 với quan điểm là "Thiên nhân hợp nhất" và
"Vạn giáo nhất lý".
- Tính hài hòa âm dương.
Sau tính tổng hợp, hài hòa âm dương là một trong những đặc tính khác của lối tư
duy nông nghiệp, nó ảnh hưởng rất lớn đến Phật giáo Việt Nam làm cho Phật giáo
Việt Nam có phần thiên về nữ tính.
Các vị Phật Ấn Độ xuất thân là nam giới, khi vào Việt Nam bị biến thành "Phật ông
Phật bà". Phật Bà Quan Âm (biến thể của Quán Thế Âm Bồ Tát) là vị thần hộ mệnh
của vùng Nam Á nên còn được gọi là Quan Âm Nam Hải. Ngoài ra người Việt còn
có những vị Phật riêng của mình như Man Nương Phật Mẫu (tên khác: Phật
Mẫu), Quan Âm Thị Kính(tên khác: Quan Âm Tống Tử), Quan Âm Diệu Thiện (tên
khác: Phật Bà Chùa Hương, Bà chúa Ba).
- Tính linh hoạt.
Phật giáo Việt Nam còn có một đặc điểm là rất linh hoạt, mà nhà Phật thường gọi là
"tùy duyên bất biến; bất biến mà vẫn thường tùy duyên" nghĩa là tùy thuộc vào tình
huống cụ thể mà người ta có thể tu, giải thích Phật giáo theo các cách khác nhau.
Nhưng vẫn không xa rời giáo lý cơ bản của nhà Phật. Ví dụ: Các vị bồ tát, các vị
hòa thượng đều được gọi chung là Phật, Phật Bà Quan Âm (vốn là bồ tát), Phật Di
Lặc (vốn là hòa thượng),... Ngoài ra Phật ở Việt Nam mang dáng dấp hiền hòa và
dân dã: ông Bụt Ốc (Thích Ca tóc xoăn), ông Nhịn ăn mà mặc (chỉ Thích Ca Tuyết
Sơn),... Trên đầu Phật Bà Chùa Hương còn có lọn tóc đuôi gà rất truyền thống của

phụ nữ Việt Nam.
* Ảnh hưởng của phật giáo đến Việt Nam.
- Điểm này khiến người Việt trong cuộc sống đề cao cái TÂM, lối sống tình cảm.
Cách suy nghĩ và lối sống mang nặng màu sắc tình cảm, một mặt giúp nhân dân ta
trong những thời hoạn nạn, thiên tai, địch hoạ… nhưng nó cũng làm hạn chế sự tiến
bộ của khoa học – kỹ thuật.
- Để chỉ những mối liên hệ, Phật giáo có luật nhân quả. Nhân quả là chỉ mối quan
hệ phổ biến mọi sự vật, hiện tượng. Không có cái tôi độc lập, không có thế giới tác
rời “cái tôi”, không có “cuộc sống” tách rời – tất cả những cái đó là những tương
tác chặt chẽ và chỉ bị tách rời nhau trong tưởng tượng. Do vậy mà người phương
Đông, Việt Nam theo đạo Phật thường để ý nhiều đến mối quan hệ, chủ yếu cảm
10


tính, đạo đức nên nhiều nhìn nhận sai lệch, có tính chủ quan duy ý trí. Do đó, cuộc
sống người Việt Nam thường chú ý nhiều đến quan hệ họ hàng, làng xóm, xã hội
sao cho khôn khéo, tế nhị.
- Tư duy người Việt có thêm một loạt khái niệm lấy từ Phật giáo. Những khái niệm
đó góp phần làm tăng những khái niệm mang tính triết lý của người Việt, khiến tư
duy người Việt mang tính khái quát hơn, trừu tượng hơn. Ngoài ra, ảnh hưởng của
Phật giáo lên cách tư duy còn thể hiện ở quan niệm về sự phát triển của vạn vật qua
bốn giai đoạn:sinh (ra đời, xuất hiện) , trụ (tồn tại, hiện hữu), dị (phát triển, tiến hoá,
biến đổi) và diệt (tử, chết, biến mất), còn ở con người đó là sinh, lão, bệnh, tử. Đó là
sự phát triển tự nhiên, tất yếu của mọi sự vật, hiện tượng, mọi sự sống.
Câu 8: Tín ngưỡng thờ mẫu( điều kiện hình thành, nghi thức thờ cúng).
- Sùng bái tự nhiên là giai đoạn tất yếu trong quá trình phát triển của con người.
Với người Việt sống bằng nghề lúa nước thì sự gắn bó với tự nhiên là càng lâu dài
và bền chặt. Việc đồng thời phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau của tự nhiên dẫn
đến hậu quả trong lĩnh vực nhận thức là lối tư duy tổng hợp, và trong hình thức tín
ngưỡng là tín ngưỡng đa thần. Chất âm tính của văn hóa nông nghiệp dẫn đến hậu

quả trong quan hệ xã hội là lối sống thiên về tình cảm, trọng nữ, và trong tín
ngưỡng là tình trạng các nữ thần chiếm ưu thế. Và vì cái đích mà người nông
nghiệp hướng tới là sự phồn thức, cho nên nữ thần của ta không phải là các cô gái
trẻ đẹp, mà là các Bà mẹ, các Mẫu. Tục thờ Mẫu đã trở thành một tín ngưỡng Việt
Nam điển hình.
- Nghi thức thờ cúng:
+ Trước hết là các Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước, những nữ thần cai quản các hiện
tượng tự nhiên thiết thân nhất đối với cuộc sống của người trồng lúa nước. Về sau,
do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa nên có thêm Ngọc Hoàng, Thổ Công, Hà Bá.
Tuy nhiên các bà vẫn song song tồn tại. Nhiều nhà ở góc sân vẫn có một bàn thờ gọi
là bàn thờ Bà Thiên. Bà Đất tồn tại dưới tên Mẹ Đất, Bà Nước tồn tại dưới tên Bà
Thủy. Ở nhiều vùng, Bà Đất, Bà Nước còn tồn tại dưới dạng thần khu vực như Bà
Chúa Xứ, Bà Chúa Sông, Bà Chúa Lạch. Ba bà này còn được thờ chung như một bộ
tam tài dưới dạng tín ngưỡng Tam Phủ cai quản ba vùng trời – đất- nước. Mẫu
Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoái.
+ Các bà Mây-Mưa-Sấm-Chớp cai quản những hiện tượng tự nhiên hết sức quan
trọng trong cuộc sống của cư dân nông nghiệp lúa nước. Đến khi Phật Giáo vào Việt
Nam, nhóm nữ thần này được nhào nặn thành hệ thống Tứ Pháp. Pháp Vân thờ ở
chùa Bà Dâu, Tháp Vũ thờ ở chùa Bà Đậu, Tháp Lôi thờ ở chùa Bà Tướng, Pháp
11


Điện thờ ở chùa Bà Dan. Lòng tin của nhân dân vào hệ thống Tứ Pháp mạnh đến lỗi
vào thời Lý, nhiều lần triều đình đã phải rước tượng Pháp Vân về Thăng Long cầu
đảo, thậm chí rước theo đoàn quân đi đánh giặc. Và người Việt còn có tục thờ Mười
Hai Bà Mụ.
Câu 9: Đặc Điểm giá trị của lễ hội truyền thống Việt Nam và ý nghĩa.
- Lễ hội là hệ thống phân bố theo không gian. Vào mùa xuân và mùa thu, khi công
việc đồng áng rảnh rỗi nhất, lễ hội diễn ra liên tiếp hết chỗ này đến chỗ khác , mỗi
vùng có lễ hội riêng của mình.

- Cấu trúc của lễ hội gồm hai phần: Phần lễ( yếu tố chính) và phần hội( yếu tố phát
sinh).
+ Phần lễ: mang ý nghĩa tạ ơn và cầu xin thần linh bảo trợ cho cuộc sống của mình.
Căn cứ vào mục đích này và dựa vào cấu trúc của hệ thống văn hóa, có thể phân
biệt ba loại lễ hội. Lễ hội liên quan đến cuộc sống trong quan hệ với môi trường tự
nhiên, quan hệ với môi trường xã hội và liên quan đến đời sống cộng đồng.
+ Phần hội: Gồm các trò vui chơi giải trí hết sức phong phú. Xét về nguồn gốc,
phần lớn các trò chơi này đều xuất phát từ những ước vọng thiêng liêng của con
người nông nghiệp: ước vọng cầu mưa; ước vọng cầu cạn; ước vọng phồn thực; ước
vọng luyện rèn sự nhanh nhẹn, tháo vát, khéo léo; ước vọng luyện rèn sức khỏe và
khả năng chiến đấu.
- Giá trị văn hóa tiêu biểu nhất của lễ hội là tính cộng đồng và sự cố kết cộng đồng,
mọi lễ hội dù được phân chia ra sao, dù mang nội dung tôn giáo, nghề nghiệp, vòng
đời hay gì nữa thì bao giờ cũng là sinh hoạt của một cộng đồng người để biểu
dương những vốn liếng văn hóa và sức mạnh, tạo nên sự cộng mệnh, cộng cảm và
tính cố kết cộng đồng. Trong xã hội hiện đại, giá trị này càng có vị thế quan trọng.
+ Tính chất tự quản, tinh thần dân chủ, nội dung nhân bản cũng là những giá trị văn
hóa cần chú ý đến. Ở lễ hội hôm nay ý thức tự quản còn đậm, song tính dân chủ, nội
dung nhân bản có phần mai một. Vì thế nảy sinh vấn đề tìm lại gốc gác trong lễ hội
truyển thống.
+ Trở về nguồn cội là bản chất,đồng thời là giá trị văn hóa lịch sử của lễ hội, là nhu
cầu vĩnh hằng của con người. Đặc biệt khi quá trình giao lưu văn hóa quốc tế và vấn
đề giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc ngày càng quan trọng, thì việc trở lại với cội
nguồn tự nhiên, nguồn gốc cộng đồng và gốc gác văn hóa chính là biểu hiện giá trị
văn hóa cũng như tính nhân bản của hoạt động lễ hội.

12


- Ý nghĩa của lễ hội truyền thống: Tất cả các lễ hội đều mang những nét bản chất

chung. Đó là tính chất thiêng của toàn bộ lễ hội, là sự sùng bái nhân vật, suy tôn
những biểu tượng được phục thờ, là nhu cầu trở về tự nhiên xa xưa để khẳng định
nguồn gốc cộng đồng và bản sắc văn hóa; là sự giải thiêng trong tâm thức, tâm lí và
sinh hoạt cộng đồng. Tất cả những bản chất này được biểu hiện ở tất cả các hiện
tượng thuộc về lễ hội; từ những chi tiết nhỏ nhất đến những chi tiết lớn. Lễ hội cổ
truyền bản thân nó đã là một giá trị văn hóa lớn trong đời sống truyền thống và hiện
đại.
Câu 10: Phong tục tập quán làm nhà của người Việt( quan niệm. đặc điểm).
- Quan niệm: Đối với nông nghiệp ngôi nhà- cái tổ ấm để đối phó với nóng lạnh,
nắng mưa, gió bão- là một trong những yếu tố quan trọng nhất đảm bảo cho cuộc
sống định cư ổn định. Có an cư thì có lạc nghiệp! Thứ nhất dương cơ, thứ nhì âm
phần.Do ngôi nhà chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong cuộc sống cho nên
trong tiếng Việt “ nhà” được đồng nhất với gia đình, với vợ chồng, được mở rộng
nghĩa để chỉ một cơ quan, chỉ chính phủ và những người có chuyên môn cao sống
trong nước.
- Đặc điểm:
+ Trước hết do khu vực cư trú là vùng sông nước cho nên ngôi nhà của người Việt
gắn liền với môi trường sông nước: nhà thuyền; nhà bè nhiều gia đình tụ tập nên các
xóm chài, làng chài. Nhà sàn là kiểu nhà rất phổ biến ở Việt Nam từ thời Đông Sơn,
nó thích hợp cho cả miền sông nước lẫn miền núi. Nó không chỉ có tác dụng ứng
phó với môi trường sông nước ngập lụt quanh năm mà còn ứng phó với thời tiết
mưa nhiều gây lũ, khí hậu nhiệt đới có độ ẩm cao, hạn chế và ngăn cản côn trùng…
Ngày nay ở nhiều vùng hay ngập nước và các kho vẫn duy trì kiến trúc nhà sàn.
+ Để ứng phó với môi trường tự nhiên, tiêu chuẩn ngôi nhà Việt Nam về mặt cấu
trúc là nhà cao cửa rộng. Kiến trúc Việt Nam mở để tạo không gian thoáng mát,
giao hòa với tự nhiên.
Cái cao của ngôi nhà Việt Nam bao gồm hai yêu cầu: Sàn/nền cao su so với mặt đất
và mái cao so với sàn/nền.
Nhà cao, nhưng cửa không cao mà phải rộng. Cửa không cao để tránh ánh nắng
chiếu xiên khoai và tránh mưa hắt.

+ Chọn hướng nhà, chọn đất, đó là cách tận dụng tối đa thế mạnh của môi trường tự
nhiên để ứng phó với nó.

13


Đơn giản hơn cả là chọn hướng nhà. Hướng nhà tiêu biểu là hướng nam. Vì Việt
Nam ở gần biển, trong khu vực gió mùa, trọng bốn hướng chỉ có hướng nam là tối
ưu- vừa tránh được cái nóng từ phía tây, cái bão từ phía đông và gió lạnh thổi về
vào mùa rét từ phía bắc, lại tận dụng được gió mát thổi từ phía nam. Các tòa nhà có
nhiều cửa thì cửa phía nam là cửa chính.
Chọn đất để làm nhà, đặt mộ gọi là phong thủy. Phong và thủy là hai yếu tố quan
trọng nhất, tạo thành vi khí hậu cho một ngôi nhà. Phong là gió, động hơn thuộc
dương, do vậy nhà phong thủy cần lắm vững hướng gió, biết sử dụng các bình
phong để lái do theo ý mình. Thủy là nước, tĩnh hơn, thuộc âm, mặt nước trước nhà
sẽ tạo nên sự cân bằng sinh thái cho ngôi nhà.
Ngoài ra trong việc “ chọn nơi nhà ở”, người Việt với tính cộng đồng rất quan tâm
đến việc chọn hàng xóm láng giềng. Đến thời kì kinh tế hàng hóa phát triển, người
Việt còn chú ý chọn vị trí giao thông thuận tiện.
+ Về cách thức kiến trúc: Thì đặc điểm của ngôi nhà Việt Nam truyền thống là rất
động và linh hoạt.
Chất động và linh hoạt đó thì trước hết thể hiện ở kết cấu khung. Cốt lõi của ngôi
nhà là một bộ khung chịu lực, tạo nên bởi các bộ phận liên kết với nhau trong một
không gian ba chiều: theo chiều đứng, chiều ngang, chiều dọc.
Tất cả các chi tiết ngôi nhà liên kết với nhau bằng mộng. Mộng là cách ghép theo
nguyên lí âm- dương phần lồi ra của một bộ phận này với chỗ lõm vào có hình dáng
và kích thước tương ứng ở một bộ phận khác.
+ Về hình thức kiến trúc: thì ngôi nhà là tấm gương phản ánh đặc điểm của truyền
thống văn hóa dân tộc.
Trước hết là môi trường sông nước phản ánh qua cách làm nhà sàn với vách

nghiêng và mái cong hình thuyền. Rồi tính cộng đồng thể hiện ở việc trong nhà
không chia thành viên nhiều phòng nhỏ biệt lập như ở phương tây…
Việt Nam còn có truyền thống thờ cúng tổ tiên và hiếu khách cho nên ngôi nhà Việt
Nam dành ưu tiên gian giữa cho hai bộ bàn ghế tiếp khách. Sau đó là truyền thống
coi trọng bên trái. HÌnh thức ngôi nhà Việt Nam còn tuân thủ theo nguyên tắc coi
trọng số lẻ của truyề thống văn hóa nông nghiệp.
Nhìn chung, chỉ trong một việc ở, ta cũng thấy nguyên lí âm – dương và ý muốn
hướng tới một cuộc sống hài hòa chi phối con người Việt Nam một cách chọn vẹn.
Câu 11: Các điều kiện hình thành và ý nghĩa thờ cúng tổ tiên của người Việt.
- Điều kiện hình thành:
14


+ Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ra đời và duy trì trong những điều kiện lịch sử - xã
hội nhất định. Từ hình thức liên minh cộng đồng nguyên thủy đến hình thức liên kết
gia đình sơ khai theo trục huyết thống nam đã là một chặng đường lịch sử khá dài.
Theo con đường “ chung tộc danh về phía bố”, các gia đình nhỏ liên kết lại với
nhau thành họ. Đây là loại đơn vị ngoại hôn vì các thành viên trong họ liên kết với
nhau bằng sợi dây huyết thống và cùng chung một vị thủy tổ.
+ Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở người Việt đã hình thành, tồn tại và phát triển trên
cơ sở quan niệm tâm linh và một nền tảng kinh tế xã hội tư tưởng khá bền vững. Có
thể nói những yếu tố tâm linh có tính bản địa và mộc mạc đã được thể chế hóa, hợp
pháp hóa nhờ hệ tư tưởng Nho giáo và sự ủng hộ của các vương triều. Chính vì vậy,
tín ngưỡng này đã được bảo tồn qua suốt tiến trình lịch sử nhiều biến động.
- Ý nghĩa thờ cúng tổ tiên của người Việt:
+ Trong các hệ thống tín ngưỡng tôn giáo bản địa của nước ta thì tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên được coi là quan trọng bậc nhất. Ở đó ta thấy được niềm tin của con
người vào một thế giới bên kia, nơi có một cuộc sống giống như thế giới mà chúng
ta đang sống. Thông qua các nghi lễ thờ cúng con người mong muốn có được sự
che trở, giúp đỡ của tổ tiên, lúc nào trong tâm tưởng họ tổ tiên cũng luôn theo sát.

Chính niềm tin đó đã giúp họ sống tốt hơn, có thể vượt qua mọi khó khăn trong
cuộc sống, đồng thời cũng giúp mọi người xích lại gần nhau hơn. Mỗi dịp giỗ chạp
là lúc những người trong gia đình dòng họ có điều kiện để gặp gỡ thăm hỏi nhau,
tạo thêm sự thân thiết đoàn kết, gắn bó.
+ Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam trong quá trình hình thành, tồn
tại của nó đã góp phần tạo ra những giá trị đạo đức truyền thống như lòng hiếu thảo,
lòng nhân ái, tính cộng đồng, tính cần cù, sáng tạo, lòng hiếu học, lòng yêu nước.
Vì thế tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên như đã khái quát trên có thể nói là vĩnh hằng
cùng với sự tồn tại và phát triển của dân tộc. Hiếu với tổ tiên, ông, bà, cha, mẹ còn
được nâng lên cao hơn, đẹp hơn, đó là "hiếu với dân, với nước". Trong đời sống xã
hội hiện đại, đã có thời kỳ người ta nghĩ đơn giản rằng xã hội càng phát triển, khoa
học kỹ thuật càng tiến bộ thì con người càng bớt đi niềm tin vào thế giới vô hình,
con người sẽ sống tỉnh táo hơn, khoa học hơn. Có lẽ điều này chỉ đúng một phần, vì
thế khi thế giới càng chia nhỏ rành mạch, con người càng mở rộng tầm nhìn thì
những khoảng trống, những điều chưa thể giải thích càng lớn. Đó là điều bí ẩn của
thế giới tâm linh, đặc biệt là mối liên hệ ràng buộc vô hình nào đó giữa những
người cùng dòng máu. Vì thế càng ngày tín ngưỡng thờ cũng tổ tiên càng có vai trò
quan trọng trong đời sống tâm linh của mỗi người Việt Nam, nó là một trong những
nhân tố góp phần quan trọng để bảo tồn và duy trì văn hóa truyền thống. Tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một tập tục mang đậm nét văn hoá của người Việt.
Câu 12: Các ngày tết trong năm( nêu tên), trình bày những hiểu biết về tết
Nguyên Đán( thời gian, ý nghĩa, tục lệ).
- Các ngày tết trong năm:
+ Tết Thượng Nguyên( tết Nguyên Tiêu)- 15/1 âm lịch
+ Tết Hàn Thực-Tết Thanh Minh- 3/3 âm lịch
+ Tết Đoan Ngọ- 5/5 âm lịch
+ Tết Trung Nguyên- 15/7 âm lịch
+ Tết Trung Thu- 15/8 âm lịch
15



+ Tết Trùng Cửu( tết Trùng Dương)- 9/9 âm lịch
+ Tết Hạ Nguyên- Tết Trùng Thập – 10/10 hoặc 15/10 âm lịch
+ Tết Táo Quân-23/12 âm lịch
+ Tết Nguyên Đán- 1/1 âm lịch.
- Những hiểu biết về tết Nguyên Đán:
+ Thời gian:
Tết Nguyên Đán (hay còn gọi là Tết Cả,[1] Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền hay
chỉ đơn giản còn gọi là Tết) là dịp lễ quan trọng nhất của Việt Nam
Vì Tết tính theo Âm lịch là lịch theo chu kỳ vận hành của Mặt Trăng nên Tết
Nguyên Đán của Việt Nam muộn hơn Tết Dương lịch (còn gọi nôm na là Tết Tây).
Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của Âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết
Nguyên đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng
2 Dương lịch mà thường rơi vào khoảng cuối tháng 1đến giữa tháng 2 Dương lịch.
Toàn bộ dịp Tết Nguyên đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày
cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).
+ Ý ngĩa của tết Nguyên Đán:
Tết, đó là dịp để mọi người dẹp bỏ mọi lo toan thúc dục hằng ngày của đời sống
sau một năm làm lụng vất vả, để mà vui chơi, an hưởng hạnh phúc được chừng nào
hay chừng ấy.
Tết, đó là dịp để nhắc nhở loài người ý thức về sự đổi mới của đất trời, về lẽ tuần
hoàn của tạo vật: Đông qua Xuân tới, Thu đi Hạ về; ý thức như thế để mà phấn khởi
hân hoan nuôi mầm hy vọng khi 365 ngày cũ chấm dứt, 365 ngày mới bắt đầu.
Tết, đó là nghi thức do loài người khắp nơi trên trái đất không hẹn mà cùng tổ chức
nên, để tạo cơ hội cho những khởi đầu đầy ý nghĩa của 365 ngày sống mới mà ngày
mồng một là ngày khai nguyên: cơ hội để gia đình sum họp, tưởng nhớ tổ tiên, đền
ơn trả nghĩa...
Tết, đó là dịp trọng đại nhất trong năm mà trong đó mọi người đều cố gắng để tạo
niềm vui cho mình và cho người, cùng cố gắng để nở nụ cười thân ái chào nhau, và,
nếu có thể, sẵn sàng bắt tay nhau ngầm hứa hẹn xoá bỏ hận thù, giận hờn, nghi kỵ,

để cho cuộc đời được tốt đẹp ý nghĩa hơn cùng với năm mới bắt đầu.
Tất cả được lặp đi lặp lại lâu đời làm nên những tập tục mà sau đây chúng ta cùng
ôn lại để mọi người, đặc biệt là giới trẻ xa quê hương được hiểu rõ về Ngày
Tết Cổ Truyền của Dân Tộc.
+ Tục lệ tết Nguyên Đán:
16


Trên nguyên tắc, Tết bắt đầu từ ngày mồng một nhưng trên thực tế, Tết kể như đã
chuẩn bị cả tháng trước. Thời thái bình xa xưa, người ta đón Tết bằng tất cả tâm
hồn, một cách nồng nàn và trịnh trọng, theo những tục lệ như sau:
/Trang hoàng nhà cửa là mục đầu tiên.
/ Sẵn sàng các thứ để gói bánh chưng, làm dưa hành, trồng cây nêu, dán câu đối và
đốt pháo là mục thứ hai, đúng với câu : "Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh".
/ Biếu Tết là dịp chứng tỏ lòng tôn kính và biết ơn, như con đối với cha mẹ, trò nhớ
ơn thầy, người làm công biết ơn ông chủ, bạn bè cũng biết ơn nhau về những điều
tốt đẹp trong cách cư xử với nhau.
/ Thăm mộ gia tiên còn gọi là chạp mộ, là đến thắp hương cúng vái trước mồ mả
ông bà tổ tiên cùng những người thân đã qua đời, và điều quan trọng là quét dọn,
làm cỏ, sửa sang lại ngôi mộ, để người chết cũng được ăn Tết như người sống.
/ Lễ cúng ông bà. Sau khi chạp mộ thường là vào ngày 30 tháng chạp, chiều đến là
lễ cúng ông bà. Sau khi cúng đèn nhang phải được giữ cháy mãi suốt mấy ngày Tết.
/ Đòi nợ cuối năm. Mọi thứ nợ nần cần phải được thanh toán trước Tết, vì Tết mà
còn mắc nợ người thì quanh năm sẽ túng bấn như thế, ngược lại, để cho người ta
không trả nợ cũng là điều không hay, xui xẻo lắm!
/ Tiễn đưa Ông Táo lên trời vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch với nhiệm vụ tấu
trình Thượng Đế mọi việc xảy ra trong nhà để Trời soi xét mà thưởng hay phạt.
/ Cúng Giao Thừa vào đêm 30 còn gọi là đêm Trừ Tịch, thường bắt đầu vào lúc
cuối giờ thứ 24 của ngày 30 tức là 12 giờ đêm, rạng sáng ngày một. Tết bắt đầu từ

giờ này, gọi là giờ “tống cựu nghênh tân”.
/ Hết giai đoạn chuẩn bị, ngày Tết bắt đầu từ sáng mồng một. Kiêng cử là mục đầu
tiên cha mẹ căn dặn con cái: Kiêng nghĩa là tránh không làm tất cả những điều
không tốt, như: chưởi bớí, giận dữ, đánh lộn... Nếu Tết mà bị như thế thì sẽ bị cả
năm, gọi là giông.
/ Xông nhà xông đất. Bắt đầu từ giờ Giao Thừa là bắt đầu năm mới, hễ người nào
bước chân đến nhà mình trước tiên là người ấy xông nhà xông đất, nghĩa là mang sự
may mắn hay xui xẻo đến cho mình, tuỳ theo cái vận của người ấy đang lên hay
đang xuống.
/ Xuất hành. Cũng sau giờ Giao Thừa, người ta chọn giờ tốt, hướng tốt để đi ra
khỏi nhà gọi là xuất hành, đi để tìm lấy cái may mắn, phúc lợi. Thường, xuất hành
bao giờ cũng nhắm tới đền chùa hay nhà thờ.
/ Hái lộc. Ở nơi chọn để xuất hành tốt, còn có tục hái lộc, nghĩa là bẻ một cành cây,
một nhánh lá để mang về nhà lấy hên, lấy may.
/ Chúc Tết, mừng tuổi. Sáng ngày mồng một, con cái cháu chắt mặc áo mới, vòng
tay cúi đầu trước ông bà cha mẹ và lạy mừng chúc tụng, dâng lên những món quà
17


tượng trưng cho lòng tôn kính. Bậc bề trên mừng tuổi cho con cháu những món tiền
đựng trong phong bao màu đỏ, gọi là lì xì.
/ Khai bút đầu năm.
Câu 13: Tín ngưỡng thờ Tứ Bất Tử của người Việt( nguồn gốc, hình thức, ý
nghĩa).
- Nguồn gốc:
+ Trước khi các tôn giáo lớn định hình trên Việt Nam, người Việt đã phát triển tín
ngưỡng của riêng mình. Ngoài thờ gia tiên, tổ nghề, các anh hùng chống ngoại
xâm..., tục thờ bốn vị Thánh bất tử là Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử và Bà
Chúa Liễu có nhiều nét vô cùng độc đáo.
+ Tản Viên biểu hiện ước vọng chiến thắng thiên tai, lũ lụt; Thánh Gióng kết tinh ý

chí chống giặc ngoại xâm; Chử Đồng Tử tượng trưng cho tình yêu; Bà Chúa Liễu
biểu hiện cho cuộc sống phồn vinh, phong phú về tinh thần.Sự phối hợp thần thánh
đó đã dựng nên đất nước.
- Hình thức:
+ Tục lệ thờ Đức Thánh Tản có từ rất lâu. Khoảng 250 năm trước Công Nguyên, An
Dương Vương cho lập đền thờ đức Thánh trên núi Tản Viên, gọi là Đền Thượng,
nay thuộc Ba Vì, Sơn Tây, ngoại thành Hà Nội. Cứ ba năm một lần, vào 15 tháng
giêng âm lịch, tại đây diễn ra lễ hội lớn, với hàng vạn người tham dự. Lễ hội gồm
nhiều hoạt động như rước bài vị thánh Tản, đánh cá sông (99 con) làm gỏi dâng tế,
lễ rước Thánh bà Mỵ Nương, múa gà, đấu cờ, hát đúm…
+ Thánh Gióng đã đánh thắng giặc Ân, Vua Hùng ghi nhận công lao của Ngài,
phong danh hiệu Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại Vệ Linh. Làng
Gióng được đổi tên thành làng Phù Đổng. Hàng năm vào ngày 9 tháng 4 âm lịch,
làng tổ chức lễ hội rất long trọng, tái hiện truyền thuyết Thánh Gióng với các hoạt
động như tập trận, đấu cờ người… Năm 2010, lễ hội Thánh Gióng đã được
UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
+ Tương truyền, vị thánh họ Chử thần thông quảng đại, luôn hiện thân ở chốn trần
ai, cứu nhân độ thế, dạy dân buôn bán, chài lưới, nuôi tằm dệt vải, đem lại cuộc
sống đủ đầy. Nhân dân lập đền thờ tại xã Dạ Trạch, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng
Yên, hàng năm tế lễ cầu mong một cuộc sống hạnh phúc, phồn vinh. Lễ hội chính
mở vào trung tuần tháng 2 âm lịch với các hoạt động dân gian đặc sắc như múa
rồng, hát, đấu cờ người…
+ Sự tích Bà Chúa Liễu Hạnh phản ánh hình ảnh người phụ nữ Việt Nam tài hoa và
đức hạnh, tận tâm tận hiếu, chung thủy tình nghĩa vợ chồng, nhân ái với người
18


nghèo khổ, bảo vệ người lành, trừng trị kẻ ác. Bà được tôn thờ là “Thánh Mẫu linh
thiêng - Mẹ của muôn dân.” Thờ Bà Chúa Liễu thể hiện niềm tôn kính người Mẹ vĩ
đại, quyền năng và đức độ vô lượng. Ở Phủ Giầy, quê hương của Bà, một quần thể

kiến trúc được xây dựng để thờ cúng. Từ ngày mùng 1 đến ngày 10 tháng 3 âm lịch
hàng năm diễn ra lễ hội Phủ Giầy nổi tiếng với hàng vạn người tham dự. Ngoài ra,
tại Phủ Sòng, Thanh Hóa, có đền Sòng thờ Bà. Lễ chính ở đây rơi vào ngày 3 tháng
3 âm lịch.
- Ý nghĩa:
+ Tục thờ Tứ Bất Tử là một giá trị văn hóa tinh thần rất đẹp của dân tộc ta. Đó là
tinh hoa được chắt lọc qua suốt chiều dài lịch sử, biểu tượng cho sức mạnh liên kết
của cộng đồng để làm ruộng và đánh giặc, cho khát vọng xây dựng một cuộc sống
vật chất phồn vinh và tinh thần hạnh phúc.
Câu 14: Phong biệt hai khái niệm phong tục và tập quán( cho ví dụ minh họa)
- Phong tục là những thói quen ăn sâu vào đời sống xã hội từ lâu đời, được đại đa số
mọi người thừa nhận và làm theo. Phong tục có trong mọi mặt đời sống.
VD: Phong tục hôn nhân. Là phong tục truyền thống lâu đời của Việt Nam, là việc
hôn nhân đại sự của một đôi trai gái và gia đình hai bên. Khi được cả hai gia đình
đồng ý và cho phép, thì sẽ làm lễ thành hôn và chính thức trở thành vợ chồng.
Phong tục hôn nhân gắn liền vời đời sống của người Việt được mọi người thừa nhận
và làm theo một cách nghiêm túc ở mọi thế hệ.
- Tập quán là một thói quen được hình thành trong một tập thể nhất định, là một
thói quen hàng ngày của con người và được mọi người làm theo. Nó cũng không
mang tính cộng đồng cao.
VD: Vào dịp tết trung thu, mọi người luôn có tập tục múa kì lân, sư tử và vào các
nhà để xin lộc với quan niệm mang đến sự may mắn cho mọi người và đặc biệt là
những người làm trong kinh doanh, sự phồn thịnh và ngày càng phát đạt.
Câu 15: Tín ngưỡng thờ tứ pháp của người Việt( nguồn gốc, hình thức, ý
nghĩa).
- Nguồn gốc:
+ Tín ngưỡng thờ Tứ Pháp là tín ngưỡng thờ bốn vị thần tự nhiên có ảnh hưởng
quyết định đến đời sống nông nghiệp đang ở tình trạng lệ thuộc hoàn toàn vào thiên
nhiên. Đó là bốn vị: thần Mưa (Pháp Vũ), thần Mây (Pháp Vân), thần Sấm (Pháp
Lôi), thần Chớp (Pháp Điện).


19


+ Tín ngưỡng Tứ Pháp bắt nguồn từ quan niệm vạn vật hữu linh. Đây là một quan
niệm tối cổ của con người trong quá trình sống phải đối mặt với muôn vàn khó khăn
do mà thiên nhiên tạo ra. Quan niệm vạn vật đều có linh hồn, người nguyên thủy
nhìn thấy đằng sau mỗi hiện tượng tự nhiên đều có một vị thần. Vị thần đó quyết
định sự vận hành của vũ trụ, trong đó có đời sống con người, đặc biệt, đối với một
vùng đất nông nghiệp trồng lúa nước. Quan niệm về thần Mưa, thần Gió hẳn đã ăn
sâu vào tâm thức người dân Việt từ xa xưa, trước khi Phật giáo đặt chân tới mảnh
đất này. Đến khi Phật giáo vào Việt Nam, các nhà sư đã nhìn thấy rõ điều đó và
nhận thấy nếu Phật giáo muốn bén rễ vào mảnh đất này thì phải có sự dung hòa với
tín ngưỡng dân gian. Nhận thức ấy không sai lầm, và đó là nguyên nhân sâu xa của
cuộc hôn phối tinh thần giữa một người con gái bản địa (tượng trưng cho tín
ngưỡng dân gian) với một vị chân tu thông tuệ (tượng trưng cho một tôn giáo lớn).
Kết quả của sự giao thoa văn hoá ấy là hệ thống Tứ Pháp, bốn vị Phật mang đậm
tính chất dân gian của người Việt mà có người gọi không sai là Phật giáo dân gian.
- Hình thức:
+ Thoạt đầu, Tứ Pháp chỉ được thờ trong các chùa ở vùng Luy Lâu. Dần dần, do
tính chất linh ứng của nó mà lan dần ra nhiều vùng quê ở châu thổ Bắc bộ, trong đó
có một số vùng quê ven sông Đáy của tỉnh Hà Nam. Tương truyền, các làng quê
vùng Hà Nam có nghe tiếng Tứ Pháp ở Bắc Ninh linh ứng đã lên đó xin rước chân
nhang để thờ. Từ khi rước Tứ Pháp về thờ thì được mưa thuận gió hòa, mùa màng
tươi tốt. Các nơi thờ Tứ Pháp ở Hà Nam cụ thể như sau:
* Thờ Pháp Vân: chùa Quế Lâm (Văn Xá, Kim Bảng), chùa Do Lễ (Liên Sơn, Kim
Bảng), chùa Thôn Bốn (Phù Vân, Kim Bảng), Chùa Tiên (Thanh Lưu, Thanh Liêm).
* Thờ Pháp Vũ: Chùa Bà Đanh (Ngọc Sơn, Kim Bảng), Chùa Trinh Sơn (Thanh
Hải, Thanh Liêm).
* Thờ Pháp Lôi: Chùa Đặng Xá (Văn Xá, Kim Bảng), Chùa Nứa (Bạch Thượng,

Duy Tiên).
* Thờ Pháp Điện: Chùa Bà Bầu (thị xã Phủ Lý).
+ Các chùa khác như chùa Quyển Sơn (Thi Sơn, Kim Bảng), chùa Thanh Nộn,
chùa Phú Viên, chùa và đình làng Lạt Sơn (x. Thanh Sơn, h. Kim Bảng), chùa
Thanh Thôn (Văn Xá, Kim Bảng) có phối tự thờ Tứ pháp trong thần điện. Tại Hà
Nam, Tứ Pháp đã được gọi bằng những cái tên nôm na thân mật. Dân làng Đanh Xá
gọi Pháp Vũ là bà Đanh (chùa Bà Đanh), dân làng Quế Lâm gọi Pháp Vân là bà Bến
(chùa Quế Lâm), dân thị xã Phủ Lý gọi Pháp Điện là bà Bầu (chùa Bà Bầu)…
+ Hàng năm cứ vào dịp Tết nguyên đán, rằm tháng Giêng, rằm tháng Bảy, đặc biệt
là ngày mùng 8 tháng 4, dân các địa phương gần xa lại đến chùa mở hội, rước kiệu,
20


cầu nguyện tấp nập. Vào những năm hạn hán hay mưa gió thất thường, các chùa Bà
Đanh, chùa Bến, chùa Bầu người ra vào cũng lễ rất đông.
+ Từ năm 1990 đến nay, việc thờ cúng Tứ Pháp ở các địa phương Kim Bảng, Thanh
Liêm, thị xã Phủ Lý bắt đầu có xu hướng gia tăng cả về quy mô lẫn phạm vi lễ thức.
Chùa Quế Lâm, chùa Trịnh Sơn, chùa Bầu đã được tu bổ tôn tạo lại rất khang trang.
Dân địa phương và khách thập phương về cúng lễ cũng ngày một tấp nập hơn.
- Ý nghĩa:
+ Người phụ nữ Việt Nam, người có công tái tạo một tôn giáo lớn trong những cơ
thể mới mang đậm tính bản địa, rất thiêng liêng, huyền bí mà rất gần gũi với cuộc
sống đời thường của người dân, được tôn làm Mẹ Phật. Đó là sự tôn vinh đối với
người có công tái tạo sinh thành một hình thức tôn giáo mới, tôn giáo của người dân
cầu mong mưa thuận gió hòa, phong đăng hòa cốc, tôn giáo của sự phát hiện ra sự
tương tác mật thiết giữa sự huyền bí của vũ trụ với cuộc sống đời thường. Đó là triết
lý sâu xa của tín ngưỡng thờ Tứ Pháp trong đời sống tâm linh của người dân Việt.

21




×