Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TRIẾT lý PHÁT TRIỂN TRONG tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về vấn đề độc lập dân tộc gắn LIỀN với CHỦ NGHĨA xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.49 KB, 28 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử cách mạng nước ta hơn 80 năm qua gắn liền với tên
tuổi, sự nghiệp, tư tưởng của Hồ Chí Minh- nhà anh hùng dân tộc vĩ
đại, nhà tư tưởng lỗi lạc của cách mạng Việt Nam. Trong lịch sử
dựng nước và giữ nước , dân tộc ta sản sinh ra biết bao tên tuổi vĩ
đại nhưng không ai có sự nghiệp lừng lẫy như chủ tịch Hồ Chí
Minh, không ai có tầm vóc thời đại, được thế giới ca nhận và thừa
nhận như chủ tịch Hồ Chí Minh.
Địa vị có một không hai trong lịch sử dân tộc của chủ tịch Hồ
Chí Minh đã được xác lập và củng cố vững chắc nhờ công lao to lớn
và sự nghiệp vĩ đại mà Người đã cống hiến cho cách mạng Việt
Nam.
Công lao to lớn, sự nghiệp vĩ đại đã đưa Hồ Chí Minh đã đưa
Người lên địa vị anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà tư tưởng,
nhà lý luận sáng tạo của của chủ nghĩa Mác- Lê nin được các dân
tộc đấu tranh giải phóng và nhân loại tiến bộ hết lòng ca ngợi và
thán phục. Thực tế lịch sử gần 80 năm qua đã chứng tỏ: Thắng lợi
của cách mạng Việt Nam là thắng lợi của chủ nghĩa Mác – Lê nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh. Một thực tế khác cũng cho thấy : khi nào
chúng ta xa rời hay quán triệt không đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh
thì sẽ không tránh khỏi vấp váp và sai lầm. Cũng cùng với chủ
nghĩa Mác – Lê nin,tư tưởng Hồ Chí Minh quyết định sự thành bại
của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng của Người không chỉ có ý nghĩa
với dân tộc mà còn có ý nghĩa đối với toàn nhân loại.
Nhiều nhà nghiên cứu và nhiều chính khách trên thế giới đã
đánh giá tầm vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh, nhãn quang sáng
suốt nhìn xa thấy rộng của Người bắt nguồn từ những nhận thức sâu
sắc về những lực lượng thúc đẩy sự biến đổi có tính chất bùng nổ
nhất của lịch sử cách mạng nhất. Đồng chí Hớt Gôn – tổng bí thư
Đảng Cộng Sản Mỹ viết: “ Hồ Chí Minh là con người cần thiết xuất
1




hiện đúng lúc, đúng yêu cầu lịch sử, với những tư tưởng và ý nghĩa
đúng. Chính vậy mà đồng chí đã làm nên lịch sử”.

PHẦN I:TRIẾT LÝ PHÁT TRIỂN TRONG TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN
VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
I.Bản chất của phát triển, phát triển xã hội
1. Các khái niệm khác nhau về sự phát triển
Xem xét về sự phát triển cũng có những quan điểm khác nhau,
đối lập với nhau, quan điểm siêu hình và quan điểm biện chứng .
Quan điểm siêu hình xem xét sự phát triển chỉ là sự tăng lên
hay giảm đi đơn thuần về mặt lượng, không có sự thay đổi về chất
của sự vật. Những người theo quan điểm siêu hình coi tất cả chất
của sự vật không có sự thay đổi gì trong quá trình tồn tại của chúng.
Sự vật ra đời với những chất như thế nào thì toàn bộ quá trình tồn
tại của nó vẫn được giữ nguyên, hoặc nếu có sự thay đổi nhất định
về chất thì sự thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra trong một vòng khép kín.
Họ cũng coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi về mặt lượng của từng
loại mà sự vật đang có chứ không có sự sinh thành ra cái mới với
những chất mới. Những ngườitheo quan điểm siêu hình còn xem sự
phát triển là một quá trình tiến lên liên tục không có những bước
quanh co, thăng trầm, phức tạp.
Quan điểm biện chứng xem xét sự phát triển là một quá trình
tiến lên từ thấp đến cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần vừa nhảy
vọt, đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực
kháchquan hay trong tư duy, sự phát triển diễn ra không phải lúc
2



nào cũng theo đường thẳng mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có
thể

những
bước
lùi
tạm
thời.
Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình
thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình
diễn ratheo đường xoáy ốc. Điều đó có nghĩa là quá trình phát triển
dường như sự vật ấy quay trở về điểm khởi đầu song trên cơ sở mới
cao hơn .
Quan điểm duy vật biện chứng đối lập với quan điểm duy
tâm và tôn giáo về nguồn gốc của sự phát triển, khẳng định nguồn
gốc của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật. Đó là do mâu thuẫn
trong chính sự vật quy định. Nói cách khác, đó là quá trình giải
quyết liên tục mâu thuẫn trong bản thân sự vật, do đó cũng là quá
trình tự thân của mọi sự vật. Trái lại, những ngườitheo quan điểm
duy tâm hay quan điểm tôn giáo lại thường tìm nguồn gốc của sự
phát triển ở thần linh, Thượng đế, các lực lượng siêu nhiên hay ở ý
thức của con người .
Trên cơ sở khái quát sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng
tồn tại trong hiện thực, quan điểm duy vật biện chứng khẳng định sự
phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động
tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật.
Theo quan điểm này, sự phát triển không bao quát toàn bộ sự
vận động nói chung. Nó chỉ khái quát xu hướng chung của sự vận

động, xu hướng vận động đi lên của sự vật, sự vật mới ra đời thay
thế
cho
sự
vật
cũ.
Sự
phát triển chỉ là trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong quá
trình phát triển, sự vật sẽ hình thành những quy định mới cao hơn về
chất, sẽ làm thay đổi mối liên hệ, cơ cấu, phương thức tồn tại và vận
động
của
mình.
Sự phát triển thể hiện rất khác nhau trong hiện thực tuỳ theo hình
thức tồn tại cụ thể của từng dạng vật chất. Sự phát triển của giới vô
3


cơ thể hiện ở dạng biến đổi các yếu tố và hệ thống vật chất, sự tác
động qua lại giữa chúng và trong các điều kiện nhất định sẽ làm nảy
sinh các hợp chất phức tạp. Từ đó cũng làm xuất hiện các hợp chất
hữu cơ ban đầu - tiền đề của sự sống. Trong giới hữu cơ, sự phát
triển thể hiện ở khả năng thích nghi của sinh vật với sự biến đổi
phức tạp của môi trường, ở sự hoàn thiện thường xuyên quá trình
trao đổi chất giữa cơ thể và môi trường ở khả năng tự sản sinh ra
chính mình với trình độ ngày càng cao hơn và từ đó làm xuất hiện
ngày càng nhiều các giống loài mới phù hợp với môi trường sống.
Sự phát triển của xã hội biểu hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên và
cải biến xã hội cũng như bản thân con người. Sự phát triển của mỗi
con người biểu hiện ở khả năng tự hoàn thiện mình cả về thể chất và

tinh thần, phù hợp với sự vận động và phát triển của môi trường
trong đó có con người sinh sống .
Như vậy, sự phát triển trong đó sự vật mới ra đời thay thế sự
vật cũ là hiện tượng diễn ra không ngừng trong tự nhiên, trong xã
hội, trong bản thân con người, trong tư duy. Nếu xem xét từng
trường hợp cá biệt thì có những vận động đi lên, vận động tuần
hoàn, thậm chí có vận động đi xuống. Song nếu xét cả quá trình vận
động với không gian rộng và thời gian dài thì quá trình vận động đi
lên là khuynh hướng chung của mọi sự vật.
2.Tính chất của sự phát triển
Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Bởi vì
như trên đã phân tích, theo quan điểm duy vật biện chứng, nguồn
gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là quá
trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại
và vận động của sự vật, nhờ đó sự vật luôn luôn phát triển. Vì thế,
sự phát triển là tiến trình kháchquan, không phụ thuộc vào ý muốn,
nguyện vọng, ý chí, ý thức con người. Dù con người có muốn hay
không muốn, sự vật vẫn phát triển theo khuynh hướng chung nhất
của thế giới vật chất.
4


Sự phát triển mang tính phổ biến vì nó diễn ra ở mọi lĩnh
vực của tự nhiên, xã hội và tư duy, ở bất cứ sự vật hiện tượng nào
của thế giới khách quan. Ngay cả các khái niệm, các phạm trù phản
ánh
hiện
thực
cũng nằm trong quá trình vận động và phát triển, hoặc đúng hơn,
mọi hình thức của tư duy cũng luôn phát triển. Chỉ trên cơ sở của sự

phát triển, mọi hình thức của tư duy, nhất là các khái niệm và các
phạm trù mới có thể phản ánh đúng hiện thực luôn vận động và phát
triển. Ngoài tính khách quan và tính phổ biến, sự phát triển còn có
tính đa dạng phong phú. Khuynh hướng phát triển là khuynh hướng
chung của mọi sự vật, mọi hiện tượng, song mỗi sự vật hiện tượng
lại có quá trình phát triển không giống nhau, tồn tại ở không gian
khác nhau, ở thời gian khác nhau. Đồng thời trong quá trình phát
triển của mình, sự vật còn chịu sự tác động của các hiện tượng khác,
của rất nhiều yếu tố khác. Sự tác động đó có thể thúc đẩy hoặc kìm
hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi chiều
hướng của phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi.
Chẳng hạn, ngày nay trẻ em phát triển nhanh hơn cả về thể chất lẫn
trí tuệ so với trẻ em ở thế hệ trước do chúng được thừa hưởng
những thành quả, những điều kiện thuận lợi mà xã hộimang lại. Hay
trong thời đại hiện nay, thời gian công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước của các quốc gia chậm phát triển và kém phát triển sẽ ngắn
hơn nhiều so với các quốc gia đã thực hiện chúng do được thừa
hưởng kinh nghiệm và sự hỗ trợ của các quốc gia đi trước. Song vấn
đề còn ở chỗ, sự vận dụng kinh nghiệm và tận dụng sự hỗ trợ đó
như thế nào lại phụ thuộc rất nhiều vào các nhà lãnh đạo và nhân
đân của các nước chậm phát triển và kém phát triển.
Những điều kiện nêu ra ở trên cho thấy, dù sự vật hiện tượng
có thể có những giai đoạn vận động đi lên như thế này hoặc như thế
khác nhưng xem xét toàn bộ quá trình thì chúng vẫn tuântheo
khuynh hướng chung. Nguyên tắc phương pháp luận rút ra từ
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển.
5


Từ nghiên cứu quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ

phổ biến và về sự phát triển có thể rút ra phương pháp luận khoa
học để nhận thức và cải tạo hiện thực.
Vì bất cứ sự vật hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại
trong mối liên hệ với các sự vật khác và mối liên hệ rất đa dạng
phong phú, do đó khi nhận thức về sự vật, hiện tượng chúng ta phải
cóquan điểm toàn diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự vật,
hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay
về tính quy luật của chúng. Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta
nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa
các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua
lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và
mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng
về sự vật. Chẳng hạn, muốn nhận thức đúng và đầy đủ tri thức của
khoa học triết học, chúng ta còn phải tìm ra mối liên hệ của tri thức
triết học với tri thức khoa học khác, với tri thức cuộc sống và ngược
lại, vì tri thức triết học được khái quát từ tri thức của các khoa học
khác và hoạt động của con người, nhất là tri thức chuyên môn được
chúng ta lĩnh hội.
Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết
phân biệt các mối liên hệ, phải biết chú ý đến các mối liên hệ bên
trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất
nhiên ... để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động
phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong sự phát triển của bản
thân. Đương nhiên, trong nhận thức và hành động, chúng ta cần lưu
ý tới sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện
xác định. Trongquan hệ giữa con người với con người, chúng ta
phải biết ứng xử sao cho phù hợp với từng con người. Ngay cả quan
hệ với một con người nhất định ở những không gian khác nhau hoặc
thời gian khác nhau, chúng ta cũng phải có cách giao tiếp, cáchquan
hệ phù hợp như ông cha đã kết luận: "đối nhân xử thế". Trong hoạt

động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật,
6


chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của
nó mà còn phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự
vật khác. Đồng thời chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện
pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả
cao nhất. Để thực hiện mục tiêu : "dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh", một mặt chúng ta phải phát huy nội
lực của đất nước ta; mặt khác phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua
thử thách do xu hướng quốc tế hoá mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
và toàn cầu hoá kinh tế đưa lại. Mọi sự vật hiện tượng đều nằm
trong quá trình vận động và phát triển, nên trong nhận thức và hoạt
động của bản thân chúng ta phải có quan điểm phát triển. Điều đó
có nghĩa là khi xem xét bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng phải đặt
chúng trong sự vận động, sự phát triển, vạch ra xu hướng biến đổi,
chuyển hoá của chúng.
Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái
hiện đang tồn tại ở sự vật, mà còn phải thấy rõ khuynh hướng phát
triển trong tương lai của chúng, phải thấy được những biến đổi đi
lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi. Song điều cơ bản
là phải khái quát những biến đổi để vạch ra khuynh hướng biến đổi
chính của sự vật.
Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân
chia quá trình phát triển của sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên
cơ sở ấy để tìm ra phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp
nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát
triển của nó, tuỳ theo sự phát triển đó có lợi hay có hại đối với đời
sống của con người. Sinh viên là những người đang trong quá trình

phát triển về mọi mặt cả về thể lực và trí lực, tri thức và trí tuệ nhân
cách... cho nên thời kì này phải tranh thủ điều kiện để hoàn thiện
bản thân, làm nền tảng cho sự phát triển tiếp tục trong tương lai.
trì

Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ,
trệ,
7


định kiến trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của
chúng ta. Nếu chúng ta tuyệt đối hoá nhận thức, nhất là nhận thức
khoa học về sự vật hay hiện tượng nào đó thì các khoa học tự nhiên,
khoa học xã hội và nhân văn sẽ không thể phát triển và thực tiễn sẽ
dậm chân tại chỗ. Chính vì thế, chúng ta cần phải tăng cường phát
huy nỗ lực của bản thân trong việc hiện thực hoáquan điểm phát
triển vào nhận thức và cải tạo sự vật nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích
của chúng ta và của toàn xã hội .
Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự
vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra tồn tại và phát
triển. Một luận điểm nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện
này nhưng sẽ không phải là luận điểm khoa học trong điều kiện
khác. Chẳng hạn, thường thường trong các định luật của hoá học
bao giờ cũng có hai điều kiện: nhiệt độ và áp suất xác định. Nếu
vượt khỏi những điều kiện đó định luật sẽ không còn đúng nữa.
Trong lịch sử triết học khi xem xét các hệ thống triết học bao giờ
chúng ta cũng xem xét hoàn cảnh ra đời và phát triển của các hệ
thống đó .
Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá
trình lâu dài, khó khăn, nhiều thử thách và cũng có lúc sự lãnh đạo

của Đảng mắc phải những bệnh chung của các nước xã hội chủ
nghĩa như : bệnh giáo điều, bệnh bảo thủ trì trệ, chủ quan duy ý chí
… dẫn đến sự suy thoái, khủng hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên,
Đảng vẫn khẳng định ““CNXH trên thế giới từ những bài học thành
công và thất bại cũng như từ những khát vọng và sự thức tỉnh của
các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới.
Theo quy luật tiến hóa của lịch sử loài người nhất định sẽ tiến tới
chủ nghĩa xã hội” (Văn kiện Đại hội IX, trang 65). Nhận định này
xuất phát từ nguyên lý về sự phát triển và quan điểm phát triển
trong triết học Mác Lênin và thực tiễn tình hình thế giới cũng như
tình hình xây dựng CNXH ở Việt Nam.
8


3.Nguyên lý phát triển của Mác-Lê nin
Nguyên lý về sự phát triển là một trong hai nguyên lý cơ bản
của phép biện chứng duy vật. Phát triển là một phạm trù triết học
dùng để chỉ sự vận động có định hướng từ thấp đến cao, từ giản đơn
đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn mà kết quả là
cái mới tiến bộ ra đời thay thế cái cũ lạc hậu. Sự phát triển của sự
vật mang tính phổ biến vì trong thế giới khách quan, không có sự
vật hiện tượng (SVHT) nào đã đứng im, tĩnh tại mà nó luôn vận
động, phát triển không ngừng. Sự mất đi của 1 SVHT này là điều
kiện ra đời của SVHT khác.
Nguyên lý này cũng khẳng định rằng nguồn gốc của sự phát
triển là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong chính
bản thân sự vật hiện tượng hay nói cách khác đó là do mâu thuẩn
nội tại bên trong SVHT, nó vạch ra cách thức của sự phát triển là
vừa có tích lũy dần về lượng, vừa có sự chuyển hóa về chất, tức là
sự phát triển chẳng qua là sự tăng giảm về lượng và chất (vừa có

tính liên tục, vừa có tính gián đoạn). Nguyên lý về sự phát triển
cũng chỉ ra rằng không phải chỉ có khuynh hướng đi lên mới được
coi là sự phát triển mà quá trình phát trển thường được diễn ra
quanh co, phức tạp qua những khâu trung gian mà có lúc bao hàm
cả sự thụt lùi đi xuống tạm thời : đó là khuynh hướng tiến lên của
đường “xoáy tròn ốc”. Trong xu hướng của sự phát triển luôn có
tính kế thừa và sự đi lên này là một quá trình có tính lặp lại.
Tuân theo những đòi hỏi đó của quan điểm phát triển sẽ góp
phần khắc phục bệnh bảo thủ trì trệ và bệnh giáo điều trong tư duy
cũng như trong hành động thực tiễn. Bệnh bảo thủ trì trệ là tình
trạng ỷ lại, chậm đổi mới, ngại thay đổi, dựa dẫm, chờ đợi, thậm chí
cản trở cái mới, bằng lòng thỏa mãn với cái đã có. Đôi khi bệnh bảo
thủ biểu hiện qua những định kiến. Bệnh bảo thủ trì trệ cũng gắn
liền với bệnh giáo điều, đó là khuynh hướng tuyệt đối hóa lý luận,
coi thường kinh nghiệm thực tiễn, coi lý luận là bất di bất dịch, việc
9


nắm lý luận chỉ dừng lại ở những nguyên lý chung trừu tượng,
không chú ý đến những hoàn chỉnh lịch sử cụ thể của sự vận dụng
lý luận. Bệnh giáo điều có 2 dạng : giáo điều lý luận và giáo điều
kinh nghiệm. Bệnh giáo điều lý luận là việc thuộc lòng lý luận, cho
rằng áp dụng lý luận áp dụng vào đâu cũng được không xem xét
điều kiện cụ thể của mình. Ví dụ như theo Mác thì phải xóa bỏ tư
hữu dẫn đến việc ta tiến hành cải tạo XHCN xóa tất cả các thành
phần kinh tế nhằm mục đích chỉ còn 2 thành phần kinh tế quốc
doanh và tập thể mà không thấy được rằng "Nền kinh tế nhiều thành
phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ", sự có mặt của nhiều
thành phần kinh tế với các mối quan hệ tác động qua lại của nó sẽ
tạo động lực cho sự phát triển kinh tế trong giai đoạn này. Bệnh

giáo điều kinh nghiệm là việc áp dụng nguyên si rập khuôn mô hình
của nước khác, của địa phương khác vào địa phương mình mà
không sáng tạo, chọn lựa … Ví dụ như trước đây ta bắt chước rập
khuôn mô hình CNXH ở Liên Xô trong việc thành lập các bộ ngành
của bộ máy nhà nước (ở Liên Xô có bao nhiêu Bộ, Ngành ta cũng
có bấy nhiêu Bộ ngành), hoặc về công nghiệp hóa cũng vậy, ta chỉ
chú ý tập trung phát triển công nghiệp nặng mà không chú ý phát
triển công nghiệp nhẹ … Bệnh bảo thủ trì trệ và bệnh giáo điều
cùng với bệnh chủ quan duy ý chí là những căn bệnh chung của các
nước XHCN và nó gây ra hậu quả tất yếu là làm cản trở, thậm chí
kéo lùi sự phát triển của kinh tế - xã hội, đưa chúng ta đến sai lầm
nghiêm trọng.Trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước, Đảng
ta luôn đấu tranh phê phán với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến.
Văn kiện Đại hội Đảng lần IX có viết : “... Xóa bỏ mặc cảm, định
kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng
tinh thần cởi mở, tin tưởng lẫn nhau hướng tới tương lai” .
Việc Đảng ta kiên trì đổi mới xây dựng đất nước phát triển theo con
đường XHCN là căn cứ vào quan điểm phát triển của chủ nghĩa duy
vật biện chứng trên cơ sở tin tưởng vào sự tất thắng của chủ nghĩa
cộng sản mặc dù trong bối cảnh lịch sử hiện nay CNXH trên thế
10


giới đang ở giai đoạn thoái trào và công cuộc quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội của đất nước ta cũng như các nước xã hội chủ nghĩa.
II.Triết lý phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh về độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chủ
đạo, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình hình thành, phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh. Trong quá trình đó, Người vừa học tập và

nghiên cứu lý luận, vừa tham gia các phong trào đấu tranh chính trị
của công nhân và lao động ở những nơi Người đi qua, đã trực tiếp
lăn lộn và trải nghiệm suốt mấy thập kỷ trong cuộc hành trình tìm
đường cứu nước, cứu dân. Bằng con đường lao động, vô sản hóa,
Người làm đủ mọi nghề, đi qua nhiều miền đất khác nhau, tham gia
các sinh hoạt của công nhân, thợ thuyền, ở ngay sào huyệt của chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa thực dân, Người có điều kiện quan sát
trực tiếp tình cảnh sống của những người lao động dưới ách áp bức
bóc lột tàn bạo của tư bản ở chính quốc đối với các dân tộc thuộc
địa và phụ thuộc. Thực tiễn này đã giúp Người nhận rõ bản chất của
chủ nghĩa tư bản và thực dân, cũng như hình thành ở Người tình
hữu ái giai cấp đối với những người cùng khổ. Cũng chính thực tiễn
này đã cung cấp cho Người những căn cứ để xác minh một sự thật
mà Người đã từng hoài nghi về “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” do giai
cấp tư sản đưa ra. Người muốn hiểu rõ đằng sau những lời đẹp đẽ
trong châm ngôn tư sản ấy, thực chất của nó là cái gì? Mười năm
đầu trong cuộc đi tìm chân lý tại chính quê hương của chủ nghĩa tư
bản đã đem lại cho Người những thu hoạch lớn, những kết luận
chính trị quan trọng, tác động sâu sắc đến tư tưởng, quan điểm,
đường lối của Người. Đó là, ở đâu đâu đế quốc tư bản thực dân
cũng dã man, tàn bạo, cũng đầy rẫy những quan hệ phi nhân tính; ở
đâu đâu những người lao động nghèo khổ, bần cùng cũng là bạn bè,
anh em, đồng chí của nhau, họ phải được tập hợp lại, chủ động đấu
tranh, “đem sức ta mà giải phóng cho ta.” Trong quá trình tìm
đường cứu nước cứu dân và định hình đường lối chính trị giải
11


phóng, giành độc lập dân tộc, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
không chỉ hoạt động ở châu Âu, ở các nước phương Tây tư bản chủ

nghĩa, mà Người còn hoạt động ở phương Đông, châu Á, tìm hiểu
thực tiễn các phong trào đấu tranh ở Trung Quốc và Thái
Lan. Những cứ liệu từ thực tiễn đó giúp cho Người so sánh, phân
tích, tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt trong các kết cấu
kinh tế - xã hội, các mâu thuẫn giai cấp và dân tộc ở những khu vực
địa chính trị tiêu biểu, nơi diễn ra những phân hóa và mâu thuẫn giai
cấp, dân tộc rất khác nhau giữa phương Tây và phương Đông, giữa
các nước tư bản châu Âu với các nước châu Á đang còn tồn tại rất
nhiều tàn tích phong kiến và đang là đối tượng khai thác, nô dịch
của chủ nghĩa thực dân. Mối quan tâm đặc biệt nổi bật của Người là
tình hình Đông Dương, đặc biệt là Việt Nam khi đã mất độc lập chủ
quyền và đang bị chủ nghĩa thực dân đè nén, thống trị. Do đó, đối
với Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, việc nghiên cứu, khảo sát thế
giới, khu vực và quốc tế cũng chỉ nhằm hướng tới giải phóng và
phát triển dân tộc mình, đặt cách mạng Việt Nam trong phong trào
cách mạng thế giới, sao cho phù hợp với trào lưu, xu thế chung của
lịch sử thế giới và thời đại. Bước ngoặt lớn trong sự hình thành và
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh là khi Người giác ngộ chủ nghĩa
Mác-Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Chỉ có cuộc
cách mạng này mới giải phóng được giai cấp vô sản, giải phóng các
dân tộc bị áp bức khỏi ách thống trị của đế quốc, thực dân, mới thực
hiện được độc lập tự do, hoà bình và hạnh phúc cho các dân tộc. Sự
kiện lịch sử đánh dấu bước ngoặt đó là vào năm 1920, tại Đại hội
lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp họp ở thành phố Tours, Người đã
cùng với những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân Pháp tán
thành Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ
một người yêu nước tiến bộ, Người đến với chủ nghĩa Mác-Lênin,
trở thành người chiến sĩ xã hội chủ nghĩa . Năm 1923, Nguyễn Ái
Quốc đến nghiên cứu, khảo sát trực tiếp tại nước Nga Xôviết của
Lênin, thấy rõ sự sinh thành chủ nghĩa xã hội, nhất là những cải

cách kinh tế với chính sách kinh tế mới (NEP) do Lênin khởi xướng
12


làm hồi sinh nước Nga. Người có điều kiện nghiên cứu sâu hơn chủ
nghĩa Lênin cũng như ảnh hưởng rộng lớn của Cách mạng Tháng
Mười, mở ra thời đại mới - quá độ tới chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế
độ

bản
chủ
nghĩa.
Những tư tưởng đó đã được Người nghiền ngẫm sâu sắc, đã củng cố
và khẳng định niềm tin của Người về cách mạng giải phóng dân tộc
trong quỹ đạo của cách mạng vô sản, lực lượng lãnh đạo cuộc cách
mạng đó chỉ có thể là giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong
của nó là Đảng Cộng sản. Như thế, từ 1911 đến 1920 là một thập kỷ
Người tìm đường và đã thấy con đường sẽ đi. Từ 1920-1924 và sau
đó từ 1925-1927 khi Người viết các tác phẩm lý luận, truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, nhất là "Đường Kách
mệnh" (1927), đó là một giai đoạn lịch sử đặc biệt, hình thành về cơ
bản lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Người. Đó cũng là
thời gian mà Người chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho
sự ra đời chính dảng cách mạng kiểu mới ở Việt Nam.
Tư tưởng và phương pháp cách mạng sáng tạo của Nguyễn Ái
Quốc được thể hiện tập trung, cô đọng trong các văn kiện đầu tiên
thành lập Đảng, do chính Người trực tiếp soạn thảo: Chánh cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt của Đảng, tháng
2/1930. Các mốc thời gian và sự kiện sau đó phản ánh những hoạt
động vô cùng phong phú, kiên định, tích cực sáng tạo, nhưng cũng

đầy thử thách đối với Người. Chính thực tiễn lịch sử cách mạng đã
là sự thẩm định khách quan, công tâm nhất đối với giá trị, sức sống,
ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Đây thực sự là điểm nổi bật về sức sáng tạo vượt trước của Hồ
Chí Minh, về bản lĩnh Hồ Chí Minh. Cho đến khi Người về nước
(1941) trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam thì tư tưởng, phương
pháp cách mạng đầy sáng tạo của Người mới được khẳng định đầy
đủ, nhanh chóng đi vào thực tiễn, đem lại lời giải đúng đắn nhất về
lý luận để thúc đẩy cách mạng trong thực tiễn. Đó chính là chân giá
trị tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
13


Những sáng tạo và cống hiến lịch sử của Hồ Chí Minh về độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội thể hiện ở những điểm nổi bật sau đây:
Một là, nhận thức sáng tạo về chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa
Mác-Lênin. Nghiên cứu các tác phẩm kinh điển, Người nhận thấy
một trong những ưu điểm đặc sắc nhất của lý luận Mác-Lênin là
phép biện chứng. Đó là phép biện chứng của phát triển xã hội, là
khoa học và cách mạng của sự phát triển, xóa bỏ trật tự xã hội cũ
bất công, tàn bạo và hướng tới xây dựng trật tự xã hội mới, dân chủ,
công bằng và nhân đạo, xứng đáng nhất với con người - đó là chủ
nghĩa cộng sản. Người cũng đặc biệt đề cao học thuyết cách mạng
của Lênin, cả trí tuệ khoa học, tính triệt để cách mạng lẫn đạo đức
và nhân cách của người sáng lập ra học thuyết Đảng kiểu mới, lãnh
đạo thành công cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử, biến chủ
nghĩa xã hội từ một học thuyết lý luận thành hiện thực xã hội mới,
một chế độ xã hội mới. Người nhận rõ chủ nghĩa Mác-Lênin là biểu
hiện và kết tinh tinh hoa trí tuệ và tư tưởng của thời đại, của văn hoá
nhân loại. Song, Người cũng đặt ra một vấn đề hết sức nghiêm túc

về nhận thức khoa học: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên
một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu
Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại” . Người
đặt vấn đề về sự cần thiết phải vận dụng quan điểm và phương pháp
duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác để xem xét sự khác nhau cơ
bản giữa kết cấu kinh tế và kết cấu giai cấp - xã hội giữa phương
Tây với phương Đông. Người cũng nêu rõ, mai đây, khi chủ nghĩa
tư bản phương Tây làm thay đổi phương Đông thì đấu tranh giai cấp
có trở nên quyết liệt không? và Người khẳng định, đại thể là có, nếu
xét gương của Nhật Bản. Người còn giải thích rằng, thật ra là có, vì
sự Tây phương hóa ngày càng tăng và tất yếu của phương Đông nói cách khác, chủ nghĩa Mác sẽ còn đúng cả ở đó. Nếu phân hoá
giai cấp đã trở nên rõ rệt và đối kháng giai cấp từ sự phân hóa ấy là
sâu sắc và gay gắt ở phương Tây trong nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa, thì ở phương Đông và Việt Nam lại không hẳn là như vậy. ở
14


đây, nổi bật lên mâu thuẫn dân tộc và xã hội với chủ nghĩa tư bản,
chủ nghĩa thực dân từ bên ngoài xâm lược vào chứ không phải là
mâu thuẫn giai cấp. Do đó, nếu giải phóng giai cấp và đấu tranh giai
cấp như một đặc trưng nổi bật và là một đòi hỏi bức xúc ở phương
Tây tư bản chủ nghĩa, thì ở phương Đông, trong đó có Việt Nam lại
nổi lên đặc trưng khác, đó là giải phóng dân tộc, là giải quyết mâu
thuẫn dân tộc với chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân xâm lược để
giành độc lập, xóa bỏ tình trạng thuộc địa và phụ thuộc dưới ách đô
hộ, thống trị của thực dân. Đó là lý do giải thích vì sao Người chủ
trương đoàn kết tất cả các giai cấp trong dân tộc để tạo ra sức mạnh
giải phóng. Trong khi tin tưởng chắc chắn rằng, lý luận của chủ
nghĩa Mác là đúng đắn không chỉ ở phương Tây mà còn ở phương
Đông, Người còn có dự báo đầy mẫn cảm rằng, chủ nghĩa cộng sản

dễ áp dụng và cách mạng cộng sản chủ nghĩa dễ thành công hơn
chính trong thực tiễn phương Đông, châu Á và Việt Nam. Một trong
những cơ sở luận chứng cho giả thuyết đó là sức đoàn kết dân tộc,
truyền thống cộng đồng đã tỏ ra rất gần gũi với bản chất của chủ
nghĩa cộng sản. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh còn nêu ra một
luận điểm rất khoa học và sáng tạo, tỏ rõ chính kiến độc lập đầy bản
lĩnh của Người. Đó là, muốn áp dụng chủ nghĩa Mác, áp dụng lý
thuyết cộng sản của Mác vào phương Đông và Việt Nam thì phải
“xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó
bằng dân tộc học phương Đông. Dù sao thì cũng không thể cấm bổ
sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó
những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được” . Người cũng
xác định rằng, nhiệm vụ ấy đang đặt ra về mặt lý luận mà những
người cộng sản phải đáp ứng. Những luận điểm nêu trên được
Nguyễn Ái Quốc nói rõ vào năm 1924, đủ thấy tư chất và bản lĩnh
sáng tạo của người cộng sản trẻ tuổi với sức bay của tư duy và tư
tưởng vượt trước thời đại như thế nào. Sau này, Người còn có nhiều
luận điểm sáng tạo khác đối với việc nhận thức bản chất khoa học
và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Có thể nêu một vài thí dụ
tiêu biểu. Người nhìn nhận chủ nghĩa Mác-Lênin trong dòng chảy
15


của sự tiến hóa tư tưởng, biết thâu thái tất cả những gì tiến bộ, ưu tú,
tinh hoa của tư tưởng, văn hóa nhân loại để vừa hiểu rõ sự phong
phú của tư tưởng, văn hóa nhân loại, vừa thấy sự phát triển nhảy vọt
của những tư tưởng mácxít vốn không tách rời, không ở bên ngoài
mà ở trong tổng số và tổng hợp của toàn bộ những giá trị tinh hoa
đó. Chẳng thế mà, trong khi tin và đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin,
Người vẫn rất trân trọng tư tưởng từ bi, bác ái của đạo Phật, khoan

dung văn hóa cao cả của chúa Giêsu, tinh thần thực tiễn trong Tam
dân chủ nghĩa của Tôn Trung Sơn. Với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa
Mác - Lênin không chỉ là khoa học và cách mạng, mà còn là đạo
đức và văn hóa. Người đã từng chỉ rõ, đọc hàng trăm, hàng nghìn
quyển sách Mác - Lênin mà ăn ở với nhau không có tình có nghĩa
thì làm sao gọi là Mác - Lênin được. Người cũng là nhà tư tưởng
mácxít nổi bật nhất khi tiếp cận chủ nghĩa xã hội, tiếp cận nền chính
trị của giai cấp công nhân và bản chất của đảng cộng sản từ góc độ
đạo đức học và văn hoá đạo đức. Người nói, chủ nghĩa xã hội đối
lập với chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng xã hội chủ nghĩa đối lập với tư
tưởng cá nhân chủ nghĩa, chính trị cốt ở đoàn kết và thanh khiết,
Đảng là đạo đức, là văn minh. Chân lý - một vấn đề của nhận thức
luận khoa học - được Hồ Chí Minh mở rộng sang bình diện đạo đức
học. Cái gì tốt cho dân, có lợi cho dân, cái đó là chân lý. Phục vụ
nhân dân, làm công bộc trung thành và tận tụy của dân là phục tùng
chân lý cao nhất, là lựa chọn một lẽ sống cao thượng nhất. Vận
dụng chủ nghĩa Mác-Lênin, Người đặc biệt chú trọng yêu cầu sáng
tạo, không máy móc rập khuôn, muốn vậy phải hiểu rõ đặc điểm,
hoàn cảnh và những điều kiện lịch sử cụ thể. Người căn dặn chúng
ta phải chú ý học tập kinh nghiệm của Liên Xô, Trung Quốc và các
nước anh em, nhưng không được sao chép mà phải có tinh thần độc
lập tự chủ. Người nói rõ, ta và Liên Xô rất khác nhau về trình độ
phát triển, về lịch sử và văn hoá. Trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, làm khác với Liên Xô vẫn là người mácxít. Nhận thức
đúng đắn và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn
cảnh, điều kiện lịch sử đặc thù của Việt Nam là điểm xuất phát về lý
16


luận và thực tiễn, về ý thức hệ của Hồ Chí Minh. Đó chẳng những là

cơ sở để có những phát kiến sáng tạo, những cống hiến của Hồ Chí
Minh về tư tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, mà còn là sự
cống hiến đặc sắc của Người, góp phần làm phong phú chủ nghĩa
Mác - Lênin và kho tàng lý luận cách mạng thế giới.
Hai là, vạch trần bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế
quốc, thực dân và nêu lên tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc
ở thuộc địa phải phối hợp chặt chẽ với cách mạng vô sản ở chính
quốc. Nguyễn Ái Quốc là người đã viết tác phẩm lý luận mácxít
Bản án chế độ thực dân Pháp rất nổi tiếng vào năm 1925. Tác phẩm
này là một tổng kết lịch sử, một cáo trạng đối với chủ nghĩa thực
dân, để sau đó 20 năm, vào năm 1945, Người viết nên Tuyên ngôn
độc lập, khai sinh chế độ dân chủ cộng hoà của nước Việt Nam độc
lập, đồng thời là cáo chung chế độ thực dân ở Việt Nam sau hơn 80
năm tồn tại của nó. Người phân tích: “Chủ nghĩa tư bản là một con
đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái
vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta
muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu
người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của
giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ
mọc ra” . Cách mạng phải có sự phối hợp ở cả chính quốc và thuộc
địa, giống như một con chim hai cánh, một cánh vỗ ở thuộc địa, một
cánh vỗ ở chính quốc. Sự diễn đạt cụ thể và giản dị trên đây đã hàm
chứa tư tưởng về tính triệt để của cách mạng chống chủ nghĩa tư
bản, thực dân và tính tất yếu của sự phối hợp các phong trào cách
mạng vì mục tiêu giải phóng ở các nước thuộc địa, phụ thuộc và ở
các nước tư bản chủ nghĩa. Đó là biểu hiện lập trường cách mạng
triệt để và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân trên toàn thế
giới. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nhận rõ, đối với những
người lao động và vô sản ở khắp mọi nơi, dù màu da có khác nhau
nhưng họ đều có chung một kẻ thù và cũng có chung một mục tiêu

tranh đấu. Đế quốc thực dân ở đâu đâu cũng là ác quỷ, phải đánh đổ
17


nó đi. Còn anh em vô sản ở đâu đâu cũng là bạn bè, anh em, đồng
chí của nhau. Trên đời này, suy đến cùng, cũng chỉ có hai giống
người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ
có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản. Người đề
cập tới tình hình Đông Dương và những cơ sở cho sự chín muồi
cách mạng ở đó. Đó vừa là những khẳng định khoa học, vừa là
những dự báo chính trị mẫn cảm. Người viết: “người Đông Dương
không chết, người Đông Dương vẫn sống, sống mãi mãi. Sự đầu
độc có hệ thống của bọn tư bản thực dân không thể làm tê liệt sức
sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của người
Đông Dương. Luồng gió từ nước Nga thợ thuyền, từ Trung Quốc
cách mạng hoặc từ Ấn Độ chiến đấu đang thổi đến giải độc cho
người Đông Dương” . Theo đánh giá của Người, “Đằng sau sự phục
tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang
gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến. Bộ phận
ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến. Sự tàn bạo
của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi. Chủ nghĩa xã hội chỉ còn
phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa
thôi” . Cho đến khi, Luận cương của Lênin được Người hấp thụ như
tìm thấy cẩm nang đi đường, Người đã xác định rõ ràng con đường
giải phóng dân tộc là con đường cách mạng vô sản.
Ba là, Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đã giải quyết thành
công mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp, giữa giải phóng dân tộc
với giải phóng giai cấp trên lập trường giai cấp công nhân. Trong
những năm 20 - 30 của thế kỷ XX, không phải tất cả những người
cách mạng và yêu nước, dù đứng trên lập trường cộng sản, đã ý thức

đầy đủ và thật sự quan tâm tới vận động cách mạng giải phóng dân
tộc ở các thuộc địa. Song, đây lại là vấn đề cốt tử mà Nguyễn Ái
Quốc đặc biệt chú ý, từ khi tham gia hoạt động trong Đảng Cộng
sản Pháp. Người đã thẳng thắn phê phán thái độ thờ ơ hoặc lãng
quên phong trào cách mạng ở thuộc địa và đòi hỏi Đảng Cộng sản
phải xác định rõ trách nhiệm của Đảng đối với việc thúc đẩy và phối
18


hợp hành động với các phong trào cách mạng ở thuộc địa. Người đã
sớm đi đến một kết luận quan trọng: sự nghiệp giải phóng dân tộc
phải đồng thời gắn liền với sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân
và giải phóng xã hội; cả hai cuộc giải phóng đó đều là sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân, là sự nghiệp của chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản. Các bản tham luận nổi tiếng của Người tại Đại hội
V Quốc tế Cộng sản (17/6 đến 8/7 năm 1924) đã chứng tỏ điều đó.
Những luận điểm sau đây cho thấy tính hệ thống và sự nhất quán
của Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc và cách mạng vô sản:
“Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc;
cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa
cộng sản và cách mạng thế giới." Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai
cấp công nhân trên thế giới,” “Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.”
Cái mới và bản lĩnh sáng tạo của Hồ Chí Minh về vấn đề độc
lập dân tộc và cách mạng vô sản là ở chỗ:
- Không tách rời giai cấp khỏi dân tộc.
- Giải phóng dân tộc trên lập trường giai cấp công nhân, trên
nền tảng ý thức hệ của giai cấp công nhân nên cách mạng giải
phóng dân tộc với mục tiêu giành độc lập dân tộc phải do giai cấp

công nhân và đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Cũng do đó, con đường tiến lên của dân tộc và của xã hội Việt Nam
chỉ có thể là con đường xã hội chủ nghĩa, gắn liền độc lập dân tộc
với chủ nghĩa xã hội bằng cách quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa. Thực tiễn khẳng định, tư tưởng Hồ Chí
Minh về giải phóng và phát triển đã mở ra con đường phát triển tốt
đẹp nhất cho dân tộc Việt Nam: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã đặt nền móng lý luận cho cách mạng
Việt Nam trong thời đại mới, đã tìm thấy con đường phát triển đúng

19


đắn, hợp lý, có triển vọng nhất, phù hợp với trào lưu tiến hoá chung
của nhân loại và xu thế phát triển của thời đại.
Bốn là, nhờ có lý luận và phương pháp cách mạng đúng đắn,
Hồ Chí Minh đã cùng với Đảng lãnh đạo nhân dân và dân tộc ta
đánh bại chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và mới, đưa dân tộc ta vào
hàng ngũ các dân tộc tiên phong của thế giới, xây dựng chủ nghĩa
xã hội phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của nước ta. Tư tưởng
Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội cũng có những nét sáng tạo đặc
sắc, có giá trị và ý nghĩa hiện đại, không chỉ với nước ta mà còn đối
với các nước xã hội chủ nghĩa khác trong loại hình “phát triển rút
ngắn” và “quá độ gián tiếp,” do bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
thực hiện từng bước từ dân chủ nhân dân tới chủ nghĩa xã hội.
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh có cả một hệ vấn đề lý luận về
chủ nghĩa xã hội, từ đặc trưng, bản chất, mục tiêu, con đường,
phương thức, mô hình và bước đi cũng như những giải pháp xây
dựng chủ nghĩa xã hội trong sự kết hợp giữa tính phổ biến với tính
đặc thù, tính giai cấp - dân tộc - nhân dân với tính thời đại và tính

nhân loại trong thế giới đương đại ngày nay. Hồ Chí Minh đã phát
triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học bằng cách bổ sung một cách
tiếp cận đạo đức học cũng đồng thời là một quan niệm cụ thể về chủ
nghĩa xã hội. Người đã dự cảm từ rất sớm một vấn đề mà ngày nay
ta càng thấy rõ tính hệ trọng đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã
hội: Không đánh bại chủ nghĩa cá nhân thì không thể xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội.
Cũng như vậy, không đảm bảo thực hành dân chủ rộng rãi thì
không thể chống được quan liêu, lãng phí, tham ô, tham nhũng. Rõ
ràng, chủ nghĩa xã hội là đối lập với chủ nghĩa cá nhân. Thành bại
của chủ nghĩa xã hội tùy thuộc vào chỗ, những người xây dựng chủ
nghĩa xã hội, nhất là đội ngũ tiên phong có đủ dũng khí và quyết
tâm để đánh thắng thứ “giặc nội xâm” mà Người coi là kẻ thù nguy
hiểm nhất hay không? Do đó, chủ nghĩa xã hội không chỉ là kinh tế
- một nền kinh tế phồn vinh, giàu có, một thể chế chính trị dân chủ 20


pháp quyền, đảm bảo quyền làm chủ thực chất của nhân dân, một xã
hội công bằng, bình đẳng cho sự phát triển hài hoà cá nhân và cộng
đồng, mà còn là một nền tảng đạo đức trong sạch, thấm sâu vào các
quan hệ xã hội lành mạnh, một hệ giá trị văn hoá nhân bản, nhân
đạo và nhân văn, kết hợp được truyền thống, bản sắc dân tộc với
những tinh hoa của thời đại vì độc lập - tự do - hạnh phúc cho mọi
con người, mọi dân tộc. Sự sâu sắc và tinh tế văn hóa, đặc biệt là
văn hóa đạo đức của Hồ Chí Minh là ở chỗ, Người đem vào tiến
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội một nhiệm vụ chiến lược - “trồng
người,” đào tạo, giáo dục, rèn luyện cán bộ, coi đó là công việc gốc
của Đảng; và thực hành đạo đức cách mạng được Người quan tâm
suốt đời như một chiến lược, cả tư tưởng lẫn hành động. Chiến lược
đó là cốt lõi của chiến lược con người, chiến lược xây dựng, phát

triển, đồng thời là chiến lược bảo vệ chủ nghĩa xã hội, làm cho cách
mạng, Đảng cách mạng, người cách mạng, có sức mạnh tự bảo vệ.
Điều đó cho thấy, tư duy chiến lược của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa
xã hội ở tầm thời đại và hiện đại như thế nào, nhất là đem tư tưởng
của Người soi rọi vào tình hình hiện nay cũng như trước những đòi
hỏi mới của thời đại, trong xu thế toàn cầu hoá và trong bối cảnh hội
nhập. Người chỉ rõ, bản chất sâu xa và tính ưu việt nổi bật của chủ
nghĩa xã hội là thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Người khẳng định, không gì quý bằng dân, không gì mạnh bằng sức
mạnh đoàn kết của nhân dân, và dân chủ là quý báu nhất trên đời
của dân. Là chủ thể gốc của mọi quyền lực, nhân dân phải là chủ sở
hữu đích thực của dân chủ, phải là chủ xã hội, chủ nhà nước, kiểm
soát được nhà nước của mình và xã hội phải là một xã hội dân chủ.
Người còn nhấn mạnh, thực hành dân chủ rộng rãi sẽ là chiếc chìa
khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. Vậy là, Người đã thấy
vai trò động lực của dân chủ đối với tiến bộ và phát triển, đối với
chủ nghĩa xã hội. Lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí
Minh thấm nhuần sâu sắc không chỉ khoa học, cách mạng mà còn là
đạo đức, là văn hóa, tức là nhân văn. Người từng nói, chủ nghĩa xã
hội cộng với khoa học sẽ là nguồn sức mạnh vô tận, chắc chắn sẽ
21


đưa loài người đến hạnh phúc vô tận . Phải xây dựng xã hội xã hội
chủ nghĩa sao cho đời sống vật chất ngày càng tăng, đời sống tinh
thần ngày càng tốt, xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ. Tất cả đều
nhằm vào hạnh phúc của nhân dân. Dân chỉ biết đến dân chủ khi
dân được ăn no, mặc ấm. Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà
dân vẫn cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì.
Mấu chốt của xây dựng chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh là phải

dựa vào dân, đem tài dân, sức dân để làm lợi cho dân, để mưu cầu
hạnh phúc cho dân. Việc gì có lợi cho dân phải quyết làm cho bằng
được. Việc gì có hại tới dân phải quyết tránh cho bằng được. Quyền
làm chủ của dân, hạnh phúc của dân, sự phát triển tự do, dân chủ,
công bằng trong xã hội - đó là những giá trị đảm bảo cho chế độ
phát triển bền vững và chủ nghĩa xã hội thực sự là một xã hội văn
hóa cao, trong đó, con người là con người xã hội chủ nghĩa, nhân
dân là chủ và làm chủ, dân tộc trở thành một dân tộc thông thái.
Chủ nghĩa xã hội nhân dân và nhân văn trong chiều sâu triết lý
nhân văn chủ nghĩa của Hồ Chí Minh là ở đó. Trong những tư tưởng
hàm xúc đó đã toát lên đầy đủ những vấn đề cốt yếu về mục tiêu,
bản chất, động lực, cách làm và bước đi của chủ nghĩa xã hội. Đó là
chủ nghĩa xã hội Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó cũng là
một trong những cống hiến sáng tạo nổi bật của Hồ Chí Minh về
chủ nghĩa xã hội.
Năm là, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện
một quan hệ biện chứng, thấm nhuần sâu sắc quan điểm thực tiễn phát triển và đổi mới. Những luận giải cô đọng, hàm xúc của Hồ
Chí Minh cho thấy, độc lập dân tộc là tiền đề, là điều kiện của chủ
nghĩa xã hội, đó là nền tảng chính trị, là cơ sở dân tộc và chủ quyền
nhân dân của chủ nghĩa xã hội. Theo đó, chủ nghĩa xã hội sinh
thành, phát triển và hoàn thiện là đảm bảo thực chất, đầy đủ và bền
vững nhất của độc lập dân tộc. Đó cũng là thước đo dân chủ và tự
do của phát triển xã hội, một xã hội văn minh, hiện đại mà lịch sử
22


tìm thấy sự biểu hiện tốt nhất ở chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội,
đó cũng chính là cách thức tổ chức xã hội tốt nhất để làm cho Tổ
quốc, đất nước, quốc gia - dân tộc trường tồn, con người cá nhân và

cộng đồng xã hội được phát triển tự do, toàn diện mọi khả năng
sáng tạo, được thụ hưởng hạnh phúc vật chất, tinh thần trong một
môi trường lành mạnh, tốt đẹp nhất. Đó cũng chính là hàm ý sâu xa
trong một chân lý lớn mà Hồ Chí Minh nêu ra: “Không có gì quý
hơn độc lập tự do.” Giá trị ấy cũng chính là chủ nghĩa xã hội, một
chủ nghĩa xã hội phát triển thông qua đổi mới, sáng tạo và hiện đại
hóa.

23


PHẦN II:Ý NGHĨA CỦA TRIẾT LÝ PHÁT TRIỂN
TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN
TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.Tăng cường vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
Cộng Sản Việt Nam
Trong nhiều văn kiện của Đảng ta, vấn đề độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội luôn được khẳng định một cách mạnh mẽ
và dứt khoát. Tại Đại hội IX của Đảng, khi tổng kết những bài học
chủ yếu của 15 năm đổi mới, Báo cáo chính trị đã chỉ rõ bài học thứ
nhất là: “Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh”. Sự lựa chọn của Đảng ta, của nhân dân ta là
hoàn toàn chính xác.
Dân tộc ta có truyền thống yêu nước, anh dũng bất khuất, đã
từng chiến thắng nhiều đế quốc phong kiến hung hãn. Từ khi thực
dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu nước đã dấy lên hết sức
mạnh mẽ. Liên tiếp nổ ra các cuộc nổi dậy khắp mọi miền đất nước,
thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, các bậc sĩ phu, kể cả một
bộ phận quan lại phong kiến. Các phong trào Cần Vương, khởi

nghĩa Yên Thế; các phong trào Duy Tân, Đông Du, khởi nghĩa Yên
Bái và hàng chục cuộc đấu tranh khác nữa đều bị thực dân Pháp
thẳng tay đàn áp và thất bại.
Trong bối cảnh đó, chưa bao giờ như lúc bấy giờ, độc lập dân
tộc càng trở nên là yêu cầu cơ bản, cấp bách. Công cuộc giải phóng
dân tộc Việt Nam khi ấy ở trong “tình hình đen tối như không có
đường ra”. Bằng con đường nào và giai cấp nào có khả năng gánh
vác sứ mệnh trọng đại đó?
Nhưng rồi chính lịch sử có lời giải đáp. Chủ nghĩa Mác ra đời
đã vạch ra cái tất yếu từng bị che lấp bởi màn sương mù trong lịch
24


sử. Chủ nghĩa Mác khẳng định chủ nghĩa tư bản nhất định bị thay
thế bằng một chế độ tốt đẹp hơn - chế độ cộng sản chủ nghĩa không
có người bóc lột người. Và người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư
bản chính là giai cấp công nhân - sản phẩm của nền đại công
nghiệp tư bản chủ nghĩa. Đó là một tiếng sét trong lòng chủ nghĩa tư
bản ở vào thời thịnh trị, sau khi nó chiến thắng các chế độ chuyên
chế phong kiến và đã bành trướng ra khắp thế giới, chi phối mọi mặt
đời sống xã hội loài người. Chính vào thời điểm ấy Cách mạng
Tháng Mười đã nổ ra, mở đầu cho một xu thế mới của lịch sử thế
giới, tạo ra phản ứng dây chuyền của hàng loạt cuộc đấu tranh giải
phóng có quy mô to lớn và chiều sâu cách mạng chưa từng thấy
trong lịch sử nhân loại.
Toàn bộ tình hình đó của thế giới, bằng nhiều con đường, dội
vào và thấm sâu trong mảnh đất Việt Nam – nơi mà chính “sự tàn
bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi; chủ nghĩa cộng sản chỉ
còn phải làm cái việc là gieo hạt của công cuộc giải phóng nữa
thôi”. Nguyễn Ái Quốc là người gieo hạt, gây mầm cách mạng Việt

Nam. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa xã hội.
Vời kỳ công của Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp
với phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam chuyển
hóa thành một tất yếu đưa đến một sự kiện trọng đại: năm 1930,
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện này là mốc son đánh dấu
sự kết hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong bản chất của Đảng.
Đảng tuyên bố: “Chủ trương tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội Cộng sản”. Một cách tự nhiên,
ngay sau lời tuyên bố ấy của Đảng, chủ nghĩa Xã hội không chỉ là
mục tiêu lựa chọn mà đã thực sự thúc đẩy lịch sử dân tộc Việt Nam
chuyển mình, là con đường dân tộc Việt Nam đã và đang đi, từ đó
25


×