Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Hoàn Thiện Cơ Chế Xác Định Trước Xuất Xứ Hàng Hóa Nhập Khẩu Vào Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 90 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
------***------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Kinh tế đối ngoại
HOÀN THIỆN CƠ CHẾ XÁC ĐỊNH TRƯỚC
XUẤT XỨ HÀNG HÓA NHẬP KHẨU VÀO
VIỆT NAM

Họ và tên sinh viên
Mã sinh viên
Lớp
Khóa
Người hướng dẫn khoa học

: Đinh Ngọc Trang
: 1111110255
: Anh 6 – Khối 2 – KT
: 50
: PGS. TS. Phạm Duy Liên

Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Hà Nội, tháng 5 năm 2015


i

MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT ........................................................................iv
DANH MỤC BẢNG BIỂU SƠ ĐỒ ..........................................................................v


LỜI NÓI ĐẦU ...........................................................................................................1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CƠ CHẾ XÁC ĐỊNH TRƯỚC XUẤT XỨ
HÀNG HÓA NHẬP KHẨU .....................................................................................5
1.1. Một số vấn đề cơ bản về xuất xứ hàng hóa và quy tắc xuất xứ .................5
1.1.1. Xuất xứ hàng hóa .....................................................................................5
1.1.1.1. Khái niệm xuất xứ hàng hóa ..........................................................................5
1.1.1.1.1. Xuất xứ thuần túy ........................................................................7
1.1.1.1.2. Xuất xứ không thuần túy .............................................................8
1.1.1.2. Vai trò của xuất xứ hàng hóa .........................................................................8
1.1.1.2.1. Xuất xứ hàng hóa có ý nghĩ to lớn với việc thực hiện chính sách
thương mại ..................................................................................................8
1.1.1.2.2. Xuất xứ có vai trò trong thống kê thương mại ............................9
1.1.1.2.3. Xuất xứ có vai trò trong xúc tiến thương mại .............................9
1.1.2. Quy tắc xuất xứ hàng hóa ....................................................................10
1.1.2.1. Khái niệm và phân loại quy tắc xuất xứ hàng hóa.......................................10
1.1.2.2. Vai trò của quy tắc xuất xứ hàng hóa ..........................................................12
1.1.2.2.1. Quy tắc xuất xứ và chính sách thương mại ............................... 12
1.1.2.2.2. Quy tắc xuất xứ và ảnh hưởng đối với nền kinh tế ...................13
1.1.3. Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) ...........................................14
1.2. Cơ chế xác định trước xuất xứ hàng hóa nhập khẩu ................................ 16
1.2.1. Xác định xuất xứ hàng hóa ...................................................................16
1.2.2. Cơ chế xác định trước xuất xứ hàng hóa .............................................19
1.2.2.1. Cơ sở pháp lý của cơ chế xác định trước xuất xứ hàng hóa nhập khẩu .....19
1.2.2.1.1. Cơ sở pháp lý quốc tế ................................................................ 19
1.2.2.1.2. Cơ sở pháp lý trong nước..........................................................24


ii

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ÁP DỤNG CƠ CHẾ XÁC ĐỊNH

TRƯỚC XUẤT XỨ HÀNG HÓA NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM.......................28
2.1. Áp dụng cơ chế xác định trước xuất xứ hàng hóa nhập khẩu ở Việt Nam
............................................................................................................................... 28
2.1.1. Thủ tục xác định trước xuất xứ hàng hóa nhập khẩu .........................28
2.1.2 Sự thay đổi trong thủ tục xác định trước xuất xứ hàng hóa nhập khẩu
từ khi được chính thức luật hóa ......................................................................36
2.2 Cơ chế xác định trước xuất xứ hàng hóa nhập khẩu trong các Hiệp định
thương mại tự do Việt Nam đã ký kết và đang đàm phán. ............................. 40
2.2.1 Xác định trước trong các FTA mà Việt Nam đã ký kết .........................42
2.2.2 Xác định trước trong các FTA Việt Nam đang đàm phán ....................45
2.3 Cơ chế xác định trước xuất xứ hàng hóa của một số nước trên thế giới .48
2.3.1 Kinh nghiệm của Hoa Kỳ .......................................................................48
2.3.2 Kinh nghiệm của Nhật Bản ....................................................................51
2.4 Đánh giá cơ chế xác định trước xuất xứ hàng hóa nhập khẩu ở Việt Nam
............................................................................................................................... 54
2.4.1 Ưu điểm của cơ chế hiện tại ...................................................................54
2.4.2 Những điểm hạn chế của cơ chế ............................................................ 56
CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ XÁC ĐỊNH
TRƯỚC XUẤT XỨ HÀNG HÓA NHẬP KHẨU TẠI VIỆT NAM...................59
3.1. Bối cảnh tự do hóa thương mại và những thách thức đối với Việt Nam
trong lĩnh vực hiện đại hóa thủ tục hải quan ...................................................59
3.1.1. Tự do hóa thương mại và tính tất yếu của việc hiện đại hóa thủ tục
hải quan ............................................................................................................59
3.1.2 Ngành hải quan Việt Nam trong tiến trình hiện đại hóa thủ tục hải
quan ..................................................................................................................61


iii

3.2 Mức độ vận dụng ưu đãi xuất xứ trong các FTA và sự tất yếu khi áp

dụng cơ chế xác định trước xuất xứ hàng hóa nhập khẩu .............................. 64
3.3 Một số đề xuất hoàn thiện cơ chế xác định trước xuất xứ hàng hóa nhập
khẩu vào Việt Nam .............................................................................................. 69
3.3.1 Đối với Chính phủ ...................................................................................69
a. Tích cực đàm phán và ký kết các Hiệp định ưu đãi thương mại ...............69
3.3.2 Đối với ngành Hải quan .........................................................................74
3.3.3 Đối với doanh nghiệp ..............................................................................78
KẾT LUẬN ..............................................................................................................80


iv

DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
AANZFTA
ACFTA
AFTA

Asean – Australia/New
Zealand free trade agreement
Asean – China free trade
agreement
Asean free trade agreement

C/O

Asean – India free trade
agreement
Asean – Japan
Comprehension Economic
Partnership

Asean – Korea free trade
agreement
Asean Trade in Goods
agreement
Certificate of origin

EXW
FOB
FTA

Ex works
Free on board
Free trade agreement

GATT

General Agreement on Tariffs
and Trade
Generalized System of
Preferences
Harmonized System

AIFTA
AJCEP

AKFTA
ATIGA

GSP
HS

MFN
NAFTA
NSW
RVC
TFA

Most favoured nation
North America free trade
agreement
National single window
Regional value content
Trade Faciliation Agreement

TPP

Trans-Pacific Partnership

VCFTA

Vietnam – Chile free trade
agreement
Vietnam Japan Economic
Partnership agreement
World Customs Organisation
World Trade Organisation

VJEPA
WCO
WTO


Hiệp định thương mại tự
do ASEAN-Úc/ Niu di lân
Hiệp định thương mại tự
do ASEAN Trung Quốc
Hiệp định thương mại tự
do ASEAN
Hiệp định thương mại tự
do ASEAN Ấn Độ
Hiệp định đối tác kinh tế
toàn diện ASEAN Nhật
Bản
Hiệp định thương mại tự
do ASEAN Hàn Quốc
Hiệp định thương mại
hàng hóa ASEAN
Chứng nhận xuất xứ hàng
hóa
Giá giao tại xưởng
Giá giao hàng lên tàu
Hiệp định thương mại tự
do
Hiệp định chung về thuế
quan và thương mại
Chương trình ưu đãi thuế
quan phổ cập
Hệ thống hài hòa mô tả và
mã hóa hàng hóa
Đãi ngộ tối huệ quốc
Hiệp định thương mại tự
do Bắc Mỹ

Cơ chế một cửa quốc gia
Hàm lượng giá trị khu vực
Hiệp định tạo thuận lợi
thương mại
Hiệp định đối tác xuyên
Thái Bình Dương
Hiệp định thương mại tự
do Việt Nam – Chi lê
Hiệp định đối tác kinh tế
Việt Nam – Nhật Bản
Tổ chức Hải quan thế giới
Tổ chức thương mại thế
giới


v

DANH MỤC BẢNG BIỂU SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1: Quy trình xác định trước xuất xứ
Biểu đồ 1: Số liệu về xác định trước xuất xứ ở Nhật Bản giai đoạn 2007-2013


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự gia tăng nhanh chóng của các hiệp định ưu đãi thương mại trong thương
mại quốc tế ngày nay là hiện tượng đã được khẳng định với hơn 300 hiệp định hiện
có trên toàn thế giới. Hơn nữa, do không có các quy tắc đa phương về quy tắc xuất
xứ cho các hiệp định ưu đãi thương mại, sự đa dạng và phức tạp của quy tắc xuất xứ

đã trở thành thách thức đối với cả thương nhân và cơ quan Chính phủ. Quy tắc xuất
xứ ngày càng có vai trò quan trọng trọng lĩnh vực giao dịch thương mại quốc tế,
quy tắc xuất xứ là căn cứ để xác định xuất xứ của sản phẩm. Dựa trên quy tắc xuất
xứ, hàng hóa được cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu cấp giấy chứng
nhận xuất xứ. Tuy nhiên, xuất xứ của hàng hóa chỉ được công nhận một khi cơ quan
Hải quan của nước nhập khẩu kiểm tra và xác nhận tính pháp lý và hợp lệ của bằng
chứng chứng nhận xuất xứ.
Trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế, lượng hàng hóa lưu chuyển giữa các quốc
gia ngày càng gia tăng, đồng thời số lượng hàng hóa cần kiểm tra cũng ngày càng
tăng, đặt ra yêu cầu bức thiết đối với hải quan các nước là phải thông quan nhanh
hàng hóa nhưng vẫn đảm bảo được tính tuân thủ pháp luật đối với các doanh
nghiệp. Từ những năm 60 của thế kỉ XX, Hội đồng hợp tác Hải quan nay là Tổ chức
Hải quan thế giới (WCO) đã bắt đầu nghiên cứu và khuyến cáo áp dụng các biện
pháp quản lý hải quan tiên tiến nhằm kiểm tra hàng hóa một cách chính xác nhanh
chóng, làm giảm thời gian thông quan của hàng hóa, trong đó đặc biệt chú trọng về
kiểm tra xuất xứ. Xuất xứ hiện nay đa phần được chứng minh bởi giấy chứng nhận
xuất xứ (C/O) do cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu cấp nhằm được hưởng
ưu đãi khi nhập khẩu vào các quốc gia trong cùng một Hiệp định thương mại tự do
hoặc chương trình cho hưởng ưu đãi đơn phương. Điều quan trọng cần lưu ý ở đây
là việc chứng nhận xuất xứ trên thực tế không “chứng minh” tình trạng có xuất xứ
của sản phẩm xuất khẩu. Về cơ bản, đây chỉ là một khai báo nguồn gốc được xác
nhận là chính xác bởi một cơ quan chính phủ (hoặc một tổ chức, chẳng hạn như
Phòng thương mại và công nghiệp được Chính phủ ủy quyền để thực hiện chứng
nhận xuất xứ). Đây là hình thức chứng nhận xuất xứ bởi bên thứ ba cũng là hình
thức Việt Nam đang áp dụng, trong nhiều trường hợp, chứng nhận xuất xứ bởi bên


2
thứ ba thiếu sự giám sát hiệu quả, cộng thêm với việc thiếu hình thức trừng phạt đối
với các lỗi liên quan. Các quy định chứng nhận xuất xứ của bên thứ ba nếu quá

phức tạp và mâu thuẫn có thể gây ra sự chậm trễ đối với việc xuất nhập khẩu, điều
này khó được chấp nhận trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu đòi hỏi sự đáp ứng
nhanh chóng. Khi nhập khẩu, cơ quan Hải quan nước nhập khẩu kiểm tra xuất xứ,
nhiều trường hợp, khác với xuất xứ do bên xuất khẩu đưa ra, gây tranh cãi mâu
thuẫn, và kéo theo hàng hóa không được hưởng ưu đãi. Ngoài ra, tình trạng gian lận
thương mại qua xuất xứ hàng hóa ngày càng gia tăng với những thủ đoạn tinh vi
hơn, không chỉ dừng lại ở việc làm giả mạo chứng nhận xuất xứ.
Từ những phân tích như trên, nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam áp
dụng hiệu quả hơn quy tắc xuất xứ, vận dụng ưu đãi của các hiệp định ưu đãi
thương mại, giúp cơ quan Hải quan có một cơ chế kiểm tra, xác định xuất xứ chính
xác, nhanh chóng, tạo thuận lợi thương mại , người viết đã chọn đề tài “Hoàn thiện
cơ chế xác định trước xuất xứ hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam” làm đề tài
nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trên thế giới, nhằm mục đích giúp các nước thành viên tiếp cận tốt hơn với
các biện pháp kiểm tra xuất xứ và chống gian lận thương mại qua xuất xứ hàng hóa
mang tính toàn cầu và học tập trao đổi kinh nghiệm, từ lâu WCO đã triển khai
những đề tài và hội thảo về kiểm tra xuất xứ hàng hóa, đặc biệt là đưa ra các mô
hình, bài học kinh nghiệm của các nước phát triển áp dụng thành công và hiệu quả
cơ chế xác định trước xuất xứ.
Cơ chế xác định trước mã số, xuất xứ, trị giá hải quan của hàng hóa nói
chung và xác định xuất xứ hàng hóa nhập khẩu nói riêng là một cơ chế hoàn toàn
mới ở Viêt Nam, thậm chí mới chỉ được nội luật hóa chính thức trong Luật Hải
quan 2014 vì vậy chưa có nghiên cứu khoa học về vấn đề này, chủ yếu chỉ là nghiên
cứu những vấn đề liên quan đến xuất xứ như: Chống gian lận xuất xứ hàng hóa ở
Việt Nam, Thực trạng công tác kiểm tra xuất xứ hàng hóa nhập khẩu vào Việt
Nam…
Gần đây nhất, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với
Tổng Cục Hải quan và cơ quan phát triển của Hoa Kỳ (USAid) tổ chức hội thảo:



3
“CẢI CÁCH THỦ TỤC HẢI QUAN QUA HIỆP ĐINH THUẬN LỢI HÓA
THƯƠNG MẠI CỦA WTO – DOANH NGHIỆP ĐƯỢC LỢI GÌ VÀ CẦN LÀM
GÌ?”
Thông qua hội thảo, vấn đề về xác định trước và tạo thuận lợi thương mại
được đưa ra thảo luận và nghiên cứu khuyến nghị áp dụng tại Việt Nam, trong bối
cảnh Hiệp định tạo thuận lợi thương mại của WTO được ký kết, WTO đều khuyến
khích các nước đều theo xu hướng xuất xứ mới nhằm đẩy mạnh tự do hóa thương
mại.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Về lý luận, đề tài đưa ra những kiến thức cơ bản về xuất xứ, về quy tắc xuất xứ,
phương pháp xác định xuất xứ, sự cần thiết áp dụng cơ chế xác định trước xuất xứ,
phân tích các quy định về mặt pháp lý của cơ chế này.
Về thực tiễn, đề tài đánh giá về thực trạng được áp dụng hay chưa được áp dụng,
chỉ ra những hạn chế của công tác áp dụng, vì sao có quy định trong pháp luật
nhưng thực tế không áp dụng, từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế
xác định trước xuất xứ.
4. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: đề tài giới hạn trong việc tìm hiểu về xác định trước xuất xứ
ở Việt Nam và nghiên cứu một số bài học kinh nghiệm của một số nước áp dụng
thành công cơ chế này.
Về thời gian: do những quy định về thủ tục và quy trình đề nghị xác định
trước mới chỉ được đưa vào Thông tư 128/2013/TT-BTC, trước đó có đề cập trong
Luật Quản lý thuế 2006 nhưng không cụ thể về cách thức thực hiện, nên khóa luận
chọn giai đoạn từ khi có hiệu lực của Thông tư 128 (2013) đến nay.
5. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: cơ chế xác định trước xuất xứ hàng hóa nhập
khẩu vào Việt Nam.
6. Phương pháp nghiên cứu

Để hoàn thành đề tài, người viết đã sử dụng phương pháp nghiên cứu sau:


4
Phương pháp nghiên cứu thông qua phân tích các tài liệu về xác định trước hải
quan, phương pháp so sánh, diễn dịch, các phương pháp thống kê, chuyên gia.
Sử dụng mô hình áp dụng xác định trước của các nước, các khu vực như ASEAN,
NAFTA của WCO đưa ra nhằm so sánh, phân tích thực trạng, đánh giá, cũng như
đề xuất hướng áp dụng cơ chế này.
7. Kết cấu của đề tài
CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ CƠ CHẾ XÁC ĐỊNH TRƯỚC XUẤT XỨ HÀNG
HÓA NHẬP KHẨU
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ÁP DỤNG CƠ CHẾ XÁC ĐỊNH
TRƯỚC XUẤT XỨ HÀNG HÓA NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM
CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ XÁC ĐỊNH TRƯỚC
XUẤT XỨ HÀNG HÓA NHẬP KHẨU VÀO VIỆT NAM
Qua lời mở đầu này, người viết xin được chân thành cảm ơn PGS.TS Phạm
Duy Liên - giáo viên Khoa Kinh tế và kinh doanh quốc tế, trường Đại học Ngoại
thương Hà Nội cũng như các cán bộ của Cục Giám sát quản lý về hải quan và
trường Hải quan Việt Nam đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp
này.
Do khuôn khổ của một khóa luận và người viết còn thiếu kinh nghiệm thực
tiễn nên trong khóa luận còn nhiều vấn đề chưa được đi sâu, một số vấn đề chưa
được đề cập và còn có nhiều thiếu sót. Người viết kính mong nhận được ý kiến
đóng góp bổ sung của các thầy, cô giáo.
Xin chân thành cảm ơn!


5


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CƠ CHẾ XÁC ĐỊNH TRƯỚC
XUẤT XỨ HÀNG HÓA NHẬP KHẨU
1.1. Một số vấn đề cơ bản về xuất xứ hàng hóa và quy tắc xuất xứ
1.1.1. Xuất xứ hàng hóa
1.1.1.1. Khái niệm xuất xứ hàng hóa
Khi phân công lao động xã hội ở phạm vi quốc tế thì việc hợp tác để sản xuất
là yếu tố quan trọng nhằm tận dụng hiệu quả nguồn lực sản xuất. Ban đầu hàng hóa
được sản xuất ra chỉ trên cơ sở tự cung tự cấp trong phạm vi một địa phương, một
khu vực hoặc một quốc gia. Tiếp theo đó, quá trình thay đổi mạnh mẽ của công
nghệ, các phát minh sáng chế, các loại vật liệu mới cùng với sự phát triển của
thương mại quốc tế, sản xuất hàng hóa với mục đích chính là tự cung tự cấp chuyển
sang giai đoạn phát triển cao hơn là nhằm trao đổi, mua bán hàng hóa giữa các khu
vực, quốc gia với nhau. Bởi thế, thương mại quốc tế trở nên ngày càng đa dạng và
phong phú về cả phạm vi lẫn chiều sâu, một sản phẩm ngày nay được tạo ra không
chỉ bởi một người, hay một địa phương mà có thể được tạo ra bởi nhiều người,
nhiều địa phương và thậm chí là nhiều quốc gia, kéo theo việc hàng hóa không chỉ
đơn thuần có nguồn gốc xuất xứ từ một quốc gia. Trên thực tế cho thấy, giao dịch
thương mại quốc tế nảy sinh rất nhiều tranh chấp liên quan đến xuất xứ hàng hóa
bởi xuất xứ ảnh hưởng đến mức thuế đánh trên hàng hóa đó khi nhập khẩu vào một
quốc gia khác, từ đó ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia
thương mại quốc tế.Các bên cần làm rõ quốc gia mà sản phẩm được nuôi trồng, sản
xuất, chế biến hay gia công. Vì thế cho nên, khái niệm về xuất xứ hàng hóa cần
được nghiên cứu chuyên sâu hơn, đóng vai trò như một yếu tố quan trọng nhằm tạo
thuận lợi thương mại .
Khái niệm về xuất xứ hàng hóa được đưa ra bởi rất nhiều các tổ chức, đề cập
trong các nghiên cứu, báo cáo chuyên môn và được luật hóa trong các bộ luật
thương mại của các quốc gia, nhưng đặc trưng hơn cả là khái niệm trong Công ước
Kyoto sửa đổi và hiệp định GATT/1994, đây là nền tảng cho các định nghĩa mang
tính học thuật về xuất xứ sau này.
Theo chương 1, Phụ lục chuyên đề K, công ước Kyoto sửa đổi năm 1999 có

đưa ra: “Nước xuất xứ của hàng hóa là quốc gia, nơi hàng hóa được sản xuất hoặc


6
được chế biến, phù hợp với tiêu chuẩn được đặt ra nhằm mục đích áp dụng trong
biểu thuế hải quan, những hạn chế về số lượng hoặc các biện pháp khác liên quan
đến thương mại”. Thông thường, xuất xứ được hình dung đến như là địa phương cụ
thể nơi sản xuất ra hàng hóa, nhưng từ khái niệm trên có thể thấy nhắc tới xuất xứ là
nói tới quốc gia, và việc xác định xuất xứ hàng hóa cũng hết sức quan trọng bởi lẽ
xuất xứ hàng hóa là cơ sở để áp dụng các công cụ chính sách thương mại đối với
hàng hóa xuất nhập khẩu.
Theo Điều 1 của Hiệp định GATT 1994 (đoạn 1, phụ lục II) đưa ra khái niệm
“Xuất xứ hàng hóa là quốc tịch của một hàng hóa”, “nếu hàng hóa hoàn toàn được
khai thác, nuôi trồng, chế biến tại một nước mà không có sự tham gian của hàng hóa
là nguyên phụ liệu nhập khẩu từ nước khác để sản xuất ra hàng hóa đó thì được coi
là có xuất xứ từ nước đó”. Khái niệm trên đề cập đến bản chất cấu tạo bên trong của
hàng hóa được tạo ra.
Trong pháp luật của Việt Nam cũng đưa ra khái niệm về xuất xứ hàng hóa,
cụ thể là: Khoản 14, Điều 3, Luật Thương mại Việt Nam 2005 “Xuất xứ hàng hóa là
nước hoặc vùng lãnh thổ, nơi sản xuất ra toàn bộ hàng hóa hoặc nơi thực hiện công
đoạn chế biến cơ bản cuối cùng đối với hàng hóa trong trường hợp có nhiều nước
hoặc vùng lãnh thổ tham gia vào quá trình sản xuất hàng hóa đó”.
Tóm lại, có thể thấy rằng mỗi con người sinh ra đều mang quốc tịch, thì hàng
hóa cũng có quốc tịch của hàng hóa – xuất xứ của hàng hóa, mỗi một hàng hóa đều
phải có quốc tịch, là nơi được sản xuất, gia công, chế biến… để tạo ra. Tuy nhiên,
trên thực tế, việc xác định và thừa nhận quốc gia hay vùng lãnh thổ nào là xuất xứ
của hàng hóa là khá phức tạp và không phải lúc nào cũng thống nhất, có những
trường hợp hàng hóa được sản xuất, gia công, chế biến chỉ tại một quốc gia duy
nhất, và có những trường hợp hàng hóa phải trải qua các công đoạn chế biến ở
nhiều quốc gia khác nhau, sử dụng nguyên vật liệu đầu vào của nhiều quốc gia khác

nhau trước khi trở thành một sản phẩm hoàn chỉnh đưa vào sử dụng. Ví dụ, gạo
được trồng ở Việt Nam, được thu hoạch và xay xát ở Việt Nam, rồi bán từ Việt
Nam sang Mỹ, thì rõ ràng gạo này có xuất xứ thuần túy là Việt Nam. Tuy nhiên,
Việt Nam nhập khẩu vải từ Trung Quốc, may thành áo sơ mi, rồi xuất khẩu sang thị
trường EU thì trường hợp này chưa thể chắc chắn hoàn toàn áo sơ mi có xuất xứ


7
Việt Nam. Điều đó chỉ ra rằng quy tắc xác định xuất xứ phụ thuộc vào yếu tố chủ
quan của từng quốc gia.
1.1.1.1.1. Xuất xứ thuần túy
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 19/2006/NĐ-CP ngày 20/02/2006
quy định chi tiết về thi hành Luật thương mại về xuất xứ hàng hóa được công nhận
có xuất xứ từ một quốc gia, vùng lãnh thổ khi thuộc một trong những trường hợp
sau đây:
-

Cây trồng và các sản phẩm từ cây trồng được thu hoạch tại quốc gia, vùng

lãnh thổ đó.
-

Động vật sống và các sản phẩm từ động vật sống được sinh ra và nuôi dưỡng

tại quốc gia, vùng lãnh thổ đó.
-

Các sản phẩm thu được từ săn bắn, đặt bẫy, đánh bắt, nuôi trồng thu lượm

hoặc săn bắt tại quốc gia hoặc vùng lãnh thổ đó.

-

Các khoáng sản và các chất sản sinh tự nhiên, được chiết xuất hoặc lấy ra từ

đất, nước, đáy biển hoặc dưới đáy biển của quốc gia hoặc vùng lãnh thổ đó.
-

Các sản phẩm lấy từ nước, đáy biển hoặc dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải

của quốc gia, vùng lãnh thổ, với điều kiện quốc gia, vùng lãnh thổ đó có quyền khai
thác đối với vùng nước, đáy biển và dưới đáy biển theo luật pháp quốc tế.
-

Các sản phẩm đánh bắt và các hải sản khác đánh bắt từ vùng biển cả bằng tàu

được đăng kí với quốc gia đó và được phép treo cờ của quốc gia, vùng lãnh thổ đó
-

Các vật phẩm có được ở quốc gia, cùng lãnh thổ đó hiện không còn thực hiện

được những chức năng ban đầu và cũng không thể sửa chữa hay khôi phục và chỉ có
thể vứt bỏ hoặc dùng làm nguyên liệu, vật liệu thô hoặc sử dụng vào mục đích tái
chế.
-

Các hàng hóa có được hoặc được sản xuất từ các sản phẩm nêu trong các

khoản trên ở quốc gia, vùng lãnh thổ đó.
Việc xác định hàng hóa có xuất xứ thuần túy đơn giản hơn rất nhiều so với hàng hóa
có xuất xứ không thuần túy. Theo những quy định như trên, khoáng sản được khai

thác ở Việt Nam có xuất xứ ở Việt Nam, cà phê Trung Nguyên được chế biến từ cà
phê trồng và thu hoạch ở Việt Nam thì có xuất xứ Việt Nam, bò nhập khẩu từ


8
Australia nhưng được nuôi ở Việt Nam thì sản phẩm là thịt và sữa bò có xuất xứ
thuần túy Việt Nam…
1.1.1.1.2. Xuất xứ không thuần túy
Trong trường hợp có nhiều nước cùng tham gia vào quá trình sản xuất ra hàng hóa,
ví dụ một chiếc máy bay Boeing được lắp ráp tại nhiều quốc gia khác nhau, thậm
chí sử dụng hàng nghìn linh kiện có xuất xứ cũng từ nhiều quốc gia khác nhau thì
có cơ sở và phương pháp nào để xác định xuất xứ cho chiếc Boeing đó? Lúc này
chiếc máy bay sẽ có xuất xứ không thuần túy, còn gọi là “value with imported
content”- giá trị có thành phần nhập khẩu.
Khi hàng hóa có xuất xứ không thuần túy thì nước xuất xứ của hàng hóa là nơi thực
hiện công đoạn chế biến cơ bản cuối cùng
1.1.1.2. Vai trò của xuất xứ hàng hóa
1.1.1.2.1. Xuất xứ hàng hóa có ý nghĩ to lớn với việc thực hiện chính sách thương
mại
Trong đó ý nghĩa quan trọng nhất của xuất xứ là để được hưởng chính sách
ưu đãi thuế quan. Chúng ta hiểu một cách cụ thể như sau, có thể nói về ưu đãi cơ
bản và rộng khắp nhất mà các nước dành cho nhau trong WTO, nghĩa là khi hàng
hóa có xuất xứ từ các nước là thành viên của WTO thì sẽ được hưởng thuế suất
MFN khi nhập khẩu vào Việt Nam, ngược lại khi hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ
những nước nằm ngoài WTO thì sẽ chịu thuế suất thông thường – thuế phải nộp
bằng 150% thuế MFN. Hơn nữa, trong khuôn khổ của WTO còn có sự xuất hiện
của các FTA, PTA, RTA.., chỉ có một nhóm nhỏ các nước cam kết dành ưu đãi về
thuế quan cho nhau thì thuế suất trong các hiệp định thương mại tự do này còn thấp
hơn thuế MFN. Nói cách khác, hàng hóa nhập khẩu chỉ được hưởng ưu đãi hay ưu
đãi đặc biệt khi được xác định đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện và thủ tục về xuất

xứ từ các quốc gia có những thỏa thuận song phương và đa phương với nhau về ưu
đãi thương mại theo các cấp độ khác nhau.
Bên cạnh việc quyết định chính sách ưu đãi mà hàng hóa được hưởng, xuất
xứ còn có ảnh hưởng tới các biện pháp không ưu đãi như hạn chế thương mại, trừng
phạt… Ví dụ như khi hai quốc gia đang có chiến tranh với nhau thì hàng hóa có
xuất xứ từ quốc gia này sẽ bị cấm hoặc hạn chế nhập khẩu vào quốc gia kia, hoặc


9
khi các quốc gia sử dụng những quy định về xuất xứ hàng hóa như một phương tiện
để áp dụng các biện pháp bảo hộ nhằm bảo về sản xuất trong nước bao gồm cấp hạn
ngạch nhập khẩu, đánh thuế đối kháng, chống bán phá giá…Như vậy, xuất xứ hàng
hóa rõ ràng quyết định hàng hóa được đối xử ưu đãi hay không ưu đãi
Bản thân xuất xứ hàng hóa chỉ là thông tin khách quan về quốc tịch của hàng
hóa và không phải là một công cụ chính sách, nhưng thông tin khách quan này sẽ
được sử dụng làm một yếu tố quan trọng để thực hiện chính sách thương mại.
1.1.1.2.2. Xuất xứ có vai trò trong thống kê thương mại
Dựa trên xuất xứ hàng hóa, Tổng cục Thống kê, Tổng cục Hải quan mới có
thể thống kê xem hàng tháng, hàng năm nhập khẩu hàng hóa từ những thị trường
nào nhiều nhất, cũng như xuất khẩu hàng hóa sang những quốc gia nào nhiều
nhất…Qua các số liệu thống kê ngoại thương, chính phủ có thể dự báo, hoạch định
chính sách, chiến lược phát triển thương mại phù hợp với điều kiện phát triển kinh
tế xã hội của đất nước. Ở Việt Nam, thống kê hải quan chủ yếu dựa trên các tiêu chí
trên tờ khai hải quan, trong đó xuất xứ của hàng hóa nhập khẩu cũng là tiêu chí
quan trọng, từ các số liệu thống kê dựa trên tiêu chí xuất xứ thì Chính phủ và các Bộ
ngành liên quan sẽ có các chính sách nhằm cân bằng cán cân thương mại.
1.1.1.2.3. Xuất xứ có vai trò trong xúc tiến thương mại
Sở dĩ xuất xứ hàng hóa gắn liền với hình ảnh, thương hiệu của một quốc gia,
thể hiện uy tín chất lượng của hàng hóa, nên xuất xứ sẽ giúp cho hàng hóa đứng
vững trên thị trường quốc tế; ví dụ như một số mặt hàng nông sản của Việt Nam

như chè, cà phê, điều…nổi tiếng về chất lượng, được người tiêu dùng tin dùng, hay
chiếc đồng hồ có gắn nhãn “Swiss made” và đồ điện tử điện lạnh có xuất xứ “Made
in Japan” chắc chắn sẽ được ưa chuộng hơn dòng sản phẩm tương tự xuất xứ từ các
quốc gia khác.
Trên đây là ba vai trò quan trọng nhất của xuất xứ hàng hóa, bên cạnh đó,
xuất xứ hàng hóa được sử dụng kết hợp với mã số của hàng hóa để xác định mức
thuế suất đánh lên hàng hóa đó, xuất xứ khẳng định uy tín, trách nhiệm của hàng
hóa đối với thị trường, khách hàng và ví trí của nước xuất khẩu trong thương mại
quốc tế, hơn nữa, vai trò của xuất xứ cũng được nhấn mạnh trong việc bảo vệ sức
khỏe cộng đồng, lợi ích người tiêu dùng và bảo vệ môi trường…


10
1.1.2. Quy tắc xuất xứ hàng hóa
1.1.2.1. Khái niệm và phân loại quy tắc xuất xứ hàng hóa
Để xác định xuất xứ hàng hóa, đặc biệt là khi hàng hóa được sản xuất ra bởi
nhiều quốc gia khác nhau thì cần dựa trên quy tắc xuất xứ được áp dụng, nói cách
khác xuất xứ hàng hóa là một khái niệm tương đối. Cùng một hàng hóa được sản
xuất và xuất khẩu bởi một quốc gia nhưng tùy thuộc vào quy tắc xuất xứ được áp
dụng trong mỗi trường hợp, hàng hóa đó có thể được coi là có hoặc không có xuất
xứ tại quốc gia đó.
Theo chương 1, Phụ lục K, Công ước Kyoto sửa đổi năm 1999 về đơn giản
hóa và hài hòa hóa thủ tục hải quan nêu khái niệm quy tắc xuất xứ như sau: “Quy
tắc xuất xứ là các quy định được pháp luật quốc gia hoặc các điều ước quốc tế xây
dựng , được một quốc gia áp dụng để xác định xuất xứ hàng hóa.”
Xét về mặt mục đích sử dụng, quy tắc xuất xứ được chia thành quy tắc xuất
xứ ưu đãi và quy tắc xuất xứ không ưu đãi.
Trong Hiệp định về Quy tắc xuất xứ của WTO:



Quy tắc xuất xứ ưu đãi: là các luật, quy định, và quyết định hành chính mà

các bên áp dụng để xác định hàng hóa có đủ tiêu chuẩn để được hưởng đối xử ưu
đãi theo chế độ thương mại dành ưu đãi lẫn nhau hay một chiều;


Quy tắc xuất xứ không ưu đãi: là các luật, quy định, và quyết định hành

chính được các thành viên áp dụng để xác định nước xuất xứ của hàng hóa với điều
kiện quy tắc xuất xứ này không liên quan tới các thỏa thuận ưu đãi thuế quan nằm
ngoài phạm vi điều chỉnh của GATT 1994.
Quy tắc xuất xứ cũng được phân chia tương tự trong pháp luật Việt Nam, cụ thể
theo Khoản 2 và khoản 3 Điều 3 Nghị định 19/2006/NĐ-CP :


Quy tắc xuất xứ ưu đãi : là các quy định về xuất xứ áp dụng cho hàng hóa có

thỏa thuận ưu đãi về thuế quan và ưu đãi về phi thuế quan;


Quy tắc xuất xứ không ưu đãi: là các quy định về xuất xứ áp dụng cho hàng

hóa ngoài quy định của quy tắc xuất xứ ưu đãi và trong các trường hợp áp dụng các
biện pháp thương mại không ưu đãi về đối xử tối huệ quốc, chống bán phá giá,
chống trợ cấp, tự vệ, hạn chế số lượng hay hạn ngạch thuế quan, mua sắm chính phủ
và thống kê thương mại.


11
Như vậy có thể rút ra rằng quy tắc xuất xứ ưu đãi được sử dụng để sử dụng

để xác định xuất xứ hàng hóa nhằm mục đích ưu đãi như cho hưởng thuế suất ưu
đãi đặc biệt, trong khi đó quy tắc xuất xứ không ưu đãi lại được sử dụng để xác định
xuất xứ hàng hóa nhằm các mục đích không ưu đãi như trừng phạt thương mại.
Trên thực tế,với việc ngày các gia tăng các hiệp định thương mại tự do được ký kết
giữa các nước thanh viên của WTO thì việc xác định xuất xứ hàng hóa chủ yếu
nhằm mục đích được hưởng các ưu đãi thuế quan và phi thuế quan được áp dụng
theo các Điều ước quốc tế và các Hiệp định thương mại mà các nước tham gia đàm
phán và ký kết, bên cạnh đó còn để được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập và các ưu
đãi đơn phương khác được thực hiện theo quy tắc xuất xứ của nước nhập khẩu (ví
dụ GSP). Do đó, quy tắc xuất xứ ưu đãi rõ ràng đa dạng hơn hẳn các quy tắc xuất
xứ không ưu đãi. Hiệp định về quy tắc xuất xứ của WTO chỉ quy định về quy tắc
xuất xứ không ưu đãi, còn các quy tắc xuất xứ ưu đãi sẽ được xây dựng khi các
thành viên đàm phán các FTA với nhau hoặc đàm phán để được hưởng các ưu đãi
đơn phương như GSP. Bởi vậy cho nên, một nước là thành viên của WTO có thể có
nhiều quy tắc xuất xứ ưu đãi khác nhau nhưng chỉ có một quy tắc xuất xứ không ưu
đãi.
Tuy nhiên, các quy tắc xuất xứ trên thế giới có thể trở thành rào cản thương
mại và làm giảm giá trị của tự do hóa thương mại và kỳ vọng về tác động của các
FTA khi các nước muốn theo đuổi mục tiêu bảo vệ nền sản xuất nội địa. Để hạn chế
tình trạng lạm dụng quy tắc xuất xứ, đơn giản hóa hệ thống này bằng các quy định
mang tính hài hòa hóa giữa các nước, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất
nhập khẩu. Việc hài hòa quy tắc xuất xứ là một nhiệm vụ phi thực tế, mặc dù trên lý
thuyết đó là một giải pháp khả thi. Các nước thành viên WTO phải đàm phán các
quy tắc xuất xứ của mình dựa trên nền tảng và sự hài hòa của Hiệp định về quy tắc
xuất xứ của WTO. Theo đó, các nguyên tắc của Hiệp định là các quy tắc xuất xứ
phải đảm bảo sự minh bạch rõ ràng, chặt chẽ và có thể dự đoán trước (được định
nghĩa rõ ràng, được công bố kịp thời, các quy tắc xuất xứ kể cả mới và sửa đổi
không có giá trị hồi tố), không cản trở thương mại bất hợp lý, thống nhất không
phân biệt đối xử. Xuất xứ của hàng hóa sẽ phụ thuộc vào quy tắc để xác định nó,



12
khi có một hàng hóa bất kì, có thể khi áp dụng quy tắc xuất xứ này hàng hóa sẽ có
xuất xứ, nhưng khi áp dụng quy tắc xuất xứ khác thì hàng hóa sẽ không có xuất xứ.
1.1.2.2. Vai trò của quy tắc xuất xứ hàng hóa
1.1.2.2.1. Quy tắc xuất xứ và chính sách thương mại
Quy tắc xuất xứ, tóm lại, là những yêu cầu hành chính hoặc những quy định
pháp lý bắt buộc cần thiết để xác định xuất xứ hay “quốc tịch” của hàng hóa. Quy
tắc xuất xứ là phương tiện cần thiết để xác định đúng đối tượng hàng hóa cần áp
dụng các chính sách thương mại khác nhau như mức thuế suất của thuế xuất nhập
khẩu, hạn ngạch, những quy định về chống bán phá giá… Quy tắc xuất xứ tự bản
thân chúng cấu thành công cụ thương mại, và cũng không được sử dụng để theo
đuổi các mục tiêu thương mại một cách trực tiếp hay gián tiếp như các công cụ
chính sách. Như vậy, quy tắc xuất xứ mang ý nghĩa kinh tế khi chúng được sử dụng
để định vị chính sách thương mại.
Tuy nhiên, quy tắc xuất xứ cũng có khả năng bị lạm dụng đối với hàng hóa
có xuất xứ cụ thể, qua đó tạo thành rào cản thương mại.
Theo đó, quy tắc xuất xứ bảo hộ nền sản xuất nội địa, ví dụ, các biện pháp an toàn
để bảo vệ một ngành sản xuất nhất định trong nước đối với sự gia tăng có thể không
dự đoán trước được của hàng hóa nhập khẩu sẽ gây ra.
Quy tắc xuất xứ được đưa ra nhằm việc thực hiện những ưu đãi đối với hàng
hóa từ các quốc gia đang phát triển hoặc các nước được hưởng lợi theo các Hiệp
định hợp tác kinh tế song phương và đa phương.
Bên cạnh đó, quy tắc xuất xứ dùng để thực thi các chính sách mua sắm chính phủ để
điều chỉnh cán cân thanh toán của một quốc gia dựa trên nguyên tắc xuất xứ, từ đó,
kiểm soát mức độ tiếp cận thị trường nội địa của các nhà xuất khẩu nước ngoài.
Quy tắc xuất xứ nhằm xác định sự hợp lệ của hàng nhập khẩu để được hưởng
mức thuế ưu đãi. Nếu không có quy tắc xuất xứ, hiện tượng chuyển hướng thương
mại (trade deflection) sẽ rất khó ngăn chặn được khi hàng hóa nhập khẩu từ các
nước không tham gia FTA sẽ vào khu vực FTA thông qua nước thành viên áp dụng

mức thuế thấp nhất đối với hàng hóa nhập khẩu từ các nước không tham gia FTA.


13
1.1.2.2.2. Quy tắc xuất xứ và ảnh hưởng đối với nền kinh tế
Đối với phân bổ nguồn lực
Đứng trên quan điểm kinh tế, nếu giảm tối đa các rào cản tự do thương mại
sẽ đem đến hiệu quả kinh tế cho việc phân bổ nguồn lực. Theo như những giả định
về tự do hóa thương mại dựa trên lợi thế so sánh, những rào cản bảo hộ sẽ làm giảm
hiệu quả trong thương mại nếu như những quy tắc xuất xứ được sử dụng như một
công cụ để thực hiện chính sách bảo hộ. Tuy nhiên, các biện pháp bảo hộ thương
mại có thể có những mục địch chiến lược, và quy tắc xuất xứ có thể xây dựng theo
hướng đó để giúp các ngành sản xuất có đặc trưng bởi tính kinh tế theo quy mô đạt
được mục tiêu kinh tế. Ví dụ, để được hưởng thuế ưu đãi xuống mức thấp nhất là
0% theo Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA), nhiều sản phẩm xuất
khẩu của Việt Nam sẽ phải đáp ứng những yêu cầu về quy tắc xuất xứ cùng các rào
cản phi thuế quan. Nếu như trong GSP, Việt Nam vẫn được hưởng mức ưu đãi thuế
quan song không được đưa về mức bằng 0% như nhiều nước, thì trong EVFTA lợi
ích mà các doanh nghiệp được hưởng sẽ cao hơn một chút, có một số mặt hàng mà
hai bên đang xem xét thương lượng để đưa mức thuế quan về bằng 0%, trong đó
chắc chắn ngành được hưởng lợi là dệt may. Việc cắt giảm thuế quan về mức 0%
cũng đồng nghĩa với việc đặt ra những yêu cầu cao hơn như việc đáp ứng các quy
tắc xuất xứ, với da giày, dệt may, sợi, doanh nghiệp phải chứng minh được nguyên
liệu được làm ở Việt Nam với tỷ lệ trung bình là 55%, đây thực sự là thách thức lớn.
Vậy nếu không đủ nguồn lực trong nước để theo kịp những thay đổi trong FTA, các
mô hình đưa ra chắc chắn sẽ có tác động nhiều cho các ngành và doanh nghiệp, đặc
biệt là những ngành có ảnh hưởng trực tiếp như dệt may và da giày, có thể có sự
chuyển dịch sản lượng từ ngành này sang ngành khác, sự phân bổ về nguồn lực.
Quy tắc xuất xứ giúp phân bổ nguồn lực hiệu quả chiến lược.
Đối với đầu tư

Nhằm thỏa mãn yêu cầu về hàm lượng nội địa hóa hoặc tiêu chuẩn xuất xứ
do Chính phủ quy định, các quy định về xuất xứ hạn chế và chặt chẽ có thể ảnh
hưởng đến các luồng đầu tư vì chúng có thể gây ra đầu tư quá mức ở lãnh thổ của
người nhập khẩu. Hỗ trợ đầu tư trong nước và các hình thức khuyến khích khác có


14
thể dẫn đến khả năng trợ giá xuất khẩu và gây ra các hậu quả kinh tế. Vì vậy các
quy định về xuất xứ phải rõ ràng thì mới khuyến khích được đầu tư trong nước.
Mặt khác, hàm lượng nội địa hóa và các yêu cầu về xuất xứ có thể dẫn đến
tình trạng đầu tư chỉ cho một loại mặt hàng thương mại riêng biệt mà không cho sự
phát triển tổng thể hợp lý theo tính kinh tế và do đó cũng tạo ra đầu tư quá mức vào
khu vực hoặc ngành hàng về để đáp ứng nhu cầu nội đị, đây cũng là tác động ngược
của bản chất chủ quan về kinh tế của quy tắc xuất xứ.
1.1.3. Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O)
Như đã đề cập ở những mục trên, quy tắc xuất xứ nhằm mục đích để xác
định xuất xứ của hàng hóa, xác định xuất xứ của hàng hóa, xét cho cùng, là để tận
dụng những ưu đãi về thuế quan và phi thuế quan. Tuy nhiên, dựa trên cơ sở nào để
nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu được hưởng những ưu đãi đó, trong thực tiễn
thương mại vẫn cần có một bằng chứng có giá trị về mặt pháp lý nhằm chứng minh
xuất xứ của hàng hóa. Việc xác nhận xuất xứ hàng hóa bằng một chứng cứ có giá trị
về mặt pháp lý gọi là chứng nhận xuất xứ hàng hóa, và bằng chứng về mặt pháp lý
đó gọi là giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa.
Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (certificate of origin) là văn bản do cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền thuộc quốc gia hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu hàng hóa
cấp dựa trên những quy định pháp luật của quốc gia, các thỏa thuận thương mại
song phương, đa phương và các quy tắc, tiêu chuẩn liên quan đến xuất xứ. Nó thể
hiện tuyên bố về pháp lý về nguồn gốc của hàng hóa. Tuy nhiên, cùng với sự phát
triển, đa dạng trong thương mại cũng như trong phương thức quản lý, một số quốc
gia tiên tiến có thể cho phép công ty được ủy quyền, người xuất khẩu hoặc thậm chí

người nhập khẩu được phép cấp giấy chứng nhận xuất xứ.
Ở Việt Nam, cơ quan cấp C/O là Bộ Công thương hoặc Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam, còn cơ quan kiểm tra C/O là Hải quan. Mục đích của
việc có mặt của giấy chứng nhận xuất xứ trong bộ chứng từ xuất nhập khẩu là để
cho người nhập khẩu sẽ được hưởng các ưu đãi về thuế theo các quy định về xuất
xứ hàng hóa của Hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương., hoặc ở
một số thị trường “khó tính” như Hoa Kỳ, hàng hóa được nhập khẩu vào quốc gia


15
đó phải có giấy chứng nhận xuất xứ bất kể vì mục đích hưởng ưu đãi hay không ưu
đãi (yêu cầu C/O form B).
Chứng nhận xuất xứ hiện nay được cấp nhanh chóng qua hệ thống eCoSys –
cấp giấy chứng nhận xuất xứ điện tử. Thay vì việc phải mất 3-5 ngày làm thủ tục
cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa, doanh nghiệp có thể truy cập vào địa chỉ


để khai báo và chờ kết quả trong vòng từ 3-5 giờ. Hệ thống

mới đang được triển khai, chủ yếu là quản lý điện tử đối với chứng nhận xuất xứ đã
cấp, dữ liệu chứng nhận xuất xứ của tất cả các phòng quản lý xuất nhập khẩu được
truyền về và xử lý tại trung tâm tích hợp dữ liệu của Bộ Công thương. Trong tương
lai, Bộ cũng sẽ phải kết hợp với hải quan điện tử và một loạt các nhà cung cấp dịch
vụ thương mại khác như các hãng vận tải để xử lý một cách tự động nhất. Điều này
đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ rất cao giữa Bộ Công Thương, Bộ Tài Chính và các
Bộ, ngành khác. Việc chuẩn bị kết nối với hải quan điện tử mới đang ở giai đoạn
đầu. Thời gian tới, dữ liệu khai hải quan điện tử hay dữ liệu hải quan thông thường
có thể truyền được về bộ Công Thương để xử lý. Song song với đó, Bộ Công
Thương cũng đang đàm phán với các nước trong khu vực có tham gia FTA để trao
đổi C/O điện tử. Hiện nay, hải quan một số nước trong khu vực vẫn yêu cầu C/O

giấy nên chúng ta vẫn phải thực hiện song song hai hệ thống điện tử và giấy. Điều
này gây tốn khá nhiều thời gian cho doanh nghiệp và đơn vị cấp C/O do phải đối
chiếu dữ liệu trên máy tính với bản giấy để cấp lại lần nữa. Việc cấp và kiểm tra
C/O còn có một ý nghĩa quan trọng khi nó chỉ ra mức độ vận dụng FTA của quốc
gia đó, tỷ lệ này vẫn còn khá thấp ở Việt Nam (12%), Philippines (14%).. trong khi
ở Singapore mức độ vận dụng là 46% do khả năng quản lý thủ tục xuất nhập khẩu
và cấp chứng nhận xuất xứ tốt.
Tuy nhiên cũng có những trường hợp không cần phải nộp C/O là hàng hóa
hưởng thuế suất ưu đãi đặc biệt có trị giá FOB nhỏ hơn 200 USD, hàng hóa mua
bán trao đổi của cư dân biên giới, hàng quá cảnh, hàng hóa tại thời điểm làm thủ tục
hải quan có thuế suất nhập khẩu bằng 0% và được miễn VAT hoặc hàng hóa nhập
khẩu hưởng thuế suất MFN hoặc thuế suất thông thường khi nhà nhập khẩu không
có yêu cầu được hưởng thuế suất ưu đãi đặc biệt. Trong một số ít trường hợp, thuế
MFN thấp hơn thuế trong các Hiệp định thương mại tự do, bởi lẽ, biểu thuế nhập


16
khẩu ưu đãi áp dụng mua bán với các nước là thành viên của WTO, mỗi năm ban
hành một lần còn biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt trong các FTA là do mỗi nước
tự ban hành áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu vào nước mình bởi các nước thành
viên FTA,và thường ban hành theo giai đoạn chứ không phải hàng năm. Vì thế nên
tính cập nhật của biểu thuế nhập khẩu ưu đãi là nhanh hơn biểu thuế nhập khẩu ưu
đãi đặc biệt. Hơn nữa, trong các FTA có quy định về lộ trình cắt giảm thuế nhập
khẩu nghĩa là thuế suất được giảm dần dần và cắt giảm theo các dòng thuế, nên có
thể xảy ra trường hợp một số hàng hóa có thuế suất MFN thấp hơn thuế suất trong
biểu thuế ưu đãi đặc biệt.
1.2. Cơ chế xác định trước xuất xứ hàng hóa nhập khẩu
1.2.1. Xác định xuất xứ hàng hóa
Xác định nước xuất xứ của hàng hóa nhập khẩu là điều kiện để áp dụng các
biện pháp thương mại cơ bản như thuế quan, hạn chế số lượng, thuế chống bán phá

giá và thuế đối kháng, các biện pháp bảo hộ khác cũng như các quy định về nhãn
mác xuất xứ, mua sắm công và thống kê.
Việc xác định xuất xứ đối với hàng hóa được sản xuất ra trong một giai đoạn
duy nhất hoặc đối với hàng hóa có xuất xứ thuần túy là tương đối dễ dàng. Các hàng
hóa thuộc loại này bao gồm các sản phẩm tự nhiên và hàng hóa được sản xuất hoàn
toàn từ các sản phẩm tự nhiên không chứa đựng các thành tố hay nguyên liệu nhập
khẩu. Với những hàng hóa được sản xuất tại hai hay nhiều nước thì việc xác định
hàng hóa sẽ phức tạp hơn, lúc đó quy tắc xuất xứ sẽ quy định phương pháp giúp xác
định xem tại nước nào hàng hóa đó được gia công chế biến cơ bản hay thay đổi cơ
bản, thay đổi cơ bản để tạo nên đặc tính cơ bản của sản phẩm. Điều này cũng được
quy định rõ trong Nghị đinh 19/2006/NĐ-CP: “Hàng hóa có xuất xứ không thuần
túy được công nhận có xuất xứ từ một quốc gia, vùng lãnh thổ khi quốc gia, vùng
lãnh thổ đó thực hiện công đoạn chế biến cơ bản cuối cùng làm thay đổi cơ bản
hàng hóa”.
Để xác định xem thế nào là làm thay đổi cơ bản hàng hóa cần dựa vào các
tiêu chí xác định xuất xứ. Pháp luật Việt Nam quy định rõ chuyển đổi mã số hàng
hóa (Change in Tariff Clasification - CTC) là tiêu chí chính để xác định sự thay đổi
cơ bản của hàng hóa. Ví dụ, vải thuộc chương 50, và áo sơ mi thuộc chương 62, có


17
thể thấy nguyên vật liệu đầu vào thuộc một chương nhưng sản phẩm hoàn chỉnh lại
thuộc một chương, như vậy thay đổi về chương cũng có nghĩa là thay đổi về mã số
thuế quan. CTC có nhiều cấp độ khác nhau: CC – change in chapter (chuyển đổi ở
cấp độ chương), CTH – change in tariff heading (chuyển đổi ở cấp độ nhóm),
CTSH – change in tariff sub-heading (chuyển đổi ở cấp độ phân nhóm). Như vậy
nếu nguyên vật liệu đầu vào và thành phẩm trải qua sự chuyển đổi ở cấp độ phân
nhóm, nhóm hoặc chương trong biểu thuế xuất nhập khẩu tùy theo quy định của quy
tắc xuất xứ thì nghĩa là hàng hóa đó được trải qua giai đoạn gia công chế biến làm
thay đổi cơ bản hàng hóa. Tuy nhiên hệ thống hài hòa mô tả hàng hóa không phải

được thiết lập để xác định xuất xứ của hàng hóa, vậy nên kết quả sẽ là có quá nhiều
quy tắc riêng lẻ cho từng sản phẩm và có thể bị thao túng bởi các ngành công
nghiệp trong nước. Hơn nữa, sự xung đột trong công tác phân loại hàng hóa có thể
làm cho khả năng tiếp cận thị trường trở nên không chắc chắn.
Ngoài ra còn có 2 tiêu chí bổ sung là “tỷ lệ phần trăm của giá trị” và “công
đoạn gia công hoặc chế biến hàng hóa” để xác định thay đổi cơ bản của hàng hóa.
Tiêu chí “tỷ lệ phần trăm giá trị” hay “giá trị tăng thêm” là khi hàng hóa được xem
là chuyển đổi cơ bản khi nó được gia tăng giá trị tới một mức độ tối thiểu nào đó so
với giá trị các nguyên vật liệu đầu vào không xuất xứ thể hiện bằng tỷ lệ phần trăm,
gọi là % tối đa giá trị nguyên vật liệu đầu vào không xuất xứ, % tối thiểu hàm lượng
giá trị nội địa. Tiêu chí này phù hợp cho hàng hóa được gia công và gia tăng giá trị
mặc dù mã số HS không thay đổi. Theo quy định của Việt Nam, tỷ lệ phần trăm giá
trị được tính theo công thức:
≥ 0,3
Các nước hiện nay thường ưa chuộng chuyển đổi mã HS của hàng hóa hơn là
phương pháp tỷ lệ phần trăm giá trị vì 2 nguyên nhân. Thứ nhất để đạt được tỷ lệ
giá trị gia tăng là 30% hay 40% là điều rất khó đạt được trong bối cảnh phát triển
của chuỗi cung ứng toàn cầu, và thứ hai, việc lấy trị giá FOB để tính toán là hoàn
toàn dựa trên hợp đồng mua bán hàng hóa của các bên trong giao dịch, vậy nên giá
đó mang tính chủ quan của các thương nhân, nếu như hợp đồng mua bán hàng hóa
quy định giá khác giá FOB thì phải quy về giá tương đương giá FOB. Bởi vậy cho
nên, các nước trong Liên minh Châu Âu EU mới lấy giá EXW (giá xuất xưởng của


18
hàng hóa) làm giá trị tính toán cho cho đảm bảo khách quan nhất. Tiêu chí này còn
khó dự đoán do sự lên xuống của tiền tệ và giá gia công. Với tiêu chí này, xuất xứ
trở nên nhạy cảm đối với các nhân tố quyết định chênh lệch chi phí sản xuất giữa
các nước như tỷ giá hối đoái, tiền lương hay giá hàng hóa. Cụ thể đó là các hoạt
động xác định có thể coi là có xuất xứ ở nước này nhưng không có xuất xứ ở nước

khác do chi phí tiền lương, một hoạt động có thể xác lập xuất xứ ở thời điểm hiện
tại nhưng không thể xác lập xuất xứ tại thời điểm tương lai do sự biến đổi của tỷ giá
hối đoái.
Tiêu chí công đoạn gia công, chế biến hàng hóa hay còn gọi là tiêu chí sản
phẩm cụ thể: hàng hóa được xem là chuyển đổi cơ bản khi nó trải qua một quá trình
hay công đoạn gia công chế biến cụ thể. Tiêu chí này có thể bao gồm yêu cầu phải
sử dụng cấu thành xuất xứ hoặc không cho phép sử dụng đầu vào không cấu thành
xuất xứ. Tiêu chí này khách quan và kỹ thuật hơn nhưng cần phải cụ thể, chi tiết,
chính xác. Ưu điểm của việc sử dụng tiêu chí này là rõ ràng và dễ hiểu, cho phép
nhà sản xuất có thể xác định được xem sản phẩm của mình có xuất xứ tại nước sở
tại hay không ngay từ thời điểm bắt đầu sản xuất. Tuy nhiên, nhược điểm là không
thể theo kịp với các thay đổi công nghệ hay các thay đổi trong quy định về chứng từ
như bảng kê các quy trình sản xuất, rất rườm rà và khó tuân thủ. Các tiêu chí được
phép lựa chọn, trừ một số hàng hóa trong danh mục có quy định cụ thể.
Ngoài ra còn có các tiêu chí khác được sử dụng nhằm xác định xuất xứ hàng
hóa như cộng gộp (một phần hoặc toàn bộ), quy định về vận chuyển thẳng, quy định
về các công đoạn gia công chế biến giản đơn nghĩa là khi hàng hóa trải qua các quy
trình như thế này thì không làm thay đổi xuất xứ hàng hóa….
Tóm lại, để xác định được xuất xứ của hàng hóa ta cần dùng đến các tiêu chí
xuất xứ, các tiêu chí xuất xứ này được sử dụng để cấu thành nên các quy tắc xuất
xứ. Ví dụ, trong quy tắc xuất xứ của Hiệp định hàng hóa ASEAN (ATIGA), đối với
hàng hóa có xuất xứ không thuần túy (Rule 3) thì hàng hóa được coi là có xuất xứ
tại quốc gia là thành viên của hiệp định khi hàm lượng giá trị khu vực RVC (hàm
lượng ASEAN) không ít hơn 40% hoặc phần nguyên vật liệu đầu vào không xuất
xứ trải qua quá trình thay đổi mã số HS ở cấp độ 4 chữ số (tiêu chí CTC). Nhà xuất
khẩu có thể lựa chọn giữa 2 tiêu chí RVC hoặc CTC để xác định xuất xứ hàng hóa.


19
1.2.2. Cơ chế xác định trước xuất xứ hàng hóa

1.2.2.1. Cơ sở pháp lý của cơ chế xác định trước xuất xứ hàng hóa nhập khẩu
1.2.2.1.1. Cơ sở pháp lý quốc tế
Xác định trước xuất xứ hàng hóa nhập khẩu là việc cơ quan Hải quan thực
hiện trước khi hàng hóa được làm thủ tục nhập khẩu. Việc thực hiện xác định trước
đã hình thành nên một cơ chế xác định trước trong quá trình làm thủ tục hải quan,
chứ không đơn thuần là là một quy trình hay một bước trong quy trình. Trước hết
cần hiểu “cơ chế” là như thế nào? Theo từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học,
nhà xuất bản Khoa học xã hội, “cơ chế” là cách thức theo đó một quá trình được
thực hiện. Như vậy theo định nghĩa trên thì cơ chế muốn đạt được kết quả của một
quá trình hay công việc nào đó, người ta lập ra các hình thức tổ chức phù hợp, định
ra phương thức thực hiện quá trình, công việc đó. Cơ chế xác định trước xuất xứ
hàng hóa cũng có cơ sở để hình thành, cách thức thực hiện và các thành phần liên
quan đến cách thức vận hành hay sử dụng. Thông thường, người ta hay sử dụng lẫn
lộn giữa “cơ chế” (mechanism) và hệ thống (systerm) mang ý nghĩa như nhau
nhưng đôi khi hai khái niệm đó cũng có chút phân biệt, trong khi “cơ chế” mang
tính quy trình thực hiện, cụ thể là cách thức thực hiện thì hệ thống mang tính cấu
tạo nhiều hơn, để thực hiện công việc thì cần có những bộ phận gì tham gia. Cơ chế
xác định trước là một phương thức tổ chức cụ thể, có căn cứ pháp lý, cách thức thức
hiện và từ đó có thực tiễn thực hiện.
Cơ chế xác định trước có thể bao gồm việc xác định trước cả mã số, xuất xứ,
trị giá hải quan của hàng hóa (Advance rulings) hoặc chỉ bao gồm việc xác định
trước một hoặc hai trong ba vấn đề trên, thường là phân loại và xuất xứ, vì việc xác
định trước trị giá là rất phức tạp và khó có thể dự đoán trước do sự đa dạng của các
phương pháp tính toán trị giá hải quan và sự thay đổi của tiền tệ ảnh hướng đến chi
phí, tỷ giá hối đoái…


Công ước Kyoto sửa đổi năm 1999
Công ước Kyoto (Việt Nam đã tham gia) đều khuyến nghị cơ quan Hải quan


cho phép doanh nghiệp được áp dụng cơ chế phân loại trước về mã số, xác định trị
giá tính thuế, xuất xứ hàng hoá trước khi làm thủ tục cho hàng hoá xuất nhập khẩu.


×