Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Khái quát về xuất xứ hàng hoá và công tác kiểm tra xuất xứ hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.79 KB, 53 trang )

I. Khái quát về xuất xứ hàng hoá và công tác kiểm tra xuất xứ
hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam
1. Khái niệm và đặc điểm của xuất xứ hàng hoá:
Cùng với sự phát triển của phân công lao động và giao lưu buôn bán quốc
tế, một hàng hoá được sản xuất ra có thể có sự đóng góp của nhiều quốc gia,
vùng lãnh thổ khác nhau. Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, hàng hoá sản
xuất ra không chỉ để sử dụng trong một nước mà có sự trao đổi buôn bán giữa
các nước trên toàn thế giới. Khi phân công lao động ngày càng mạnh thì nhu
cầu thương mại cũng phát triển theo. Và cũng xuất phát từ quan hệ trao đổi
hàng hoá này giữa các nước, nảy sinh các tranh chấp thương mại. Do đó, vấn
đề cần thiết để đảm bảo quyền lợi và trách nhiệm của các bên liên quan là cần
phải làm rõ địa điểm( hay quốc gia) mà hàng hoá được nuôi trồng, sản xuất,
chế biến hay gia công. Hay nói cách khác, khái niệm xuất xứ hàng hoá ra đời
là yếu tố quan trọng tất yếu của quá trình thuận lợi hoá thương mại quốc tế.
Theo Điều 1 Hiệp định GATT 1994( đoạn 1, phụ lục II), “ Xuất xứ
hàng hoá là “ quốc tịch” của một hàng hoá”…” hàng hoá hoàn toàn được khai
thác, nuôi trồng, chế biến, tại một nước mà không có sự tham gia của hàng
hoá nhập khẩu từ nước khác thì được coi là có xuất xứ từ nước đó”.
Theo phụ lục chuyên đề K Công ước Kyoto sửa đổi định nghĩa: “ Nước
xuất xứ của hàng hoá là nước tại đó hàng hoá được chế biến hoặc sản xuất,
phù hợp với tiêu chuẩn được đặt ra nhằm mục đích áp dụng trong biểu thuế
hải quan, những hạn chế về số lượng hoặc các biện pháp liên quan đến thương
mại”.
Trong khoản 14, Điều 3 Luật Thương mại Việt Nam làm rõ: “ Xuất xứ
hàng hoá là nước hoặc vùng lãnh thổ sản xuất ra toàn bộ hàng hoá hoặc nơi
thực hiện công đoạn chế biến cơ bản cuối cùng đối với hàng hoá trong trường
hợp có nhiều nước hoặc vùng lãnh thổ tham gia vào quá trình sản xuất hàng
hoá đó”.
Trên thực tế, việc xác định xuất xứ hàng hoá khá phức tạp và không phải
lúc nào cũng thống nhất, vì mỗi nước phải đưa ra các tiêu chí cụ thể xác định
xuất xứ hàng hoá đảm bảo mục tiêu kinh tế thương mại của chính quốc gia


mình. Do đó, nhằm tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế, các nước đã tiến
hành các vòng đàm phán thương mại song phương và đa phương nhằm tạo ra
sự thống nhất, đơn giản và hài hoà các quy tắc xuất xứ nhằm ổn định trong
quá trình giao lưu buôn bán giữa các quốc gia.
a.Quy tắc xuất xứ ưu đãi:
Quy tắc xuất xứ ưu đãi là các quy định, điều luật và các quyết định hành
chính áp dụng chung cho các thành viên WTO khi hàng hoá có đủ tiêu chuẩn
để hưởng các đối xử ưu đãi theo các cơ chế thương mại tự quy định hoặc theo
các thoả thuận cho phép hưởng các ưu đãi về thuế quan không thuộc phạm vi
áp dụng của quy tắc xuất xứ không ưu đãi theo Điều 1 Hiệp định GATT 1994,
trong khuôn khổ song phương và đa phương.
Các quy tắc xuất xứ ưu đãi phải đảm bảo tính minh bạch về luật pháp,
dễ phán đoán, phù hợp với các quy định và thông lệ liên quan đến quy tắc
xuất xứ. Vì vậy, các quy tắc này phải có các tiêu chí chuyển đổi căn bản thật
rõ rang, không gây ra cản trở, tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế cũng như
không làm vô hiệu hoặc thay đổi quyền lợi của các thành viên WTO.
Để hưởng lợi từ các thoả thuận thương mại ưu đãi, hàng hoá phải có
xuất xứ từ các quốc gia hưởng lợi hoặc các thành viên, và phải đảm bảo thoả
mãn các tiêu chí của các quy tắc xuất xứ được quy định trong Hiệp định
thương mại ưu đãi. Các tiêu chí bao gồm:
- Hàng hoá có xuất xứ thuần tuý:
+ Các sản phẩm có nguồn gốc hoàn toàn từ thiên nhiên
+ Động vật sống được sinh ra và nuôi dưỡng tại các trang trại hoặc hộ gia
đình nuôi cá thể.
+ Các sản phẩm thu được tại nước xuất xứ cũng như các ngư phẩm khai
thác được do các con tàu của nước xuất xứ.
+ Các sản phẩm được chế biến trên các con tàu của nước xuất xứ với
nguyên liệu do con tàu đó đánh bắt được trong vùng lãnh hải của nước xuất
xứ.
+ Các khoáng sản được khai thác ngay trong lãnh thổ của nước xuất xứ.

+ Các loại cây trồng được thu hoạch như cây lương thực, cây làm cảnh và
cây cho hoa.
+ Các hàng hoá được sản xuất từ chỉ những hàng hoá xuất xứ thuần tuý
hoặc các mảnh rời hoặc các phế liệu của quá trình sản xuất hoặc có thể có
được sau quá trình tiêu dùng.
- Hàng hoá có xuất xứ không thuần tuý:
Hàng hoá xuất xứ không thuần tuý là các hàng hoá mà quá trình tạo ra và
hoàn thiện nó có sự tham gia của hai hay nhiều nước.
Trong thương mại quốc tế, hàng hoá có xuất xứ không thuần tuý được xác
định là có xuất xứ của nước thực hiện gia công hoặc chế biến cuối cùng.
Ngoại trừ các công đoạn, thao tác sau đây:
+ Các công việc bảo quản hàng hoá trong quá trình vận chuyển và lưu
kho.
+ Các công việc đơn giản như lựa chọn, phân loại, lau bụi, sang lọc, chia
cắt ra từng phần.
+ Dán nhãn mác hoặc các dấu hiệu phân biệt, bao gói sản phẩm.
+ Tháo dỡ lắp ghép các lô hàng và thay đổi bao bì đóng gói.
+ Đóng gói, bao, hộp, chai, lọ…
+ Lắp ráp đơn giản các bộ phận của các sản phẩm để tạo nên một sản
phẩm hoàn chỉnh.
+ Trộn đơn giản các sản phẩm, nếu một hay nhiều thành phần của hỗn hợp
không đáp ứng điều kiện đã quy định để có thể được coi như có xuất xứ tại
nơi thực hiện việc này.
+ Kết hợp các công việc trên.
+ Giết mổ động vật.
Cần lưu ý là khái niệm gia công chế biến đầy đủ tuỳ thuộc vào quy định
của mỗi nước và mỗi khu vực trong quan hệ với các đối tác thương mại.
- Các tiêu chí chuyển đổi căn bản:
+ Tiêu chí về thay đổi mã số phân loại ( HS).
Theo tiêu chí này, hàng hoá được phân loạivào nhóm hoặc phân nhóm

khác với tất cả các vật liệu không xuất xứ được sử dụng. Tiêu chí này dựa
trên Hệ thống HS, được coi là ngôn ngữ chung cho Hải quan toàn thế giới nên
đơn giản và dễ dự đoán. Tuy nhiên, do được thiết kế đa mục đích nên sử dụng
HS không hoàn toàn xác định được xuất xứ hàng hoá mà nó chỉ góp phần xác
định xuất xứ hàng hoá. Và đôi khi, việc áp dụng tiêu chí này đòi hỏi một vốn
kinh nghiệm và kiến thức rất sâu rộng về HS.
+ Tiêu chí về giá trị gia tăng:
Hàng hoá được xem là trải qua quá trình chuyển đổi căn bản khi hàng hoá
gia tăng giá trị đến một mức nhất định, thông qua 2 cách là tối đa các nguyên
liệu không xuất xứ và yêu cầu tối thiểu về hàm lượng nội địa.
Tiêu chí này đưa ra một ngưỡng đơn giản hơn về quy định các hoạt động
sản xuất và chế biến đồng thời phù hợp để xác định xuất xứ đối với hàng hoá
đã được tinh chế thêm hoặc gia tăng thêm về giá trị dù không thay đổi mã HS.
Tuy nhiên, tiêu chí này chịu sự chi phối về mức độ dao động của giá trị tiền tệ
nên không có tính dự báo và thống nhất.
+ Tiêu chí về các hoạt động sản xuất hoặc chế biến:
Hàng hoá được coi là trải qua quá trình chuyển đổi căn bản khi hàng hoá
trải qua một hoạt động sản xuất hoặc gia công hoặc chế biến nhất định.
Để áp dụng tiêu chí này cần phải xây dựng một hệ thống văn bản quy định
cụ thể và chặt chẽ, bắt nhịp với tốc độ phát triển thần tốc của khoa hoc kỹ
thuật.
Các tiêu chí chuyển đổi căn bản này được áp dụng một cách lần lượt và
tuần tự, tức là nếu không quan tâm đến việc thay đổi mã số phân loại hàng
hoá, thì sẽ xét đến tiêu chí về phần trăm giá trị gia tăng và kế đến là tiêu chí
về các hoạt động sản xuất hoặc chế biến. Ngoài ra khi xác định xuất xứ hàng
hoá, còn cần phải lưu ý:
- Các ngoại lệ ngoài tiêu chí chuyển đổi:
+ Quy tắc cộng gộp:
Hàng hoá có sử dụng các nguyên liệu nhập khẩu có xuất xứ từ một nước
được phê chuẩn để sản xuất tại một nước cũng được hưởng ưu đãi và không

phải đáp ứng các yêu cầu về chuyển đổi mã số HS hoặc gia công chế biến.
Đối với cộng gộp xuất xứ trong Asian, hàng hoá được coi là có xuất xứ Asian
khi các yêu cầu về sản xuất hay chế biến đã được đáp ứng tại tất cả các nước
ASEAN liên quan trong quá trình sản xuất hàng hoá đó.
+ Quy tắc vận chuyển thẳng:
Hàng hoá được vận chuyển thẳng từ nước được hưởng ưu đãi đến nước
cho hưởng ưu đãi mà không đi qua lãnh thổ của quốc gia nào khác hoặc nếu
có quá cảnh lãnh thổ một quốc gia khác thì không đưa vào buôn bán hoặc tiêu
thụ tại nước đó hoặc không trải qua bất kỳ một công đoạn gia công chế biến
nào trừ việc xếp, bốc dỡ hoặc các hoạt động nhằm đảm bảo cho hàng hoá vận
chuyển tốt.
Hàng hoá xuất khẩu từ nước được hưởng, để lưu kho tạm thời hay trưng
bày triển lãm được vận chuyển thẳng từ nơi tổ chức triển lãm tới nước cho
hưởng và triển lãm được tổ chức dưới sự giám sát của cơ quan hải quan.
Ngoại trừ các quốc gia không có biển, hàng hoá nhập khẩu được gửi trực tiếp
từ quốc gia hưởng lợi đến quốc gia cho ưu đãi.
Các quy tắc xuất xứ ưu đãi được quy định trong các thoả thuận thương
mại ưu đãi bao gồm:
- Cơ chế thương mại tự định của các nước phát triển dành cho các
nước đang phát triển hay là ưu đãi đơn phương do 1 nước hoặc nhóm nước
quy định dành cho 1 nước hoặc nhóm nước khác thoả mãn yêu cầu xuất xứ do
Hiệp định quy định. Ví dụ, Hệ thống ưu đãi phổ cập GSP.
- Cơ chế thương mại thoả thuận là ưu đãi giữa các nhóm nước thoả
thuận dành cho nhau trên nguyên tắc có qua có lại. Ví dụ, AFTA hay
NAFTA.
b.Quy tắc xuất xứ không ưu đãi:
Khác với quy tắc xuất xứ ưu đãi đã thống nhất trong khuôn khổ các Hiệp
định song phương hoặc đa phương, các quy tắc xuất xứ không ưu đãi đòi hỏi
phải có định chế xây dựng quản lý và thúc đẩy chương trình hài hoà quy tắc
xuất xứ không ưu đãi. Theo đó, cần phải dựa vào các nguyên tắc nhất định

nhằm đảm bảo tính khách quan, dễ hiểu, thống nhất và có thể dự đoán trước
được. Đồng thời, các quy tắc xuất xứ phải thể hiện rõ nước xuất xứ của một
hàng hoá là nước sản xuất ra toàn bộ hàng hoá đó hay là nước thực hiện công
đoạn gia công chế biến cơ bản cuối cùng nếu có nhiều nước tham gia sản xuất
hàng hoá đó. Mặt khác, các quy tắc xuất xứ không được hạn chế, bóp méo
hoặc làm rối loạn thương mại quốc tế và được áp dụng như nhau cho tất cả
các mục đích sử dụng trong các công cụ chính sách thương mại không ưu đãi
như đối xử tối huệ quốc, thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng, các biện
phấp tự vệ, các yêu cầu về ký hiệu và tất cả các hạn chế số lượng hay hạn
ngạch thuế quan áp dụng phân biệt đối xử được quy định trong Hiệp định
GATT 1994.
Quy tắc xuất xứ không ưu đãi nhằm áp dụng chung cho tất cả các thành
viên và có ảnh hưởng to lớn đến thương mại quốc tế trong phạm vi áp dụng.
Vì thế, hài hoà các quy tắc xuất xứ là mục tiêu quan trọng nhằm tạo ra sự ổn
định, thống nhất từ đó tạo thuận lợi cho thương mại đầu tư phát triển, thúc
đẩy tăng hiệu quả kinh tế.
Khi thực hiện chương trình hài hoà quy tắc xuất xứ không ưu đãi, cần
tuân thủ quy tắc tổng quát sau đây:
- Quy tắc 1: Phạm vi áp dụng
Quy tắc này xác định quốc gia xuất xứ của một hàng hoá khi xuất xứ của
hàng hoá đó không được xác định theo quy tắc xuất xứ hàng hoá thuần tuý.
Các quy tắc xuất xứ này bao gồm cả quy tắc xuất xứ được sử dụng trong mua
sắm chính phủ và số liệu thống kê thương mại. Theo đó, sẽ không làm tổn hại
đến ngành công nghiệp nội địa hoặc sản phẩm tương tự của công nghiệp nội
địa.
- Quy tắc 2: Hệ thống hài hoà
Hàng hoá được phân loại dựa vào mã số HS và các phân chia theo HS, chỉ
áp dụng cho các nguyên liệu không xuất xứ và không phân biệt giữa các quy
tắc với nhau. Các quy tắc chú giải chung, mục, chương và các chú giải nhóm,
phân nhóm bổ sung trong Hệ thống HS điều chỉnh việc phân loại hàng hoá

cũng sẽ điều chỉnh quá trình phân loại mã HS để xây dựng quy tắc xuất xứ
cho sản phẩm cụ thể.
- Quy tắc 3: Xác định xuất xứ
Xuất xứ của một hàng hoá sẽ được xác định theo các điều khoản của Phụ
lục 1 và Phụ lục 2 của Hiệp định quy tắc xuất xứ khi áp dụng các quy định
sau đây một cách tuần tự:
+ Các quy tắc chính:
Quốc gia xuất xứ hàng hoá là quốc gia mà tại đó hàng hoá có được tính
chất cơ bản tự nhiên, không qua chế biến hoặc là quốc gia mà tại đó hàng hoá
có được theo điều kiện trên hoặc là quốc gia mà tại đó giai đoạn sản xuất cơ
bản đó diễn ra.
+ Các quy tắc phần dư:
Nếu hàng hoá trải qua một hoặc hơn một hoạt động mà không thay đổi về
phân loại thì xuất xứ hàng hoá là quốc gia mà hàng hoá ra đời trước khi trải
qua các hoạt động đó với điều kiện là bất kể vật liệu nào đã được bổ sung
thêm vào phải thoả mãn sự thay đổi quy tắc phân loại áp dụng cho hàng hoá.
Quốc gia xuất xứ hàng hoá là quốc gia mà tại đó phần lớn nguyên vật liệu
xuất xứ trên cơ sở quy định trong quy tắc phần dư áp dụng tại các Chương.
Nếu các nguyên liệu có tỷ lệ đa số bằng nhau của các quốc gia tham gia, thì
hàng hoá đó là hàng hoá đa quốc gia.
- Quy tắc 4: Yếu tố trung lập
Xuất xứ hàng hoá không tính đến xuất xứ của năng lượng, chất đốt, nhà
xưởng và thiết bị, hoặc máy móc và công cụ được sử dụng sản xuất hàng hoá
hoặc các nguyên vật liệu sử dụng để sản xuất hàng hoá mà không còn tồn tại
trong hàng hoá hoặc tạo nên 1 phần hàng hoá.
- Quy tắc 5: Đóng gói, vật liệu đóng gói và bao bì
Nếu nguyên liệu đóng gói và bao bì không được phân loại cùng với nội
dung bên trong là hàng hoá tách rời, thì xuất xứ của nguyên vật liệu đóng gói
và bao bì được xác định theo các quy tắc tương ứng quy định trong Phụ lục 1
và 2.

- Quy tắc 6: Phụ kiện đi kèm, bộ phận rời và dụng cụ
Xuất xứ hàng hoá không tính đến các phụ kiện đi kèm, bộ phận rời, dụng
cụ và các tài liệu thông tin hoặc tài liệu hướng dẫn khác kèm theo hàng hoá,
theo quy tắc tổng quát 3, với điều kiện chúng được gắn kèm theo, dưới dạng
vật chất và con số đối với thiết bị thông thường.
.
2. Vai trò của xuất xứ hàng hóa:
a. Thuế quan ưu đãi:
Chính sách thương mại của các quốc gia và các thỏa thuận thương mại
khu vực cụ thể đôi lúc có sự phân biệt. Xác định xuất xứ hàng hóa khiến có
thể phân biệt đâu có thể là hàng nhập khẩu được hưởng ưu đãi để áp dụng chế
độ ưu đãi theo các thỏa thuận ưu đãi đặc biệt như trong các khu vực thương
mại.
b. Áp dụng thuế chống phá giá và trợ giá:
Trong các trường hợp khi hàng hóa của một nước được phá giá tại thị
trường nước khác, việc xác định được xuất xứ khiến các hành động chống phá
giá và việc áp dụng thuế chống trợ giá trở nên khả thi.
c. Thống kê thương mại và duy trì hệ thống hạn ngạch:
Việc xác định xuất xứ khiến việc biên soạn các số liệu thống kê thương
mại và các xu hướng hoặc đối với một nước hoặc đối với một khu vực dễ
dang hơn. Trên cơ sở các số liệu thương mại xuất bản đáng tin cậy, các cơ
quan thương mại mới có thể duy trì hệ thống hạn ngạch, trong trường hợp hệ
thống này tồn tại. Các hạn ngạch có thể được áp dụng vì nhiều lý do, từ mục
đích bảo vệ thương mại đến lý do bảo vệ môi trường. Có thể nói xuất xứ hàng
hóa là một công cụ trong chính sách kiểm soát ngoại thương của nhà nước.
d. Xúc tiến thương mại:
Quy tắc xuất xứ được sử dụng để đẩy mạnh hàng xuất khẩu từ những nước
đã thiết lập một truyền thống tốt đẹp về những lĩnh vực cụ thể. Trong những
trường hợp này, các quốc gia trở nên rất tích cực bảo vệ tên hiệu thương mại
và chống lại việc làm giả tên hiệu này, sử dụng sai hoặc lợi dụng bởi các nước

khác để tăng lượng bán hàng của họ.
e. Các nguyên nhân môi trường:
Các yêu cầu về ký hiệu, bản thân chúng là kết quả của việc áp dụng quy
tắc xuất xứ, được sử dụng vì những lý do môi trường. Một số trong số đó tăng
cường các mục tiêu môi trường. Số khác hiện theo đuổi việc sử dụng và lạm
dụng quy tắc xuất xứ nhằm mục đích chôn phế thải độc hại hoặc khai thác
kiệt quệ và bằng cách đó làm tuyệt chủng các loài thực vật và động vật.
f. Lẩn tránh:
Mặc dù là không hợp pháp và là một thực tiễn thương mại không công
bằng, một số nước, khi cố tránh bị áp dụng hạn ngạch, đã sử dụng và lạm
dụng quy tắc xuất xứ để đưa ồ ạt và bán phá giá hàng hóa tại thị trường các
nước khác.
3. những quy tắc chung trong xác định xuuất xứ hàng hóa
a. Quy tắc xuất xứ phổ biến
+ Xuất xứ thuần túy ( Whollyobtained – WO)
Các hàng hóa sau được coi là có xuất xứ thuần túy, bao gồm;
- Cây trồng và các sản phẩm từ cây trồng được thu hoạch tại quốc gia
hoặc vùng lãnh thổ đó.
- Động vật sống được sinh ra và nuôi dưỡng tại quốc gia hoặc vùng lãnh
thổ đó.
- Các sảnt phẩm từ động vật sống tại quốc gia hoặc vùng lãnh thổ đó
- Các sản phẩm thu được từ săn bắn, đặt bẫy, đánh bắt,nuôi trồng thu
lượm hoặc săn bắt tại các quốc gia hoặc vùng lãnh thổ đó.
- Các khoáng sản và các chất sản sinh tự nhiên, được chiết xuất hoặc lấy
ra từ đất,nước, đáy biển hoặc dưới đáy biển của quốc gia học vùng lãnh thổ
đó.
- Các sản phẩm lấy từ nước, đáy biển hoặc dưới đáy biển bên ngoài lãnh
hải của quốc gia,vùng lãnh thổ,với điều kiện gia,vùng lãnh thổ đó có quyền
khai thác đối với vùng nước,đáy biển và dưới đáy biển theo luật pháp quốc tế.
- Các sản phẩm đánh bắt và các hải sản khác đánh bắt từ vùng biển cả

bằng tàu được đăng ký với quốc gia đó và được phép treo cờ của quốc gia
đó.
- Các sản phẩm được chế biến hoặc được sản xuất ngay trên tàu từ các
sản phẩm đánh bắt được ở q uốc gia,vùng lãnh thổ đó và tàu được đăng
ký với quốc gia đó,được phép treo cờ của quốc gia vùng lãnh thổ đó
- Các vật phẩm có được ở quốc gia,vùng lãnh thổ đó hiện không còn
thực hiện được những chức năng ban đầu và cũng không thể sửa chữa hay
khôi phục được và chỉ có thêt vứt bỏ hoặc dùng làm nguyên liệu, vật liệu thô,
hoặc sử dụng và mục đích tái chế.
- Các hàng hóa được sản xuất từ các sản phẩm nêu trên ở quốc gia, vùng
lãnh thổ đó.
+ Xuất xứ không thuần túy
Hàng hóa có xuất xứ không thuần túy là hàng hóa được sản xuất có sử
dụng nguyên liệu nhập khẩu của hai hoặc nhiều nước
Hàng hóa có xuất xứ không thuần tuý được công nhận có xuất xứ từ một
quốc gia, vùng lãnh thổ khi quốc gia, vùng lãnh thổ đó thực hiện công đoạn
chế biến cơ bản cuối cùng làm thay đổi cơ bản hàng hóa này. Như vậy nước
xuất khẩu là nước mà nguyên vật liệu,bộ phận hoặc thành phần nhập khẩu
hàng hóa đã được gia công chế biến đủ tại đó.
+ Xuất xứ cộng gộp
Xuất xứ cộng gộp cho phép sử dun gj nguyên vật liệu nhập khẩu có từ
nước được hưởng ưu đãi để sản xuất tại một nước cũng được hưởng ưu đãi,
không phải đáp ứng yêu cầu chuyển đổi mã HS( CTC) hoặc gia công chế
biến.
Nước xuất xứ hàng hóa được hưởng ưu đãi theo quy tắc cộng gộp là
nước tham gia sản xuất và xuất khẩu hàng hóa đó sang nước có thỏa thuận
cho hưởng ưu đãi thuế quan( Cộng gộp ASEAN, ACFTA,..)
+ Quy tắc vận tải trực tiếp
Quy tắc vận tải trục tiếp hàng hóa phải được vận chuyển tù nước được
hưởng đến nước cho hưởng, không qua lãnh thổ một quốc gia nào khác; hoặc

quá cảnh lãnh thổ một quốc gia khác, có hoặc không chuyển tải hoặc lưu kho
tạm thời với điều kiện:
+ Quá cảnh là cần thiết vì lí do địa lý hoặc yêu cầu vận tải.
+ Không được mua bán hoặc tiêu thụ tại đó
+ Không xử lý gì trừ việc bốc dỡ, tái xếp hàng nhằm đảm bảo giữ hàng
trong tình trạng tốt
b. Quy tắc xuất xứ sản phẩm cụ thể:
- Quy tắc chuyển đổi mã số HS
Chuyển đổi mã số hàng háo hay chuyển đổi mã số HS( trong Biểu thuế
xuất nhập khẩu) của hàng hóa được tạo ra ở một quốc gai hoặc vùng lãnh thổ
trong quá trình sản xuất từ nguyên liệu không có xuất xứ của quốc gia hoặc
vùng lãnh thổ này
Quy tác này được xây dựng phù hợp với hệ thống danh mục hài hòa và mô
tả mã hóa hàng hóa HS(Hảmonized System) của tổ chức hải quan thế giới và
thường được dùng làm phụ lục của các quốc FTA. Quy tắc này đòi hỏi
nguyên vật liệu tham gia trong quá trình sản xuất phải đạt được chuyển đổi cơ
bản để hàng hóa được công nhận là có xuất xứ tại nước chuyển đổi cơ bản đó.
Ví dụ: Thịt bò đông lạnh(0202) nhập khẩu từ úc; gia vị quế, hồi(0906 –
0909) nhập khẩu từ Trung Quốc; để sử dụng để sản xuất xúc xích bò( 1601)
tại Indonesia.
Ví dụ:Máy bán đồ ăn uống tự động(8476.21) sản xuất tại Singapore từ
các nguyên vật liệu, bộ phận nhập khẩu. Nguyên vật liệu nhập khẩu được
phân loại theo các bộ phận phụ tùng tương ứng mã số HS ( trừ phân nhóm
8476.21 – 8476.89). Bộ phận chỉ được thiết kế sử dụng cho các loại máy bán
hàng tự động được phân loại vào nhóm 8476.90. Nhà xuất khẩu có thể sử
dụng nguyên vật liệu không có xuất xứ và các bộ phận cảu máyb án hàng
chuyên dụng(8476.90) để sản xuất máy bán đồ uống tự động(8476.21) để đủ
điều kiện hưởng ưu đãi.
Quá trình sản xuất máy bán đồ uống tự động bao gồm nguyên vật liệu
nhập khẩu của một số nước, được gia công chế biến tại Singapore, đạt được

sự chuyển đổi cơ bản cuối cùng đó là cho ra một sản phẩm mới và khác với
nguyên liệu tham gia vào quá trình sản xuất( Phụ lục K, Công ước Kyoto). Do
vậy, Singapore được công nhận là nước xuất xứ vì nguyên vật liệu đã trải qua
sự chuyển đổi cơ bản tại đó để cho ra một sản phẩm mới.
Các điều kiện nhất định phải đáp ứng khi sản phẩm được công nhận là có
xuất xứ:
+ Yêu cầu về nguyên vật liệu đầu vào phải có xuất xứ từ nước được
hưởng. Ví dụ, chế phẩm từ thịt( Chương 16), phải sử dụng động vật( chương
1) làm nguyên liệu đâuù vào. sẽ không được công nhận xuất xứ. Hoặc bánh
kẹo( 1905.90) được sản xuất từ bột mì nhập khẩu( Chương 11), đáp ứng tiêu
chí CTC.
+ Nguyên liệu đầu vào không có xuất xứ phải được chế biến ở mức độ
thấp. Ví dụ, sản phẩm may mặc( chương 62), quy định phải sản xuất từ sợi đã
xe, việc sử dụng vải NK thì sản phẩm cuối cùng sẽ không được công nhận
xuất xứ.
• Quy tắc tỉ lệ phần trăm
Hàng hóa sẽ không được coi là chuyển đổi cơ bản khi một tỉ lệ phần trăm
tối đa giá trị nguyên vật liệu nhập khẩu hoặc không rõ xuất xứ được sử dụng
hoặc tỉ lệ phần trăm tối thiểu giá trị nguyên vật liệu nội địa được sử dụng để
sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Tiêu chí này phù hợp với một số mặt hàng
không đáp ứng tiêu chí CTC,
đồng thời có thể linh hoạt áp dụng tỉ lệ phần trăm nhất định, phù hợp năng
lực các ngành công nghiệp nội địa và không đòi hỏi công đoạn gia công chế
biến. Tuy nhiên, không rõ ràng và khó dự báo( tỉ giá, công thức tính toán)
Ví dụ: Sản phẩm được coi là có xuất xứ CFPT/AFTA nếu tổng giá trị
nguyên vật liệu có xuất xứ phải đạt ít nhất 40 % hàm lượng ASEAN tính theo
giá FOB.
Quy định của Canada: Sản phẩm được sản xuất tại nước được hưởng từ
nguyên liệu nhập khẩu hoặc không xác định xuất xứ sẽ được coi là có xuất xứ
tại nước được hưởng đó nếu giá trị thành phần nhập khẩu không vượt quá

40% giá xuất xưởng của sản phẩm được gửi sang Canada.
Theo quy định của Việt Nam thì tỉ lệ phần trăm của giá trị là phần của
giá trị là phần giá trị gia tăng có được sau khi một quốc gia hoặc vùng lãnh
thổ sản xuất, gia công, chế biến các nguyên liệu không có xuất xứ từ quốc gia
hoặc vùng lãnh thổ này so với tổng giá trị của hàng hóa được sản xuất ra.
Phần giá trị tăng nói trên phải đạt ít nhất 30 % của giá trị hàng hóa được sản
xuất ra và được thể hiện theo công thức sau:
Giá FOB – Giá nguyên liệu không có xuất xứ từ
quốc gia hoặc vùng lãnh thổ sản xuất
X 100% >/ 30%
Giá FOB
Trong đó:
“ Nguyên liệu không có xuất xứ từ quốc gia hoặc vùng lãnh thổ sản xuất ”
bao gômg nguyên liệu có xuất xứ từ một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ khác
và nguyên liêu không rõ xuất xứ;
“ Giá nguyên liệu không có xuất xứ từ quốc gia hoặc vùng lãnh thổ sản
xuất” là giá CIF
của nguyên liệu nhập khẩu từ trực tiếp (đối với nguyên liệu có xuất xứ từ
một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ khác) hoặc giá tại thời điểm mau vào ghi
trên hóa đơn giá trị gia tăng( đối với nguyên liệu không rõ xuất xứ) dùng để
sản xuất, gia công, chế biến ra sản phẩm cuối cùng;
“ Giá FOB” là giá ghi trên hợp đồng xuất khẩu và được tính như sau’
Giá FOB= Giá xuất xưởng + các chi phí khác
Với “ Giá xuất xưởng” = Chi phí sản xuất + Lợi nhuận;
“ Chi phí sản xuất” = Chi phí nguyên vật liệu + Chi phí nhân công + Chi
phí phân bổ;
“ Chi phí phân bổ” như bảo hiểm nhà xưởng, sửa chữa, bảo trì, thuế, lãi
cầm cố; Các khoản thuê mua và trả lãi của nhà máy và thiết bị, an ninh nhà
máy; Nghiên cứu, phát triển, thiết kế và chế tạo; Khuôn dập, khuôn đúc, việc
trang bị dụng cụ và khấu hao, bảo trì và sửa chửa của nhà máy và thiết bị;

Tiền bản quyền sáng chế( có liên quan đến những máy móc có bản quyền
hoặc quá trình sử dụng trong việc sản xuất hàng hóa hoặc quyền sản xuất
hàng hóa); Kiểm tra và thử nghiệm nguyên vật liệu và sản phẩm; Các nhân tố
chi phí trong việc tính toán giá trị của nguyên vật liệu, như chi phí cảng và
chi phí giải phóng hàng và thuế nhập khẩu đối với các thnhf phần phải chịu
thuế.
- Quy tắc công đoạn sản xuất, gia công chế biến
Nguyên vật liệu, bộ phận nhập khẩu được coi là sản xuất, gia công chế
biến đủ khi trải qua quá trình gia công cụ thể tạo nên một thành phần cuối
cùng được công nhận xuất xứ. Tiêu chí này rõ ràng, minh bạch, tuy nhiên
không thêt có công đoạn gia công cụ thể phù hợp với sự thay đổi về công
nghệ và đa dạng mặt hàng. Tiêu chí này thường được kết hợp với tiêu chí
CTC để xác định xuất xứ.
Ví dụ: Da thuộc nhập khẩu từ Philipin, được cắt thành hình và làm thành
mũ . Những mãnh đã định hình đó được coi là thay đổi cơ bản, đáp ứng tiêu
chuẩn gia công chế biến đủ.
- Găng tay bằng da thuộc hoặc da tổng hợp(4203.29), được cắt và may
thành hình hoặc được lắp ráp tại lãnh thổ của một nước được công nhận xuất
xứ
C.Một số quy tắc xuất xứ cụ thể
Quy tắc xuất xứ CEPT/AFTA
ASEAN được thành lập ngày 08/8/1967. Tại hội nghị thượng đỉnh
ASEAN lần thứ 4 tháng 1/1992 tại Singapore đã quyết định thành lập khu vực
mậu dịch tự do ASEAN( Asean Free Trade Area – AFTA)
Mục tiêu của AFTA là thúc đẩy thương mại trong và ngoài khu vực, cải
thiện môi trường đầu tư, tăng tính cạnh tranh các ngành công nghiệp, thu hút
FDI và giảm thuế quan xuất nhập khẩu xuống còn 0 – 5 % , hiêị lực
01/01/1993 -01/1/2003
Lộ trình cắt giảm đối với VN là 2006; CLM là 2008.
Chương trình thuế quan ưu đãi hiệu lực chung ( CEPT) mang tính ưu đãi

cho mọi thành viên, áp dụng cho hàng hóa xuất xứ từ các nước thành viên
AFTA. Lộ trình cắt giảm thuế, các nước có quyền lựa chọn loại trừ một số sản
phẩm ra khỏi CEPT:
+ Loại trừ tạm thòi gồm xe tải, hóa chất , chất dẻo( chiếm khoảng 15 %)
+ Sản phẩm công nghiệp nhạy cảm( sẽ được mở rộng đến 2010)
+ Loại trừ hoàn toàn: Gồm những sản phẩm cần thiết bảo vệ an ninh, đạo
đức, sức khỏe, các giá trị mỹ thuật, lịch sử và chiếm khoảng 1% số dòng thuế.
• Quy tắc 1. Xác định xuất xứ sản phẩm
Hàng hóa CEPT được nhập khẩu vào một nước thành viên từ nước thành
viên khác, sẽ đủ điều kiện để hưởng ưu đãi nếu:
- Hàng hóa có xuất xứ thuần túy.
- Xuất xứ không thuần túy
- Được vận tải trực tiêp
• Quy tắc 2: Xuất xứ thuần túy
Các hàng hóa sau được coi là xuất xứ thuần túy:
(a) Các khoáng sản được khai thác từ lòng đất, mặt nước hay đáy biển của
nước đó;
(b)Các hàng hóa nông sản được thu hoạch ở nước đó;
(c) Các động vật được sinh ra và chăn nuôi ở nước đó;
(d)Các sản phẩm từ động vật nêu ở mục (c) trên đây;
(e) Các sản phẩmt thu được do săn bắn hoặc đánh bắt ở nước đó;
(f) Các sản phẩm thu được do đánh cá trên biển và các đồ hải sản do các
tàu của nước đó lấy được từ biển;
(g)Các sản phẩm được chế biến hay sản xuất trên boong tàu của nước đó
từ các sản phẩm nêu ở mục (f) trên đây;
(h) Các nguyên liệu đã qua sử dụng được thu nhặt ở nước đó, chỉ dùng để
tái chế nguyên liệu;
(i) Đồ phế thải từ các hoạt động công nghiệp tại nước đó
(j) Các hàng hóa được sản xuất từ các sản phẩm từ mục(a) đến (i)
• Quy tắc 3. Xuất xứ không thuần túy

Hàng sẽ được coi là xuất xứ từ các nước thành viên ASEAN, nếu ít nhất
40 % hàm lượng xuất xú từ bất cứ nước thành viên nào. Theo đó, các sản
phẩm chế tạo hoặc gia công mà có tổng giá trị nguyên phụ liệu được sử dụng
có xuất xứ từ các nước không phải là thành viên ASEAN hoặc có xuất xứ
không xác định được không vượt quá 60% giá FOB cảu sản phẩm được sản
xuất hoặc chế biến và có quá trình sản xuất cuối cùng được thực hiện trên
lãnh thổ nước xuất khẩu là thành viên.
Giá trị nguyên phụ liệu không xuất xứ từ ASEAN sẽ là:
- Giá CIF của hàng hóa tại thời điểm nhập khẩu
- Giá xác định ban đầu của sản phẩm có xuất xứ không xác định được tại
lãnh thổ nước thành viên nơi thực hiện quá trình gia công chế biến.
Công thức 40 % hàm lượng ASEAN như sau:
Giá trị nguyên phụ liệu nhập khẩu từ nước Giá trị nguyên phụ
liệu có
Không phải là thành viên + xuất xứ không xác định
ASEAN
X
100% <40%
Giá FOB
+ Quy tắc 4. Quy tắc xuất xứ cộng gộp
Các sản phẩm đã đáp ứng được các yêu cầu xuất xứ quy định tại quy tắc 1
và được sử dụng tại một nước thành viên như là đầu vào của một sản phẩm
hoàn chỉnh đủ điều kiện được hưởng ưu đãi tại các nước thành viên khác sẽ
được coi là các sản phẩm có xuất xứ tại các nước thành viên từ nơi tổ chức
gia công chế biến sản phẩm cuối cùng miễn là tổng hàm lượng ASEAN của
sản phẩm cuối cùng không nhỏ hơn 40%
+ Quy tắc 5: Vận tải trực tiếp
Các trường hợp sau được coi là vận tải trực tiếp từ nước xuất khẩu là
thành viên đến nước nhập khẩu là thành viên:
- Nếu hàng hóa được vận chuyển qua lãnh thổ cảu bất kì một nước

ASEAN nào;
- Nếu hàng hóa được vận chuyển không qua lãnh thổ của bất kì một nước
không phải là thành viên ASEAN nào khác.
+ Quy tắc xuất xứ giữa ASEAN – Trung Quốc
Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN – Trung Quốc,
với chương trình thu hoạch sớm( EHP) được các bộ trưởng kinh tế ký tại
Indonexia ngày 06/10/2003, các bên cam kết thành lập Khu vực mậu dịch tự
do ASEAN Trung Quốc( ACFTA)
Về thương mại hàng háo vào 2010 với ASEAN – 6 và Trung Quốc; 2015
đối với CLMV.
Lộ trình cắt giảm thông thường: 90% dòng thuế NT cắt giảm còn 0% từ
2005 – 2010( CLMV 2015) trong đó< dòng được bảo lưu kéo đài thời gian
duy trì mức thuế đến 5% thêm 2 năm (CLMV) là 3 năm).
Danh mục nhạy cảm SEL: không vượt quá 400 dòng thuế và 10 % kim
ngạch nhập khẩu của từng nước ASEAN – Trung Quốc, gồm nhạy cảm cao
và thông thường. Số lượng HSEL không quá 40% SEL và không vượt qua
100 mặt hàng.
ASEAN – 6 và Trung Quốc áp dụng thuế suất SEL duy trì đến 2012 còn
20%, giảm còn 0 – 5% vào 2015; HSEL cắt giảm còn 50 % vào 2015
CLMV danh mục SEL còn 20% vào 2015, 0 – 5% vào 2020; HSEL giảm
còn 50% vào 2018
Bộ quy tắc xuất xứ ACFTA được ban hành theo Quyết định
1727/22003/ QĐ – BTM ngày 12/12/2003.
- Các quy chế xuất xứ áp dụng riêng cho một số mặt hàng
+Quy chế xuất xứ CEPT áp dụng cho hàng dệt và các sản phẩm dệt
Quy tắc 1.
Nước xuất xứ là nước mà tại đó diễn ra việc chuyển đổi cơ bản cuối
cùng hoặc thực hiện quá trình để tạo nên một sản phẩm mới. Do vậy, nguyên
vật liệu trải qua một chuyển đổi cơ bản ở nước nào sễ là ssản phẩm của nước
đó.

Quy tắc 2.
Quá trình sản xuất tạo ra một sản phẩm có liên quan tới hai hay nhiều
nước thì nước xuất xứ là nước diễn ra việc chuyển đổi cơ bản cuối cùng hoặc
thực hiện quá trình đêt tạo nên một sản phẩm mới.
Quy tắc 3.
Một hàng dệt hay sản phẩm dệt sẽ được coi là đã trải qua việc chuyển
đổi cơ bản nếu có được biến đổi qua một quá trình sản xuất hay các công
đoạn sản xuất cơ bản để hình thành nên một vật phẩm thương mại khác hẳn
và mới.
Quy tắc 4.
Một vật phẩm thương mại khác hẳn và môi trường sẽ là kết quả của quá
trình sản xuất hhay các công đoạn chế biến nếu có sự thay đổi trong:
- Thiết kế mẫu hay định dạng sản phẩm
- Đặc tính cơ bản
- Mục điích sử dụng
Quy tắc 5.
Để xác định xem một hàng hóa cụ thêt đã trải qua các công đoạn chế biến
hay sản xuất cơ bản hay không, cần xem xét đến các yếu tố sau:
- Sự thay đổi lý tính của vật liệu hoặc sản phẩm được sản xuất do quá
trình sản xuất hay các công đoạn chế biến tạo nên;
- Thòi gian liên quan tới quá trình sản xuất hay các công đoạn chế biến
tại nước sản xuất ra sản phẩm;
- Tính phức tạp của quá trình sản xuất hay các công đoạn chế biến ở
nước sản xuất ra sản phẩm;
- Trình độ hay mức độ về tay nghề và/ hoặc công nghệ cầng thiết trong
quá trình sản hay các công đoạn chế biến.
Quy tắc 6.
Vật liệu hay sản phẩm dệt sẽ được coi là sản phẩm của một nước
ASEAN khi nó có trải qua một trong các quá trình như sau trước khi nhập
vào nước ASEAN khác.

- Các chất hóa dầu trải qua quá trình polyme hóa hay đa tụ hay bất kỳ
một quá trình hóa học hoặc vật lý nào để tạo nên một cao phân tử;
- Polyme(Cao phân tử) trải qua quá trình kéo sợi chỷ hay phun để tạo
nên một xơ tổng hợp;
- Kéo xơ thành sợi;
- Dệt,dệt kim hay phương pháp tạo thành vải khác;
- Cắt vải thành các phần và lắp ráp các phần này thành một sản phẩm
hoàn chỉnh;
- Nếu quy trình nhuộm vải được kèm thêm bất kỳ công đoạn hoàn tất
nào thì có tác động tới việc hoàn chỉnh sản phẩm in trực tiếp.
- Nếu quy trình in vải được kèm thêm bâtts kỳ công đoạn hoàn tất nào thì
có tác động tới việc hoàn chỉnh sản phẩm in trực tiếp.
- Quá trình sản xuất một sản phẩm mới có các xử lý như ngấm hay phủ
một sản phẩm dẫn đến việc tạo thành một sản phẩm mới thuộc vào nhóm
hàng tính thuế khác( 4 số – heading of customs tariff) so với ban đầu.
- Các điểm thêu chiếm ít nhất 5% tổng số diện tích của sản phẩm được
thêu.
Quy tắc 7.
Một sản phẩm hay vật liệu sẽ không được coi là một sản phẩm có xuất
xứ ASEAN nếu nó chỉ trải qua bất cứ một quá trình nào như sau
- Cắt theo chiều dài hay khổvải và viền, móc hay may đè vải nhằm mục
đích sử dụng cho một hình thức thương mại đặc biệt;
- Cắt nhẹ và/ hay ghép với nhau bằng cách may, tạo vòng, ghép nối, đán
các phụ kiện như nẹp áo,dải, thắt lưng, dây vòng hay khuyết.
- Một hay nhiều các công đoạn hoàn tất cho sợi, vải hay các sản phẩm
khác như tẩy trắng, chống thấm,có kết, làm bóng hay các công đoạn tương tự;
hay
- Nhuộm hoặc in hoa vải hoặc sợi.
Lưu ý: Các sản phẩm( được liệt kê sau đây) được tạo ra từ vật liệu dệt do
các nước người ASEAN sản xuất sẽ được coi có xuất xứ ASEAN nếu nó trải

qua các quá trìn như ở quy tắc 6 chứ không chỉ như ở quy tắc 7.
- Khăn mùi soa;
- Khăn choàng, nơ, mạng và các sản phẩm tương tự;
- Túi ngủ và chăn;
- Khăn giường, áo gối, khăn bàn, khăn tắm và khăn ăn;
- Bao bì, các sản phẩm dùng để đựng hàng hóa;
- Giấy dầu, rèm cửa, vải bạt che cửa.
- Vải tràn sàn, vải phủ bàn ghế và các sản phẩm tương tự.
Giấy chứng nhận xuất xứ do cơ quan có thẩm quyền hay đại diện có thẩm
quyền tại nước xuất khẩu cấp để chứng nhận xuất xứ ASEAN của sản phẩm
dệt.
Trong trường hợp sản phẩm dệt được sản xuất tại hai hay nhiều nước thì
chỉ nước nào có quá trình này chuyển đổi cơ bản cuối cũng mới cần có giâý
chứng nhận xuất xứ.
Giấy chứng nhận xuất xứ sẽ được xuất trình cùng với các chứng cần thiết
Khác cho hải quan nước ASEAN đối với một sản phẩm dệt, thì tranh chấp
nay có thêt thực hiện được giải quyết theo cơ chế giải quyết tranh chấp của
ASSEAN( DSM). Trong trường hợp như vậy, Hải quan có thể giải phóng các
sản phẩm bị tranh chấp sau kkhi người nhập khẩu có những đảm bảo đáp ứng
yêu cầu của cơ quan hải quan.
+ Quy tắc xuất xứ dùng cho Hiệp định CEFT áp dụng đối với mặt hàng gỗ
và nhôm
Nước xuất xứ là nơi quy trình chuyển đổi cơ bản cuối cùng được thực
hiện để tạo nên một sản phẩm mới. Nguyên phụ liệu trải qua quá trình chuyển
đổi cơ bản tại một nước được coi là sản phẩm của nước đó.
Một sản phẩm có quy trình sản xuất diễn ra ở hai hoặc nhiều nước thì
xuất xứ là nơi diễn ra quy trình chuyển đổi cơ bản hoặc chế biến để tạo ra một
sản phẩm mới.
Một sản phẩm được coi là đã trai qua quy trình chuyển đổi cơ bản nếu nó
được chuyển biến chuyển qua sản xuất hoặc chế biến để tạo tra một sản

phẩm thương mại mới.
Một sản phẩm thương mại mới khi trải qua quá trình sản xuất hoặc gia
công nếu có sự thay đổi sau;
- Đặc tính hay kiểu dáng thương mại
- Đặc điểm cơ bản
- Mục đích sử dụng về thương mại
Trong trường hợp hai hoặc nhiều nước tham gia vào quy trình sản xuất
để tạo ra các sản phẩm nêu trên thì nước diễn ra quy trình chuyển đổi cơ bản
hoặc chế biến cuối cùng là nước cấp giâyý chứng nhận xuất xứ.
4. Nguyên tắc kiểm tra xuất xứ hàng hóa
Việc kiểm tra xuất xứ hàng hóa phải căn cứ vào thực tế hàng hóa và hồ
sơ hải quan. Trường hợp có khác biệt nhỏ giữa việc khai thác trên C/O và
chứng từ thuộc hồ sơ hải quan nhưng cơ quan hải quan không nghi ngờ về
tính xác thực của xuất xứ hàng háo và việc khai đó vẫn phù hợp với hàng háo
thực tế nhập khẩu thì C/O đó vẫn được coi là hợp lệ.
C/O đã nộp cho cơ quan hải quan thì không được thay thế hoặc sửa đổi
nội dung, trừ trường hợp có nội dung chính đáng và do cơ quan hay tổ chức
có thẩm quyền cấp C/O sửa đổi, thay thế trong thời hạn quy định của pháp
luật
+ Nội dung kiểm tra xuất xứ hàng hóa
Khi kiểm tra giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa ( C/O) cơ quamn hải
quan kiểm tra các nội dung sau:
- Các tiêu chí cơ bản trên C/O, sự phù hợp về nội dung trên C/O và các
chứng từ thuộc hồ sơ hải quan;
- Mẫu dấu, tên và mẫu chữ ký, tên cơ quan hoặc tổ chức có thẩm quyền
cấp C/O thuộc chính phủ của nước hoặc vùng lãnh thổ đã có thỏa thuận ưu
đãi đặc biệt trong quan hệ thương mại với Việt Nam:
- Thời hạn hiệu lực của C/ O.
Trong trường hợp có nghi ngờ tính xác thực của chứng từ hoặc mức độ
chính xác của thông tin liên quan đến xuất xứ của hàng hóa, cơ quan hải quan

có thể yêu cầu kiểm tra cùng với giấy chứng nhận xuất xứ có liên quan tới tổ
chức cấp giấy chứng nhận xuất xứ. Yêu cầu kiểm tra cần phải nêu rõ lý do và
các thông tin nghi ngờ về tính xác thực của giấy chứng nhận xuất xứ và xuất
xứ của hàng hóa đang xem xét.
Trong khi chờ kết quả kiểm tra, hàng hóa không được hưởng ưu đãi
thuế quan nhưng vẫn được phép thoong quan theo các thủ tục hải quan thông
thường.
Việc kiểm tra phải được hoàn thành trong thời gian sớm nhất nhưng
không quá 150 ngày, kể từ thời điểm người nhập khẩu nộp bộ hồ sơ đầy đủ và
hợp lệ.
II. Thực trạng công tác kiểm tra xuất xứ hàng hóa nhập khẩu
vào Việt Nam:
1.Cơ sở pháp lý kiểm tra xuất xứ hàng hóa nhập khẩu:
a.Cơ sở pháp lý quốc tế:
Với tư cách là thành viên của WTO, của ASEAN, APEC... Việt Nam đã
tham gia thực hiện các quy định của Hiệp định Quy tắc xuất xứ, Chương trình
hài hòa quy tắc xuất xứ, chương trình ưu đãi phổ cập chung của EU, các quy
tắc xuất xứ ASEAN và nhiều Hiệp định quốc tế khác làm căn cứ để phục vụ
công tác xác định, xác minh và kiểm tra xuất xứ hàng hóa.
b.Cơ sở pháp lý trong nước:
Cùng với tiến trình phát triển của hiện đại hóa Hải quan và các quy trình
thủ tục hải quan, về cơ bản hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Việt
Nam đã cụ thể hóa các quy định quốc tế về xuát xứ hàng hóa của Hiệp định
Quy tắc xuất xứ và Phụ lục K của Công ước Kyoto sửa đổi phù hợp với điều
kiện thực tế tại Việt Nam. Để từ đó, ban hành các hệ thống văn bản luật pháp
nhằm đảm bảo công tác kiểm tra xuất xứ hàng hóa xuất khẩu tại hải quan Việt
Nam như Luật hải quan 2001, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hải
quan Việt Nam 2005, Nghị định 154/ 2005/ NĐ- CP, Thông tư 45/ 2005/ TT-
BTC, Thông tư 112/ 2005/ TT- BTC, Thông tư 07/ 2006/ TT- BTC, Thông tư
14/ 2006/ TT- BTC, Thông tư 45/ 2007/ TT- BTC, Quyết định 865/ 2004/

QĐ- BTM, Quyết định 12/ 2007/ QĐ- BTM, Quyết định 02/ 2007/ QĐ-
BTM, Quyết định 19/ 2008/ QĐ- BTC, Quyết định 2006/ QĐ- BTC...

×