Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

Tình Hình Thu Hút Và Hiệu Quả Sử Dụng Vốn Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Trên Địa Bàn Tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (543.72 KB, 87 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
---------***--------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Kinh tế đối ngoại
TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NGHỆ AN

Họ và tên sinh viên
Mã sinh viên
Lớp
Khóa
Người hướng dẫn khoa học

: Hoàng Đức Trung
: 1111110647
: Anh 6 – Khối 2 KT
: 50
: ThS. Vũ Minh Phương

Hà Nội, tháng 5 năm 2015
MỤC LỤC


2

2

2




3

3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Danh mục các từ viết tắt tiếng Việt
NSNN
UBND
VĐK
VTH
Danh mục các từ viết tắt tiếng Anh
Từ viết tắt
BCC
FDI
GDP
GRDP
ICOR
IMF
IPA
OECD

Từ đầy đủ
Business Co-operation Contract
Foreign Direct Investment
Gross Domestic Product
Gross Regional Domestic Product
Incremental Capital Output Ratio
International Monetary Fund

Investment Promotion Agency
Organization for Economic
Co-operation and Development

PCI

Provincial Competitiveness Index

PPP

Public-Private Partnership

TPP

Trans-Pacific Partnership

UNCTAD

United Nations Conference on Trade
and Development

UNESCAP

United Nations Economic and Social
Commission for Asia and the Pacific

USD
VA
WTO


United States Dollar
Value Added
World Trade Organization

3

Nghĩa tiếng Việt
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tổng sản phẩm trong nước
Tổng sản phẩm trên địa bàn
Hệ số gia tăng vốn sản lượng
Quỹ Tiền tệ Quốc tế
Cơ quan xúc tiến đầu tư
Tổ chức Hợp tác và Phát triển
Kinh tế
Chỉ số năng lực cạnh tranh
cấp tỉnh
Hợp tác công - tư
Hiệp định Đối tác xuyên
Thái Bình Dương
Hội nghị Thương mại và
Phát triển Liên Hợp Quốc
Ủy ban Kinh tế Xã hội châu Á
Thái Bình Dương của Liên Hợp
Quốc
Đồng Đô la Mỹ
Giá trị gia tăng
Tổ chức thương mại thế giới



4

4
DANH MỤC BẢNG
A

Bảng
1.1

B

C

Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả FDI

1
9

Bảng 2.1

Số dự án, VĐK, VTH của cả nước và Nghệ An giai đoạn 19922000

3
3

Bảng 2.2

Số dự án, VĐK, VTH của cả nước và Nghệ An giai đoạn 20012005


3
5

Bảng 2.3

Số dự án, VĐK, VTH của cả nước và Nghệ An giai đoạn 20062013

3
7

Bảng 2.4

Thu hút FDI theo lĩnh vực đầu tư tại Nghệ An lũy kế đến
31/12/2013

3
9

Bảng 2.5

Thu hút FDI theo đối tác đầu tư tại Nghệ An lũy kế đến 31/12/2013

3
9

Bảng 2.6

Hệ số ICOR của khu vực FDI, Nghệ An và cả nước GĐ 2001-2013

4

0

Bảng 2.7

Thu NSNN từ khu vực FDI tại Nghệ An giai đoạn 2012-2013

4
3

Bảng 2.8

GTXK khu vực FDI tại Nghệ An giai đoạn 2000-2013

4
5

Bảng 2.9

Lao động trong khu vực FDI tại Nghệ An giai đoạn 2000-2013

4
7

Năng suất lao động khu vực FDI tại Nghệ An giai đoạn 2000-2013

4
9

Mục tiêu phát triển kinh tế của Nghệ An tầm nhìn đến năm 2020


6
4

Bảng
2.10

Bảng 3.1

A: Số hiệu Bảng; B: Tên Bảng; C: Trang

4


5

5
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
A

Biểu đồ 2.1
Biểu đồ 2.2

B
Tăng trưởng GDP, GDP bình quân đầu người tại Nghệ An
giai đoạn 2006-2014
Cơ cấu GDP phân theo khu vực kinh tế tại Nghệ An
giai đoạn 2000-2014

C
2

9
2
9

Biểu đồ 2.3 Cơ cấu dự án FDI tại Nghệ An theo hình thức đầu tư

3
8

Biểu đồ 2.4 Cơ cấu dự án FDI tại Nghệ An theo địa điểm đầu tư

3
8

Biểu đồ 2.5
Biểu đồ 2.6

Đóng góp của khu vực FDI vào GRDP Nghệ An
giai đoạn 2002-2013
Tốc độ tăng VA khu vực FDI và tăng trưởng GRDP Nghệ An
giai đoạn 2001-2013

4
1
4
2

Biểu đồ 2.7 Tỷ lệ thu NSNN trên vốn thực hiện khu vực FDI

4

4

Biểu đồ 2.8 Tỷ lệ GTXK trên vốn thực hiện khu vực FDI

4
6

Biểu đồ 2.9 Tỷ lệ lao động trên vốn đầu tư khu vực FDI

4
8

A: Số hiệu biểu đồ; B: Tên Biểu đồ; C: Trang

5


6

6
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) (2002) khẳng định đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) là một phần không thể thiếu của hệ thống kinh tế quốc tế, là
chất xúc tác quan trọng hàng đầu cho tăng trưởng kinh tế. Đối với các nước đang phát
triển, các nước mới nổi, các nước đang trong quá trình chuyển dịch, với điều kiện có
một hành lang pháp lý phù hợp và cơ sở hạ tầng tương đối đầy đủ, FDI sẽ giúp cải
tiến công nghệ, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, tăng cường phát triển doanh nghiệp,
tạo ra môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy hội nhập thương mại

quốc tế. Tất cả những lợi ích này đều là nguồn động lực lớn cho sự nghiệp công
nghiệp hóa – hiện đại hóa, công cuộc xóa đói giảm nghèo tại các quốc gia còn gặp
nhiều khó khăn này.
Với vị thế của một nước đang phát triển, Việt Nam gặp nhiều thuận lợi khi nằm
trong khu vực có hoạt động đầu tư nước ngoài diễn ra sôi nổi nhất trên thế giới – khu
vực Châu Á Thái Bình Dương. Theo Báo cáo Thương mại và Đầu tư năm 2013 của
Ủy ban Kinh tế Xã hội châu Á Thái Bình Dương của Liên Hợp Quốc (UNESCAP),
nhóm những nước đang phát triển của khu vực này đã thu hút tới 33% lượng FDI trên
toàn thế giới. Việt Nam đã khai thác, phát huy tốt lợi thế địa chính trị này để tăng
cường thu hút FDI. Bên cạnh những lợi ích và vai trò cơ bản, khu vực FDI đã góp
phần đưa Việt Nam từng bước gia nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đến nay, Việt
Nam đã trở thành điểm đến của nhiều tập đoàn hàng đầu thế giới như BP, Samsung,
Intel, Unilever, Canon, Toyota…với những sản phẩm đạt chất lượng quốc tế, qua đó
góp phần khẳng định vị thế của Việt Nam trên bản đồ khu vực và thế giới.
Nghệ An là một địa phương giàu tiềm năng của Việt Nam, được kỳ vọng sẽ trở
thành đầu tàu của vùng Bắc Trung bộ. Cũng như nhiều tỉnh thành khác trên toàn
quốc, để thực hiện các mục tiêu về tăng trưởng và tiến bộ, trở ngại lớn nhất mà Nghệ
An gặp phải là khả năng tích lũy vốn nội bộ của địa phương còn hạn chế, nguồn vốn
Trung ương cấp hàng năm không đủ để hỗ trợ nhu cầu phát triển. Đứng trước thách
thức đó, địa phương đã xác định vốn đầu tư nước ngoài sẽ là động lực tăng trưởng
quan trọng nhất và công tác thu hút vốn đầu tư nước ngoài sẽ là nhiệm vụ cấp thiết
nhất. Quán triệt tư tưởng đó, trong những năm vừa qua, Nghệ An đã không ngừng cải
6


7

7

thiện môi trường đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng, cải cách thủ tục hành chính, đào tạo

nguồn nhân lực, tăng cường thực hiện xúc tiến đầu tư để thu hút nhanh, nhiều dự án
đầu tư nước ngoài vào địa bàn tỉnh.
Tuy nhiên, khả năng tiếp cận và khai thác nguồn lực FDI của Nghệ An lại chưa
xứng đáng với tiềm năng của tỉnh nhà. Về cơ bản, Nghệ An vẫn chưa chuẩn bị tốt
nhất các điều kiện cần thiết đảm bảo cho nhà đầu tư nước ngoài vào thực hiện dự án
một cách có hiệu quả, môi trường sản xuất và kinh doanh còn tồn tại nhiều hạn chế,
năng lực cạnh tranh cấp tỉnh còn thấp. Vì vậy, không nhiều dự án FDI lựa chọn Nghệ
An là điểm đến; hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp FDI trên địa bàn
tỉnh cũng không cao. Thực trạng này đặt ra yêu cầu cho địa phương phải thực hiện rà
soát tình hình thu hút đầu tư, cải cách chính sách xúc tiến đầu tư, nâng cao hiệu quả
hoạt động quản lý đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở này, tác giả đã chọn đề tài “Tình
hình thu hút và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn
tỉnh Nghệ An” với mong muốn đề xuất được các giải pháp khả thi nhằm tăng cường
thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI trong thời gian tới trên địa bàn tỉnh
Nghệ An.
2. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu
-

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là nhằm đánh giá tình hình thu hút và hiệu quả sử
dụng FDI tại tỉnh Nghệ An; trên cơ sở đó đưa ra một số gợi ý có ích cho công tác xúc
tiến và quản lý đầu tư; góp phần nâng cao khả năng đóng góp của khu vực FDI vào

-

nền kinh tế chung của tỉnh.
Nhằm thực hiện các mục tiêu nghiên cứu kể trên, nội dung nghiên cứu của khóa luận



bao gồm các nhiệm vụ sau:

Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận của hoạt động thu hút và sử dụng vốn đầu tư

trực tiếp nước ngoài tại địa phương;

Phân tích thực trạng tình hình thu hút và hiệu quả sử dụng FDI trên địa bàn tỉnh
Nghệ An;
• Đề xuất các giải pháp và đưa ra kiến nghị nhằm tăng cường thu hút và nâng cao hiệu
quả sử dụng FDI tại Nghệ An trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-

Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là tình hình thu hút và
hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Nghệ An. FDI
7


8

8

được xét đến là chỉ tiêu tổng hợp, bao hàm mọi loại hình FDI với tất cả hình thức đầu
-

tư hay lĩnh vực đầu tư.
Thời gian: từ năm 1992 đến năm 2013, với xuất phát là năm tỉnh Nghệ An đón nhận
dự án FDI đầu tiên trong lịch sử và kết thúc là năm gần với thời điểm hiện tại nhất mà
số liệu được tổng hợp, công bố đầy đủ, qua đó đảm bảo được cả hai tiêu chí: tính cập

nhật và sự chi tiết của thông tin.


Để đánh giá tình hình thu hút FDI tại Nghệ An, thời gian nghiên cứu được chia làm
3 giai đoạn: 1992 đến 2000; 2001 đến 2005; 2006 đến 2013, với các cột mốc quan
trọng là việc Luật Đầu tư nước ngoài được sửa đổi và bổ sung vào năm 2000; sự ra
đời của Luật Đầu tư Việt Nam 2005; sự kiện Việt Nam gia nhập WTO vào năm


2007…
Để đánh giá hiệu quả sử dụng FDI tại Nghệ An, thời gian nghiên cứu được tính
chung cho cả thời kỳ 1992 – 2013, trong đó nhấn mạnh hơn vào giai đoạn sau của
thời kỳ (từ năm 2000 trở đi), khi khu vực FDI tại Nghệ An bắt đầu có ảnh hưởng

-

đáng kể đến nền kinh tế chung của địa phương.
Không gian: Trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Tùy theo nội dung từng phần trong khóa
luận, phạm vi không gian này được phân tích cụ thể hơn theo các chỉ tiêu: theo địa
giới hành chính, theo vị trí bên trong hay bên ngoài khu công nghiệp.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu kể trên, khóa luận dự kiến sẽ sử dụng
các phương pháp nghiên cứu sau đây:
Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp, các tài liệu được lựa chọn từ những
nguồn đáng tin cậy như công văn, đề án, báo cáo chính thức của các cơ quan nhà
nước; niên giám thống kê của Tổng cục thống kê và Cục thống kê; ấn phẩm của các
tổ chức có uy tín trên thế giới như WTO, IMF, OECD. Thông tin thứ cấp này sẽ được
tổng hợp, so sánh, phân tích, hệ thống hóa…để rút ra những đánh giá về định tính lẫn
định lượng.
Phương pháp định tính bao gồm mô tả, đánh giá, phân loại nhóm, giải thích tính
chất, hiện tượng, rút ra nhận xét, kết luận. Phương pháp định lượng bao gồm việc xây
dựng hệ thống các chỉ tiêu có thể đo lường được, biểu diễn thống kê qua bảng biểu và
sơ đồ, nhờ vậy có thể theo dõi sự biến đổi về lượng của các chỉ tiêu, so sánh tương

quan giá trị của các chỉ tiêu, xác định tỷ trọng của chỉ tiêu trong một chỉ tiêu lớn hơn.
8


9

9
Khóa luận cũng sử dụng các phương pháp như tổng hợp, diễn dịch, quy nạp…

với công dụng khái quát hóa, giải thích, rút ra kết luận…nhằm giúp bài làm trở nên
đầy đủ về nội dung cũng như hoàn thiện về hình thức.
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài lời mở đầu, lời kết, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung chính
của khóa luận được trình bày theo kết cấu 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài và hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương 2: Thực trạng thu hút và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài trên địa bàn tỉnh Nghệ An
Chương 3: Giải pháp và khuyến nghị nhằm tăng cường thu hút và nâng cao hiệu
quả sử dụng FDI trên địa bàn tỉnh Nghệ An

9


10

10
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI


1.1

Khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài

1.1.1. Khái niệm
Đầu tư quốc tế là việc các nhà đầu tư của một nước (pháp nhân hoặc cá nhân)
đưa vốn hoặc bất cứ hình thức giá trị nào khác sang một nước khác để thực hiện các
hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc các hoạt động khác nhằm thu lợi nhuận hoặc đạt
các hiệu quả xã hội. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một hình thức của đầu tư
quốc tế.
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về đầu tư trực tiếp nước ngoài. WTO (1996)
cho rằng FDI diễn ra khi một nhà đầu tư ở một quốc gia (quốc gia chủ đầu tư) có một
tài sản ở quốc gia khác (quốc gia nhận đầu tư) cùng với quyền kiểm soát đối với tài
sản đó. Quyền kiểm soát là điểm phân biệt FDI với những hoạt động đầu tư nước
ngoài khác.
Còn theo OECD, “đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hình thức đầu tư phản
ánh mục tiêu xây dựng lợi ích lâu dài của một thực thể thường trú ở một nền kinh tế
(nhà đầu tư nước ngoài) trong một doanh nghiệp thường trú ở một nền kinh tế khác
với nền kinh tế của nhà đầu tư nước ngoài. Lợi ích lâu dài ngụ ý sự tồn tại của một mối
quan hệ lâu dài giữa nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp thường trú, trong đó nhà
đầu tư nước ngoài có quyền kiểm soát đáng kể đối với doanh nghiệp thường trú”
(OECD, 2008).
Đồng quan điểm với OECD, UNCTAD quan niệm rằng “Đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) là một sự đầu tư trong dài hạn, phản ánh lợi ích cùng quyền được kiểm
soát lâu dài của một chủ thể thường trú ở một nền kinh tế (của nhà đầu tư FDI hoặc
công ty mẹ) tại một doanh nghiệp ở một nền kinh tế khác không phải nền kinh tế của
nhà đầu tư FDI (doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài, liên doanh hoặc chi nhánh
nước ngoài)” (UNCTAD, 2007).
Luật Đầu tư Việt Nam 2005 định nghĩa “đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do
nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư” và “đầu tư nước

ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản
10


11

11

hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư”, trong đó “nhà đầu tư nước ngoài là tổ
chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam”
Như vậy, từ các quan điểm nêu trên, có thể hiểu FDI là một hình thức đầu tư
quốc tế trong đó nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn hay bất cứ tài sản hợp pháp nào
khác vào một doanh nghiệp ở nước khác đồng thời giành quyền kiểm soát doanh
nghiệp với mục đích thu được lợi ích kinh tế trên lãnh thổ nước nhận đầu tư.
1.1.2. Đặc điểm
Thứ nhất, FDI chủ yếu là đầu tư tư nhân với mục đích hàng đầu là tìm kiếm lợi
nhuận. Theo tài liệu và luật pháp ở nhiều quốc gia, FDI là đầu tư tư nhân. Tuy nhiên,
một số nước (trong đó có Việt Nam) lại quy định trong trường hợp đặc biệt, Nhà
nước vẫn được phép là chủ thể tham gia góp vốn vào dự án FDI. Nhưng chủ thể đầu
tư dù là tư nhân hay Nhà nước thì cũng cần khẳng định ưu tiên số một của FDI là tìm
kiếm lợi nhuận. Các nước tiếp nhận đầu tư, đặc biệt là các nước đang phát triển, phải
lưu ý xây dựng hành lang pháp lý đủ mạnh và các chính sách thu hút FDI hợp lý để
hướng FDI vào phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của nước mình, tránh tình
trạng FDI chỉ phục vụ mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận của chủ đầu tư, gây ra tổn thất
ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia (Vũ Chí Lộc, 2012, tr.114).
Thứ hai, chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một tỷ lệ vốn tổi thiểu trong vốn
pháp định hoặc vốn điều lệ tùy theo quy định của luật pháp từng nước để giành quyền
kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát doanh nghiệp nhận đầu tư. Tỷ lệ góp vốn của các
chủ đầu tư sẽ quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, lợi nhuận và rủi ro cũng được
phân chia theo tỷ lệ nêu trên. OECD (2008, tr.7) đề xuất tỷ lệ này là 10% các cổ

phiếu thường hoặc quyền biểu quyết của doanh nghiệp. Có ý kiến cho rằng trong một
số tình huống, việc sở hữu tối thiểu 10% quyền biểu quyết không tạo ra ảnh hưởng
thực tế nào, và ngược lại, trong nhiều trường hợp khác, nhà đầu tư với ít hơn 10%
quyền biểu quyết lại có quyền lực quản lý đáng kể. Tuy nhiên, OECD vẫn khuyến
nghị việc áp dụng nghiêm ngặt tỷ lệ tối thiểu này nhằm đảm bảo tính thống nhất trong
thống kê giữa các quốc gia. Với tỷ lệ vốn tối thiểu mà OECD đưa ra, cộng với điều
kiện đặc thù, các quốc gia có những mức tỷ lệ khác nhau. Luật Mỹ quy định tỷ lệ này

11


12

12

là 10%, Pháp và Anh là 20%, Việt Nam là 30% và trong những trường hợp đặc biệt
có thể giảm nhưng không dưới 20%.
Thứ ba, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không tạo ra gánh nặng nợ quốc gia.
Khác với ODA hay các hình thức đầu tư nước ngoài khác như vay thương mại, phát
hành trái phiếu ra nước ngoài, nước tiếp nhận FDI không phải hoàn trả nợ và không
phải chịu các áp lực kinh tế - chính trị khác. Đối với FDI, các nhà đầu tư nước ngoài
mang nguồn lực đến để kinh doanh, tìm kiềm lợi nhuận trên lãnh thổ một quốc gia
khác, họ hoàn toàn tự chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư. Đây chính là một điểm hấp
dẫn quan trọng của FDI, bởi bên cạnh việc có được nguồn vốn bổ sung hết sức cần
thiết trong nền kinh tế, các nước tiếp nhận đầu tư vẫn đảm bảo được an ninh tài chính
cho quốc gia (Đặng Thành Cương, 2012, tr.18).
Thứ tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài thường đi kèm với chuyển giao công nghệ.
Hầu hết các nước đang phát triển có trình độ khoa học và công nghệ thấp, trong khi
phần lớn phát minh và tiến bộ khoa học kỹ thuật được khai sinh tại các nước công
nghiệp phát triển. Để tránh việc tụt hậu ngày càng trầm trọng, các nước đang phát

triển cần nhanh chóng tiếp cận với các kỹ thuật mới. Tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể,
mỗi nước có phương pháp riêng để nâng cao trình độ công nghệ, nhưng thông qua
FDI là cách tiếp cận nhanh, trực tiếp và thuận lợi. Để thực hiện dự án FDI, chủ đầu tư
phải chuyển giao công nghệ cho nước nhận đầu tư bằng việc việc đưa máy móc, thiết
bị, bằng phát minh, sáng chế, bí quyết kỹ thuật… vào nước nhận đầu tư. Tuy nhiên,
việc chuyển giao công nghệ phải được quản lý chặt chẽ, nước nhận đầu tư phải chuẩn
bị nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận và làm chủ công nghệ mới, nếu không,
những quốc gia này sẽ rơi vào tình trạng “nhập siêu” công nghệ lạc hậu, trở thành
“bãi rác công nghệ” của thế giới (Vũ Chí Lộc, 2012, tr.115).
1.1.3. Phân loại
Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại FDI; các hình thức FDI, bên cạnh
những nét cơ bản chung, sẽ mang những đặc điểm riêng biệt, mang tính tương thích
với các môi trường đầu tư khác nhau, từ đó đáp ứng tốt hơn yêu cầu đa dạng của chủ
đầu tư và định hướng của nước tiếp nhận đầu tư.

12


13

13

a. Theo cách thức xâm nhập
Theo tiêu chí này, FDI được chia thành hai hình thức:
-

Đầu tư mới (Greenfield investment): hoạt động góp vốn để xây dựng một cơ sở sản
xuất, kinh doanh hoàn toàn mới tại nước ngoài. Với loại hình này, nhà đầu tư nước
ngoài phải bỏ nhiều chi phí cho công tác nghiên cứu thị trường cũng như gặp khá
nhiều rủi ro. Tuy nhiên, các nước nhận đầu tư lại thường đánh giá cao đầu tư mới vì


-

nó có khả năng tăng thêm vốn, tạo việc làm và giá trị gia tăng cho nước này.
Sáp nhập và mua lại qua biên giới (Cross-border Merger and Acquisition-M&A):
chủ đầu tư nước ngoài mua lại hoặc sáp nhập một cơ sở sản xuất kinh doanh sẵn có ở
nước nhận đầu tư. Nhìn chung, M&A được chủ đầu tư ưa chuộng hơn đầu tư mới do
chi phí đầu tư thấp hơn, rủi ro ít hơn, chủ đầu tư có thể tiếp cận thị trường nhanh hơn.
b. Theo quan hệ về ngành nghề, lĩnh vực giữa chủ đầu tư và đối tượng tiếp nhận
đầu tư
Theo tiêu chí này, FDI được chia thành ba hình thức:

-

FDI theo chiều dọc (vertical FDI) gồm FDI theo chiều dọc qua liên kết lùi
(Backward vertical FDI) và FDI theo chiều dọc qua liên kết tiến (Forward vertical
FDI). FDI theo chiều dọc qua liên kết lùi là hoạt động đầu tư vào một ngành ở nước
ngoài cung cấp nguyên vật liệu đầu vào cho các quy trình sản xuất nội địa của doanh
nghiệp. FDI theo chiều dọc qua liên kết tiến lại đầu tư vào việc mua lại các kênh phân

-

phối ở nước nhận đầu tư.
FDI theo chiều ngang (horizontal FDI) là hình thức đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài mà hoạt động đầu tư được tiến hành nhằm sản xuất cùng loại sản phẩm
hoặc các sản phẩm tương tự chủ đầu tư đã sản xuất ở nước nhận đầu tư. Yếu tố
chủ chốt trong loại hình FDI này là sự khác biệt của sản phẩm. Nhà đầu tư nước
ngoài thường dựa vào các yếu tố lợi thế độc quyền, sự không hoàn hảo của thị
trường, lợi thế địa điểm riêng, vòng đời sản phẩm… nhằm tối ưu hóa hiệu quả


-

FDI theo chiều ngang.
FDI hỗn hợp (conglomerate FDI) là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài mà doanh
nghiệp chủ đầu tư và doanh nghiệp tiếp nhận đầu tư hoạt động trong các ngành nghề,
lĩnh vực khác nhau, thường nhằm mục đích đa dạng hóa. Loại hình này ít xảy ra hơn
13


14

14

so với FDI theo chiều dọc và FDI theo chiều ngang do chủ đầu tư phải cùng lúc vượt
qua hai rào cản: rào cản thị trường mới và rào cản ngành mới.
c. Theo định hướng của nước nhận đầu tư
Theo tiêu chí này, FDI được chia thành ba hình thức:
-

FDI thay thế nhập khẩu: Hoạt động FDI được tiến hành nhằm sản xuất và cung ứng
cho thị trường nước nhận đầu tư các sản phẩm mà trước đây nước này phải nhập
khẩu. Hiệu quả của hình thức FDI này chịu nhiều tác động từ dung lượng thị trường,

-

các rào cản thương mại của nước nhận đầu tư và chi phí vận tải.
FDI tăng cường xuất khẩu: Thị trường mà hoạt động đầu tư này nhắm tới không
phải hoặc không chỉ dừng lại tại nước nhận đầu tư mà là các thị trường rộng lớn hơn
trên toàn thế giới và có thể là thị trường nước chủ đầu tư. Yếu tố quyết định tới dòng
vốn FDI tăng cường xuất khẩu thường là khả năng cung ứng đầu vào với giá rẻ của


-

nước nhận đầu tư.
FDI theo các định hướng khác của chính phủ: Chính phủ nước nhận đầu tư có thể
áp dụng các biện pháp, chính sách linh động nhằm điều chỉnh dòng vốn FDI chảy vào
nước mình theo đúng định hướng của mình, chẳng hạn như để giảm thâm hụt cán cân
thanh toán hay tạo công ăn việc làm cho người dân.
d. Theo định hướng của chủ đầu tư
Theo tiêu chí này, FDI được chia làm hai hình thức:

-

FDI phát triển (expansionary FDI) là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài mà chủ
đầu tư tìm kiếm lợi nhuận bằng cách tăng doanh thu từ việc mở rộng thị trường ra
nước ngoài. Yếu tố chủ chốt trong hình thức này chính là quyền sở hữu của doanh

-

nghiệp ở nước nhận đầu tư.
FDI phòng ngự (defensive FDI) là hình thức đầu tư nhằm khai thác nguồn lao động
giá rẻ ở các nước nhận đầu tư với mục đích giảm chi phí sản xuất để tối đa hóa lợi
nhuận.

14


15

15


e.Theo hình thức pháp lý
Tùy theo điều kiện và bối cảnh của từng nước, FDI có thể được thực hiện dưới
những hình thức pháp lý khác nhau. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, FDI
được thực hiện dưới ba hình thức: hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên
doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
-

Hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức liên doanh liên kết giữa một bên là đối
tác trong nước với bên còn lại là các nhà đầu tư nước ngoài mà không thành lập pháp
nhân mới. Loại hợp đồng này được áp dụng nhiều nhất trong lĩnh vực tìm kiếm, thăm

-

dò dầu khí và các tài nguyên khác.
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập và có tư cách pháp nhân
theo pháp luật của nước sở tại. Các bên tham gia có quốc tịch khác nhau phối hợp
kinh doanh trên cơ sở cùng nhau góp vốn, cùng quản lý, cùng chia sẻ rủi ro, cùng
phân phối lợi nhuận. Loại hình FDI này đòi hỏi các bên từ phía nước tiếp nhận
đầu tư có khả năng góp vốn, có đủ trình độ tham gia quản lý với đối tác nước

-

ngoài.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là loại hình doanh nghiệp thuộc sở hữu toàn
phần của nhà đầu tư nước ngoài, chủ đầu tư tự quản lý và chịu trách nhiệm về kết quả
kinh doanh. Một số trở ngại đối với loại hình FDI này là sự chưa am hiểu về môi
trường kinh doanh, luật pháp, tập quán của nước nhận đầu tư.
(Vũ Chí Lộc, 2012, tr.115-119)
1.1.4. Tác động của FDI đến nước nhận đầu tư

a. Tác động tích cực
Thứ nhất, FDI bổ sung một lượng vốn lớn cho đầu tư phát triển. Hầu hết các
nước đang phát triển đều rơi vào “cái vòng luẩn quẩn”: thu nhập bình quân thấp dẫn
đến tiết kiệm và đầu tư ít, khả năng tích lũy vốn kém, do đó năng suất lao động không
được cải thiện, kết quả là thu nhập vẫn thấp. Để thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn này,
các nước đang phát triển cần có “cú huých từ bên ngoài” – động lực đến từ bên ngoài
nền kinh tế, và FDI chính là một động lực như vậy. Bên cạnh ý nghĩa bổ sung một
lượng vốn đáng kể cho đầu tư phát triển kinh tế, sự có mặt của FDI cũng góp phần
tạo điều kiện cho nguồn vốn nhà nước tập trung vào các vấn đề kinh tế xã hội ưu tiên.
15


16

16

Nguồn vốn này cũng góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả các nguồn vốn trong
nước khi vốn trong dân được kích thích đưa vào sản xuất và kinh doanh.
Thứ hai, FDI thúc đẩy chuyển giao và phát triển công nghệ ở các nước nhận
đầu tư. Trước tiên, vai trò phát triển công nghệ này được thể hiện ở việc chuyển giao
công nghệ sẵn có. Trong các dự án FDI, công nghệ mới được đưa vào nước chủ nhà
thông qua con đường mua bằng phát minh sáng chế, cải tiến công nghệ nhập khẩu,
đào tạo chuyên gia bản xứ để tiếp nhận dây chuyền, máy móc nhập khẩu… Bên cạnh
chuyển giao công nghệ sẵn có, các hoạt động cải tiến công nghệ của các doanh
nghiệp FDI tạo ra nhiều mối quan hệ liên kết với các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng
công nghệ trong nước. Nhờ đó, FDI sẽ gián tiếp tăng cường năng lực nghiên cứu,
phát triển công nghệ của địa phương. Mặt khác, trong quá trình sử dụng các công
nghệ nước ngoài được chuyển giao, các nhà đầu tư và phát triển công nghệ trong
nước có cơ hội học tập cách thiết kế, chế tạo, từ đó cải biến cho phù hợp với điều
kiện sử dụng của địa phương và biến chúng thành công nghệ của mình.

Thứ ba, FDI góp phần phát triển nguồn nhân lực. Xét về chiều rộng, các nước
đang phát triển thường có nguồn lao động dồi dào nhưng lại không tạo ra đủ việc làm
tương ứng, sự có mặt của FDI đã và đang giải quyết rất tốt vấn đề này. FDI tạo ra các
doanh nghiệp mới hoặc tăng quy mô các doanh nghiệp sẵn có, từ đó tạo ra công ăn
việc làm cho rất nhiều lao động. Xét về chiều sâu, FDI góp phần đào tạo và nâng cao
trình độ người lao động. Các doanh nghiệp FDI thường tổ chức các khóa đào tạo và
huấn luyện nghiệp vụ cho người lao động, trong đó có nhiều người được cử đi lao
động ở nước ngoài. Đối với cấp quản lý, những cán bộ bản địa khi tham gia dự án sẽ
được tiếp cận và học hỏi nhiều kinh nghiệm và mô hình quản trị tiên tiến, sẽ nâng cao
năng lực quản lý để thích nghi với nền sản xuất hiện đại.
Thứ tư, FDI góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế và ổn định kinh
tế vĩ mô. FDI thường được thực hiện bởi các tập đoàn xuyên quốc gia và thường tập
trung vào các ngành công nghiệp và dịch vụ, vì vậy FDI đáp ứng được nhu cầu công
nghiệp hóa – hiện đại hóa của các nước đang phát triển. Bên cạnh đó, FDI tham gia
ổn định kinh tế vĩ mô bằng việc cải thiện các cân đối lớn của nền kinh tế. Đối với
cung cầu hàng hóa trong nước, khu vực FDI tạo ra nguồn sản phẩm lớn, xoa dịu căng
thẳng cung – cầu, làm giảm sự phụ thuộc vào hàng nhập khẩu. Đối với xuất nhập
khẩu, FDI đang hỗ trợ các nước đang phát triển giải quyết tình trạng nhập siêu, cân
16


17

17

bằng cán cân thương mại. Nguồn ngoại tệ thu về từ hoạt động xuất khẩu của khu vực
FDI giúp thay đổi cơ cấu nhập khẩu theo chiều hướng tích cực (tăng tỷ trọng hàng
máy móc thiết bị, công cụ sản xuất …) cũng như tác động tích cực đến cán cân vãng
lai và cán cân thanh toán.
Thứ năm, FDI củng cố và mở trộng quan hệ hợp tác quốc tế, đẩy nhanh tiến

trình hội nhập vào nên kinh tế khu vực và thế giới. Việc bắt đầu một dự án FDI
không chỉ khai sinh một mối quan hệ về đầu tư mà còn làm nảy sinh các quan hệ
kinh tế đối ngoại khác như xuất nhập khẩu, vận tải và giao nhận, thanh toán quốc
tế… Do đó, quan hệ thương mại của các nước nhận đầu tư được mở rộng theo
quá trình phát triển của khu vực FDI. Doanh nghiệp FDI hoạt động càng hiệu
quả thì hàng hóa xuất khẩu sẽ tiếp cận được với nhiều thị trường hơn, tạo tiền đề
cho các mối quan hệ song phương, đa phương về hàng hóa, dịch vụ, hợp tác kinh
tế giữa nước nhận đầu tư và các quốc gia khác trên thế giới.
(Đặng Thành Cương, 2012, tr.23-27; Nguyễn Thị Hà Giang, 2012)
b. Tác động tiêu cực
Thứ nhất, FDI có thể dẫn đến mất cân đối trong đầu tư ở nước nhận đầu tư.
Các nhà đầu tư nước ngoài, với tôn chỉ tối đa hóa lợi nhuận, thường chỉ tập trung vào
các ngành, lĩnh vực có khả năng sinh lời cao, dẫn đến tình trạng thiếu cân bằng trong
cơ cấu đầu tư. Vốn FDI được dồn vào mảng công nghệ tự động, công nghệ thông tin,
tài chính ngân hàng, dịch vụ du lịch… trong khi các ngành nghề truyền thống như
nông nghiệp, thủ công mỹ nghệ…lại ít được chú ý tới. Sự thiếu cân đối này sẽ dẫn
đến tình trạng các dự án đầu tư kém dần về hiệu quả, cơ cấu kinh tế bị méo mó, đời
sống xã hội kinh tế đứng trước nguy cơ mất ổn định, thiếu bền vững.
Thứ hai, FDI làm mất bình đẳng trong cạnh tranh, đe dọa sự tồn tại của doanh
nghiệp nội địa. Các doanh nghiệp FDI, bên cạnh sự vượt trội về khoa học kỹ thuật và
trình độ quản lý sẵn có, còn được hưởng những chế độ ưu đãi đặc biệt từ nước
kêu gọi đầu tư, điều mà doanh nghiệp nội địa không có được. Bên cạnh đó, với
kinh nghiệm dày dạn trong việc cạnh tranh ở môi trường kinh doanh khắc nghiệt,
cùng với khả năng thu hút nguồn lao động nội địa chất lượng cao nhờ nguồn tài
chính dồi dào, các doanh nghiệp FDI có sức mạnh vượt trội so với các doanh
nghiệp trong nước. Nếu không tự vươn lên để thích nghi và không nhận được sự
17


18


18

bảo trợ phù hợp từ nhà nước, các doanh nghiệp nội địa luôn đứng trước nguy cơ
phá sản.
Thứ ba, FDI gây ra những tiêu cực về môi trường. Lợi dụng những kẽ hở
pháp lý và sự quản lý lỏng lẻo của chính quyền nước nhận đầu tư, một số doanh
nghiệp FDI có hành vi né tránh hoặc vi phạm các quy định về đảm bảo vệ sinh và bảo
vệ môi trường. Để cắt giảm chi phí sản xuất, các chủ đầu tư nước ngoài thường bỏ
qua hoặc thực hiện nhưng rất hời hợt quy trình xử lý chất thải. Không những vậy, xảy
ra trường hợp những công nghệ nhập khẩu từ dự án FDI đã lỗi thời, khi vận hành
phải tiêu hao rất nhiều nhiên liệu và xả thải vượt mức cho phép, gây ảnh hưởng xấu
đến môi trường. Bên cạnh đó, có nhiều dự án FDI khai thác quá đà nguồn tài nguyên
thiên nhiên tại nước sở tại, đặc biệt là các tài nguyên không tái tạo được như than đá,
dầu mỏ. Sự triển khai của các dự án FDI cũng đồng nghĩa với diện tích rừng bị thu
hẹp, hệ sinh thái bị xáo trộn, đa dạng sinh học bị suy giảm nặng nề.
Thứ tư, hiện tượng “chuyển giá” trong đầu tư trực tiếp nước ngoài làm thất
thu ngân sách nhà nước. Để chuyển tối đa lợi nhuận về nước, các nhà đầu tư nước
ngoài thường thực hiện hành vi “chuyển giá” dưới các hình thức tăng giá các yếu tố
đầu vào, hạ thấp mức giá đầu ra, nâng giá trị góp vốn và chuyển giao công nghệ, điều
chỉnh cơ cấu trị giá hàng hóa xuất nhập khẩu và dịch vụ đi kèm... Những hành vi
chuyển giá có tác động xấu đến nền kinh tế, gây thất thu ngân sách nhà nước, bóp
méo môi trường kinh doanh, khiến những nhà đầu tư chấp hành tốt pháp luật gặp phải
thiệt thòi.
(Đặng Thành Cương, 2012, tr.28-33; Nguyễn Thị Hà Giang, 2012)
1.2.

Thu hút FDI vào địa phương
1Khái niệm
Đối với các nước đang phát triển, thu hút FDI là ưu tiên hàng đầu, là nhiệm vụ


quan trọng của cả một quốc gia. Tuy nhiên, một quốc gia lại bao gồm nhiều địa
phương khác nhau, mỗi địa phương lại có đặc điểm tự nhiên, xã hội đặc thù, yếu tố
văn hóa, môi trường kinh doanh cũng rất riêng biệt. Bản thân các dự án FDI khi được
triển khai cũng phải phụ thuộc và phối hợp sâu sát với các yếu tố cấp địa phương nếu
không muốn gặp thất bại. Do đó, vấn đề thu hút FDI, để có thể nhìn nhận một cách
chi tiết hơn, nên được nhìn nhận ở cấp độ địa phương.
18


19

19
Về cơ bản, thu hút FDI cấp địa phương là việc áp dụng các biện pháp, chính

sách nhằm tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi để các nhà đầu tư nước ngoài
đem vốn đến đầu tư trực tiếp tại địa phương dưới các hình thức khác nhau, phù hợp
với lợi ích của cả chủ đầu tư, địa phương và nước tiếp nhận đầu tư (Đặng Thành
Cương, 2012).
1.2.1. Xu hướng thu hút FDI tại địa phương
Do bản chất cạnh tranh trong kinh tế nói chung và trong đầu tư nói riêng, các
nhà đầu tư nước ngoài đòi hỏi môi trường kinh doanh ngày càng hoàn thiện hơn tại
các nước và các địa phương tiếp nhận đầu tư. Với quy mô nhỏ hơn, địa phương có ưu
thế về tính linh hoạt so với Trung ương trong việc thay đổi nhanh chóng để thích ứng
với các yêu sách của các nhà đầu tư nước ngoài. Một số xu hướng có thể nhận thấy rõ
trong công tác thu hút FDI tại địa phương bao gồm:
Thứ nhất, sự xuất hiện của các khu kinh tế (KKT), khu công nghiệp (KCN) là
động lực đặc biệt quan trọng trong việc thu hút FDI tại địa phương. Với hạ tầng kỹ
thuật tập trung, hệ thống dịch vụ hỗ trợ được tổ chức tốt, công tác quy hoạch được
đảm bảo hơn từ phía chính quyền, KKT và KCN là những môi trường đầu tư thuận

lợi cho các doanh nghiệp FDI. Đặc biệt, những dự án FDI có quy mô lớn thường ưu
tiên địa điểm ở trong KKT và KCN do yêu cầu về mặt bằng lớn và hệ thống hạ tầng
hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, việc tập trung các dự án FDI vào các KKT và KCN còn cho
phép chính quyền địa phương tiếp nhận đầu tư thuận tiện tiến hành công tác thanh
kiểm tra và giám sát tiến độ thực hiện các dự án FDI.
Thứ hai, địa phương đã trở nên tích cực và chủ động hơn trong việc thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bên cạnh tuân thủ và áp dụng các đề án được ban
hành từ trung ương, lãnh đạo cấp tỉnh, thành cũng tự chủ đưa ra những chính sách ưu
đãi và hỗ trợ đầu tư, các đề án phát triển kinh tế, cải cách hành chính…nhằm tạo ra
môi trường đầu tư minh bạch, rõ ràng, hấp dẫn, đáng tin cậy. Sự chủ động trong việc
thu hút FDI cấp địa phương còn được thể hiện ở sự chọn lọc dự án FDI để cấp phép
đầu tư. Trong công tác thu hút FDI, sự gia tăng về số lượng các dự án, về vốn đăng
ký, vốn thực hiện… là những chỉ tiêu rất quan trọng. Tuy nhiên, chính quyền địa
phương đang dần cảnh giác và tránh xa tư tưởng chạy theo quy mô, tốc độ, thu hút dự
19


20

20

án FDI bằng mọi giá. Hay nói cách khác, tăng cường thu hút nhưng không thu hút
bằng mọi giá, thu hút cũng phải có chọn lọc.
Thứ ba, sự cạnh tranh giữa các địa phương để thu hút FDI ngày càng quyết
liệt. Mỗi địa phương có điểm mạnh cũng như điểm yếu riêng trong việc thu hút nhà
đầu tư nước ngoài. Vị trí địa lý, diện tích đất đai, nguồn tài nguyên thiên nhiên, cơ sở
hạ tầng, lao động tay nghề cao…đều là những yếu tố có thể ảnh hưởng đến quyết
định của nhà đầu tư trong việc lựa chọn địa phương này thay vì địa phương khác. Do
đó, để thu hút được nhiều dự án FDI, địa phương phải nỗ lực cải thiện môi trường
kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh so với các vùng miền khác.

1.2.2. Cơ sở pháp lý thu hút FDI vào địa phương
-

Chính sách hỗ trợ đầu tư: việc trao cho nhà đầu tư nước ngoài những ưu đãi, hỗ trợ
sẽ tiếp thêm động lực để họ tiến hành các dự án FDI tại địa phương. Các chính sách
hỗ trợ đó bao gồm chính sách về thuế, phí, lệ phí, chính sách về đầu tư và góp vốn,
chính sách về giải phóng mặt bằng, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng… Những chính
sách này phải hấp dẫn, thuận lợi, nhưng vẫn tuân theo quy định của luật pháp quốc
gia và tập quán quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho nhà đầu tư nước ngoài

-

rót vốn vào địa phương.
Chính sách về cải cách hành chính: Thủ tục hành chính là cửa ngõ của công tác tiếp
nhận đầu tư, cửa ngõ càng thông thoáng, đơn giản, trực tiếp thì việc tiếp nhận FDI
càng dễ dàng. Địa phương phải thực hiện cơ chế một cửa hiện đại đối với thủ tục
đăng ký đầu tư và đăng ký doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các thủ tục rườm rà, không
cần thiết cũng cần được dỡ bỏ. Tình trạng quan liêu, nhũng nhiễu, cửa quyền của cán

-

bộ chính quyền phải được xử lý triệt để.
Chính sách về quy hoạch: Vấn đề về mặt bằng, quy hoạch là một trong những yếu tố
chủ chốt trong lĩnh vực đầu tư. Địa phương nào tạo ra được những phần đất có diện
tích lớn, nằm ở các vị trí thuận lợi để phục vụ sản xuất kinh doanh thì địa phương đó
sẽ thu hút được nhiều dự án FDI. Để làm được điều đó, việc cấp đất, cấp giấy phép
xây dựng phải nhanh chóng, thuận tiện, không gây ảnh hưởng đến tiến độ thi công
của dự án. Bên cạnh đó, công tác quy hoạch tổng thể nói chung và quy hoạch các khu
kinh tế, khu công nghiệp, sân bay, cảng biển nói riêng phải được xúc tiến mạnh mẽ
và hoàn thành đúng thời hạn…

20


21
-

21

Chính sách về lao động: Nguồn lao động dồi dào và trẻ trung chính là điểm hấp dẫn
nhất tại các nước đang phát triển đối với nhà đầu tư nước ngoài. Vì thế, muốn thúc
đẩy thu hút FDI, địa phương phải chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của
nhà đầu tư cả về kỹ năng chuyên môn lẫn tác phong và ý thức làm việc. Cần có
những hoạt động đào tạo, bồi dưỡng tay nghề cho lao động địa phương. Bên cạnh đó,
yếu tố giá cả của lao động cũng cần được quan tâm, phải đảm bảo mức giá cả đủ để
hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài, nhưng vẫn đảm bảo quyền lợi cho người lao động
(Nguyễn Thị Hà Giang, 2012).

1.3.

Hiệu quả sử dụng FDI tại địa phương
1.3.1. Khái niệm
Hiệu quả là mối quan hệ so sánh giữa kết quả đạt được của một hành động với
nguồn lực phải bỏ ra để thực hiện hành động đó. Có thể biểu diễn hiệu quả theo công
thức:

Trong đó:

H là hiệu quả của hành động
K là kết quả đạt được từ hành động
N là nguồn lực để thực hiện hành động


Như vậy, một hành động đạt được hiệu quả (H) cao khi phải bỏ ra ít nguồn lực
(N) nhưng thu lại được kết quả (K) lớn, và ngược lại, đạt hiệu quả thấp khi tiêu tốn
nhiều nguồn lực nhưng gặt hái được ít kết quả.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tính hiệu quả có thể được phân tích ở
hai mức độ: vi mô và vĩ mô. Ở phạm vi doanh nghiệp, hiệu quả kinh tế phản ánh khả
năng phân bổ, khai thác các nguồn lực của quá trình sản xuất nhằm đạt được các mục
tiêu kinh doanh đề ra; với một lượng chi phí nhất định, hoạt động kinh doanh đạt
được mục tiêu đề ra càng cao thì hiệu quả kinh tế càng lớn. Ở phạm vi toàn xã hội,
hiệu quả của một hoạt động đầu tư hay sản xuất, kinh doanh thể hiện ở mức độ ảnh
hưởng đến nền kinh tế tương quan với nguồn lực đầu vào của hoạt động đầu tư, sản
xuất, kinh doanh đó.

21


22

22
Đối với trường hợp cụ thể của khóa luận, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực

tiếp nước ngoài sẽ được xem xét trên góc độ vĩ mô, tức là nhắm vào mối quan hệ
giữa hao phí nguồn lực đầu vào và những lợi ích mà khu vực FDI đóng góp vào nền
kinh tế. Trong đó, nguồn lực đầu vào có thể bao gồm nguồn vốn, nguồn lao động, tài
nguyên thiên nhiên, đất đai, chi phí xây lắp, khấu hao tài sản… Còn những lợi ích có
thể kể đến là giá trị gia tăng, lao động – việc làm, thu ngân sách nhà nước, giá trị xuất
khẩu, thu ngoại tệ…
Tóm lại, hiệu quả sử dụng FDI là “một phạm trù kinh tế, phản ánh trình độ,
chất lượng của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như ảnh hưởng của
chúng tới nền kinh tế, được biểu hiện bởi quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế với chi

phí hoặc nguồn lực tương ứng” (Nguyễn Trọng Hải, 2008).
1.3.2. Phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng FDI
Hiệu quả sử dụng FDI là yếu tố cần được theo dõi thường xuyên trong công
tác cấp phép và quản lý các dự án FDI. Cần có tính toán cụ thể bằng phương pháp
định lượng để những nhận xét về tính hiệu quả đó được rút ra một cách có căn cứ,
đáng tin cậy. Nói cách khác, muốn nhận dạng được hiệu quả sử dụng FDI, một hệ
thống chỉ tiêu cần được xác lập.
Hệ thống chỉ tiêu là biểu hiệu của căn cứ khoa học cho công tác đánh giá, đối
chiếu, so sánh… Kết quả tính toán các chỉ tiêu sẽ cung cấp các thông tin định lượng
rõ ràng, có sự kiểm nghiệm thông qua yếu tố không gian và thời gian. Việc kết hợp
các chỉ tiêu định lượng với các nhận xét định tính sẽ giúp việc đánh giá hiệu quả sử
dụng FDI trở nên chính xác và mang giá trị tham khảo cao.
Trên cơ sở lý luận đó, khóa luận sẽ sử dụng phương pháp bộ chỉ số
(Indicators) để đánh giá hiệu quả sử dụng FDI tại địa phương. Phát triển trên nền tảng
công thức cơ bản về tính hiệu quả (công thức (1)), các chỉ số sẽ đánh giá tương quan
giữa nguồn lực đầu vào và đóng góp cho nền kinh tế của khu vực FDI. Phương pháp
sử dụng bộ chỉ số, hay hệ thống chỉ tiêu, mang nhiều đặc điểm phù hợp và có khả
năng đáp ứng được yêu cầu của khóa luận:
o Đối tượng áp dụng: phương pháp có thể sử dụng để đo lường tác động cả trực
tiếp lẫn gián tiếp của FDI đối với nền kinh tế.
o Cơ sở dữ liệu: có thể sử dụng tất cả các loại dữ liệu, theo chuỗi thời gian hoặc
từng thời điểm thông qua khảo sát hàng năm.
22


23

23
o Ưu điểm: phương pháp khá đơn giản, dễ tính và dễ hiểu; có thể so sánh, đối
chiếu sự thay đổi theo thời gian để nắm bắt xu hướng thay đổi của đối tượng


nghiên cứu.
(Học viện Chính sách và Phát triển, 2012)
1.3.3. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng FDI
Dựa trên Báo cáo tổng hợp đề án: “Xây dựng bộ chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam” của Học viện Chính sách và Phát triển
(2012), khóa luận đã xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả FDI tại địa
phương; hệ thống đảm bảo phản ánh được các tiêu chí cơ bản của tính hiệu quả cũng
như bao quát đầy đủ các khía cạnh kinh tế, xã hội, môi trường. Nguyên tắc xác lập
chỉ tiêu hiệu quả FDI:




Chỉ tiêu phản ánh được bản chất của tính hiệu quả;
Chỉ tiêu có sự biến động theo thời gian;
Chỉ tiêu mang tính tổng hợp: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, hiệu quả môi
trường.
Cụ thể hơn, bảng sau sẽ hệ thống hóa các chỉ tiêu hiệu quả đầu tư trực tiếp

nước ngoài. Các ký hiệu được sử dụng trong bảng:
EXF: GTXK khu vực FDI
EXT: GTXK toàn nền kinh tế
GDP: tổng sản phẩm toàn nền kinh

NSF: thu NSNN từ khu vực FDI
NST: thu NSNN từ toàn nền kinh tế
TL: tổng lao động toàn nền kinh tế

IF: nguồn vốn khu vực FDI

LF: lao động khu vực FDI

VAF: giá trị gia tăng khu vực FDI

tế

Bảng 1.1: Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả FDI
CHỈ TIÊU HIỆU QUẢ KINH
TẾ
1. ICOR
2. Tỷ lệ đóng góp vào GDP
3. Tốc độ tăng trưởng VA
4. Tỷ lệ đóng góp vào NSNN
5. Tốc độ tăng thu NSNN
6. Nộp NSNN trên VĐT
7. Tỷ lệ đóng góp vào GTXK
23

CÔNG THỨC
x 100%
= x100%
= x100%
= x100%
=
= x100%


24

24


8. Tốc độ tăng GTXK
9. GTXK trên VĐT
CHỈ TIÊU HIỆU QUẢ XÃ
HỘI
Tỷ lệ đóng góp vào tổng lao
1.
động xã hội
Tốc độ tăng trưởng lao
2.
động khu vực FDI
3. Tỷ lệ lao động trên VĐT
4. Năng suất lao động
CHỈ TIÊU HIỆU QUẢ MÔI
TRƯỜNG

1.
2.

24

Đầu tư cho bảo vệ môi
trường
Đầu tư cho khắc phục sự cố
môi trường

= x100%
=
CÔNG THỨC
= x100%

= x100%
=
=
CÔNG THỨC


25
1.4.

25

Các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút và sử dụng có hiệu quả FDI
1.4.1. Các nhân tố liên quan đến nước tiếp nhận đầu tư
a. Sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô
“Rủi ro” là yếu tố mà mọi cá nhân tham gia vào hoạt động kinh tế luôn dè
chừng. Một môi trường kinh doanh chứa đầy bất trắc sẽ gây ra sự thiếu thiện cảm cho
nhà đầu tư, trong khi đó, một nền kinh tế vững chắc được bổ trợ bởi hệ thống chính
trị lành mạnh, đời sống xã hội ổn định… sẽ là nền móng vững chắc cho các nhà đầu
tư thực hiện sản xuất – kinh doanh.
Đối với lĩnh vực đầu tư nước ngoài, tính ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô
càng mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Với vốn đầu tư thường rất lớn, thời gian hoạt
động của dự án FDI thường dài, môi trường kinh doanh lại mới mẻ, chủ đầu tư cần
được đảm bảo rằng quá trình thực hiện dự án sẽ không bị gián đoạn bởi bất kỳ biến
cố tiêu cực nào. Ổn định kinh tế vĩ mô không những giúp nhà đầu tư nước ngoài
mạnh dạn rót vốn vào một quốc gia mà còn tạo tâm lý an tâm cho doanh nghiệp FDI
đó tiến hành sản xuất, nhờ đó sẽ đạt được hiệu quả cao và đúng tiến độ (IMF, 2010).
b. Độ mở của nước tiếp nhận đầu tư
Xu hướng toàn cầu hóa khiến sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày
càng sâu sắc và toàn diện. Hợp tác để cùng tồn tại và phát triển là xu hướng tất yếu
của kinh tế quốc tế thời kỳ mở cửa. Tham gia mạng lưới hợp tác, các nước có cơ hội

trao đổi hàng hóa, lao động, văn hóa, khoa học công nghệ… trong một chu trình mà
mọi chủ thể tham gia đều có lợi.
Độ mở của nước tiếp nhận đầu tư đo lường mức độ hội nhập khu vực và thế
giới của đất nước đó, khẳng định sự phát triển của hoạt động ngoại thương, thể hiện
mối quan hệ hữu hảo đối với đa dạng đối tác và thị trường quốc tế. Một đất nước với
độ mở cao sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho lưu thông dòng vốn nước ngoài. Ở trong
một môi trường mở, nhà đầu tư không những có điều kiện thuận lợi để triển khai dự
án, mà còn sở hữu cơ hội phát hiện ra những đối tác mới, tiếp cận được những thị
trường mới đầy tiềm năng.

25


×