Tải bản đầy đủ (.docx) (90 trang)

Một Số Giải Pháp Đẩy Mạnh Hoạt Động Tái Bảo Hiểm Hàng Hóa Tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (981.13 KB, 90 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
---------***---------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Kinh tế đối ngoại
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG
TÁI BẢO HIỂM HÀNG HÓA TẠI VIỆT NAM

Họ và tên sinh viên: Phan Đình Thi
Mã sinh viên: 1111110384
Lớp : Anh 6 – Khối 2 KT
Khóa: 50
Người hướng dẫn khoa học: ThS. Hoàng Thị
Đoan Trang

Hà Nội, tháng 5 năm 2014


MỤC LỤC

BẢNG DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU


AEC

Cộng đồng Kinh tế ASEAN

ASEAN


Association of Southeast Asian Nations (Hiệp hội các Quốc gia
Đông Nam Á)

BH

Bảo hiểm

CT

Công ty

EU

European Union (Liên minh châu Âu)

GDP

Gross Domestic Product (Tổng sản phẩm quốc nội)

PVI

Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam

PVI Re

Tổng công ty Tái bảo hiểm PVI

TCT

Tổng công ty


TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

USD

Đô la Mỹ (đơn vị tiền tệ)

VINARE

Tổng công ty cổ phần Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam

VNĐ

Đồng Việt Nam (đơn vị tiền tệ)

WTO

Tổ chức thương mại thế giới


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU


5

1. LỜI MỞ
ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Hoạt động bảo hiểm trên thế giới đã ra đời từ nhiều thế kỉ trước đây nhằm
giúp các doanh nghiệp đối phó với những rủi ro do tai nạn hay sự cố bất ngờ trong
quá trình kinh doanh. Tuy nhiên, một khi những rủi ro này xảy ra với những thiệt
hại lớn, có thể vượt quá khả năng tài chính của các công ty bảo hiểm, sẽ gây ra
nhiều khó khăn thậm chí đưa công ty tới tình trạng phá sản. Vì vậy, tái bảo hiểm
xuất hiện như một nghiệp vụ bảo hiểm cho người bảo hiểm, nhằm đảm bảo kinh
doanh cho các công ty bảo hiểm cũng như gián tiếp bảo vệ lợi ích của người tham
gia bảo hiểm. Ngày nay, tái bảo hiểm đã trở thành một ngành kinh doanh sôi động
trên toàn thế giới.
Tại Việt Nam, với đà tăng trưởng khả quan của nền kinh tế trong thời gian
qua cộng với sự linh hoạt của các công ty bảo hiểm trong việc đánh giá rủi ro, thị
trường tái bảo hiểm đã có những bước tiến đáng kể, đặc biệt trong lĩnh vực tái bảo
hiểm hàng hóa. Tái bảo hiểm hàng hóa, bao gồm tái bảo hiểm hàng hóa xuất nhập
khẩu và tái bảo hiểm hàng hóa vận chuyển nội địa, là một nghiệp vụ quan trọng,
không chỉ mang lại lợi ích cho các bên tham gia mà còn cho cả toàn bộ nền kinh tế.
Là một lĩnh vực đầy tiềm năng, tuy nhiên hiện nay, hoạt động kinh doanh này vẫn
chưa phát triển một cách tương xứng với quy mô thị trường. Hơn nữa, trong những
năm qua, nhằm đảm bảo điều kiện hội nhập với thế giới, Việt Nam đã tiến hành bỏ
quy định pháp lý về tỷ lệ tái bảo hiểm bắt buộc và điều này có tác động đáng kể đến
hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm trong nước. Nhận thức được tầm quan trọng của
việc phát triển hoạt động tái bảo hiểm hàng hóa cũng như những đặc điểm mới mẻ
trong giai đoạn hiện nay, em đã lựa chọn đề tài: “Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt
động tái bảo hiểm hàng hóa tại Việt Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của
mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài


6
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ bản về tái bảo hiểm và tái bảo hiểm
hàng hóa

- Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động tái bảo hiểm hàng hóa ở Việt
Nam trong những năm gần đây
- Trên cơ sở dự báo về xu hướng phát triển của thị trường và định hướng
phát triển hoạt động tái bảo hiểm của Nhà nước, đưa ra những đề xuất nhằm đẩy
mạnh hiệu quả hoạt động tái bảo hiểm hàng hóa thời gian tới.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động nhận và nhượng tái bảo hiểm
trong lĩnh vực hàng hóa của các doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm trên thị
trường Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung, khóa luận tập trung nghiên cứu các lý luận cơ bản về tái bảo
hiểm hàng hóa cũng như thực trạng hoạt động tái bảo hiểm hàng hóa của các doanh
nghiệp trên thị trường.
- Về mặt không gian, phạm vi nghiên cứu là thị trường Việt Nam.
- Về mặt thời gian, phạm vi nghiên cứu là từ năm 2010 đến năm 2014 và các
giải pháp đề xuất cho 5 năm tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên những lý luận cơ bản về kinh tế học, về bảo hiểm và tái bảo hiểm,
khóa luận được tiến hành nghiên cứu theo các phương pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử. Số liệu thực tế thu thập thông qua các thống kê, báo cáo tổng kết
được khảo sát bằng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp: phương pháp thống kê,
phương pháp so sánh, phương pháp diễn giải, khái quát để rút ra nhận định, đánh
giá và kết luận.
6. Kết cấu khóa luận
Ngoài Mục lục, Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh
mục bảng biểu và Phụ lục, khóa luận gồm có 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về tái bảo hiểm hàng hóa


7

Chương 2: Thực trạng tái bảo hiểm hàng hóa tại Việt Nam
Chương 3: Những giải pháp đẩy mạnh hoạt động tái bảo hiểm hàng hóa
tại Việt Nam trong những năm tới
Mặc dù đã hết sức cố gắng song do hạn chế về kiến thức cũng như sự khó
khăn trong việc thu thập tài liệu, khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì
vậy, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô. Xin chân
thành cảm ơn các thầy cô giáo của khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, trường Đại
học Ngoại thương, đặc biệt là Thạc sĩ Hoàng Thị Đoan Trang đã tận tình hướng dẫn
và giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành khóa luận này.


8

2. CHƯƠNG 1:
NHỮNG
VẤN ĐỀ
CƠ BẢN
VỀ TÁI
BẢO HIỂM
HÀNG
HÓA
2.1. Khái niệm tái bảo hiểm hàng hóa
2.1.1. Khái quát chung về tái bảo hiểm
Hàng trăm năm trước, khi ngành bảo hiểm bắt đầu phát triển ở châu Âu với
những nghiệp vụ đầu tiên là bảo hiểm hàng hải, nhu cầu tái bảo hiểm cũng xuất
hiện. Vào năm 1370, hợp đồng tái bảo hiểm có tính chất pháp lý đầu tiên ra đời,
được ký kết bởi một thương nhân hoạt động như một nhà tái bảo hiểm và một bên là
công ty bảo hiểm, với mục đích đảm bảo cho dịch vụ bảo hiểm hàng hóa vận
chuyển bằng đường biển từ Genoa đến bến cảng Bruges.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế tư bản, tái bảo hiểm đã trở thành một

ngành kinh doanh vô cùng sôi động trên toàn thế giới, bắt đầu với sự ra đời của các
công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp như Cologne (Kolnishe Ruck AG – Italia
1852), SwissRe (Thụy Sĩ – 1863), Munich (Muchenes Ruck.AG – Đức 1880),…
Tại Việt Nam, Công ty Tái bảo hiểm Quốc gia được thành lập vào năm 1994 và
chính thức đi vào hoạt động vào ngày 1/1/1995, đánh dấu một cột mốc quan trọng
trong lĩnh vực kinh doanh tái bảo hiểm. Theo Cục Quản lý, giám sát Bảo hiểm – Bộ
Tài chính (2015), tham gia vào thị trường tái bảo hiểm Việt Nam có tới 30 doanh
nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, 2 công ty tái bảo hiểm và 12 công ty môi giới.
Có nhiều khái niệm khác nhau về tái bảo hiểm. Theo tác giả Hoàng Văn
Châu (2006, tr.188),“Tái bảo hiểm là một loại nghiệp vụ mà người bảo hiểm sử


9
dụng để chuyển một phần trách nhiệm đã chấp nhận bảo hiểm với người được bảo
hiểm cho người bảo hiểm khác, trên cơ sở nhượng lại cho người bảo hiểm đó một
phần phí bảo hiểm thông qua hợp đồng tái bảo hiểm”.
Như vậy, có thể nói, tái bảo hiểm là sự bảo hiểm cho những rủi ro mà người
bảo hiểm phải gánh chịu.
Được hình thành trên cơ sở bảo hiểm gốc, tái bảo hiểm luôn gắn liền với
nghiệp vụ bảo hiểm gốc. Công ty bảo hiểm gốc ký hợp đồng với người tham gia và
sau đó chuyển giao rủi ro cho các công ty nhận tái bảo hiểm. Khi xảy ra tổn thất,
công ty bảo hiểm gốc phải bồi thường cho người được bảo hiểm, sau đó đòi lại công
ty nhận tái bảo hiểm. Như vậy, người được bảo hiểm không có quan hệ trực tiếp với
công ty tái bảo hiểm.
Sơ đồ 1.1: Mô hình nghiệp vụ tái bảo hiểm
Người tham gia bảo hiểm
Chuyển
rủi ro

Người bảo hiểm

Tái bảo hiểm
Tái bảo hiểm

Tái bảo hiểm

Tái bảo hiểm

A

B

C
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp

Cùng có mục đích là san sẻ rủi ro cho người bảo hiểm, tuy nhiên nghiệp vụ
tái bảo hiểm khác với nghiệp vụ đồng bảo hiểm. Trong nghiệp vụ đồng bảo hiểm,
người tham gia bảo hiểm mua bảo hiểm từ ít nhất hai công ty bảo hiểm trở lên, khi
có tổn thất xảy ra, tất cả công ty này đều trực tiếp bồi thường cho người tham gia
bảo hiểm theo tỷ lệ mà họ đã nhận.
Sơ đồ 1.2: Mô hình nghiệp vụ đồng bảo hiểm
Người tham gia bảo hiểm
Chuyển
rủi ro

Công ty

Công ty

Công ty


bảo hiểm A

bảo hiểm B

bảo hiểm C


10
Nguồ

n: Tác giả tự tổng hợp
Công ty bảo hiểm sử dụng tái bảo hiểm như một phương pháp giúp chuyển
một phần rủi ro trong các hợp đồng bảo hiểm sang cho bên thứ ba là công ty tái bảo
hiểm, do đó làm tăng khả năng nhận bảo hiểm, giúp giảm thiểu rủi ro và đảm bảo
ổn định về mặt tài chính cho công ty, đặc biệt đối với các hợp đồng có giá trị bảo
hiểm quá lớn nhưng khả năng tài chính công ty lại có hạn, hoặc các tổn thất xảy ra
quá thường xuyên.
Một số khái niệm:
Hợp đồng tái bảo hiểm là hợp đồng giữa công ty bảo hiểm gốc và công ty tái
bảo hiểm về việc nhượng và nhận tái một rủi ro được bảo hiểm.
Công ty bảo hiểm gốc là công ty đứng ra nhận hợp đồng bảo hiểm và sẽ
nhượng một phần hợp đồng đó cho công ty bảo hiểm hoặc tái bảo hiểm khác. Công
ty bảo hiểm gốc phải trả phí tái bảo hiểm cho các công ty tái bảo hiểm.
Công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp là công ty không khai thác các dịch vụ
bảo hiểm gốc mà chỉ nhận bảo hiểm lại rủi ro đã được bảo hiểm của các công ty bảo
hiểm.
Công ty môi giới tái bảo hiểm là công ty đứng ra làm trung gian giữa một
bên là công ty bảo hiểm gốc và một bên là công ty nhận tái bảo hiểm.
Nhượng tái bảo hiểm, hay còn gọi là tái bảo hiểm đi, là việc một công ty bảo
hiểm gốc phân tán rủi ro cho các công ty bảo hiểm.

Nhận tái bảo hiểm, hay còn gọi là tái bảo hiểm nhận, là việc một công ty tái
bảo hiểm nhận bảo hiểm cho những rủi ro trong hợp đồng bảo hiểm mà công ty bảo
hiểm gốc chuyển giao cho.


11
2.1.2. Tái bảo hiểm hàng hóa
Tái bảo hiểm hàng hóa là nghiệp vụ tái bảo hiểm đối với các hợp đồng bảo
hiểm hàng hóa, bao gồm các hợp đồng bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu và các
hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển nội địa.
Tại Việt Nam, hàng hóa vận chuyển nội địa thường có qui mô nhỏ và nguy
cơ tổn thất không cao nên các doanh nghiệp bảo hiểm gốc thường ít nhượng tái bảo
hiểm mặt hàng này. Đối tượng chủ yếu của hợp đồng tái bảo hiểm hàng hóa thường
là các hợp đồng bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, với qui mô lớn, rủi ro cao và
khó lường trước. Thông thường, hàng hóa xuất nhập khẩu được các công ty bảo
hiểm mang đi tái bảo hiểm thường được vận chuyển bằng đường biển vì đây là
phương thức vận chuyển chính, có khối lượng hàng hóa lưu chuyển rất lớn, tuy
nhiên lại thường xuyên phải đối mặt với nhiều rủi ro, nguy cơ tổn thất cao. Ở nước
ta, các doanh nghiệp bảo hiểm thường phân loại tái bảo hiểm hàng hóa nằm trong
nghiệp vụ tái bảo hiểm hàng hải.
2.2. Vai trò của tái bảo hiểm hàng hóa
2.2.1. Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm
2.2.1.1. Tăng khả năng nhận bảo hiểm
Nếu như không có hoạt động tái bảo hiểm, các công ty bảo hiểm gốc muốn
gia tăng khả năng nhận bảo hiểm của mình sẽ phải gia tăng thêm nguồn vốn, là một
điều không hề dễ dàng và nhanh chóng, đặc biệt đối với các công ty bảo hiểm mới
thành lập, hoặc các công ty hiện có số vốn đang hạn chế. Tuy nhiên, nhờ nghiệp vụ
nhượng tái bảo hiểm, các công ty này có thể tăng khả năng ký kết hợp đồng bảo
hiểm của mình mà không nhất thiết phải huy động thêm vốn. Khi thực hiện nhượng
tái, mức ký kết sẽ lớn hơn rất nhiều, bao gồm mức giữ lại (tối đa bằng với khả năng

ký kết khi chưa thực hiện hợp đồng tái bảo hiểm) và khả năng cung cấp bởi người
nhận tái bảo hiểm.
2.2.1.2. Đảm bảo khả năng thanh toán
Trong trường hợp rủi ro mang tính chất thảm họa, chẳng hạn như một trận
thiên tai gây tổn thất cho hàng loạt hợp đồng của công ty trong cùng lúc, thiệt hại là


12
vô cùng lớn và rõ ràng là các công ty bảo hiểm tự mình khó có khả năng bồi thường
cho toàn bộ các hợp đồng, do đó có thể phải đối mặt với tình trạng thua lỗ, phá sản.
Khi đó, hoạt động tái bảo hiểm sẽ giúp công ty đảm bảo chi trả, nhờ thế giúp công
ty ổn định tình hình tài chính cũng như hoạt động kinh doanh.
2.2.1.3. Tăng độ chính xác trong việc xác định, tính toán rủi ro
Nhờ sự tư vấn nghiệp vụ từ những nhà nhận tái bảo hiểm, công ty bảo hiểm
gốc có thể xác định chính xác hơn tính bất thường, đột biến của rủi ro được bảo
hiểm ban đầu, giảm khả năng sai lệch giữa dự đoán và thực tế.
2.2.1.4. Gia tăng nguồn thu
Cùng với phí bảo hiểm nhận được tương ứng với mức bảo hiểm giữ lại, công
ty bảo hiểm gốc còn có thể nhận được một khoản tiền hoa hồng từ các công ty nhận
tái cho các dịch vụ mà mình khai thác.
2.2.2. Đối với người được bảo hiểm
2.2.2.1. Đảm bảo khả năng được thanh toán
Đối với người được bảo hiểm, tổn thất mất mát sẽ được đảm bảo bồi thường
đầy đủ, cho dù là khi số tiền tổn thất quá lớn, công ty bảo hiểm tự mình không có
khả năng chi trả.
2.2.2.2. Hạn chế phí bảo hiểm
Thông thường, khi dịch vụ nhận bảo hiểm có nguy cơ xảy ra rủi ro cao hay
giá trị bảo hiểm rất lớn, các công ty bảo hiểm sẽ có xu hướng tăng rất cao phí bảo
hiểm. Tuy nhiên, tái bảo hiểm sẽ giúp hạn chế sự gia tăng này thông qua việc rủi ro
của nhà bảo hiểm gốc được san sẻ với người nhận tái bảo hiểm.

2.2.3. Đối với nền kinh tế quốc dân
2.2.3.1. Duy trì sự ổn định và thúc đẩy phát triển kinh tế
Rủi ro đã được chuyển nhượng một phần cho các doanh nghiệp tái bảo hiểm
làm tăng khả năng nhận bảo hiểm của các công ty bảo hiểm gốc. Thị trường bảo
hiểm phát triển sẽ là một sự đảm bảo về mặt tài chính cho các doanh nghiệp trong
nước. Các doanh nghiệp này, đặc biệt là các công ty xuất nhập khẩu, sẽ an tâm hơn


13
và không còn phải lo lắng về việc tìm đến các công ty nước ngoài có tiềm lực tài
chính vững vàng để mua bảo hiểm. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, nếu như
doanh nghiệp gặp những biến cố rủi ro, có thể dẫn đến thua lỗ, phá sản thì sẽ nhận
được sự bù đắp kịp thời từ phía bảo hiểm. Do đó, có thể nói, tái bảo hiểm đã có tác
động gián tiếp, đảm bảo tính ổn định cho nền kinh tế.
Hơn nữa, có được một sự đảm bảo chắc chắn hơn về việc bù đắp cho những
tổn thất có thể xảy đến trong quá trình kinh doanh sẽ kích thích các doanh nghiệp
mở rộng qui mô sản xuất, tìm kiếm thị trường mới, nâng cao chất lượng cũng như
đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ.
2.2.3.2. Góp phần ổn định nguồn thu ngoại tệ
Gia tăng khả năng các doanh nghiệp mua bảo hiểm từ các công ty trong nước
thay vì tìm đến các công ty bảo hiểm lớn nước ngoài sẽ làm hạn chế việc chuyển
ngoại tệ ra khỏi quốc gia. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với Việt Nam nói riêng
và các nước đang phát triển nói chung, nơi mà thị trường bảo hiểm còn chưa phát
triển mạnh, các công ty quốc nội chưa thực sự có tiềm lực tài chính vững mạnh như
các công ty quốc tế khác.
Ngoài ra, sự phát triển của tái bảo hiểm còn gián tiếp giúp tăng nguồn thu
ngoại tệ cho quốc gia thông qua việc gia tăng khả năng bán bảo hiểm cho các cá
nhân, công ty nước ngoài từ các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước.
2.2.3.3. Phân tán rủi ro mang tính chất thảm họa
Hoạt động tái bảo hiểm diễn ra giữa nhiều tổ chức tái bảo hiểm của nhiều

nước. Vì vậy, một thiệt hại có tính thảm họa ở một nước, qua tái bảo hiểm sẽ được
bù đắp từ những khoản tiền bồi thường mang tính quốc tế. Tổn thất được phân tán
trên một phạm vi rộng, việc gánh chịu trở nên dễ dàng hơn.
2.3. Đặc điểm của tái bảo hiểm hàng hóa
Tương tự như các nghiệp vụ tái bảo hiểm khác, tái bảo hiểm hàng hóa có
những đặc điểm sau đây:
- Tái bảo hiểm được hình thành trên cơ sở hợp đồng bảo hiểm gốc và do đó
luôn gắn liền với nghiệp vụ bảo hiểm gốc. Do đó, hợp đồng tái bảo hiểm và hợp


14
đồng bảo hiểm phải tồn tại song song. Nếu không có hợp đồng bảo hiểm gốc, không
thể có hợp đồng tái bảo hiểm.
- Hợp đồng tái bảo hiểm không phải là một phần của hợp đồng được ký kết
giữa người được bảo hiểm và công ty bảo hiểm gốc. Hợp đồng tái bảo hiểm chỉ là
một hợp đồng giữa công ty bảo hiểm gốc và công ty tái bảo hiểm. Trên thực tế,
phần lớn người được bảo hiểm không biết về hợp đồng tái bảo hiểm đang tồn tại.
Trong trường hợp công ty nhận tái bảo hiểm bị phá sản thì công ty nhượng tái vẫn
phải có trách nhiệm đối với toàn bộ số tiền bảo hiểm ghi trên đơn bảo hiểm. Tuy
nhiên, nếu công ty nhượng tái bị phá sản thì người trong hợp đồng bảo hiểm gốc
không có quyền khiếu nại đối với công ty nhận tái bảo hiểm.
- Hợp đồng tái bảo hiểm cũng mang đầy đủ tính chất như một hợp đồng bảo
hiểm.
- Mọi nguyên tắc pháp lý áp dụng cho hợp đồng bảo hiểm cũng đều được áp
dụng tương tự cho hợp đồng tái bảo hiểm giữa công ty nhượng tái bảo hiểm và công
ty nhận tái bảo hiểm:
+ Bảo hiểm một rủi ro chứ không phải bảo hiểm một sự chắc chắn
(fortuity not certainty): Công ty nhận tái chỉ nhận bảo hiểm cho một rủi ro xảy ra
bất ngờ, ngẫu nhiên ngoài ý muốn chứ không bảo hiểm một cái chắc chắn xảy ra,
đương nhiên xảy ra, cũng như chỉ bồi thường những thiệt hại cho những rủi ro mất

mát gây ra chứ không phải bồi thường cho những thiệt hại chắc chắn xảy ra, đương
nhiên xảy ra.
+ Nguyên tắc trung thực tuyệt đối (utmost good faith): Công ty
nhượng tái phải cung cấp đầy đủ mọi thông tin liên quan đến đối tượng bảo hiểm
cho công ty nhận tái biết, trong trường hợp xảy ra rủi ro thì phải thông báo và tính
toán tổn thất một cách trung thực. Ngược lại, công ty nhận tái cũng phải trung thực
trong việc đưa ra những thống kê tổn thất để tính đúng phí bảo hiểm, đồng thời phải
công khai tuyên bố những điều kiện, thể lệ, nguyên tắc và giá cả bảo hiểm.
+ Nguyên tắc bồi thường (indemnity):Khi có tổn thất xảy ra, công ty
nhượng tái được toàn quyền hành động trong việc giải quyết khiếu nại, trừ khi có
qui định khác trong hợp đồng tái bảo hiểm. Kết quả này sẽ được công ty nhận tái


15
chấp thuận. Tuy nhiên, khi công ty nhượng tái muốn đòi bồi thường từ công ty nhận
tái thì phải chứng minh được tổn thất rơi vào phạm vi hợp đồng tái bảo hiểm.
+ Nguyên tắc lợi ích bảo hiểm (insurable interest): Công ty bảo hiểm
gốc muốn được tái bảo hiểm phải có lợi ích bảo hiểm. Đối tượng của tái bảo hiểm
chính là các hợp đồng bảo hiểm nên thông thường, nguyên tắc lợi ích bảo hiểm sẽ
được đảm bảo.
+ Nguyên tắc thế quyền (subrogation): Công ty tái bảo hiểm, sau khi
bồi thường cho công ty bảo hiểm gốc, có quyền thay mặt công ty bảo hiểm gốc để
đòi người thứ ba có trách nhiệm, bồi thường cho mình.
- Người tham gia thị trường tái bảo hiểm là các công ty bảo hiểm chuyên
nghiệp, bao gồm: các công ty bảo hiểm gốc, công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp, và
các trung gian bảo hiểm.
- Phí tái bảo hiểm chịu ảnh hưởng của các yếu tố:
+ Xác suất rủi ro biểu hiện qua tỉ lệ phí bảo hiểm của nghiệp vụ;
+ Số lượng đối tượng đã bảo hiểm và có thể bảo hiểm được tối đa;
+ Khả năng thanh toán và quyết định kinh doanh cụ thể của công ty

bảo hiểm.
2.4. Các hình thức tái bảo hiểm hàng hóa
2.4.1. Tái bảo hiểm tạm thời
2.4.1.1. Khái niệm
Tái bảo hiểm tạm thời hay còn được gọi là Tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn
(Facultative Reinsurance), là hình thức tái bảo hiểm mà theo đó, công ty bảo hiểm
gốc chuyển nhượng cho công ty tái bảo hiểm từng dịch vụ hay từng đơn bảo hiểm
một cách riêng lẻ.
Công ty nhượng thông báo tái cho công ty tái bảo hiểm một dịch vụ mà họ
cần tái bảo hiểm dưới một hình thức đề nghị, trong đó ghi rõ các đặc điểm chính
của rủi ro được tái bảo hiểm như: Tên và địa chỉ của người được bảo hiểm, tính chất


16
của rủi ro được bảo hiểm, ngày bắt đầu và ngày chấm dứt, số tiền bảo hiểm, phí bảo
hiểm, phần giữ lại của công ty nhượng, thủ tục và phí tái bảo hiểm,…
Sau khi nhận được đề nghị, bên tái bảo hiểm có quyền lựa chọn nhận toàn bộ
hoặc một phần tỷ lệ nào đó hoặc một số tiền cố định trên cơ sở rủi ro đề nghị. Chỉ
khi được thông báo chấp nhận, dịch vụ tái bảo hiểm này mới có hiệu lực và tự động
chấm dứt khi đến ngày hết hạn nếu không có bổ sung gì thêm.
2.4.1.2. Tính chất
a. Ưu điểm
- Tăng khả năng nhận bảo hiểm
Hình thức tái bảo hiểm tạm thời cho phép các công ty bảo hiểm nhỏ, với
kinh nghiệm cũng như nguồn lực tài chính hạn chế, có thể cạnh tranh để nhận
những nghiệp vụ lớn nằm ngoài khả năng của mình. Các công ty này có thể tận
dụng chuyên môn, kinh nghiệm cũng như khả năng vốn của các công ty tái bảo
hiểm quốc tế để thực hiện hợp đồng. Ngoài ra, hình thức này còn cho phép công ty
bảo hiểm gốc nhận những dịch vụ nằm ngoài phạm vi khai thác thông thường của
mình, thường là tuân theo các yêu cầu đặc biệt của khách hàng.

- Chủ động lựa chọn rủi ro
Các công ty bảo hiểm gốc do có toàn quyền quyết định trong việc lựa chọn
dịch vụ cần tái bảo hiểm và tỉ lệ tái bảo hiểm nên có thể chủ động giữ lại phần rủi ro
được đánh giá là tốt, có thể duy trì được sự cân đối kim ngạch bảo hiểm của mình
và loại bỏ những rủi ro đặc biệt lớn hoặc nguy hiểm. Hơn nữa, một nhóm các công
ty bảo hiểm gốc có quan hệ thân thiết có thể trao đổi các rủi ro được đánh giá là tốt
để tiến hành phân tán rủi ro. Ở chiều ngược lại, công ty tái bảo hiểm cũng có quyền
nhận hoặc từ chối tái bảo hiểm, hoặc chỉ nhận tái bảo hiểm với tỉ lệ mà họ cho là
thích hợp.
b. Nhược điểm
- Tốn kém thời gian và chi phí


17
Công ty bảo hiểm gốc phải thu xếp tái bảo hiểm tạm thời trước khi nhận một
dịch vụ, khiến cho việc quyết định nhận bảo hiểm bị chậm trễ. Khoảng trễ này làm
giảm khả năng cạnh tranh của công ty, khiến công ty có thể mất khách hàng vào tay
đối thủ cạnh tranh, cũng như gây ra ấn tượng không tốt với khách hàng. Quá trình
đàm phán, soạn thảo cũng như thanh toán phải lặp đi lặp lại cho từng hợp đồng
riêng biệt làm tăng chi phí dịch vụ, và vì thế lợi nhuận thu được có thể bị giảm sút.
- Nguy cơ lộ bí mật kinh doanh
Khi tiến hành tái bảo hiểm cho từng dịch vụ, công ty bảo hiểm gốc phải tiết
lộ những thông tin về dịch vụ đó, do đó bí mật kinh doanh cũng như các thông tin,
tin tức khác có thể bị rò rỉ, để lộ cho các đối thủ cạnh tranh.
2.4.2. Tái bảo hiểm cố định
2.4.2.1. Khái niệm
Tái bảo hiểm cố định hay gọi là tái bảo hiểm bắt buộc (Obligatory
reinsurance), là hình thức tái bảo hiểm mà theo đó công ty nhượng phải cho nhà tái
bảo hiểm tất cả các đơn vị rủi ro bảo hiểm gốc mà hai bên đã qui định trong hợp
đồng; ngược lại, công ty nhận tái bảo hiểm cũng buộc phải chấp nhận bảo hiểm toàn

bộ rủi ro đó.
2.4.2.2. Tính chất
Nghiệp vụ tái bảo hiểm cố định đã làm giảm bớt những khó khăn về mặt thời
gian cũng như chi phí của hợp đồng tái bảo hiểm tạm thời cho nên ngày càng được
sử dụng phổ biến hơn. Hình thức này có những ưu và nhược điểm như sau:
a. Ưu điểm
- Công ty bảo hiểm gốc nhanh chóng nhận bảo hiểm cho hợp đồng bảo hiểm
gốc
Công ty bảo hiểm gốc không cần phải tham khảo ý kiến của nhà tái bảo hiểm
mà có quyền tự do chấp nhận giá phí bảo hiểm cho những rủi ro do người được bảo
hiểm yêu cầu, do đó rút ngắn đáng kể thời gian tiếp nhận yêu cầu dịch vụ từ phía
khách hàng.


18
- Các bên tham gia hoạt động tái bảo hiểm ràng buộc với nhau chặt chẽ và
mật thiết hơn
Trong mọi quyết định, công ty nhượng tái phải quan tâm đến quyền lợi của
cả chính mình lẫn của bên tái bảo hiểm. Họ có thể đơn phương thanh toán các tổn
thất có liên quan đến những rủi ro được bảo hiểm nhằm bảo vệ quyền lợi chung của
công ty bảo hiểm gốc và công ty tái bảo hiểm.
Công ty tái bảo hiểm, ngược lại, phải chấp nhận chia sẻ may rủi với công ty
nhượng và sẽ chấp nhận thanh toán những tổn thất thuộc phạm vi thỏa thuận. Tuy
nhiên, họ sẽ không bị ràng buộc bởi những sơ suất của công ty nhượng tái ảnh
hưởng đến quyền lợi của họ.
- Công ty tái bảo hiểm có điều kiện thu được số phí lớn nhất
So với hình thức tái bảo hiểm tạm thời, công ty tái bảo hiểm có thể thu được
số phí bảo hiểm lớn hơn nhiều, đồng thời thực hiện tốt vai trò kinh tế của mình
trong việc đẩy mạnh những tiến bộ kỹ thuật của ngành bảo hiểm bằng việc chấp
thuận những rủi ro và các dạng bảo hiểm mới.

- Tiết kiệm thời gian và chi phí
Hợp đồng có tính tự động tái ký, công ty nhượng tái và công ty nhận tái
không cần phải xem xét riêng từng rủi ro riêng biệt, do đó có thể tiết kiệm được
nhiều thời gian, chi phí và công sức cho qui trình ký kết hợp đồng.
b. Nhược điểm
- Thiếu tính linh động trong hợp đồng tái bảo hiểm
Do hình thức này mang tính cố định trong khoảng thời gian ghi trong hợp
đồng nên công ty bảo hiểm gốc sẽ gặp khó khăn nếu như muốn thay đổi một số điều
khoản cho phù hợp với thực tế kinh doanh.
- Giảm khả năng giữ lại của công ty nhượng tái
Do công ty bảo hiểm gốc phải nhượng tái một tỉ lệ nhất định tất cả rủi ro mà
hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng tái bảo hiểm, nên có thể công ty nhượng tái có


19
thể sẽ phải tái đi cả những rủi ro mà họ có đủ khả năng giữ lại, và vì thế không thể
tối đa hóa doanh thu bảo hiểm.
- Tăng rủi ro cho công ty nhận tái bảo hiểm
Ở chiều ngược lại, công ty nhận tái bảo hiểm cũng phải chấp nhận tất cả các
dịch vụ nằm trong hợp đồng tái, do đó khó có thể kiểm soát được mức độ tốt xấu
của rủi ro mà mình nhận tái.
2.4.3. Tái bảo hiểm lựa chọn – bắt buộc
2.4.3.1. Khái niệm
Tái bảo hiểm lựa chọn – bắt buộc (Facultative – obligatory reinsurance) hay
còn gọi là đảm bảo để ngỏ, là hình thức bảo hiểm mà công ty nhượng bảo hiểm
không bắt buộc phải nhượng tất cả rủi ro bảo hiểm đã nhận; ngược lại, nhà tái bảo
hiểm buộc phải chấp nhận các dịch vụ mà công ty nhượng chuyển giao, với điều
kiện là những dịch vụ đó phải phù hợp với nội dung và điều khoản hợp đồng tái bảo
hiểm mà hai bên đã thỏa thuận.
Đây là hình thức kết hợp giữa tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn và tái bảo hiểm bắt

buộc, thường được các công ty nhượng tái sử dụng mỗi khi rủi ro cần tái bảo hiểm
trong một ngành kinh tế lớn đến một mức độ nào đó.
2.4.3.2. Tính chất
a. Ưu điểm
- Công ty bảo hiểm gốc chủ động trong nhượng tái bảo hiểm
Bởi vì công ty bảo hiểm gốc không bắt buộc phải nhượng tất cả những dịch
vụ mà mình nhận bảo hiểm nên họ có thể lựa chọn dịch vụ để nhượng tái. Công ty
cũng có thể lựa chọn chào tái một phần chứ không nhất thiết là toàn bộ phần trách
nhiệm vượt quá khả năng giữ lại của mình cho một hay nhiều công ty nhận tái thích
hợp. Trong nhiều trường hợp, công ty nhượng tái có thể giữ lại những phần rủi ro
được đánh giá là tốt hơn và nhượng phần rủi ro kém an toàn hơn.
- Người nhận tái bảo hiểm có thể thu được nguồn phí tái bảo hiểm lớn


20
So với hình thức tái bảo hiểm tạm thời, công ty nhận tái trong trường hợp
hợp đồng được ký theo hình thức tái bảo hiểm lựa chọn – bắt buộc sẽ nhận được
nguồn phí bảo hiểm lớn hơn và có phần cân bằng hơn.
b. Nhược điểm
- Có thể gây tốn kém cho bên nhượng tái
Trong trường hợp có nhiều đơn vị rủi ro cần đem tái bảo hiểm, chi phí hành
chính cho qui trình này có thể gây ra nhiều tốn kém cho các công ty nhượng tái.
- Bất lợi cho công ty nhận tái bảo hiểm
Nhà tái bảo hiểm có thể gặp bất lợi khi họ phải chấp thuận tất cả những rủi ro
do công ty bảo hiểm gốc nhượng lại. Tuy những rủi ro này phải phù hợp với nội
dung và điều khoản đã qui ước, nhưng bên nhượng tái vẫn có thể lợi dụng quyền
lựa chọn của mình để đưa những rủi ro dễ xảy ra tổn thất lớn vào hợp đồng nhượng
tái và giữ lại những rủi ro có độ an toàn cao hơn. Điều này sẽ gây ra tổn thất lớn cho
nhà tái bảo hiểm, do đó bên nhận tái bảo hiểm cần phải nắm được ý đồ của các công
ty nhượng, xem xét kỹ các rủi ro được công ty nhượng đem đi tái bảo hiểm và theo

dõi diễn biến của hợp đồng đã ký kết.
2.5. Các phương pháp tái bảo hiểm hàng hóa
2.5.1. Phương pháp tái bảo hiểm tỉ lệ
2.5.1.1. Khái niệm
Tái bảo hiểm theo tỉ lệ (Proportional reinsurance) hay còn gọi là tái bảo
hiểm theo số tiền bảo hiểm, là phương thức tái bảo hiểm mà trong đó trách nhiệm
của công ty nhượng tái bảo hiểm đối với đơn vị rủi ro được bảo hiểm phân bố theo
tỷ lệ tham gia của mỗi bên trên cơ sở số tiền được bảo hiểm.
Khi thực hiện nghiệp vụ tái bảo hiểm bằng phương thức này, trách nhiệm của
bên nhượng tái và bên tái bảo hiểm được tính theo tỷ lệ tham gia tương ứng. Phí và
số tiền bảo hiểm bồi thường cũng sẽ được chia sẻ giữa hai bên theo tỷ lệ số tiền bảo
hiểm tham gia.


21
2.5.1.2. Phân loại
a. Tái bảo hiểm số thành
Tái bảo hiểm số thành (Quota share) hay còn được gọi là tái bảo hiểm phân
ngạch, là phương thức mà theo đó, công ty nhượng giữ lại cho mình một tỷ lệ nhất
định so với số tiền bảo hiểm, phần còn lại tái đi.
Tỷ lệ này (thường là dạng %) được thỏa thuận trước và ấn định đối với tất cả
các dịch vụ mà công ty nhượng khai thác được. Phí bảo hiểm và số tiền bảo hiểm
cũng được phân bổ giữa bên nhượng và bên nhận tái bảo hiểm theo tỉ lệ này.
Chỉ có duy nhất một số tiền được quy định, đó là hạn mức trách nhiệm nhận
bảo hiểm, là số tiền được bảo hiểm tối đa dùng làm hạn mức áp dụng cho hợp đồng
tái bảo hiểm. Tất cả các đơn vị rủi ro được bảo hiểm có giá trị không vượt quá hạn
mức này không cần phải tính riêng biệt cho từng đơn vị rủi ro.
Ví dụ, một công ty bảo hiểm gốc nhượng tái bảo hiểm cho 3 đơn vị rủi ro
(1),(2),(3) theo tỉ lệ 30% giữ lại và 70% tái đi, với hạn mức tối đa là 600.000 USD
cho 2 nhà tái bảo hiểm A (20%), B (50%) như sau:

Bảng 1.1: Ví dụ về phương pháp tái bảo hiểm theo số thành
Đơn vị: USD
Rủi
ro
(1)
(2)
(3)

Số tiền
bảo hiểm
500.000
1.000.000
700.000

Mức
giữ lại
150.000
180.000
180.000

Mức nhượng tái
Tái bảo hiểm A Tái bảo hiểm B
100.000
250.000
120.000
300.000
120.000
300.000

Mức dư

400.000
100.000

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
Mức dư 400.000 USD của rủi ro (2) và 100.000 USD của rủi ro (1) có thể
do công ty gốc đảm nhận hoặc tái đi theo hình thức khác.
Nếu như trong hình thức tái bảo hiểm tạm thời, công ty nhượng bảo hiểm
phải cung cấp thông tin về từng rủi ro riêng biệt thì trong thỏa thuận hợp đồng tái
bảo hiểm theo phương pháp tái bảo hiểm số thành, bên nhượng tái bảo hiểm chỉ
phải thông báo cho bên nhận tái bảo hiểm thông tin và chi tiết về hợp đồng bảo
hiểm gốc, trên cơ sở tổng thể đối với toàn bộ dịch vụ được bảo hiểm trong hợp đồng


22
cố định. Những thông tin và chi tiết về rủi ro được tóm tắt và thông báo cho bên tái
bảo hiểm trong bản chào tái bảo hiểm một hợp đồng cố định.
Trong bảo hiểm vận chuyển hàng hóa, tái bảo hiểm số thành thường được sử
dụng kết hợp với phương pháp tái bảo hiểm mức dôi.
- Ưu điểm:
+ Thuận lợi cho công ty bảo hiểm gốc chủ động nhượng tái, giảm bớt
sự lệ thuộc;
+ Tính toán đơn giản, ít tốn kém, giảm bớt tối đa khối lượng công
việc kế toán và báo cáo;
+ Phân tán đều tổn thất do bên nhượng tái tham gia vào mọi rủi ro,
giảm sự bất lợi cho bên nhận tái bảo hiểm, đảm bảo cân đối thu chi cho cả hai bên
tham gia;
+ Công ty tái bảo hiểm sẽ thu được tỷ lệ tái bảo hiểm cao hơn.
- Nhược điểm:
+ Không khai thác hết khả năng của công ty nhượng tái do phải
nhượng đi cả những rủi ro mà công ty có khả năng giữ lại;

+ Số tiền bảo hiểm được phân chia theo tỷ lệ giữa các bên nên thường
không hạn chế được trách nhiệm đối với các tổn thất bằng số tiền tuyệt đối, do đó
không làm giảm bớt rủi ro cho phần trách nhiệm giữ lại của công ty nhượng tái.
- Áp dụng:
+ Khi muốn đơn giản hóa công việc theo dõi;
+ Khi thực hiện các nghiệp vụ có số tiền bảo hiểm lớn và tương đối
đồng nhất;
+ Công ty nhượng tái chưa có kinh nghiệm hoặc thiếu tư liệu để thống
kê, phân tích đối với một nghiệp vụ mới nên cần tới sự chia sẻ rủi ro cùng các nhà
tái bảo hiểm có kinh nghiệm, chuyên môn nghiệp vụ cao;


23
+ Công ty nhượng tái có ý định thu xếp tái bảo hiểm dưới hình thức
trao đổi dịch vụ lẫn nhau giữa các công ty bảo hiểm, hoặc giữa tập đoàn bảo hiểm
lớn và công ty con;
+ Trong các hợp đồng về rủi ro thiên tai, các công ty nhượng tái muốn
sử dụng nghiệp vụ này để giảm nhẹ nguy cơ tổn thất lớn;
+ Các nghiệp vụ mà phạm vi tác động và qui mô tổn thất không chắc
chắn.
b. Phương pháp tái bảo hiểm mức dôi
Tái bảo hiểm mức dôi (Surplus insurance) là cách thức tái bảo hiểm một tỷ lệ
cố định của mọi tổn thất, theo đó công ty bảo hiểm gốc quyết định mỗi rủi ro công
ty giữ lại là bao nhiêu.
Công ty bảo hiểm gốc thường sẽ phải tính toán khả năng tổn thất tối đa có
thể xảy ra thông qua việc xem xét tất cả các nguy cơ có liên quan đến rủi ro. Sau đó,
công ty sẽ chỉ đem tái bảo hiểm những đơn vị rủi ro có giá trị vượt quá khả năng
giữ lại đã ấn định. Mức tái bảo hiểm chỉ là phần chênh lệch giữa giá trị rủi ro đó và
mức giữ lại của công ty bảo hiểm gốc.
Mức độ chuyển tái bảo hiểm trong một hợp đồng tái bảo hiểm mức dôi được

thể hiện bởi số lần (lines), mỗi lần tương đương với mức giữ lại của công ty bảo
hiểm gốc. Tái bảo hiểm có thể chia thành nhiều lần, tuy nhiên, công ty nhượng tái
hoàn toàn chủ động quyết định công ty sẽ tái đi bao nhiêu lần mà không bắt buộc
phải sử dụng hết số lần đã đặt. Khi đó, mức độ chuyển tái bảo hiểm hợp đồng tái
bảo hiểm mức dôi sẽ là một bội số giữ lại của công ty nhượng.
Trong thực tế có nhiều rủi ro có giá trị bảo hiểm lớn, vượt quá khả năng tiếp
nhận của hợp đồng tái bảo hiểm sẵn có nên công ty nhượng phải tự gánh chịu thêm
ngoài mức giữ lại. Để khắc phục tình huống này, công ty nhượng có thể thu xếp các
hợp đồng tái bảo hiểm mức dôi thứ hai, thứ ba hoặc sử dụng hình thức tái bảo hiểm
tuỳ ý lựa chọn cho riêng rủi ro đó. Nguyên tắc chung để ứng dụng các hợp đồng tái
bảo hiểm mức dôi thứ hai, thứ ba… là trước tiên khối lượng rủi ro vượt quá mức
giữ lại của công ty nhượng sẽ được đưa vào hợp đồng mức dôi thứ nhất. Hợp đồng


24
mức dôi thứ hai chỉ tiếp nhận một phần của phần dư này sau khi hợp đồng tái bảo
hiểm mức dôi thứ nhất đã tận dụng hết khả năng của nó cho tới hạn mức tối đa quy
định trong trường hợp mức dôi thứ hai và sau đó là tuần tự các mức dôi tiếp theo.
- Ưu điểm:
+ Công ty nhượng tái có thể nhận bảo hiểm cho những rủi ro có giá trị
lớn hơn khả năng tài chính của mình nhưng vẫn đảm bảo ổn định được mức giữ lại;
+ Công ty nhượng tái có thể giữ lại một khối lượng kim ngạch bảo
hiểm lớn và có mức phí thu nhập lớn không cần tái bảo hiểm do chỉ phải đi tái bảo
hiểm những đơn vị rủi ro có giá trị vượt quá khả năng giữ lại đã ấn định trước;
+ Hợp đồng tái bảo hiểm mức dôi còn có thể giúp công ty bảo hiểm
gốc giữ lại được lợi nhuận lớn hơn do có thể giữ lại phần lớn tỷ lệ rủi ro tốt;
+ Công ty nhận tái bảo hiểm có thể sẽ phải trả cho công ty bảo hiểm
gốc mức hoa hồng thấp hơn.
- Nhược điểm:
+ Tốn kém về chi phí, cách tính toán phức tạp, khó khăn trong việc

xác định chính xác mức giữ lại;
+ Có thể có sự mất cân đối về tỷ lệ nhận tái bảo hiểm, gây khó khăn
cho bên nhận tái vì trong nhiều trường hợp, tỷ lệ trách nhiệm và số phí thu của công
ty nhận tái rất lớn so với công ty nhượng;
+ Không khống chế được chi phí bồi thường tổn thất, đặc biệt trong
trường hợp tổn thất chủ yếu rơi vào những rủi ro có số tiền bảo hiểm thấp;
- Áp dụng:
Hợp đồng mức dôi được các công ty bảo hiểm gốc sử dụng một cách phổ
biến hơn để bảo vệ các nghiệp vụ chính của mình, hơn là sử dụng hợp đồng số
thành và thường áp dụng khi khối lượng dịch vụ bao gồm những rủi ro có giá trị
bảo hiểm chênh lệch lớn.


25
c. Tái bảo hiểm kết hợp số thành – mức dôi
Phương pháp kết hợp này có thể phát huy ưu điểm của mỗi loại cũng như
hạn chế những nhược điểm của mỗi phương pháp số thành hoặc mức dôi.
Thông thường, người ta thường tái bảo hiểm số thành trước, tái hợp đồng
mức dôi là hợp đồng bổ sung cho cùng công ty nhận tái bảo hiểm.
Ví dụ về một hợp đồng tái bảo hiểm kết hợp số thành - mức dôi như sau:
- Số thành: Hạn mức trách nhiệm là 1.000.000 USD, giữ lại 30%, tái đi
70%;
- Mức dôi: Hạn mức trách nhiệm là 10 lines;
- Có 3 đơn vị rủi ro: (1), (2), (3) với số tiền bảo hiểm thể hiện như trong
bảng.
Trách nhiệm của các công ty về số tiền bảo hiểm như sau:
Bảng 1.2: Ví dụ về phương pháp tái bảo hiểm kết hợp số thành - mức dôi
Đơn vị: USD
Rủi ro
(1)

(2)
(3)

Số tiền bảo hiểm
700.000
1.000.000
10.000.000

Phân bổ trách nhiệm số tiền bảo hiểm
Nhận tái bảo hiểm
Người nhượng
Mức dôi
số thành
210.000
490.000
0
300.000
700.000
0
300.000
700.000 9.000.000
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp

2.5.2. Phương pháp tái bảo hiểm phi tỷ lệ
2.5.2.1. Khái niệm
Tái bảo hiểm phi tỷ lệ hay là tái bảo hiểm theo mức bồi thường bảo hiểm, là
phương thức tái bảo hiểm mà trong đó công ty nhượng tái bảo hiểm ấn định giới
hạn bồi thường bằng một số tiền mà họ có thể tự gánh chịu cho tổn thất, là hậu quả
của từng sự cố đối với một hoặc nhiều loại bảo hiểm mà mình đảm trách, còn phần
tổn thất vượt quá hạn mức giới hạn đó được chuyển cho nhà tái bảo hiểm gánh chịu.



×