Tải bản đầy đủ (.pdf) (147 trang)

Liên kết du lịch hàng không giá rẻ trong hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.33 MB, 147 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cách mạng khoa học công nghệ và toàn cầu hoá là những quá trình kinh tế,
kỹ thuật, xã hội năng động nhất hiện nay, tác động mạnh đến sự phát triển, biến đổi
của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở các quốc gia trên thế giới. Chúng cuốn
hút tất cả các ngành kinh tế ở các quốc gia khác nhau vào sự vận động và phát triển,
trong đó có ngành hàng không và du lịch (Tourism). Từ đó tạo ra các hình thức đặc
thù như hàng không giá rẻ (Low Cost Airline - LCA) và sự liên kết giữa Tourism LCA, nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập nhanh hơn của các nền kinh tế quốc gia vào
một hệ thống phân công lao động quốc tế rộng lớn, hình thành và phát triển các khối
liên kết kinh tế như: ASEAN, EU,..
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất là sự hoàn thiện của
các quan hệ sản xuất, trong đó thúc đẩy tiến trình xã hội hoá và quốc tế hoá tư bản
làm cho sở hữu tư bản tách rời rất xa việc sử dụng tư bản, đưa nền kinh tế thế giới
bước vào thời đại của nền kinh tế tài chính - tiền tệ mang tính toàn cầu. Những quá
trình kinh tế - kỹ thuật này đã đẩy nền kinh tế thế giới từ khủng hoảng năng lượng,
nguyên liệu, cơ cấu sang khủng hoảng tài chính - tiền tệ trên quy mô khu vực và thế
giới.
Trong bối cảnh quốc tế đó, nền kinh tế nước ta cũng đang trong thời kì
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và công nghiệp
hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức theo chiến lược kinh tế mở, nên
không tránh khỏi ảnh hưởng tiêu cực lẫn tích cực của tiến trình này. Để đưa nền
kinh tế thoát khỏi trạng thái tăng trưởng chậm, tỷ lệ lạm phát cao như hiện nay thì
mọi giải pháp cho các ngành kinh tế suy cho cùng đều bắt đầu bằng tăng năng suất
lao động, giảm chi phí sản xuất, tìm ra các lợi thế cạnh tranh mà trước tiên phải ưu
tiên liên kết các ngành kinh tế có quan hệ mật thiết với nhau để cùng gia tăng lợi ích
và giảm thiểu rủi ro. Du lịch là một ngành kinh tế dịch vụ, có tính tổng hợp, liên
ngành, liên vùng và có tính xã hội hóa rất cao. Đây là hình thức tổ chức kinh doanh
và sản phẩm của nó tạo ra bởi sự liên kết hoạt động của nhiều ngành, vùng và các
chủ thể kinh tế - xã hội khác nhau, trong đó liên kết giữa các hãng hàng không và


các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch là một trong các khâu quan trọng. Đặc


2

biệt, trong điều kiện hội nhập du lịch vùng và quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện
nay, thì liên kết hàng không-du lịch là nhân tố quyết định sự thành công của một
sản phẩm lữ hành du lịch, bởi lẽ chi phí cho việc di chuyển từ nơi xuất phát đến các
điểm đến du lịch chiếm tỷ trọng từ 40 - 60% giá thành chuyến đi. Trước xu thế đó,
đã xuất hiện nhanh chóng loại hình hàng không giá rẻ để đáp ứng nhu cầu đi lại,
giao tiếp của cư dân ở các quốc gia khác nhau, đặc biệt đáp ứng nhu cầu giảm giá
các tour du lịch quốc tế nhằm thúc đẩy ngành kinh tế du lịch phát triển.
Nhận thức được xu hướng quốc tế hóa ngành du lịch, Việt Nam đã chủ động
thúc đẩy nhanh chóng tiến trình hội nhập ngành du lịch vào khu vực và quốc tế.
Trong văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2011 đã
khẳng định: “Phát triển ngành dịch vụ, nhất là dịch vụ tài chính, ngân hàng, thương
mại, du lịch và các dịch vụ có giá trị tăng cao…Xây dựng một số trung tâm du lịch
lớn trong nước, gắn kết có hiệu quả với các trung tâm du lịch lớn của các nước
trong khu vực” [9, tr.198-199].
Hưởng ứng chủ chương đúng đắn đó của Đảng, ngành hàng không có bước
cải tổ và phát triển mạnh mẽ, trong đó các hãng LCA tư nhân nhanh chóng ra đời.
Trước sự cạnh tranh mạnh mẽ của các hãng LCA trong khu vực và nội địa tham gia
hoạt động trên thị trường dịch vụ hàng không nước ta, hãng hàng không quốc gia
Việt Nam (VNA) và hãng hàng không cổ phần Pacific Airlines cũng chuyển một bộ
phận sang cung cấp dịch vụ hàng không giá rẻ (LCAS). Hãng Pacific Airlines đã
chuyển hẳn sang hoạt động dưới hình thức hãng LCA, nhờ đó mà hạ giá tour du lịch
trong nước và quốc tế.
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay, một số hãng LCA tư nhân, do
nguồn lực tài chính và nhân sự hạn hẹp lại thiếu kinh nghiệm quản lí buộc phải chấp
nhận phá sản hoặc ngừng bay để sốc lại nguồn nhân lực, cơ cấu lại đội bay và cải tổ

lại bộ máy tổ chức quản lý. Tuy vậy, việc tồn tại và phát triển của loại hình LCA là
một khách quan kinh tế. Tính khách quan này xuất phát từ nhu cầu phát triển của
sức sản xuất xã hội đang tăng lên nhanh chóng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới
làm cho thu nhập và dân trí của các tầng lớp dân cư tăng không ngừng, dẫn đến du
lịch trở thành nhu cầu thiết yếu của bộ phận ngày càng lớn dân cư có thu nhập trung
bình trở lên của dân cư các nước, kể cả các nước đang phát triển như Việt Nam.


3

Đón nhận xu thế phát triển của du lịch thế giới, quá trình liên kết giữa các ngành
trong cấu thành sản phẩm lữ hành du lịch được thúc đẩy mạnh mẽ, trong đó liên kết
giữa du lịch hàng không được coi như là chiến lược phát triển lâu dài và bền vững
của hai ngành trong nền kinh tế Việt Nam. Ngày 10 tháng 4 năm 2013 “Kế hoạch
hợp tác giữa Tổng cục Du lịch Việt Nam và Cục Hàng không Việt Nam giai đoạn
2013 - 2015”[21] đã cụ thể hóa chương trình phối hợp công tác số 4050/CTBVHTTDL - BGTVT ngày 13 tháng 11 năm 2012 nhằm nâng cao trách nhiệm hiệu
quả của sự phối hợp, chất lượng và sức cạnh tranh của hai ngành, thúc đẩy du lịch Việt
Nam phát triển thành điểm đến hấp dẫn của khu vực châu Á và thế giới.
Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài “Liên kết Du lịch - Hàng không giá rẻ
trong hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam” cho luận án tiến sĩ chuyên ngành kinh
tế chính trị của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
2.1. Những công trình nghiên cứu về liên kết Du lịch - Hàng không giá rẻ
ở ngoài nước
Cho đến nay, tác giả của luận án tìm thấy rất hiếm các chuyên khảo nghiên
cứu riêng biệt về liên kết Tourism - LCA ở nước ngoài, đặc biệt lại nghiên cứu đề
tài đó ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong nhiều công trình nghiên cứu về du lịch, hàng
không hoặc hàng không giá rẻ, khi phân tích đến các nhân tố khách quan, hoặc giải
pháp phát triển của ngành hàng không, đặc biệt là hàng không giá rẻ, thì việc liên
kết giữa hàng không và du lịch được đặc biệt chú trọng và coi đây là một giải pháp

cơ bản giúp phát triển ngành. Một số các công trình, tuy nghiên cứu về hàng không
hoặc nghiên cứu đến du lịch đều dành một vị trí quan trọng để phân tích liên kết
Tourism - LCA, trong đó có hàng không giá rẻ với du lịch như sau:
-

“Tourism - A new perspective” của Burn Peter và Holden Andrew.

-

“Tourism principle and practice” của Cooper, C. Gibert.

-

“Tourism in Developing countries” của Martin Oppermann và Kye-Sung.

-

“Low-Cost Airline in the Asia Pacific Region” của An Exceptional Intra và
“Regional Traffic Growth Opportunity” của Peter Harbison.

-

“What future for Low-cost Airline in Asia” của Richard Stirland.

-

“The economic benefits of Air Transport” của IATA, ATAG.


4


Trong số nhiều công trình nghiên cứu về du lịch có các công trình sau đã
dành một vị trí quan trọng cho phân tích liên kết Tourism - LCA.
2.1.1. Những nội dung cơ bản liên quan đến liên kết giữa Du lịch - Hàng
không giá rẻ trong các công trình nước ngoài
- Cuốn sách “Value Creation in Travel Distribution” (2010) của Michael
Straus [45]. Tạm dịch là “Sự sáng tạo có giá trị trong phân bổ du lịch” đã đưa ra tầm
nhìn tổng quát về ngành công nghiệp không khói đang trên đường phát triển với tốc
độ chóng mặt ở các nước. Trong đó, tác phẩm đã dành những phần thỏa đáng và đi
sâu nghiên cứu lịch sử ra đời của ngành công nghiệp mới này và giới thiệu việc
quản lý, vận hành và liên kết của ba yếu tố chính là: Giao thông vận tải (trong đó có
hàng không) với công nghệ và phân bổ các nguồn lực du lịch. Công trình đi sâu vào
trình bày quan niệm du lịch với tư cách là ngành công nghiệp không khói thông qua
trình bày toàn diện hoạt động của ngành có những ưu thế và hạn chế cũng như cơ
hội phát triển của ngành ở một số các nước có lợi thế. Công trình đã nhấn mạnh đến
lợi thế của phát triển công nghệ thông tin trong việc đặt phòng, thanh toán và hội
họp từ xa đã tạo điều kiện cho việc liên kết và phát triển của ngành du lịch với tư
cách là ngành công nghiệp xanh không khói.
Đặc biệt, tác giả dành phần đáng kể nội dung của công trình bàn về liên kết
phát triển giữa Tourism – LCA và những lợi thế của nó trong phát triển ngành du
lịch, trong đó những vấn đề cơ bản sau đã được phân tích:
Thứ nhất, cuốn sách đưa ra khái niệm dịch vụ du lịch chi phí thấp hoặc trung
bình được cung cấp bởi cắt giảm chi phí nhờ cắt bỏ những dịch vụ phụ, chỉ giữ lại
những dịch vụ thiết yếu cho du khách và sử dụng máy bay có thân rộng, bố trí được
nhiều ghế kết hợp với chở thêm hàng hóa để đảm bảo các chuyến bay luôn đủ tải.
Tác giả công trình đã đưa ra một loạt viện dẫn thử nghiệm trong thực tế của Giám
đốc điều hành LCA Air Asia, Tony Fernandes lần đầu đã cung cấp dịch vụ du lịch
chi phí thấp trên đoạn đường từ châu Á sang châu Âu. Thông qua một loạt viện dẫn
những thành công và thất bại của Fernandes và các đối tác ở Malaysia để rút ra tính
khách quan của liên kết Tourism - LCA.

Thứ hai, cuốn sách đã đi tới một khẳng định là hoàn toàn có thể cung cấp
dịch vụ du lịch giá rẻ nếu đảm bảo được các điều kiện sau: 1) Sử dụng mạng bay


5

điểm đối điểm với khoảng cách không quá 4h bay; 2) Sử dụng loại máy bay tầm
trung thân rộng có thể bố trí được khoảng 250 ghế như A330-200 hoặc Boing 747400; 3) Tăng tần suất bay lên 16h tiếng/ngày; 4) Cắt giảm các chi phí dịch vụ lưu
không, mặt đất đến mức tối thiểu cần thiết bằng cách hạ cánh xuống đường băng
phụ và bay vào giờ trống; 5) Cắt giảm các dịch vụ phụ và bổ sung đối với hành
khách, chỉ giữ lại các dịch vụ thiết yếu…; và 6) Kết hợp vận chuyển khách với vận
chuyển hàng hóa để đảm bảo mạng bay luôn đủ tải các chuyến bay.
Bằng một loạt các viện dẫn thử nghiệm thành công, thuyết phục của hãng
Qantas Airways của Australia và việc mở rộng sang các công ty chi nhánh Jestar ở
các nước, và khảo sát hoạt động của các hãng Oasis Airlines (Hồng Kông), Viva
Macau, Cathay Pacific Airways… Giám đốc điều hành công ty cho thuê máy bay
của Singapore Robert Martin đã khẳng định: “Điều kích thích du lịch phát triển là
việc cung cấp dịch vụ hàng không giá rẻ - LCAS”.
- Cuốn sách “Aviation and Tourism - Implications for leisure travel” (2008)
[43] của Anne Graham, đại học Westminster (Anh), Andreas Papatheodorou ở đại
học The Aegean, Greece và Peter Forsyth ở đại học Monash (Australia).
Nội dung cơ bản của cuốn sách “Hàng không và Du lịch - những ưu thế tiềm
tàng cho hoạt động du lịch” (tạm dịch) có chủ đề xuyên suốt phân tích về ưu thế liên
kết hai chiều giữa ngành hàng không với du lịch. Cuốn sách có 7 phần với 26 chương
do tập thể tác giả biên soạn. Mỗi phần phân tích những khía cạnh khác nhau của quan
hệ giữa hàng không và du lịch, trong đó chỉ rõ những ưu thế và hạn chế của quan hệ
này.
Phần I: gồm 3 chương (chương 1 đến chương 3) tập trung phân tích bản
chất, độ co giãn và dự báo của du lịch và đánh giá vai trò, tác động của hàng không,
đặc biệt là LCA trong kích cầu du lịch cũng như sự phát triển của chính bản thân

ngành hàng không với tư cách du lịch cung cấp khối cầu ổn định cho hàng không
phát triển, nếu xác lập được mối liên kết chặt chẽ giữa hai ngành này.
Phần II: có 2 chương (chương 4 và chương 5) tập trung vào phân tích chính
sách của Nhà nước trong quản lý và điều hành hàng không và du lịch, trong đó xác
định các nguyên tắc thúc đẩy sự liên kết hai ngành và vạch ra những lợi ích và rủi ro


6

khi tự do hóa những hoạt động của du lịch và hàng không cũng như xây dựng hệ thống
bảo hiểm để liên kết này hoạt động bình thường.
Phần III: gồm 7 chương (từ chương 6 đến chương 12) tập trung chủ yếu vào
phân tích sự ra đời, các điều kiện, phương thức hoạt động và phát triển của các hãng
hàng không giá rẻ (LCA), khảo sát một số hãng LCA của EU như hãng Air Malta
đã liên kết với du lịch để phát triển, từ đó rút ra những kết luận quan trọng cho việc
ra đời, tồn tại và phát triển hiệu quả của liên kết này.
Phần IV: có 4 chương (chương 13 đến chương 16) chủ yếu nghiên cứu về
các loại hình sân bay phục vụ cho liên kết Tourism - LCA, trong đó xác định các
hình thức tiếp thị quảng bá để kích cầu du lịch và các điều kiện đảm bảo hoạt động
cho các hãng LCA. Đặc biệt, tác giả Marianna Sigalo tập trung vào việc ứng dụng
công nghệ thông tin tạo điều kiện thuận lợi cho khách du lịch sử dụng LCAS để
thỏa mãn các nhu cầu trong chuyến du lịch.
Phần V: có 2 chương (chương 17 và chương 18) chủ yếu phân tích những
tác động của phát triển và hoạt động của LCA tới tạo lập các sản phẩm du lịch bền
vững và phát triển du lịch bền vững. Ở đây, các tác giả tập trung vào phân tích các
mối quan hệ chồng chéo giữa hàng không và du lịch ảnh hưởng tới các di sản tự
nhiên và văn hóa và đưa ra các giải pháp lành mạnh hóa các quan hệ trong phát
triển hàng không, du lịch và kinh tế - xã hội.
Phần VI: gồm 7 chương (từ chương 18 đến chương 25), nội dung chủ yếu
của phần này là khảo sát thực tiễn mối liên kết giữa hàng không và du lịch, trong đó

có LCA với du lịch ở 7 nước và vùng lãnh thổ như: Brazil, Ấn Độ, Trung Quốc,
Trung Đông, Châu Phi, Mauritius và Nam Thái Bình Dương. Ở mỗi chương đều
khảo sát, phân tích thực trạng phát triển của hai ngành, xác định xu hướng phát triển
của các quan hệ liên kết và sự tác động của chính sách nhà nước vào sự phát triển
ngành và mối liên kết giữa Hàng không - Du lịch.
Phần VII: có 1 chương (chương 26) trình bày các kết luận quan trọng về
thực tại và tương lai của hai ngành, trong đó có đề cập đến: 1) Sự thích ứng trước
thay đổi của hàng không và công nghiệp du lịch; 2) Quan hệ giữa chính sách của
nhà nước đối với phát triển của hai ngành và quan hệ giữa chúng; 3) Sự xuất hiện
của các sân bay mới phục vụ du lịch và tầm quan trọng của nó đối với phát triển của


7

hàng không và du lịch; và 4) Chỉ ra các vấn đề chưa được giải quyết như phát triển
tương lai của hàng không, mô hình tổ chức, sản xuất kinh doanh trong liên kết hai
ngành; Tầm quan trọng của biến đổi khí hậu với vấn đề bảo vệ môi trường cho du
lịch; Vai trò của các quốc gia mới nổi (BRIC) trong định hình tương lai của hàng
không và du lịch thế giới…
Cuốn sách này thực sự là một chuyên khảo nghiên cứu về liên kết giữa hàng
không và du lịch, song nó mới cung cấp cho người đọc những nét rất cơ bản ở tầm
khởi đầu tiếp cận và làm quen với một vấn đề có tính lý luận và khả năng vận dụng
cao vào thực tiễn cuộc sống.
- Cuốn sách “Kinh tế du lịch và du lịch học” (2000) của Đồng Minh Ngọc và
Vương Lôi Đình (Trung Quốc)[16].
Nội dung chủ yếu của cuốn sách là trình bày lịch sử sự ra đời và phát triển
của ngành du lịch Trung Quốc từ khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời
(1949) và những bộ phận cấu thành môn du lịch học, gồm các vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, các tác giả đã cho người đọc thấy rõ tiến trình hình thành các cơ
quan quản lý ngành du lịch ở Trung Quốc phát triển từ bộ phận chuyên làm nhiệm

vụ tiếp đón các đoàn khách quốc tế của Đảng và Nhà nước Trung Hoa phát triển
thành một cơ quan lãnh đạo toàn bộ ngành du lịch thông qua tiến trình phá thế bao
cấp để trở thành một ngành công nghiệp không khói mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế
quốc dân của Trung Hoa.
Thứ hai, trình bày các khái niệm cơ bản cấu thành bộ môn du lịch học như:
Kinh tế du lịch, Cơ chế điều tiết ngành, Cấu thành du lịch, Sản phẩm du lịch,.. Đặc
biệt, các tác giả đã chỉ rõ kinh tế du lịch là hình thức tổ chức kinh doanh dựa trên cơ sở
liên kết đa ngành, từ các doanh nghiệp lữ hành đến các hãng vận tải trong đó có vận tải
hàng không, các cơ sở lưu trú, vui chơi giải trí…
Thứ ba, cuốn sách đã nhấn mạnh tới liên kết giữa du lịch và hàng không như
một nhân tố quan trọng để phát triển các điểm du lịch và các thành phố du lịch.
2.1.2. Những nội dung về liên kết Du lịch - Hàng không giá rẻ đã được các
tác giả nước ngoài phân tích và được đề cập tới
Thứ nhất, trong ba cuốn sách đã được nghiên cứu và tổng quan trên, các tác
giả nước ngoài đã phân tích được: 1) Những tiềm năng ưu thế và cả những hạn chế


8

trong liên kết Tourism - LCA, đặc biệt đã phân tích được những ưu thế này khi
xuất hiện các hãng LCA cung cấp các LCAS nhằm giảm giá thành tour du lịch, tạo
điều kiện để du lịch phát triển thành ngành công nghiệp không khói và chiếm tỉ
trọng cao trong tổng sản phẩm kinh tế quốc dân ở các quốc gia và các vùng kinh tế
khác nhau; 2) Trình bày phương thức khái quát để đảm bảo cho một hãng hàng
không có thể cung cấp được LCAS; 3) Bước đầu đã phân tích được vai trò của
Nhà nước, thông qua các chính sách kinh tế của mình, thúc đẩy quá trình liên kết
và phát triển của hai ngành; và 4) Bằng những dẫn chứng thực tiễn của phát triển
và liên kết giữa hai ngành du lịch - hàng không ở các khu vực khác nhau trên thế
giới và hoạt động của một số hãng LCA cụ thể để khẳng định ưu thế của liên kết
giữa hai ngành.

Thứ hai, còn nhiều vấn đề lý luận chuyên sâu chưa được các tác giả phân tích
và sẽ được triển khai trong luận án như: 1) Khái niệm, bản chất, đặc trưng của liên
kết Tourism - LCA; 2) Các hình thức liên kết và mô hình liên kết tối ưu; 3) Tính
khách quan kinh tế của quá trình liên kết Tourism - LCA; 4) Thực tiễn liên kết
Tourism – LCA trên thị trường Việt Nam; 5) Những thành công và thất bại trong
liên kết Tourism - LCA; và 6) Các giải pháp khả thi thúc đẩy tiến trình liên kết.
2.2. Các công trình trong nước nghiên cứu về liên kết Du lịch - Hàng
không giá rẻ trong hội nhập kinh tế quốc tế
Trên thực tế, cho đến nay loại hình doanh nghiệp LCA ra đời và thực sự đi
vào cung cấp các LCAS chưa lâu, khoảng 5,6 năm nên chưa có một công trình
nghiên cứu chuyên sâu và đầy đủ về liên kết LCAS với du lịch ở nước ta. Tuy
nhiên, trong các công trình nghiên cứu về du lịch hoặc LCA vẫn có thể tìm thấy
những ý tưởng cơ bản về tính khách quan và giải pháp liên kết Tourism - LCA, thể
hiện ở các đề tài khoa học và luận án tiến sĩ khoa học, các bài nghiên cứu chuyên
ngành và các trang website.
2.2.1. Một số nội dung về giải pháp liên kết Du lịch - Hàng không giá rẻ từ
các đề tài khoa học cấp bộ của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch
Từ năm 2006 đến nay, trong các đề tài cấp Bộ, nghiên cứu về các khía cạnh
khác nhau trong phát triển du lịch, khi đề cập đến các giải pháp thúc đẩy du lịch
phát triển thì liên kết giữa du lịch - hàng không luôn được coi trọng và được xem là


9

một trong các giải pháp quyết định cho sự phát triển của ngành du lịch và hàng
không, trong đó có LCA.
- Đề tài cấp Bộ (2006): “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp đầu tư phát triển
khu du lịch” [14] do Thạc sĩ Lê Văn Minh chủ nhiệm và Viện Nghiên cứu và Phát
triển Du lịch chủ trì. Đề tài tập trung vào nghiên cứu vai trò của đầu tư trong phát
triển các khu du lịch, khi nêu ra các giải pháp để tạo lập các điều kiện hạ tầng vật

chất - kỹ thuật bảo đảm cho các khu du lịch hoạt động có hiệu quả, tác giả đã đề
xuất các giải pháp liên kết với các ngành liên quan, trong đó liên kết với ngành giao
thông vận tải được chú trọng. Đặc biệt, đề tài nhấn mạnh tới việc hình thành các cơ sở
hạ tầng giao thông như đường xá, sân bay, bến cảng, coi đây là điều kiện hạ tầng vật
chất kỹ thuật thiết yếu đảm bảo cho các khu du lịch ra đời và hoạt động có hiệu quả.
- Đề tài cấp Bộ (2007): “Nghiên cứu xây dựng sản phẩm du lịch Việt Nam có
tính cạnh tranh trong khu vực và quốc tế” [20] do Tiến sĩ Đỗ Cẩm Thơ chủ nhiệm,
Viện Nghiên cứu và Phát triển Du lịch chủ trì, trong đó đã trình bày được những
vấn đề cơ bản về sức cạnh tranh của sản phẩm du lịch, phân tích được cấu thành sản
phẩm chung của điểm đến và sản phẩm theo các loại hình du lịch, định vị được sản
phẩm du lịch Việt Nam trên thị trường khu vực và quốc tế. Đặc biệt khi đề cập đến
đặc trưng của sản phẩm du lịch được cấu tạo bởi sự liên kết hoạt động giữa các
ngành, vùng.. đề tài đã tập trung phân tích vai trò của liên kết giữa hàng không và
du lịch như một trong các giải pháp cơ bản đề giảm chi phí, tăng sức cạnh tranh của
sản phẩm du lịch, nhất là sản phẩm của lữ hành du lịch.
- Đề tài cấp Bộ (2011): “Hiện trạng và giải pháp phát triển các khu du lịch
biển quốc gia tại vùng du lịch Bắc Trung Bộ” [10] do Tiến sĩ Nguyễn Thu Hạnh chủ
nhiệm, Viện Nghiên cứu và Phát triển Du lịch chủ trì. Đề tài đã làm rõ cơ sở lý luận
và thực tiễn về du lịch biển và phát triển du lịch biển quốc gia, tác giả đề tài đã nêu ra
10 bài học kinh nghiệm, trong đó đã khẳng định: Việc tổ chức hình thành khu du lịch
phải gắn liền với mạng lưới giao thông đường bộ, đường sông, đường biển, đường sắt
và đường không. Đặc biệt cần tìm địa hình thuận lợi để phát triển các cảng hàng
không cho loại hình LCA nhằm gắn khu du lịch với các thị trường du lịch quốc tế
lớn, bảo đảm cho khu du lịch phát triển và tăng trưởng ổn định, bền vững.
2.2.2. Một số nội dung nghiên cứu về liên kết Du lịch - Hàng không giá rẻ


10

trong các luận án nghiên cứu về du lịch từ các luận án tiến sĩ về liên kết Du lịch

- Hàng không giá rẻ trong hội nhập kinh tế
Các luận án tiến sĩ nghiên cứu các khía cạnh khác nhau trong phát triển
ngành du lịch từ năm 2007 lại đây, tác giả luận án đều dành thời lượng tương xứng
để phân tích lợi thế của liên kết du lịch – hàng không trong phát triển ngành du lịch,
coi các hoạt động của các doanh nghiệp thuộc ngành giao thông vận tải, đặc biệt là
hàng không đã ảnh hưởng to lớn đến chi phí, giá thành, sức cạnh tranh, lợi nhuận và
phát triển của các loại hình kinh doanh du lịch. Có thể thấy rõ ở các luận án sau:
- Luận án tiến sĩ kinh tế, “Năng lực cạnh tranh điểm đến du lịch Việt Nam”
[1] (2010) của Nguyễn Tuấn Anh, bảo vệ tại Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong luận
án, tác giả đã trình bày cơ sở lý luận, thực tiễn về năng lực cạnh tranh của các điểm
đến du lịch. Trong đó đã đưa ra khái niệm điểm đến và năng lực cạnh tranh của
điểm đến du lịch. Trong cấu thành năng lực điểm đến, tác giả coi việc hình thành cơ
sở hạ tầng giao thông hoàn chỉnh cho các điểm đến du lịch, đặc biệt là phát triển các
cảng hàng không, nhất là các cảng hàng không dùng cho các loại máy bay giá rẻ có
thể cất hạ cánh thuận lợi nhằm liên kết với loại hình vận tải này để giảm chi phí cho
các sản phẩm lữ hành du lịch, nối liền điểm đến với các trung tâm du lịch của khu
vực và quốc tế, tăng sức cạnh tranh của các điểm đến.
+ Khi phân tích thực trạng của các điểm đến du lịch của Việt Nam, tác giả đã
chỉ ra hạn chế về năng lực cạnh tranh của các điểm đến du lịch nước ta là thiếu một
hệ thống hạ tầng giao thông hiện đại, hoàn chỉnh, đặc biệt là nhiều điểm đến du lịch
ở quá xa các cảng hàng không.
+ Trong 7 nhóm khuyến nghị chính sách và giải pháp nâng cao năng lực
cạnh tranh của các điểm đến thì giải pháp xây dựng một hệ thống giao thông đồng
bộ, hiện đại, đặc biệt là những điểm đến du lịch có địa hình thuận lợi có thể phát
triển các cảng hàng không phụ tạo điều kiện để các hãng LCA cung ứng LCAS là
một giải pháp quan trọng.
- Luận án tiến sĩ kinh tế, “Thị trường du lịch Quảng Ninh trong hội nhập
kinh tế quốc tế” [2] (2011) của Trần Xuân Ảnh, bảo vệ tại Học viện Chính trị-Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh.
+ Trong luận án, tác giả đã trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn về thị trường



11

du lịch như: Khái niệm về thị trường du lịch, cấu thành và đặc điểm của thị trường
du lịch, cơ chế hoạt động của thị trường du lịch và kinh nghiệm phát triển thị trường
du lịch ở các tỉnh thành phố trong và ngoài nước bài học cho Quảng Ninh.
+ Trong phân tích thực trạng phát triển thị trường du lịch Quảng Ninh và
trong các giải pháp thúc đẩy thị trường du lịch phát triển. Khi phân tích về tạo lập
môi trường du lịch Quảng Ninh trong hội nhập kinh tế quốc tế, tác giả đã nhấn
mạnh đến phát triển hệ thống đường bộ, đường thủy và đường không. Đặc biệt sự
liên kết giữa hàng không, trong đó có LCA với các cơ sở lưu trú, du thuyền và đưa
khách tham quan vịnh bằng các loại máy bay du lịch và máy bay lên thẳng.
- Luận án tiến sĩ kinh tế, “Phát triển kinh doanh lưu trú du lịch tại vùng du
lịch Bắc Bộ của Việt Nam” (2011) [12] của Hoàng Thị Lan Hương, bảo vệ tại Đại
học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
+ Trong luận án, tác giả đã trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn về lưu trú
du lịch và kinh doanh lưu trú du lịch, xây dựng được một hệ thống các tiêu thức
đánh giá về kinh doanh lưu trú du lịch. Trong đó phân tích các tiêu thức xác định
kinh doanh lưu trú du lịch bền vững với việc liên kết với các hãng hàng không,
trong đó có LCA để duy trì lượng khách ổn định là một tiêu thức quan trọng.
+ Trong phân tích thực trạng và đề xuất các giải pháp đảm bảo cho kinh
doanh lưu trú du lịch phát triển bền vững thì liên kết giữa du lịch - hàng không được
xem như một tiêu thức, giải pháp giúp loại hình kinh doanh này phát triển.
- Luận án tiến sĩ, “Phát triển dịch vụ lữ hành du lịch trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế: Kinh nghiệm một số nước Đông Á và gợi ý chính sách cho Việt Nam”
[13] (2012) của Nguyễn Trùng Khánh bảo vệ tại Học viện Khoa học Xã hội thuộc Viện
Hàn lâm Khoa học và Xã hội Việt Nam.
+ Nội dung cơ bản của luận án là hướng vào phân tích lý luận về lữ hành du
lịch, dịch vụ lữ hành du lịch và các đặc điểm cơ bản của dịch vụ lữ hành du lịch

trong hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Phân tích kinh nghiệm phát triển dịch vụ lữ hành du lịch trong hội nhập
kinh tế quốc tế của một số nước Đông Á như Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan, từ
đó rút ra bài học cho Việt Nam.
+ Đặc biệt, tác giả luận án kết luận, khi phân tích về các bài học phát triển
dịch vụ lữ hành du lịch thì liên kết du lịch - hàng không được coi như là một yếu tố


12

quan trọng để phát triển các doanh nghiệp lữ hành du lịch Việt Nam. Trong đó được
tác giả tập trung phân tích những lợi thế căn bản của quan hệ liên kết này trong phát
triển các doanh nghiệp lữ hành và bảo đảm thành công các hoạt động của chúng.
* Một số nội dung nghiên cứu về liên kết Tourism – LCA trong các luận
án nghiên cứu về phát triển của ngành hàng không
Không có điều kiện tiếp cận và thực tế không có nhiều chuyên khảo nghiên
cứu các mặt khác nhau trong phát triển ngành hàng không ở Việt Nam. Tuy nhiên,
vẫn có thể tổng quan được một số vấn đề liên kết giữa du lịch - hàng không trong
các luận án sau:
- Luận án Tiến sĩ Kinh tế, “Những khả năng tích lũy và lợi nhuận trong
ngành Hàng không dân dụng Việt Nam” [18] (1996) của Đào Mạnh Nhương, bảo vệ
tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
+ Luận án đã trình bày những vấn đề lý luận chung về tích lũy và lợi nhuận
đối với sự phát triển của ngành hàng không dân dụng Việt Nam, trong đó phân tích
được vai trò, yếu tố chủ yếu tác động đến sự phát triển của ngành cũng như nhu cầu
khả năng tích lũy vốn và tạo lợi nhuận. Trong mục phân tích đặc điểm và khả năng
tích lũy vốn, luận án đã phân tích khá sâu về tiết kiệm ở tất cả các khâu trong hoạt
động các ngành hàng không như: Sử dụng các loại máy bay tiết kiệm nguyên liệu,
tiết kiệm trong cung ứng các dịch vụ mặt đất, lưu không sửa chữa và cả thuê máy
bay…Đây là những nội dung quan trọng có thể kế thừa trong phân tích sự hình

thành phát triển của một hãng LCA và cung ứng LCAS trong luận án.
+ Khi phân tích về các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn để tăng khả
năng tích lũy cũng cho thấy rõ bài học thất bại của một số hãng LCA đã rời bỏ thị
trường do phá sản hoặc tạm đình chỉ bay hiện nay.
- Luận án tiến sĩ kinh tế, “Xây dựng hãng hàng không chi phí thấp tại Việt
Nam đến năm 2020” [17] (2005) của Dương Cao Thái Nguyên tại Đại học Kinh tế
Thành Phố Hồ Chí Minh.
+ Luận án đã trình bày một số vấn đề chung về hãng LCA, trong đó phân
tích các đặc trưng của mô hình hãng chi phí thấp, phân tích trình bày những điều
kiện khách quan và chủ quan cũng như kinh nghiệm của một số nước về xây dựng
hãng LCA.
+ Trình bày những căn cứ cần thiết để xây dựng hãng LCA tại Việt Nam: 1)


13

Dựa trên các dự báo về thị trường dịch vụ vận tải hàng không, dự báo sự ra đời của
các hãng LCA và phân tích thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp vận tải hàng
không dân dụng Việt Nam; 2) Phân tích nhu cầu xây dựng hãng LCA tại Việt Nam;
và 3) Trình bày khả năng giảm chi phí và lợi nhuận cũng như những khó khăn trong
việc xây dựng hãng.
+ Trình bày nội dung và định hướng cũng như lộ trình xây dựng hãng LCA
tại Việt Nam, từ đó đưa ra các kiến nghị về xây dựng hãng LCA.
Tuy không phân tích cụ thể về liên kết LCA - Du lịch, song đây thực sự là
những nội dung quan trọng khi phân tích đặc tính của LCAS nêu trong luận án.
2.3. Khái quát kết quả từ các công trình đã được tổng quan và những
vấn đề luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu
2.3.1. Kết quả cơ bản từ các công trình đã được tổng quan
Qua nghiên cứu các công trình trong và ngoài nước, những vấn đề sau đây đã
được đề cập đến, luận án sẽ kế thừa và tiếp tục phát triển, hoàn thiện theo hướng

phù hợp với nội dung và yêu cầu của đề tài luận án đề ra:
Thứ nhất, một số công trình trong và ngoài nước đã đề cập tới khái niệm dịch
vụ hàng không giá rẻ (LCAS), dịch vụ du lịch và những đặc trưng cơ bản của hai
loại hình dịch vụ này. Ngoài ra còn đề cập tới hãng hàng không giá rẻ (LCA) và
doanh nghiệp kinh doanh du lịch với các loại hình khác nhau như: Doanh nghiệp lữ
hành du lịch, doanh nghiệp kinh doanh lưu trú, doanh nghiệp giao thông vận tải
phục vụ du lịch…và đặc thù của các loại hình kinh doanh này. Tuy nhiên, để sử
dụng được các khái niệm trên trong luận án cần phải khái quát lại và bổ sung những
đặc trưng mới cho phù hợp với nội dung và yêu cầu của luận án đòi hỏi.
Thứ hai, trong một số công trình đã đề cập đến phương thức mà các hãng
LCA thực hiện để giảm chi phí và bổ trợ trên không và dưới mặt đất, lựa chọn
đường bay, mạng bay và đội bay phù hợp…Những nội dung này luận án đã kế thừa
và phát triển rộng ra, gắn kết các đặc điểm hoạt động và phương thức tiết giảm chi
phí của ngành hàng không cho phù hợp và tương đồng hơn.
Thứ ba, một số công trình đã đề cập đến như cơ chế quản lý điều hành và vai
trò của chính sách Nhà nước trong phát triển ngành Tourism - LCA, song rất ít thấy
các ý tưởng của Nhà nước về thúc đẩy sự liên kết Tourism - LCA. Một số công
trình hoặc bài viết ngắn trên các website nhưng mới dừng ở mô tả thực tiễn chưa có


14

các luận chứng lý thuyết khoa học về vai trò điều tiết và quản lý nhà nước nhằm
thúc đẩy quá trình liên kết này, luận án kế thừa và sẽ phát triển hoàn thiện hơn.
Thứ tư, nhiều tư liệu thực tiễn và tình hình hoạt động của các hãng LCA và
các doanh nghiệp du lịch được tác giả luận án kế thừa và cơ cấu lại theo các tiêu
thức cho phù hợp với đề tài.
Thứ năm, hầu như tất cả các công trình nghiên cứu đều đề cập tới quan
điểm, phương hướng và hệ thống các giải pháp để thúc đẩy LCA hoặc du lịch
phát triển. Ở đây luận án chỉ kế thừa các giải pháp liên kết du lịch - hàng không

hoặc liên kết Tourism - LCA để phát triển và hoàn thiện hơn.
2.3.2. Những vấn đề sẽ phát triển mở rộng trong luận án
Cho đến nay, tác giả luận án chưa có tìm thấy một chuyên khảo nào viết về
liên kết phát triển Tourism – LCA trên thị trường dịch vụ của nước ta. Do đó, nội
dung cốt lõi trong đề cương được phê duyệt của luận án do tác giả tự nghiên cứu và
triển khai. Đó là các nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, chứng minh tính khách quan kinh tế của liên kết Tourism – LCA
do yêu cầu phát triển nội tại của hai ngành qui định, trong đó sản phẩm du lịch với
tư cách là sản phẩm ra đời trên cơ sở liên kết hoạt động đa ngành, trong đó liên kết
với hàng không giữ vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là các tour du lịch quốc tế.
Thứ hai, phân tích hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là hội nhập du lịch, tự
do hóa đòi hỏi LCA và lữ hành du lịch phải liên kết lại để tăng sức cạnh tranh
đương đầu với các hãng LCA trong vùng nhằm bảo đảm thành công cho tiến trình
hội nhập và phát triển của hai ngành trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế và bùng
nổ của cách mạng khoa học công nghệ.
Thứ ba, xây dựng mô hình và cơ chế liên kết Tourism – LCA tối ưu và sử
dụng lý thuyết này vào khảo sát thực trạng tiến trình liên kết Tourism – LCA của
Việt Nam. Từ đó chỉ ra những điều kiện cần thiết và nhân tố ảnh hưởng đến tiến
trình của sự liên kết này.
Thứ tư, xác định rõ vai trò của sự liên kết Tourism – LCA trong phát triển
bản thân hai ngành và đối với hoạt động của toàn bộ nền kinh tế. Đặc biệt là, đưa ra
được sản phẩm chung của sự liên kết cho ra đời một sản phẩm du lịch giá rẻ tối ưu.
Thứ năm, đưa ra được những quan điểm cơ bản và hệ thống các giải pháp
khả thi để thúc đẩy tiến trình liên kết Tourism – LCA và bảo đảm cho nó phát triển


15

ổn định bền vững trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
- Mục tiêu cơ bản của luận án là chứng minh tính khách quan và lợi ích to
lớn của liên kết giữa du lịch (Tourism) và hàng không giá rẻ (LCA). Từ đó xác định
rõ quan điểm và giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng và củng cố mối
liên kết giữa Tourism - LCA để 2 ngành du lịch và LCA cùng phát triển ổn định ở
mức độ cao hơn, tạo chuyển biến mạnh về chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh
trong hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam.
- Để thực hiện mục tiêu trên, Luận án có những mục tiêu cụ thể sau:
+ Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về lí luận của du lịch hàng không giá
rẻ, các điều kiện và mô hình liên kết tối ưu giữa Tourism - LCA cũng như kinh
nghiệm liên kết này ở các nước trong khu vực.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng hợp tác giữa hàng không với du lịch ở Việt
Nam trong thời gian qua. Trên cơ sở đó chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nguyên
nhân của những hạn chế của nó.
+ Xác định những xu hướng, quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh
và nâng cao hiệu quả hợp tác giữa hàng không nói chung và dịch vụ hàng không giá
rẻ nói riêng với du lịch trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Do đối tượng của chuyên ngành kinh tế chính trị là nghiên cứu quan hệ sản
xuất, tức là mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, từ
đó chỉ rõ bản chất và qui luật vận động của các quá trình kinh tế. Tuy nhiên, để hiểu
rõ bản chất và qui luật vận động của các quá trình này việc phân tích sự phát triển
của lực lượng sản xuất với sự phù hợp của quan hệ sản xuất là cần thiết. Cụ thể ở đề
tài này là nghiên cứu mối quan hệ liên kết giữa các doanh nghiệp của hai ngành:
Tourism và LCA, trong đó sự phát triển của sức sản xuất trong điều kiện toàn cầu
hoá và khu vực hoá đã phát triển tới mức đòi hỏi chúng phải liên kết với nhau trong
cùng một dây chuyền cung ứng dịch vụ Tourism và LCA cho thị trường mở rộng,
để tối đa hóa lợi ích nhằm phát triển của cả Tourism và LCA trong cạnh tranh quốc



16

tế, phát triển và hội nhập kinh tế quốc gia.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
+ Về thời gian từ khi xuất hiện các hãng LCA và hoạt động cung ứng LCAS
ra thị trường ở Việt Nam, giai đoạn 2008 – 2014.
+ Về không gian và đối tượng khảo sát, chủ yếu phân tích liên kết Tourism LCA trong phạm vi nền kinh tế Việt Nam trong điều kiện cạnh tranh của các hãng
LCA của các nước khác hoạt động trên thị trường nước ta. Việc liên kết LCA và Du
lịch Việt Nam với các nước khác diễn ra không thường xuyên nên luận án chỉ đề
cập tới sự liên kết này dưới dạng xu hướng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
5.1. Cơ sở lý luận của luận án
Luận án lấy cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; quan điểm đường lối
chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về liên kết ngành kinh tế, trong đó có liên
kết Du lịch – Hàng không giá rẻ làm thế giới quan và phương pháp luận trong phân
tích đề tài luận án.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Khi phê phán quan điểm sai lầm của các lý luận gia tư sản về phương pháp
nghiên cứu của Khoa Kinh tế chính trị, C.Mác viết: “ .. khi phân tích những hình
thái kinh tế, người ta không thể dùng kính hiển vi hay những chất phản ứng hóa học
được. Sức trừu tượng hóa phải thay thế cho cả hai cái đó” [15,Tr 16]. Tức là, ở đề
tài này khi nghiên cứu liên kết Tourism - LCA phải gạt bỏ những biểu hiện không
bản chất, chỉ giữ lại các quan hệ bản chất phản ánh tính qui luật của quá trình liên
kết. Tính qui luật ở đây chính là sự giao thoa lợi ích của các chủ thể tham gia thông
qua mô hình liên kết tối ưu. Do đó phương pháp nghiên cứu chủ yếu ở đây là chỉ rõ
bản chất và tính qui luật của các quá trình kinh tế, còn phương pháp so sánh đối
chiếu, thống kê, mô hình hoá, trừu tượng hoá khoa học, phương pháp nghiên cứu tài
liệu để thu thập thông tin về cơ sở lý luận...bổ sung, minh chứng cho các lập luận.
Phương pháp phân tích, tổng hợp được tác giả sử dụng để phân tích cơ sở lý

luận ở chương 1 và thực trạng liên kết giữa du lịch - hàng không giá rẻ ở chương 2
để từ đó làm cơ sở cho việc đề ra những chính sách và giải pháp ở chương 3.
Phương pháp thống kê, mô tả được sử dụng để minh chứng thực trạng liên


17

kết giữa du lịch - hàng không giá rẻ trong chương 2.
Phương pháp mô hình hoá được sử dụng trong chương 1 và 2 để làm rõ vấn
đề liên kết giữa du lịch và hàng không giá rẻ
Phương pháp dự báo khoa học được sử dụng trong chương 3 nhằm đưa ra xu
hướng và quan điểm cho liên kết giữa du lịch – hàng không giá rẻ, để từ đó đề ra
những chính sách và giải pháp khả thi, có hiệu quả.
6. Những đóng góp về lý luận và thực tiễn của luận án.
- Về lý luận, luận án đã chứng minh sự liên kết du lịch – hàng không giá rẻ là
một khách quan kinh tế xuất phát từ yêu cầu mở rộng phân công chuyên môn hóa
dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật và hội nhập kinh tế quốc tế. Bước đầu
hình thành mô hình liên kết du lịch – hàng không giá rẻ tối ưu dựa trên nguyên tắc
cân bằng lợi ích giữa các chủ thể kinh tế.
- Về thực tiễn, phân tích được thực trạng các quan hệ liên kết giữa du lịch –
hàng không giá rẻ ở các mức độ liên kết khác nhau, đánh giá kết quả đạt được đồng
thời chỉ ra những mặt mạnh, mặt yếu của liên kết du lịch – hàng không thời gian
qua, làm cơ sở cho việc đề xuất những chính sách và giải pháp trong thời gian tới.
- Đề xuất các chính sách và giải pháp thiết thực nhằm thúc đẩy sự liên kết du
lịch – hàng không giá rẻ trong hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam để từ đó nâng
cao hiệu quả hoạt động của du lịch và hàng không, nhằm góp phần phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về liên kết Du lịch - Hàng không giá

rẻ trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Thực trạng liên kết Du lịch -Hàng không giá rẻ trong hội nhập
kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Những quan điểm và giải pháp cơ bản thúc đẩy tiến trình liên
kết Du lịch - Hàng không giá rẻ trong hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện
nay.


18

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LIÊN KẾT DU LỊCH - HÀNG
KHÔNG GIÁ RẺ TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. Cơ sở khách quan của liên kết Du lịch - Hàng không giá rẻ trong hội
nhập kinh tế quốc tế
Tính khách quan của quá trình liên kết kinh doanh của các chủ thể kinh tế
thường xuất phát từ chính đặc điểm và các sản phẩm mà chúng cung cấp cho thị
trường. Liên kết giữa du lịch - hàng không giá rẻ, trước hết cũng xuất phát từ các
đặc điểm hoạt động cung ứng các dịch vụ của chúng, do đó việc phân tích bản thân
du lịch, hàng không giá rẻ và đặc điểm các dịch vụ chúng cung cấp cho thị trường là
cần thiết.
1.1.1. Du lịch và những đặc trưng cơ bản của dịch vụ du lịch trong hội
nhập kinh tế quốc tế
1.1.1.1. Du lịch
Theo từ điển Webster’s New University, du lịch (tourism) được định nghĩa
“là chuyến đi chơi, là lĩnh vực kinh doanh các chuyến du lịch và các dịch vụ cho
khách du lịch”.
Trước thế kỷ XIX, khi kinh tế chưa phát triển, các phương tiện giao thông
vận tải và thông tin liên lạc còn thô sơ chưa cho phép một bộ phận lớn dân cư đủ
khả năng tài chính, thời gian để vượt những khoảng cách xa trên trái đất, thì du lịch

chỉ là hiện tượng cá biệt của một số ít người thuộc tầng lớp quý tộc. Ngay đầu thế
kỷ XX, khách du lịch vẫn phải tự lo lấy việc đi lại, ăn ở tại nơi đến tham quan và
thưởng ngoạn phong cảnh đẹp, du lịch chưa được coi là một hoạt động kinh tế.
Trong điều kiện đó, du lịch chỉ là hiện tượng những người đến một nơi khác ngoài
nơi cư trú thường xuyên của mình do nhiều nguyên nhân, ngoại trừ mục đích kiếm
tiền và ở đó người này phải tiêu tiền mà họ kiếm được ở nơi khác.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, khi bùng nổ khoa học công nghệ, kinh tế
tăng trưởng và phát triển nhanh chóng, các phương tiện giao thông vận tải và thông
tin liên lạc được hiện đại hóa, dòng du khách ngày càng đông, nhu cầu tham quan,
giải trí, nghỉ dưỡng, hội nghị…tăng lên nhanh chóng, du lịch trở thành một hoạt
động kinh tế. Từ đó, du lịch được coi là toàn bộ những hoạt động và công việc phối


19

hợp giữa các ngành nhằm thỏa mãn nhu cầu của du khách.
Theo Điều 4, chương I Luật Du lịch Việt Nam (2005), “Du lịch là các hoạt
động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của
mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một
khoảng thời gian nhất định”.
Khi kinh doanh du lịch ngày càng phát triển, hoạt động liên kết phối hợp
gắn bó nhiều ngành tạo thành một hệ thống mở rộng ra trên phạm vi toàn cầu,
cuốn hút nhiều quốc gia vào hệ thống của nó thì, du lịch được coi là một ngành
công nghiệp với toàn bộ hoạt động mà mục tiêu là kết hợp giá trị của các tài
nguyên du lịch thiên nhiên và nhân văn với các dịch vụ, hàng hóa để tạo ra sản
phẩm du lịch đáp ứng mọi nhu cầu của du khách. Đặc biệt là sự liên kết giữa du
lịch với các ngành của lĩnh vực giao thông vận tải. Để hiểu rõ sự liên kết giữa
các ngành trong hoạt động du lịch cần hiểu rõ hơn sự giao thoa giữa du lịch và
ngành giao thông vận tải với ngành lữ hành du lịch, một bộ phận cấu thành đặc
thù của ngành du lịch.

- Ngành du lịch (Tourism industry): gồm các doanh nghiệp cung cấp hàng
hóa và dịch vụ cho khách du lịch như:
+ Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận chuyển (transports) là doanh nghiệp
nòng cốt.
+ Đại lý lữ hành (Travel agency): Điều hành chương trình du lịch (Tour
operators), các điểm tham quan, vui chơi giải trí (Attractions), là doanh nghiệp nòng cốt.
+ Doanh nghiệp kinh doanh lưu trú, ăn uống và các dịch vụ hiếu khách khác
(hospitality).
+ Các loại hình doanh nghiệp khác trong nền kinh tế có cung cấp dịch vụ cho
khách du lịch (cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho các đối tượng khách hàng khác
không phải là khách du lịch, nhưng có tỷ trọng thu nhập từ khách du lịch lớn hơn).
- Ngành lữ hành du lịch (Travel and Tourism Industry): Gồm các doanh
nghiệp thuộc ngành du lịch (hoặc có thu nhập từ du lịch), kết hợp với các doanh
nghiệp cung ứng dịch vụ giao thông vận tải và các dịch vụ khác nhằm cung cấp các
hàng hóa và dịch vụ cho khách du lịch tại điểm đến trong chương trình du lịch [53].
Dựa trên những phân tích trên đây, có thể thấy rằng lữ hành du lịch là một
ngành kinh tế mang tính liên ngành rất chặt chẽ, trong đó hạt nhân liên kết là các


20

doanh nghiệp cung cấp các sản phẩm, tài nguyên du lịch với doanh nghiệp cung cấp
các dịch vụ giao thông vận tải. Khi tiến hành nghiên cứu về hoạt động lữ hành du
lịch cần phải bao gồm nghiên cứu hoạt động của các lĩnh vực liên quan như đại lý
lữ hành, điều hành chương trình du lịch, dịch vụ hướng dẫn du lịch, dịch vụ lưu trú,
dịch vụ ăn uống, dịch vụ vận chuyển, điểm tham quan vui chơi giải trí và một số
lĩnh vực khác có vai trò hỗ trợ và cung ứng hàng hóa, dịch vụ cho hoạt động du lịch
nói chung.
Du lịch là một hoạt động kinh tế - xã hội đặc thù, trong đó phản ánh tổng hòa
các quan hệ lợi ích giữa những ngành tham gia vào kinh doanh du lịch. Trong Điều

6 “Dự thảo pháp lệnh du lịch” lần thứ 9 của Việt Nam, thì du lịch được coi là những
hoạt động và các quan hệ phát sinh do sự tác động qua lại lẫn nhau giữa du khách,
người kinh doanh du lịch, chính quyền và cộng đồng dân cư địa phương trong quá
trình thu hút, tiếp đón và phục vụ khách du lịch. Để thấy rõ tính khách quan của liên
kết Tourism - LCA cần hiểu dịch vụ du lịch và các đặc trưng cơ bản của nó.
1.1.1.2. Dịch vụ du lịch và những đặc trưng cơ bản
Cho đến nay chưa có một khái niệm chung thống nhất trên phạm vi toàn cầu
về khái niệm dịch vụ, trong đó có dịch vụ du lịch, do đó người ta chỉ có thể dựa vào
đặc điểm của nó để đưa ra khái niệm dịch vụ. Theo đó, dịch vụ là các hoạt động sản
xuất xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng hóa không tồn tại dưới hình thái vật thể, nhằm
thỏa mãn tức thời, thuận lợi và có hiệu quả các nhu cầu trong sản xuất và đời sống
của con người.
Du lịch là một ngành kinh tế mà sản phẩm của nó chủ yếu là dịch vụ có đặc
điểm là: không tồn tại dưới dạng vật thể, không lưu kho, lưu bãi, không thể chuyển
quyền sở hữu khi sử dụng. Lữ hành là một bộ phận quan trọng cấu thành ngành du
lịch, vì vậy lữ hành cũng là một lĩnh vực dịch vụ.
Thuật ngữ “Dịch vụ lữ hành du lịch” có ý nghĩa tương tự thuật ngữ “dịch vụ
du lịch”. Trong thực tiễn ở nhiều quốc gia trên thế giới, hai thuật ngữ này được sử
dụng như nhau, có thể thay thế cho nhau, thậm chí có nhiều tài liệu còn sử dụng
thuật ngữ “dịch vụ du lịch lữ hành” để ám chỉ sự tương đồng về nội dung của hai
thuật ngữ trên.
Theo Đạo Luật về ngành Lữ hành Du lịch (được sửa đổi ngày 30/3/2011) của
bang British Columbia, Canada, “Dịch vụ lữ hành (travel services) bao gồm các


21

dịch vụ vận chuyển, lưu trú dành cho lữ khách, khách du lịch, khách tham quan
hoặc các dịch vụ khác có sự kết hợp với dịch vụ vận chuyển hoặc dịch vụ lưu trú
đó” [57]

Trong mục 9 của “Danh mục phân loại lĩnh vực dịch vụ” (MTN.GNS/W/120),
WTO cũng đã phân chia dịch vụ lữ hành du lịch (Tourism and Travel Related Services)
thành 4 phân ngành. Trong đó, 3 phân ngành đầu tiên nằm trong danh mục “Phân
loại tạm thời sản phẩm trung tâm” (Central Products Classification - viết tắt là CPC)
của Liên Hợp quốc. Những phân ngành và ký hiệu CPC của chúng như sau: 1)
Khách sạn và nhà hàng (bao gồm dịch vụ ăn uống) (CPC 641 - 643); 2) Đại lý lữ
hành và dịch vụ điều hành chương trình du lịch (CPC 7471); 3) Dịch vụ hướng dẫn
du lịch (CPC 7472); và 4) Các dịch vụ khác.
Vì hoạt động du lịch là một phần của các hoạt động dịch vụ tổng hợp, đặc
biệt là dịch vụ vận chuyển, đồng thời cũng bao gồm một số dịch vụ kinh doanh,
dịch vụ phân phối và dịch vụ giải trí, văn hóa và thể thao. Do vậy, các dịch vụ này
được phân loại trong nhóm các loại dịch vụ khác [52].
Từ nhu cầu của quá trình hội nhập của nền kinh tế nói chung và ngành du
lịch nói riêng, Tổng cục Du lịch (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) và Tổng cục
Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (Bộ Khoa học và Công nghệ) đang phối hợp xây
dựng dự thảo Tiêu chuẩn Quốc gia “Du lịch và các dịch vụ liên quan - Thuật ngữ và
định nghĩa” (Tourism an other related services - Terminology and Definition) nhằm
thống nhất cách hiểu và cách sử dụng thuật ngữ trong du lịch.
Theo đó, dịch vụ du lịch là toàn bộ các dịch vụ được cung ứng cho du khách,
trong đó bao gồm các dịch vụ vận chuyển, dịch vụ lưu trú, ăn uống, dịch vụ vui chơi
giải trí, dịch vụ hướng dẫn du lịch và các dịch vụ khác, nhằm thỏa mãn các nhu cầu
liên quan trong chuyến đi của khách du lịch.
Trong điều kiện toàn cầu hóa mở rộng và hội nhập sâu của các nền kinh tế
quốc gia vào nền kinh tế khu vực và quốc tế, thì du lịch là ngành tiên phong hội
nhập sâu và rộng vào ngành du lịch thế giới. Từ đó khái niệm du lịch quốc tế và
dịch vụ du lịch quốc tế cũng xuất hiện.
Trên cơ sở tổng hợp những định nghĩa của Ủy ban Thống kê của Liên Hợp
quốc (UNCTAT) [50] và Luật Du lịch Việt Nam (2005) [19] về loại hình du lịch
quốc tế, có thể hiểu Du lịch quốc tế là hoạt động du lịch vượt ra khỏi phạm vi biên



22

giới của một quốc gia. Theo cách phân loại của UNWTO [10, tr.28], thì du lịch
quốc tế được phân thành 2 loại: Du lịch quốc tế vào (inbound) - là hoạt động du lịch
của những người từ nước ngoài đến du lịch tại một quốc gia; và Du lịch quốc tế ra
(outbound) - là hoạt động du lịch của những người trong một quốc gia đi ra khỏi
nước mình để du lịch. Từ đó, hình thành nên ba khái niệm khác liên quan đến loại
hình du lịch: Du lịch nội địa (Domestic): là hoạt động du lịch của một quốc gia đi
du lịch trong quốc gia đó; Du lịch quốc nội (internal): bao gồm du lịch nội địa và du
lịch quốc tế vào; và du lịch quốc gia (national): bao gồm du lịch nội địa và du lịch
quốc tế ra (Sơ đồ 1.1).
Sơ đồ 1.1: Các hình thức du lịch

Du lịch quốc nội
(Internal Tourism)

Du lịch
nội địa
(Domestic
Tourism)

Du lịch quốc tế
vào (Inbound
Tourism)

Du lịch quốc gia
(National Tourism)

Du lịch quốc tế

ra (Outbound
Tourism)

Du lịch quốc tế (International Tourism)

Nguồn: Tổ chức du lịch thế giới. [41]
Từ phân loại du lịch như trên, người ta chia dịch vụ du lịch thành hai loại:
Dịch vụ đối với khách du lịch quốc tế và dịch vụ đối với khách du lịch nội địa.
Trong đó, dịch vụ đối với khách du lịch quốc tế lại được chia thành hai loại:
Dịch vụ đối với khách du lịch quốc tế vào (inbound) và dịch vụ đối với khách du
lịch ra (outbound).
Từ đó có thể hiểu Dịch vụ du lịch quốc tế là toàn bộ các dịch vụ được cung
ứng cho khách du lịch quốc tế, bao gồm các dịch vụ vận chuyển, dịch vụ lưu trú, ăn
uống, dịch vụ vui chơi giải trí, dịch vụ hướng dẫn du lịch và các dịch vụ khác nhằm
thỏa mãn nhu cầu liên quan trong chuyến đi của đối tượng khách du lịch quốc tế,
trong đó vận chuyển và dịch vụ tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng, thể thao, thám


23

hiểm, hội nghị giữ vị trí nòng cốt.
1.1.1.3. Những đặc trưng cơ bản của dịch vụ du lịch
Trong kinh doanh du lịch, cung ứng dịch vụ du lịch gắn liền với nhu cầu phát
sinh một đại lượng xác định nhưng hầu hết không tồn tại ở dạng hiện vật. Với tư
cách là một lĩnh vực dịch vụ, dịch vụ du lịch cũng chứa đựng những đặc tính cơ bản
của dịch vụ nói chung, đó là tính vô hình, tính không thể phân chia, tính có khả
năng biến đổi và tính dễ phân hủy. Ngoài ra, dịch vụ du lịch còn có hai thuộc tính
đặc thù, đó là tính không đồng nhất và tính không có quyền sở hữu.
Thứ nhất, tính vô hình (Intangible): Khác với sản phẩm ở dạng vật thể, các
dịch vụ không thể nhìn thấy, nếm ngửi, cảm giác hay nghe thấy trước khi mua.

Để giảm sự bất định của tính chất vô hình, người mua thường tìm hiểu về dịch
vụ thông qua những dấu hiệu hữu hình từ những thông tin được cung cấp và niềm tin
về chất lượng của dịch vụ đó thông qua sự trải nghiệm của những người đi trước.
Thứ hai, tính không thể phân chia (Inseparable): Dịch vụ được tạo ra và tiêu
thụ một cách đồng thời, vì vậy cả người cung ứng dịch vụ và khách hàng không thể
tách rời nhau trong quá trình sản xuất và tiêu dùng. Khách hàng tiếp xúc với nhân
viên là một phần quan trọng của việc hình thành sản phẩm và quá trình tiêu thụ dịch
vụ diễn ra khi có tác động qua lại giữa người cung cấp dịch vụ với khách hàng.
Thứ ba, tính có khả năng biến đổi (Heterogeneous): Dịch vụ rất dễ thay đổi,
chất lượng của sản phẩm tùy thuộc phần lớn vào người cung cấp, địa điểm cung cấp
và thời điểm cung cấp. Nguyên nhân là do: 1) Dịch vụ được cung cấp và tiêu thụ
đồng thời, nên việc kiểm tra chất lượng sản phẩm rất hạn chế; 2) Sự biến động về
nhu cầu gây khó khăn cho việc cung cấp chất lượng đồng nhất, đặc biệt là trong thời
điểm có nhu cầu cao; 3) Chất lượng dịch vụ tùy thuộc vào kỹ năng của người cung
cấp và thời điểm tiếp xúc giữa khách hàng với nhân viên; 4) Dịch vụ được cung cấp
tới khách hàng thông qua các nhân viên phục vụ (yếu tố con người) và do yếu tố
tâm lý, sức khỏe của họ, nên không thể tạo ra được dịch vụ như nhau trong những
thời gian làm việc khác nhau. Hơn nữa, khách hàng tiêu dùng là người quyết định
chất lượng dịch vụ dựa trên cảm thụ của họ. Trong những thời gian khác nhau, sự
cảm nhận đó cũng khác nhau, những khách hàng khác nhau cũng có những cảm
nhận khác nhau; và 5) Sự thay đổi và thiếu đồng nhất của sản phẩm là nguyên nhân


24

chính tạo nên sự thất vọng ở khách hàng.
Thứ tư, tính dễ phân hủy (Perishable): Dịch vụ không thể tồn kho, nghĩa là
sản phẩm du lịch không thể để dành cho ngày mai. Dịch vụ không bán được hôm
nay không thể bán cho ngày hôm sau.
Thứ năm, tính không đồng nhất (Herogeneity): Việc tạo ra dịch vụ liên quan

đến sự kết hợp giữa các yếu tố hữu hình (các phương tiện vật chất) và vô hình (kỹ
năng phục vụ, thái độ phục vụ của nhân viên). Do đó, chất lượng của dịch vụ được
tạo ra trong những thời điểm khác nhau là không đồng nhất.
Thứ sáu, tính không có quyền sở hữu (Non - ownership): Dịch vụ không có
quyền sở hữu. Khách hàng chỉ mua được quyền sử dụng dịch vụ tạm thời trong một
khoảng thời gian nhất định nào đó mà thôi.
Hiện nay, với trình độ khoa học công nghệ tiên tiến, các doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ du lịch có thể cạnh tranh nhau thông qua sự hỗ trợ của công nghệ, để
làm tăng thêm giá trị của dịch vụ. Tuy nhiên, yếu tố con người vẫn đóng vai trò
quan trọng trong việc tạo nên giá trị, chất lượng của sản phẩm qua việc cung cấp
dịch vụ.
Do giao thông vận tải là ngành tạo ra dịch vụ lưu chuyển du khách từ những
địa điểm khác nhau trên trái đất đến những vùng có tài nguyên du lịch tự nhiên, văn
hóa đặc thù thỏa mãn được nhu cầu tham quan, giải trí, thám hiểm, nghỉ dưỡng,
chữa bệnh…, nên sự liên kết giữa du lịch với các dịch vụ vận tải, đặc biệt là dịch vụ
hàng không là một khách quan kinh tế xuất phát từ nhu cầu phát triển ngành du lịch
và ngành hàng không.
1.1.2. Hãng hàng không giá rẻ và việc cung cấp dịch vụ hàng không giá rẻ
1.1.2.1. Hàng không giá rẻ và các đặc trưng cơ bản
Thuật ngữ “Hàng không chi phí thấp” hay Việt hóa thành “Hàng không giá
rẻ” (Low Cost Airlines - LCA) ra đời với chuyến bay đầu tiên vào 6/5/1949 dưới
tên gọi Pacific SouthWest. Tuy nhiên, đến tận năm 1968, hãng hàng không giá rẻ
SouthWest Airlines mới chính thức được thành lập tại bang Texas (Mỹ) và có
không gian hoạt động trong nội bang. Từ năm 1970 đến nay, hàng không giá rẻ phát
triển mạnh mẽ và lan rộng ra nhiều châu lục đặc biệt là Đông Nam Á.
Hãng LCA có các đặc trưng cơ bản sau:


25


Thứ nhất, giá cả dịch vụ cung cấp cho thị trường có tỷ suất lợi nhuận trong
cơ cấu giá thành thấp, do đó mức tăng trưởng lợi nhuận của hãng chủ yếu dựa trên
tăng cung khối lượng dịch vụ.
Thứ hai, để tăng khối cầu dịch vụ hãng đã giảm xuống mức thiết yếu các
dịch vụ cao cấp trong cả khâu sản xuất, phân phối dịch vụ và marketing..
Thứ ba, để giảm thiểu chi phí trong giá thành các dịch vụ, hãng LCA sử dụng
các loại máy bay thân rộng, mạng bay tầm ngắn, có năng suất hoạt động cao, tần
suất lớn, quay vòng nhanh, điểm đối điểm và không trùng hợp với các hãng hàng
không truyền thống. Có thể thấy rõ ở Bảng 1.1 so sánh dưới đây:
Bảng 1.1. So sánh đặc trưng kinh tế kỹ thuật giữa hãng hàng không
truyền thống với hãng hàng không giá rẻ
Hoạt động kinh doanh

Hãng hàng không

Hãng hàng không giá rẻ

truyền thống
Tính độc lập

Độc lập

Đa dạng

Đội bay

Đa chủng loại

Đơn chủng loại


Loại ghế

Đa dạng

Đồng dạng

Mạng bay

Phức tạp

Giản đơn

Mọi sân bay

Sân bay thứ cấp

Đa dạng

Chỉ bán trực tuyến

Đủ mọi yêu cầu

Phục vụ khi có yêu cầu

Đủ mọi thủ tục

Phục vụ tối thiểu

Chuyên nghiệp cao, chuyên


Chuyên nghiệp, đa dịch vụ

Sử dụng sân bay
Phục vụ bán sản phẩm
Phục vụ hành khách trên
máy bay
Các thủ tục phục vụ
Đội ngũ lao động

môn hóa
Cao, đa dạng

Giá vé

Đơn giản, thấp hơn hãng
truyền thống khoảng 30%

Chương trình khách hàng

Đa dạng, thường xuyên

Không thường xuyên

thường xuyên

Nguồn: Tổng hợp nghiên cứu của tác giả
Từ phân tích những đặc điểm cơ bản trên có thể thấy, hãng LCA là hãng
được xây dựng trên cơ sở phối hợp các hoạt động linh hoạt ở tất cả các khâu sản
xuất, phân phối nhằm cung cấp các dịch vụ với mức chi phí tối cần thiết nhằm đảm
bảo cho chuyến bay an toàn theo qui chuẩn với chi phí dịch vụ thấp, giá vé rẻ và đạt



×