Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Tác động của cơ cấu lao động đến hiệu quả kinh doanh của công ty CP Tư vấn và xây lắp công trình môi trường CCEP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.51 KB, 56 trang )

Đề tài:

Tác động của cơ cấu lao động đến hiệu quả kinh doanh
của công ty CP Tư vấn và xây lắp công trình
môi trường CCEP.

Sinh viên thực hiện: Vũ Thị Thoan
Lớp: XH14A
MSSV: 1145011462


2

MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
2.1 Ý nghĩa khoa học
2.2 Ý nghĩa thực tiễn
3. Mục tiêu nghiên cứu
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
4.2 Khách thể nghiên cứu
4.3 Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp phân tích tài liệu
5.2 Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi
5.3 Phương pháp phỏng vấn sâu
5.4 Phương pháp quan sát


6. Giả thuyết nghiên cứu
7. Khung lý thuyết
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
1. Các lý thuyết của đề tài
1.1 Lý thuyết cấu trúc – chức năng
1.2 Lý thuyết phân công lao động
2. Các khái niệm công cụ
2.1 Khái niệm lao động
2.2 Khái niệm cơ cấu
2.3 Khái niệm cơ cấu xã hội
2.4 Khái niệm cơ cấu lao động
2.5 Khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh
Chương 2: Kết quả nghiên cứu
1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
1.2 Quá trình hình thành và phát triển công ty
1.3 Cơ cấu tổ chức quản lý của công ty
2. Sự biến đổi cơ cấu lao động
2.2 Biến đổi cơ cấu lao động theo tuổi và giới tính
2.3 Biến đổi cơ cấu lao động theo trình độ học vấn và chuyên môn kỹ
thuật
2.3.2 Biến đổi cơ cấu lao động theo trình độ học vấn
2.3.3 Biến đổi cơ cấu lao động theo chuyên môn kỹ thuật
2


3

2.4
2.5


Biến đổi cơ cấu lao động theo chức năng nghề nghiệp
Biến đổi cơ cấu lao động theo hợp đồng lao động, tiền lương, thu
nhập
2.4.1 Biến đổi cơ cấu lao động theo hợp đồng lao động
2.4.2 Biến đổi cơ cấu lao động theo tiền lương và thu nhập bình
quân
3. Tác động của sự chuyển dịch cơ cấu lao động đến hiệu quả sản xuất
kinh doanh của công ty
3.1 Tác động của sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo tuổi, giới tính
đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty.
3.2 Tác động của sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo trình độ học
vấn, chuyên môn kỹ thuật đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của
công ty.
3.3 Tác động của sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo chức năng
nghề nghiệp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty.
3.4 Tác động của sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hợp đồng lao
động, tiền lương, thu nhập đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của
công ty.
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Khuyến nghị

3


4

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.

Công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH – HĐH) là vấn đề có tính quy
luật đối với tất cả các nước đi lên Chủ nghĩa xã hội từ nền kinh tế lạc hậu,
bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa như Việt Nam. Quá trình CNH ở nước ta
đưuọc thực hiện từ đầu những năm 60 của thế kỷ XX. Hơn 50 năm qua,
đường lối CNH đất nước có những điều chỉnh khá cơ bản theo sự phát
triển của tư duy và điều kiện cụ thể.
Có thể thấy, từ khi tiến hành CNH- HĐH, nước ta về cơ bản đã có
những chuyển biến tích cực về mọi mặt của đời sống xã hội, đặc biệt là sự
chuyển biến về cơ cấu kinh tế. Đây chính là thời cơ mới, vận hội mới, thế
lực cũng như tiềm năng mới cho phép chúng ta khai thác các nguồn lực
bên ngoài một các hiệu quả nhất. Ở Việt Nam, ngay từ những năm 90 của
thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “Cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút tất cả các nước
khác nhau”. Gần đây nhất, Đảng ta đã xác định gắn công nghiệp hóa, hiện
đại hóa với phát triển kinh tế tri thức: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ môi trường”. (Văn kiện Đại
hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam), hay “ Đẩy mạnh CNH – HĐH, xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa đất nước trở thành một nước công
nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ
sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa…” (Văn kiện Đại hội
IX Đảng Cộng sản Việt Nam – Tr 97), trong đó Đảng ta khẳng định, phát
triển khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình
phát triển nhanh và bền vững.
Con đường CNH – HĐH đất nước là con đường tất yếu trong thời kỳ
đổi mới. Đây cũng là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân ta. Trong quá
trình ấy thì phát triển kinh tế được coi là nhiệm vụ trung tâm. Sự hình
thành của nền kinh tế tri thức thay cho nền kinh tế nông nghiệp và kinh tế
công nghiệp là một sự chuyển mình của nền kinh tế quốc gia, đồng thời tạo
ra cơ hội hòa nhập vào nền kinh tế chung của thế giới. Nhưng bên cạnh đó
cũng là một thách thức rất lớn đòi hỏi phải có những giải pháp biến đổi cơ

cấu lao động để phù hợp với thực tiễn nước ta.
Để thực hiện mục tiêu trên, các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang
tiến hành đổi mới về mọi mặt như: cơ chế quản lý, công nghệ, nhân lực,
tầm nhìn chiến lược… Tuy nhiên, đối với một doanh nghiệp, việc sử dụng
lao động được coi là vấn đề quan trọng hàng đầu bởi lao động là một trong
ba yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Chỉ có sự nắm bắt, bố trí, sử dụng
nguồn lao động hợp lý trong tổ chức mới giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm
4


5

chi phí, thời gian và công sức, nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất
kinh doanh, hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
Việt Nam hướng đến xã hội công nghiệp hiện đại, yêu tố tất yếu là
sẽ gây ra những tác động tiêu cực đến môi trường sống. Mà một đất nước
phát triển bền vững phải gắn liền với nhiệm vụ bảo vệ môi trường. Song
song đó, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của các công ty, xí nghiệp sản
xuất sản phẩm kéo theo sự cạnh tranh chất lượng sản phẩm buộc các cơ sở
sản xuất phải đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao về tiêu chuẩn bảo vệ
môi trường.Bởi lẽ, môi trường sống gắn bó hữu cơ với cuộc sống của con
người, cũng như với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Ngành
khoa học về môi trường đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển
chung của nền kinh tế. Vì vậy mà nghiên cứu cơ cấu nền kinh tế, cơ cấu
lao động và tác động của nó đến hiệu quả hoạt động của toàn ngành công
nghệ môi trường được các nhà quản lý cũng như rất nhiều người dân quan
tâm.
Hòa mình với sự phát triển bền vững của đất nước, công ty Cổ phần
tư vấn và xây lắp công trình môi trường CCEP đã có nhiều đóng góp to lớn
bảo vệ môi trường sống cho nước nhà. Mặc dù còn là một doanh nghiệp

còn non trẻ, nhưng Công ty cổ phần tư vấn và xây lắp công trình CCEP
cũng đã chú trọng đến vấn đề về tổ chức bộ máy quản lý, sắp xếp lại cơ
cấu lao động 1 cách tương đối hợp lý. Tuy nhiên, thực tiễn ngày càng đặt
ra những yêu cầu đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải quan tâm hơn nữa đến
vấn đề nhân lực để phát huy triệt để những lợi thế nhằm góp phần vào việc
hợp lý hóa cơ cấu kinh tế. Từ những lý luận và thực tiền mang tính cấp
thiết trên, tôi đã luwajc chọn đề tài : “ Xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao
động và tác động của nó đến hiệu quả kinh doanh của công ty CP Tư
vấn và xây lắp công trình môi trường CCEP trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa”.

2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài.
2.1 Ý nghĩa khoa học.
Đề tài làm rõ sự chuyển dịch cơ cấu lao động tại Công ty Cổ phần
tư vấn và xây lắp công trình môi trường CCEP qua việc giải thích những
khái niệm khoa học như khái niệm cơ cấu lao động và tác động của nó đến
hiệu quả kinh doanh.
Trong nghiên cứu đề tài dùng các lý thuyết xã hội học như: Lý
thuyết cấu trúc chức năng, lý thuyết biến đổi xã hội, lý thuyết phân công
lao động để đánh giá thực trạng và nguyên nhân dẫn đến xu hướng chuyển
dịch cơ cấu lao động. Đưa ra những hiểu biết khoa học mới về sự tác động

5


6

của điều kiện kinh tế xã hội đến cơ cấu lao động tại công ty trong quá trình
đổi mới.
Việc khai thác những khái niệm, lý thuyết, phạm trù khoa học góp

phần nâng cao vai trò, vị trí của xã hội học trong hệ thống khoa học nói
chung, đồng thời giúp cho mọi người có cái nhìn tổng quan, toàn diện hơn
về sự chuyển dịch cơ cấu lao động, đồng thời nhận thấy đây là một điều tất
yếu trong sự phát triển của xã hội.
2.2 Ý nghĩa thực tiễn.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế làm thay đổi cơ cấu lao động nước ta nói
chung và trong các bộ phận doanh nghiệp nói riêng theo hướng CNHHĐH. Trong nghiên cứu này, tôi đi sâu tìm hiểu và đánh giá đúng thực
trạng chuyển dịch cơ cấu lao động đồng thời làm rõ những tác động của nó
đến các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Cổ phần tư vấn và xây
lắp công trình môi trường CCEP.
Việc nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động ở Công ty để
đánh giá đúng thực trạng và từ đó tôi mong muốn đề xuất các giải pháp
nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh về nhân lực, hoàn thiện
bộ máy quản lý, tổ chức của công ty, giúp cho các nhà quản lý có những
biện pháp tốt nhất để nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Thêm nữa, tôi cũng muốn mang lại kiến thức khoa học mới cho
những người quan tâm đến xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động hiện nay
để họ hiểu rõ hơn, đầy đủ hơn về vấn đề này.

3. Mục đích nghiên cứu.
- Đề tài nghiên cứu nhằm tìm hiểu thực trạng và sự biến đổi cơ
cấu lao động của công ty Cổ phần Tư vấn và xây lắp công trình
môi trường CCEP trong những năm gần đây.
- Làm rõ ảnh hưởng của sự chuyển dịch cơ cấu lao động đến hiệu
quả sản xuất kinh doanh tại công ty trong thời kỳ CNH – HĐH.
- Đề xuất một số giải pháp và khuyến nghị đối với việc tổ chức
và quản lý lao động nhằm giúp Công ty ngày càng phát triển
hơn trong thời kỳ mới.

4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu.

4.1. Đối tượng nghiên cứu.
- Đề tài chọn đối tượng nghiên cứu là: “ Chuyển dịch cơ cấu lao
động và tác động của nó đến hiệu quả sản xuất kinh doanh tại công ty
Cổ phần tư vấn và xây lắp coogn trình môi trường CCEP trong thời kỳ
CNH – HĐH”.

6


7

4.2. Khách thể nghiên cứu.
- Tập thể cán bộ, công nhân viên làm việc tại Công ty Cổ phần
tư vấn và xây lắp công trình môi trường CCEP.
- Các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
4.3. Phạm vi nghiên cứu.
- Không gian: Công ty CP Tư vấn và xây lắp công trình môi
trường CCEP.
- Thời gian:
- Dựa trên số liệu 2 năm 2013 và 2014.

5. Phương pháp nghiên cứu.
5.1 Phương pháp phân tích tài liệu.
Phân tích các tài liệu để xem xét các thông tin đã có sẵn trong các
tài liệu trước đo để rút ra những thông tin cần thiết phục vụ cho mục tiêu
nghiên cứu. Nó mang lại những thông tin giá trị, cần thiết cho việc mô tả,
theo dõi quá trình phát triển, sự tác động qua lại của các quan hệ xã hội,
quan hệ sản xuất của Công ty, từ đó đưa ra nhận xét và đánh giá về vấn đề
cần nghiên cứu.
5.2 Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi.

Để đo lường được thực trạng cơ cấu lao động trong doanh nghiệp thì
việc thu thập số liệu định lượng là rất cần thiết. Sử dụng bảng hỏi sẽ thu
thập được thông tin từ các cá nhân có liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên
cứu.Thông tin thu được là toàn bộ các câu trả lời mà người trả lời thể hiện
quan điểm, thái độ và những đánh giá của mình đối với vấn đề nghiên cứu.
- Chọn mẫu: Tôi chủ định chọn 30 mẫu.
- Đối tượng: tôi tiến hành phỏng vấn với cả cán bộ lãnh đạo và công
nhân trực tiếp tham gia lao động tại công ty, nhân viên trong các phòng,
ban, ngành khác nhau.
5.3 Phương pháp phỏng vấn sâu.
Sử dụng phương pháp này nhằm mục đích đảm bảo chất lượng
nguồn thông tin, nhằm tìm hiểu sâu hơn, kỹ hơn bản chất của vấn đề
nghiên cứu.
Trong phương pháp này tôi tiến hành 6 bản phỏng vấn sâu chia làm
3 nhóm đối tượng để tiến hành phỏng vấn như sau:
+) Chủ doanh nghiệp (giám đốc)
+) Các ban quản lý nhân sự ( phòng nhân sự, phòng điều hành)
+) Người lao động ( công nhân).
5.4 Phương pháp quan sát.
Trong quá trình nghiên cứu tôi trực tiếp xuống nhà máy quan sát quá
trình sản xuất và ghi chép mọi yếu tố có liên quan đến đối tượng và mục

7


8

tiêu nghiên cứu của đề tài. Từ việc quan sát mà tôi đưa ra những so sánh,
đánh giá để đưa ra kết luận chính xác nhất về vấn đề nghiên cứu.


6. Giả thuyết nghiên cứu.
- Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo nền kinh tế thị trường là
nhân tố chính làm thay đổi cơ cấu lao động của Công ty Cổ
phần tư vấn và xây lắp công trình môi trường CCEP.
- Cơ cấu lao động của công ty đang chuyển dịch theo xu hướng
trẻ hóa đội ngũ lao động, nâng cao về học vấn, trình độ tay
nghề và chuyên môn kỹ thuật, vận dụng các thành tựu công
nghệ hiện đại.
- Sự chuyển dịch cơ cấu lao động trong thời kỳ CNH – HĐH
hiện nay có tác động tích cực đến hiệu quả sản xuất kinh doanh
của công ty : nâng cao trình độ chuyên môn của người lao
động, giảm giá thành sản phẩm, tăng năng suất lao động.

7. Khung lý thuyết.

8


9

Trẻ hóa
đội ngũ
lao động

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Chuyển
dịch cơ
cấu lao
động


CCLĐ theo
tuổi và giới
tính

CCLĐ theo
trình độ học
vấn, chuyên
môn kỹ
thuật

CCLĐ theo
chức năng
nghề nghiệp

Hiệu quả sản xuất
kinh doanh

9

Xu
hướng

CCLĐ theo
hợp đồng
lao động,
tiền lương,
thu nhập

Nâng cao

trình độ
học vấn,
chuyên
môn
Áp dụng
hiệu quả
các
thành
tựu khoa
học công
nghệ


10

PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
1.

Các lý thuyết của đề tài.
1.1 Lý thuyết cấu trúc chức năng.

Lý thuyết cấu trúc- chức năng là lý thuyết quan trọng và xuyên suốt trong
quá trình phân tích và lý giải vấn đề nghiên cứu. Lý thuyết cấu trúc – chức năng
còn được gọi là thuyết chức năng – cấu trúc hay thuyết cấu trúc - chức năng
nhằm nhấn mạnh tính liên kết chặt chẽ của các bộ phận cấu thành nên một chỉnh
thể mà mỗi bộ phận đều có chức năng nhất định góp phần đảm bảo sự tồn tại của
chỉnh thể đó với tư cách là một cấu trúc tương đối ổn định, bền vững. Thuyết cấu
trúc – chức năng cho rằng một xã hội tồn tại, phát triển được là do các bộ phận
cấu thành của nó hoạt động nhịp nhàng với nhau để đảm bảo sự cân bằng chung

của cả cấu trúc,bất kỳ sự thay đổi nào ở thành phần nào đều kéo theo sự thay đổi
ở thành phần khác. Sự biến đổi của cấu trúc tuân theo quy luật tiến hóa, thích
nghi khi môi trường sống thay đổi, sự biến đổi của cấu trúc luôn hướng tới thiết
lập lại trạng thái cân bằng, ổn định. Đồng thời thuyết chức năng – cấu trúc
hướng vào giải quyết vấn đề bản chất của cấu trúc xã hội và hệ quả của cấu trúc
xã hội. Sự biến đổi của cấu trúc có ý nghĩa hết sức quan trọng, bởi nó là sự biến
đổi về chất. Do đó để tài phân tích thực trạng cơ cấu lao động của Công ty CP
Tư vấn và xây lắp công trình môi trường CCEP để thấy được sự biến đổi và
thích ứng của nó trong sản xuất kinh doanh.
Tallcott Parsons (1902 – 1979) – nhà xã hội học người Mỹ, một trong những
nhà xã hội học có đóng góp nhiều nhất cho sự hình thành và phát triển của lý
thuyết này. Ông đã “ xem xét hệ thống trong một trục tọa độ ba chiều. Thứ nhất,
là chiều cấu trúc - hệ thống nào cũng có cấu trúc của nó, thứ hai là chiều chức
năng: hệ thống luôn nằm trong trạng thái động, vừa biến đổi vừa trao đổi với môi
trường và thứ ba là chiều kiểm soát – mọi hệ thống đều có khả năng điều khiển
và tự điều khiển”. Hệ thống xã hội được cấu thành từ các tiểu hệ thống khác
nhau (kinh tế, chính trị, xã hội…), các tiểu hệ thống có mối quan hệ qua lại với
nhau và thực hiện chức năng riêng biệt theo nguyên lý chức năng để tạo thành
một chỉnh thể toàn vẹn.
Một xã hội bình thường giống như một cơ thể lành mạnh, trong đó các thể
chế có chức n ăng riêng và chúng có quan hệ hữu cơ, cùng hướng vào việc duy
trì tính hợp lý của xã hội. Trong hệ thống đó, không bộ phận nào là hệ quả hay
đại diện của bộ phận khác.
Nội dung lý thuyết cấu trúc – chức năng của Parsons là thuyết hành động.
Ông định nghĩa “ hành động” là “một quá trình trogn một hệ thống tác nhân –
tình huống mà hệ thống đó ý nghĩa động cơ đối với tác nhân cá nhân, hay trong
trường hợp của một tập thể, cá nhân thành viên của tập thể”. Ông đã lý luận
10



11

rằng: “ Bất kỳ một hành động xã hội nào cũng có những nét chung và phải nằm
trong một hệ thống nhất định. Parsons trình bày phân tích cấu trúc chức năng với
tư cách là một phương pháp, ông cho rằng: “Phân tích cấu trúc điều tra chức
năng tức là đóng góp từng phần ch việc giữ gìn ổn định của một cấu trúc. Tùy
theo điều kiện là đã hoàn thành đóng góp hay chưa mà cấu trúc được giữ ổn định
hay thay đổi khi ta xét nó vào một thời điểm sau. Sau đó sẽ gắn những quá trình
nhất định giữa hai thời điểm mà chúng được ghép vào chức năng của các cấu
trúc con và tác dụng của chúng sẽ thay đổi khi được so sánh cấu trúc ở hai thời
điểm” (7-Tr80-81). Như vậy, giữa cấu trúc và chức năng có mối quan hệ biện
chứng với nhau, trong đó cấu trúc giữ vai trò quyết định. Sự thay đổi về mặt
chức năng sẽ làm hoàn thiện cấu trúc của nó. Cấu trúc xã hội đảm bảo tính cân
bằng cho xã hội về mặt chức năng.
Vận dụng lý thuyết cấu trúc – chức năng vào phân tích thực trạng cơ cấu lao
động tại Công ty CP Tư vấn và xây lắp công trình môi trường CCEP, tức là phải
xem xét cơ cấu lao động tác động như thế nào đến cơ cấu xã hội trong cấu trúc
xã hội nhất định và cơ cấu lao động thực hiện chức năng xã hội gì? Dưới cái
nhìn của hệ thống lý thuyết này, ta thấy cơ cấu lao động là một thể chế hoạt động
trong một xã hội ổn định – nó là một mặt của xã hội, tồn tại cùng với sự phát
triển của xã hội loài người và là nền tảng cho nền kinh tế nước nhà. Như vậy, ta
cần nhìn nhận cơ cấu lao động với tư cách là một tổ chức xã hội, một hệ thống
xã hội, không thể nhìn nhận cơ cấu lao động một cách riêng lẻ, đơn nhất mà phải
luôn đặt nó trong một chỉnh thể, luôn có mối liên hệ với các yếu tố môi trường
khác. Vậy sự biến đổi của cơ cấu lao động chắc chắn dẫn đến sự biến đổi về mặt
xã hội và ngược lại. Từ việc phân tích nguyên nhân, hệ quả của nó mà ta có thể
định hướng sự chuyển dịch cơ cấu lao động cho hợp lý và đồng bộ trong tương
lai.

1.2


Lý thuyết phân công lao động.

Phân công lao động được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau, và trong từng
trường hợp phân công lao động đóng những vai trò riêng. Một trong những
người đặt nền móng đầu tiên cho xã hội học là nhà xã hội học người Pháp E.
Durkheim (1858n – 1917). Trong tác phẩm của ông “Phân công lao động.
Nghiên cứu về tổ chức xã hội ưu việt” (1893), ông đã nêu ra quan hệ giữa phân
công lao động và đoàn kết xã hội. Durkheim cho rằng phân công lao động
không chỉ thuần túy là sự chuyên môn hóa lao động, phân chia các công đoạn,
các thao tác kỹ thuật để làm giàu và nâng cao năng suất lao động mà hơn thế nó
còn “thực hiện chức năng vô cùng to lớn và quan trọng đối với đời sống con
người. Đó là tạo ra sự đoàn kết xã hội, sự hội nhập xã hội…” (13, 137). Khi mà
trình độ phân công lao động ngày càng cao làm tăng mối quan hệ tương tác và
phụ thuộc lẫn nhau giữa các cá nhân và các nhóm xã hội hay nói cách khác là
củng cố tính hữu cơ của đoàn kết xã hội. Xã hội càng phát triển thì phân công
lao động ngày càng phúc tạp nghĩa là chuyên môn hóa chức năng lao động càng
11


12

cao từ sso buộc các cá nhân, nhóm xã hội tương tác với nhau nhiều hơn và phụ
thuộc lẫn nhau.
Ngoài quan điểm của E. Durkheim, các nhà xã hội học khác như A.Smith;
Auguste Comte; Karl Marx; Herbert Spencer; Max Weber cũng có nhiều đóng
góp và quan điểm khác nhau trong quá trình xây dựng và phát triển lý thuyết
phân công lao động như:
- Theo quan điểm của A.Smith: “Phân công lao động là sự chuyên môn
hóa lao động, là sự phân chia quá trình lao động thành các công đoạn, các khâu,

các thao tác kỹ thuật để tăng năng suất và hiệu quả lao động”.
- Theo quan điểm của A.Comte thì: “Phân công lao động là sự chuyên
môn hóa nhiệm vụ lao động nhằm thực hiện chức năng ổn định và phát triển xã
hội. Phân công lao động không đơn thuần là sự chuyên môn hóa lao động mà
thực chất là quá trình gắn liền với sự phân hóa xã hội, phân tầng xã hội và bất
bình đẳng xã hội”.
-Theo K.Marx: “Phân công lao động là nguyên nhân của sự bình đẳng và
xung đột xã hội”.
-Weber cho rằng: “Phân công lao động là nhân tố tăng hiệu quả của hành
động xã hội và tổ chức xã hội”.
Xã hội càng phát triển thì sự phân công lao động càng phức tạp, và đó là
đòn bẩy giúp xã hội phát triển. Trong thời kỳ CNH- HĐH gắn với quá trình
chuyển giao công nghệ mới thì sự phân công lao động càng đòi hỏi có sự
chuyên môn hóa chức năng lao động cao hơn, sự gắn kết giữa các cá nhân,
nhóm xã hội lớn hơn, tương tác với nhau nhiều hơn.
Nhìn vào thực trạng cơ cấu lao động của Công ty CP Tư vấn và xây lắp
công trình môi trường CCEP ta thấy sự phân công lao động cũng không là một
ngoại lệ. Dưới tác động của khoa học kỹ thuật – công nghệ ngày càng cao đặc
biệt là máy móc, công nghệ sản xuất tất yếu sẽ dẫn đến phân công lao động. Sự
phân công lao động thể hiện ở cách thức tổ chức và quản lý đội ngũ nhân lực,
sự phân công đó dựa trên tiêu chí: độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn, trình độ
chuyên môn – nghiệp vụ…Sự phân công này làm cho họ phụ thuộc vào nhau
một cách chặt chẽ về trách nhiệm và nghĩa vụ. Đây chính là mối quan hệ trao
đổi, hợp tác nhiều chiều, nhiều khía cạnh góp phần là động lực để thúc đẩy phát
triển kinh tế của Công ty cũng như thúc đẩy nền kinh tế nước nhà.

2. Các khái niệm công cụ
2.1 Khái niệm lao động.
“Lao động” là khái niệm tương đối rộng và phức tạp. Có nhiều ý kiến khác
nhau về khái niệm “lao động”.

Engels nhận định: “Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời
sống loài người và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó chúng ta
phải nói đến lao động đã sáng tạo ra bản thân con người” (1, 508).

12


13

Theo Kalr Mac: “Lao động trước hết là một quá trình diễn ra đối với con
người và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của mình, con người
làm trung gian điều tiết và kiểm soát sự trao chất giữa họ với tự nhiên”.
Theo từ điển tiếng Việt: “Lao động là hoạt động có mục đích của con người
nhằm tạo ra các loại sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội” (12-Tr 525).
Còn Bộ luật lao động nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thì cho
rằng: “Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật
chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng và
hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước”. (17,5).
Xã hội học xem xet lao động với tư cách là một hiện tượng xã hội, nảy sinh
biến đổi và phát triển trong bối cảnh xã hội. Con người lao động để thỏa mãn
nhu cầu vật chất và tinh thần, để khẳng định mình trước tự nhiên và xã hội. Xã
hội học coi lao động như một hành động xã hội có cấu trúc gồm các thành
phần: mục đích lao động, đối tượng lao động, phương tiện lao động, điều kiện
lao động, chủ thể lao động và xu hướng lao động. Các thành phần này có mối
quan hệ hữu cơ, biện chứng lẫn nhau.
Căn cứ vào đặc điểm, tính chất của từng loại yếu tố cấu thành lao động, có
thể phân loại lao động thành một số dạng như sau:
Dựa vào đối tượng lao động ta có các dạng lao động chủ yếu sau:
- Lao động “tiếp xúc với thiên nhiên”. Đó là lao động thuộc lĩnh vực nông –
lâm – ngư nghiệp.

- Lao động “tiếp xúc với con người”.
- Lao động “tiếp xúc với/ hay bằng công nghệ kỹ thuật”.
- Lao động “tiếp xúc với hệ ý nghĩa giá trị nghệ thuật”.
Dựa vào tính chất công cụ lao động, ta có các loại lao động sau:
- Lao động thô sơ. Đây là loại lao động cơ bắp, thường là lao động đơn giản
với các công cụ như: máy cày, máy tuốt lúa…
- Lao động bằng máy móc giản đơn.
- Lao động vớ máy móc thiết bị phức tạp, tinh vi.
- Lao động với các công cụ, phương tiện đặc biệt như: ngôn ngữ, các kí
hiệu…
Ngoài ra, lao động còn được phân ra thành các cặp:
- Lao động quản lý – lao động bị quản lý.
- Lao động trí óc – lao động cơ bắp.
- Lao động sản xuất – lao động phi sản xuất.
- Lao động trừu tượng – lao động cụ thể.

2.2 Khái niệm cơ cấu.
Theo từ điển Xã hội học: “Cơ cấu là thiết chế, cấu hình hay cấu trúc của một
hình thể nhất định…”.

13


14

Nhiều ngành khoa học định nghĩa: “Cơ cấu là các yếu tố, các bộ phận cấu
thành và các yếu tố này quan hệ với nhau một cách ngẫu nhiên nhưng biện
chứng lẫn nhau”.
“Cơ cấu” tồn tại trong mọi tổ chức. Với các hình thức khác nhau “cơ cấu”
tạo nên sự thống nhất, gắn kết giữa các bộ phận cấu thành.

Vận dụng vào cơ cấu công ty, ta có thể hiểu được cấu trúc, các bộ phận hợp
thành hệ thống của công ty. Từ đó thấy được cơ cấu tổ chức của công ty là khoa
học, hiệu quả và phù hợp với cơ chế thị trường hiện nay hay chưa.

2.3 Khái niệm cơ cấu xã hội.
Theo từ điển Xã hội học: “Cơ cấu xã hội là bao gồm tổng thể các nhóm xã
hội, có sự liên hệ và tác động qua lại lẫn nhau cũng như các thiết chế xã hội và
các mối quan hệ của chúng. Cơ chế tồn tại và phát triển của cơ cấu xã hội chứa
đựng trong toàn bộ hoạt động của con người”.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: “ Cơ cấu xã hội là tổng hòa những mối
quan hệ tương đối ổn định giữa các yếu tố cấu thành hệ thống xã hội ổn định”.
Đây là một khái niệm được nhiều bộ môn nghiên cứu, vì việc phân tích cơ
cấu xã hội là chìa khóa vàng giúp chúng ta hiểu biết cả hệ thống xã hội. Chính vì
cơ cấu xã hội có tầm quan trọng như vậy do đó mà được rất nhiều các nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu, chẳng hạn như:
Ian Roberton cho rằng: “Cơ cấu xã hội là mô hình của các quan hệ giữa
thành phần cơ bản trong hệ thống xã hội. Những thành phần này tạo nên khung
cho tất cả xã hội loài người, mặc dù tính chất của các thành phần và quan hệ giữa
chúng biến đổi từ xã hội này đến xã hội khác. Những thành phần quan trọng nhất
của cơ cấu xã hội là vị thế, vai trò, nhóm các thiết chế”.
Theo H.Fichter – nhà xã hội học người Mỹ cho rằng: “Xã hội là tổng hòa
các đoàn thể xã hội, các đoàn thể xã hội này được sắp xếp theo một trật tự nhất
định trong hệ thống xã hội và giữa chúng có mối liên hệ, phụ thuộc vào nhau”.
Fichter coi cơ cấu xã hội của xã hội là sự sắp đặt các thành phần xã hội hoặc các
đơn vị xã hội, nghiên cứu cơ cấu xã hội phải xem xét trong trạng thái động và
tĩnh, nghĩa là khi xem xét sự sắp đặt các địa vị xã hội của các đoàn thể xã hội và
sự tương tác giữa các đơn vị xã hội tạo nên sự biến đổi bên trong của hệ thống xã
hội.
Trên đây là những cách hiểu khác nhau về khái niệm cơ cấu xã hội. Như
vậy là việc vận dụng lý thuyết này vào việc phân tích sựu biến đổi cơ cấu lao

động sẽ giúp nhà nghiên cứu thấy được cơ cấu lao động này luôn đặt trong một
hệ thống xã hội nhất định, và mỗi yếu tố trong hệ thống này có những chức năng
riêng, khi mà cơ cấu đó thay đổi thì sẽ dẫn đến thay đổi về mặt cấu trúc và chức
năng.
Áp dụng cơ cấu xã hội Công ty CP Tư vấn và xây lắp công trình môi trường
CCEP, thì cơ cấu xã hội ở đây chính là cơ cấu tổ chức bộ máy, cơ cấu nhân lực

14


15

của công ty, qua đó để thấy được mối quan hệ giữa các bộ phận trong quá trình
sản xuất kinh doanh.

2.4 Khái niệm cơ cấu lao động.
Cơ cấu xã hội của lao động là phức hệ của các mối liên hệ giữa người và
người trong lao động. Cụ thể đó là trong quan hệ giữa chủ và thợ, giữa các đồng
nghiệp, các bạn hàng, giữa người cung cấp và khách hàng….
Cơ cấu lao động là khái niệm phản ánh mối quan hệ tương đối ổn định, bền
vững của các yếu tố, bộ phận tạo nên nguồn lao động. Để xem xét sự vận động
của cơ cấu lao động thì ta cần quan sát chúng trong các quan hệ tỷ lệ về lượng
cũng như xu hướng thay đổi về chất giữa các yếu tố cấu thành nên CCLĐ đó.
Tùy theo mục đích nghiên cứu người ta chia cơ cấu lao động ra thành các loại cơ
cấu khác nhau:
- CCLĐ theo không gian: bao gồm cơ cấu lao động theo vùng, ngành…
- CCLĐ theo các chỉ tiêu chất lượng: cơ cấu theo độ tuổi, giới tính, trình độ
học vấn, trình độ chuyên môn….
- CCLĐ theo các yếu tố tạo nguồn.
- CCLĐ theo các đặc trưng kinh tế, văn hóa, xã hội

Biến đổi cơ cấu lao động là quá trình làm thay đổi cấu trúc và mối quan hệ
về lao động theo một mục tiêu nhất định. Nói cách khác, biến đổi cơ cấu
lao động là uqas trình phân phối, bố trí nhân lực theo những quy luật,
những xu hướng tiến bộ, nhằm mục đích sử dụng đầy đủ và có hiệu quả
cao các nguồn nhân lực để tăng trường và phát triển kinh tế.

2.5 Khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung
sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực
đó trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Nó là
thước đo ngày càng trở nên quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa
cơ bản để đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng
thời kỳ.

CHƯƠNG II. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu.
1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Công ty.
Môi trường bao gồm tất cả các yếu tố vô sinh và hữu sinh có tác động,
ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sức khỏe, đời sống của con người.
Môi trường cung cấp cho ta không gian để sống, cung cấp nguồn tài nguyên
để sản xuất và là nơi chứa đựng chất thải.

15


16

Dù ở bất kỳ thời đại nào môi trường đều rất quan trọng đối với con
người. Giữa môi trường và sự phát triển có mối quan hệ chặt chẽ: môi
trường là địa bàn và đối tượng của sự phát triển, còn phát triển là nguyên

nhân tạo nên các biến đổi môi trường.
Hiện nay, môi trường là vấn đề nóng của toàn nhân loại. Nhưng ngày
nay, khí hậu ngày càng khắc nghiệt và khó dự báo hơn, mưa bão lũ quét thất
thường, suy thoái đất, nước, suy giảm nguồn tài nguyên rừng, ô nhiễm môi
trường xảy ra trên diện rộng… Đó là các vấn đề về môi trường mà toàn nhân
loại đã và đang đối mặt. Con người đã tác động quá nhiều đến môi trường,
khai thác đến mức cạn kiệt các nguồn tài nguyên, thải nhiều chất độc làm
cho môi trường không còn khả năng tự phân hủy.
Bảo vệ môi trường là vấn đề lớn trong cuộc sống hôm nay. Đây là vấn đề
liên quan đển mọi người, liên quan đến cuộc sống hiện tại và tương lai. Con
người có trách nhiệm đối với môi trường vì thể bảo vệ môi trường là để bảo vệ
con người, để phục vụ phẩm giá con người, phục vụ sự sống con người, không
những cho hiện tại, mà cho các thế hệ tương lai.
Nước ta nói chung và toàn thế giới nói chung đang chung tay xây dựng một
nền kinh tế phát triển và luôn đi kèm với nhiệm vụ bảo vệ môi trường sống. Đi
cùng với sự phát triển chung của đất nước và xu thế hội nhập, Công ty CP Tư vấn
và xây lắp công trình CCEP tham gia vào hoạt động kinh doanh trên thị trường
nhằm thúc đẩy sự phát triển cung của đất nước nhằm hướng tới “sự phát triển bền
vững”.
Công ty CP Tư vấn và xây lắp công trình môi trường CCEP được thành lập
năm 2008, chuyên cung cấp các dịch vụ tư vấn- Thiết kế - Thi công hệ thống
xử lý nước thải, khí thải và chất thải tối ưu, hiệu quả nhất cho các khách
hàng không chỉ ở Việt Nam mà còn mở rộng sang các nước trong khu vực.
Công ty CP Tư vấn và xây lắp công trình CCEP là một công ty có vốn hoạt
động do các cổ đông đóng góp. Qua quá trình phát triển công ty luôn chú
trọng đến đào tạo đội ngũ nhân lực, hàng năm công ty mời các chuyên gia
hàng đầu trên thế giới về công nghệ xử lý môi trường, các kỹ sư của các
hãng sản xuất thiết bị mà công ty ký hợp tác qua đào tạo đội ngũ quản lý, kỹ
sư và công nhân kỹ thuật.
Với tư cách là thành viên của hiệp hội “Bảo vệ môi trường Việt nam ” Công

ty đã có những đóng góp nhất định để cải thiện môi trường cho Việt Nam
ngày một trong sạch hơn.

16


17

Một số lĩnh vực hoạt động Công ty đã gặt hái được nhiều thành tích
trong thời gian qua: Cũng cấp hóa chất công nghiệp; máy móc công nghiệp;
xây dựng vận hành hệ thống, bảo trì bảo dưỡng các hệ thống xử lý nước thải
sinh hoạt, nước thải công nghiệp; cung cấp thiết bị trong xử lý và xây dựng;
đánh giá tác động môi trường; cung cấp thiết bị xử lý nước cấp, nước tinh
khiết….
Do đặc thù ngành kinh doanh là về xử lý môi trường nên khách hàng
của Công ty CP Tư vấn và xây lắp công trình CCEP là các khu đô thị mới,
các công ty, khu công nghiệp, nhà hàng lớn, các nhà buôn và khách lẻ hóa
chất… Một số khách hàng lớn của Công ty như:
- Nhà máy giấy An Hòa, nhà máy thuốc là Thăng Long…
- Khu Công nghiệp Đại An (Hải Dương), Khu Công nghiệp Cái Lân
(Hạ Long)…
- Khu đô thị Việt Hưng, khu đô thị Hùng Thắng…
- Hệ thống nhà hàng như: Bia hơi Hải Xồm, Sỹ Phú, Gà Mạnh
Hoạch…
Công ty CP Tư vấn và xây lắp công trình môi trường CCEP mới chỉ thành
lập năm 2008 với số lao động khởi đầu chỉ có 32 người, đến năm 2010 là 65
người và tính đến tháng 1 năm 2015 là 186 người. Nhưng đến năm 2013, mô
hình và sản phẩm của Công ty được mở rộng và phân phối với nhiều đối tác
lớn nhỏ trên khắp địa bàn Hà Nội và các tỉnh lân cận. Công ty luôn chủ động
trong nền kinh tế thị trường. Đáng chú ý trong kế hoạch năm 2010-2013,

Công ty đã tiến hành hàng loạt các dự án với nguồn vốn vay trung hạn tại
ngân hàng để đầu tư và phát triển sản xuất.
Do đặc thù tính chất công việc là thiết kế và lắp đặt nên một số lượng lớn
công nhân chuyên về bên lắp ráp, bảo trì và phân phối sản phẩm. Đây là lực
lượng lao động tiềm năng và có kỹ năng trong công việc. Trong tương lai số
lượng lao động bộ phận này sẽ tăng nhanh do nhu cầu của người tiêu dùng
với sản phẩm cũng như chiến lược quảng bá sản phẩm đến khách hàng.

1.2 Cơ cấu tổ chức quản lý của Công ty.
Bộ máy quản lý của Công ty được tổ chức theo cơ cấu trực tuyến chức
năng. Mọi quan hệ được thực hiện theo chế độ một thủ trưởng, hệ thống các
phòng ban làm công tác tham mưu chuyên môn cho giám đốc. Chỉ có lãnh
đạo quản lý và chỉ huy ở từng cấp mới có nhiệm vụ và quyền hạn ra mệnh
lệnh và chỉ thị cho cấp dưới. Giám đốc công ty lf người ra quyết định cuối
cùng với sự hỗ trợ của các bộ phận chức năng. Các bộ phận chức năng
17


18

nghiên cứu, chuẩn bị các quyết định cho lãnh đạo, quản lý và thực hiện các
mục tiêu trong phạm vi chức năng chuyên môn của mình.

2. Sự biến đổi cơ cấu lao động.
Thực hiện đường lối đổi mới, phát triển kinh tế của Đảng và nhà nước,
các doanh nghiệp đều được tổ chức lại, đổi mới cơ chế, tạo ra những chuyển
biến tích cực trong đó có sự chuyển biến về cơ cấu lao động; đáp ứng được
yêu cầu nhiệm vụ được giao và cùng với Doanh nghiệp Nhà nước, lực lượng
nòng cốt thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần, đồng
thời thực hiện nhiệm vụ quan trọng trong việc phát triển kinh tế kết hợp với

bảo vệ môi trường. Công ty luôn cố gắng tự đổi mới, tổ chức lại mình tùy
theo điều kiện hoàn cảnh cụ thể để có bước đi phù hợp thì mới đảm bảo cho
doanh nghiệp mình phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Sự
biến đổi cơ cấu lao động trong những năm qua của Công ty là phù hợp với
sự phát triển chung của toàn dân tộc. Bởi vậy, sự biến đổi ấy đòi hỏi các cấp
lãnh đạo chỉ huy của Công ty cần phải có các hình thức, biện phát vaf bước
đi cho phù hợp với xu thế chung.

2.1 Biến đổi cơ cấu lao động theo tuổi và giới tính.
Mỗi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đều có những đặc thù riêng về
ngành nghề của mình. Do vậy mà việc tìm hiểu sự biến đổi cơ cấu lao động
tuổi và giới tính sẽ giúp cho nhà quản lý sắp xếp lại đội ngũ công nhân viên
chức lao động của mình cho phù hợp với đặc thù sản xuất kinh doanh của
công ty.
Bảng biểu dưới đây sẽ cho ta thấy sự biến đổi cơ cấu tuổi và giới tính qua
một vài năm gần đây.
Bảng 1: Cơ cấu giới tính của lực lượng lao động Công ty CP Tư vấn
và xây lắp công trình môi trường CCEP năm 2011 – 2014.
Đơn vị tính: người

18


19

Chỉ tiêu

2011

2012


2013

2014

Số
lượng

%

Số
%
lượng

Số
lượng

%

Số
%
lượng

1.Số lao động
trực tiếp.

52

76,5


74

72,5

112

76,7

125

72,7

Nam

45

66,1

56

54,9

86

58,9

94

54,7


Nữ

7

10,4

18

17,6

26

17,8

31

18,0

2. Số lao động 16
gián tiếp

23,5

28

27,5

34

23,3


47

27,3

Nam

10

14,7

17

16,6

22

15,1

31

18,0

Nữ

6

8,8

11


10,8

12

8,2

16

9,3

Tổng số lao
động

68

100

102

100

146

100

172

100


Nguồn: Số liệu phòng lao động tiền lương – Công ty CP Tư vấn và xây
lắp công trình môi trường CCEP.
Nhìn vào bảng số liệu trên về cơ cấu lao động theo giới tính cho ta thấy
tổng lao động của Công ty có sự biến đổi qua các năm. Cụ thể là từ 68 lao
động năm 2011 tăng lên 172 lao động năm 2014 tức là tăng 2,5 lần. Sự tăng
lên về tổng số lao động đó kéo theo sự tăng lên về số lượng ở các bộ phận
lao động trực tiếp và gián tiếp trong đó có cả nam và nữ.
Ở bộ phận lao động gián tiếp thì số lượng lao động cả nam và nữ đều tăng
lên. Cụ thể là: Từ năm 2011 – 2014 ở bộ phận lao động gián tiếp số lao động
nam tăng lên 3,1 lần, số lao động nữ tăng 2,6 lần. Đây là bộ phận lãnh đạo
của Công ty, đóng vai trò quan trọng trọng hoạt động sản xuất kinh doanh.
19


20

Bộ phận lao động gián tiếp tăng qua 4 năm, điều đó chứng tỏ trình độ quản
lý của Công ty ngày càng được nâng cao cả về số lượng và chất lượng bởi sự
tăng lên của đội ngũ cán bộ có trình độ học vấn cao. Công việc có đạt được
hiệu quả hay không tùy thuộc rất nhiều vào sự quản lý của bộ phận này. Do
đó mà công ty luôn cần có một đội ngũ quản lý luôn trau dồi kinh nghiệm
học tập, có kiến thức, có trình độ phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện
nay.
Cũng qua bảng số liệu trên ta thấy sự chênh lệch giữa số lượng lao động
nam và nữ ở cả bộ phận lao động trực tiếp và lao động gián tiếp. Đặc biệt là
sự chênh lệch này thể hiện rõ ở bộ phận lao động trực tiếp. Điều này cũng dễ
lý giải bởi lẽ đây là công ty chuyên về xử lý và xây lắp công trình đương
nhiên sẽ đòi hỏi lao động nam luôn nhiều hơn lao động nữ. Mặc dù cả lao
động nam và nữ đều có sự tăng lên về số lượng. Có sự chênh lệch như vậy là
do đặc thù sản xuất kinh doanh của Công ty. Là một công ty với việc sản

xuất kinh doanh chủ yếu là thi công các công trình. Chỉ cs lao động nam mới
có thể đảm bảo tốt các công việc này, tức là cần có những lao động có sức
khỏe, độ dẻo dai, biết công việc xây dựng. Còn lao động nữ chỉ phụ giúp
một số công việc nội trợ, họ không đủ sức để làm những công việc ngoài
công trình. Tuy nhiên, ngày nay cũng có nhiều phụ nữ tham gia các công
trình xây dựng.
Song song với việc nghiên cứu về cơ cấu giới tính là việc nghiên cứu cơ
cấu độ tuổi của lực lượng lao động của công ty. Việc nghiên cứu cơ cấu độ
tuổi cho ta biết được cơ cấu dân số của công ty là già hay trẻ và có xu hướng
biến đổi như thế nào.
Bảng 2: Cơ cấu độ tuổi của lực lượng lao động Công ty CP Tư vấn và
xây lắp công trình môi trường CCEP năm 2011 – 1014.
Đơn vị tính: người

20


21

Chỉ tiêu

2011

2014

Số lượng

Tỷ lệ (%) Số lượng

Tỷ lệ (%)


68

100

172

100

16

23,5

47

27,3

18 – 29 tuổi

8

11,8

18

10,5

30 – 49 tuổi

6


8,8

29

16,8

50 – 60 tuổi

2

2,9

0

0

52

76,5

125

72,7

18 – 29 tuổi

29

42,3


96

55,8

30 – 49 tuổi

20

29,4

28

16,3

50 – 60 tuổi

3

4,8

1

0,6

Tổng số lao động
• Bộ phận gián tiếp

• Bộ phận trực tiếp


Nguồn: số liệu phòng lao động tiền lương – Công ty CP tư vấn và xây lắp
công trình môi trường CCEP.
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy ngay được cơ cấu độ tuổi lao động của
Công ty là rất trẻ, phần lớn tập trung ở độ tuổi 18 - 29 tuổi.
Ở bộ phận gián tiếp, cơ cấu độ tuổi lao động có sự biến đổi qua các năm.
Ở độ tuổi 18 – 29 tuổi có xu hướng tăng nhưng không đáng kể. Cụ thể là
tăng từ 8 người năm 2011 lên 18 người năm 2014. Ở độ tuổi 30 – 49 tuổi
tăng nhanh từ 6 người năm 2011 lên người 29 năm 2014, tăng 4,8 lần. Còn ở
độ tuổi 50 – 60 tuổi có xu hướng giảm từ 2 người năm 2011 xuống 0 người
năm 2014. Có sự biến đổi như vậy là do đây là bộ phận gián tiếp sản xuất
nghĩa là bộ phận quản lý điều hành cần có những người trẻ, có năng lực trình
độ, đồng thời cũng phải có kinh nghiệm trong lĩnh vực điều hành lãnh đạo
công ty. Do đó mà ở độ tuổi 29 – 50 chiếm tỷ lệ nhiều nhất trong cơ cấu tuổi
lao động ở bộ phận gián tiếp. Như vậy với cơ cấu lao động tuổi lao động như

21


22

vậy là phù hợp với sự phát triển chung của các doanh nghiệp, đó là càng
ngày càng trẻ hóa đội ngũ lao động nhưng vẫn cần sự ổn định những người ở
độ tuổi trung gian, những người có kinh nghiệm lãnh đạo quản lý.
Còn ở bộ phận trực tiếp cho thấy sự biến đổi rõ nét về cơ cấu tuổi lao
động. Thông qua bảng trên ta thấy đa số lao động tập trung ở bộ phận lao
động trực tiếp. Sự tăng nhanh và mạnh ở độ tuổi 28 – 29 tuổi chứng tỏ đội
ngũ lao động của công ty là rất trẻ, cụ thể là tăng từ 29 người năm 2011 lên
96 người năm 2014, tức là tăng 3,1 lần. Ở độ tuổi 30 – 49 tuổi số lượng lao
động cũng tăng từ 20 người năm 2011 lên 28 người năm 2014. Điều này
chứng tỏ không những lao động của công ty là lực lượng trẻ mà còn là lực

lượng lao động có kinh nghiệm trong lĩnh vực thi công lắp đặt và xây dựng.
Đay là độ tuổi phản ánh những người có nawngg lực và tay nghề cao. Sự
tăng lên về số lượng lao động ở độ tuổi này cho thấy nguồn nhân lực được
đảm bảo đề cùng những người lao động trẻ nhiệt tình hoàn thành nhiệm vụ
sản xuất kinh doanh. Số lượng lao động ở độ tuổi 50 – 6 có xu hướng giảm
từ 3 người năm 2011 xuống chỉ còn 1 người năm 2014 chứng tỏ công ty
ngày càng trẻ hóa đội ngũ lao động của mình.
Với cơ cấu lao động như trên phản ánh được đường lối lãnh đạo của công
ty trong thời kỳ đổi mới đó là quan tâm đào tạo, bồ dưỡng nâng cao năng lực
những lao động trẻ, bổ sung đội ngũ công nhân lành nghề, giỏi việc, làm chủ
được những công nghệ mới để hỗ trợ đắc lực cho việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động. Với xu hướng trẻ hóa đội ngũ lao động sẽ là điểm
tựa cho sự phát triển đi lên của công ty.

2

Biến đổi cơ cấu lao động theo trình độ học vấn và chuyên
môn kỹ thuật
2.2.1 Biến đổi cơ cấu lao động theo trình độ học vấn

Trình độ học vấn là chìa khóa để tiếp cận tri thức khoa học, công nghệ.
Trình độ học vấn càng cao giúp cho bản thân người công nhân dễ dàng tiếp
thu kỹ thuật sản xuất, tiếp nhận công nghệ hiện đại. Do đó mà người công
nhân không chỉ thành thạo tay nghề mà còn phải có trình độ học vấn cao.
Trong những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến chiến
lược phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài. Với sự ảnh hưởng ấy, Công ty CP Tư vấn và xây lắp công trình môi
trường CCEP cũng từng bước có sự biến đổi theo hướng nâng cao trình độ
học vấn. Thể hiện qua bảng sau:


22


23

Bảng 3: Cơ cấu lao động theo trình độ học vấn CTCP Tư vấn và xây
lắp công trình môi trường CCEP
Đơn vị tính: người
Năm

2011
Số lượng

2014
Tỷ lệ
(%)

Số lượng

Tỷ lệ
(%)

TNTHPT

49

72,1

123


71,5

Trung Cấp

5

7,4

15

8,8

Cao Đẳng

6

8,8

13

7,5

Đại Học

8

11,7

21


12,2

Tổng

68

100

172

100

Nguồn: số liệu phòng lao động tiền lương – CTCP Tư vấn và xây lắp
công trình môi trường CCEP.
Qua bảng số liệu ta thấy có sự mất cân đối trong trình độ học vấn của
công ty. Lao động TNTHPT chiếm tỷ lệ rất lớn, trên 70% so với tổng số lao
động. Trong khi đó lao động có trình độ học vấn trung cấp chỉ có 8,8% (năm
2014), lao động có trình độ cao đẳng chiếm 7,5% (năm 2014) và lao động có
trình độ đại học chiếm 12,2% (năm 2014). Như vậy là công nhân chủ yếu
của công ty là lao động TNTHPT. Tuy nhiên tỷ lệ lao động có trình độ này
có xu hướng giảm nhẹ trong thời kỳ năm 2011 đến năm 2014 (giảm 0,6%)
và trong tương lai không xa sẽ còn giảm, đồng thời lao động từ trung cấp trở
nên đến đại học có xu hướng tăng cả về số lượng và tỷ lệ. Số lao động có
trình độ cao đẳng giảm nhưng không đáng kể. Là công ty với việc lao động
sản xuất trực tiếp là thi công xây lắp các công trình môi trường, do đó mà
việc số lượng lao động tốt nghiệp THPT chiếm tỷ lệ lớn không phải là một
hiện tượng bất hợp lý.
2.2.2 Sự biến đổi cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn
kỹ thuật.


23


24

Trình độ tay nghề, chuyên môn kỹ thuật là một chỉ báo quan trọng để
đánh giá chất lượng đội ngũ công nhân lao động. Sự biến đổi cơ cấu lao
động theo trình độ chuyên môn kỹ thuật được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 4: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của công nhân viên chức lao
động Công ty CP tư vấn và xây lắp công trình môi trường CCEP.
Đơn vị tính: người
Trình độ
2011
chuyên môn kỹ
thuật
Số lượng

2014
Tỷ lệ

Số lượng

Tỷ lệ

Thợ chuyên
nghiệp

49

72,1


123

71,5

Trung cấp

5

7,4

15

8,8

Cao đẳng

6

8,8

13

7,5

Đại học

8

11,7


21

12,2

Tổng

68

100

172

100

Nguồn: Phòng tổ chức lao động tiền lương – CTCP Tư ván và xây lắp
công trình môi trường CCEP.
Thông qua bảng số liệu ta thấy trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực
lượng lao động công ty có sự biến đổi rõ nét qua các năm:
Đối với lực lượng lao động có trình độ cao đẳng, đại học tuy chiếm tỷ lệ
không lớn so với tổng số lao động nhưng có xu hướng tăng qua các năm về
24


25

số lượng. Với trình độ cao đẳng thì năm 2011 là 6 người đến năm 2014 là 13
người (tăng 2,2 lần), còn với trình độ đại học thì tăng từ 8 người năm 2011
lên 21 người năm 2014 (tăng 2,6 lần). Đây là lực lượng lao động có năng lực
nhất trong toàn bộ lực lượng lao động của công ty bởi lực lượng này được

đào tạo khá đầy đủ và toàn diện về chuyên môn kỹ thuật, trình độ lý luận
chính trị, trình độ ngoại ngữ và tin học. Như vậy là trình độ cao đẳng, đại
học của công ty có xu hướng phát triển theo chiều sâu tức là chú trọng đầu
tư nâng cao trình độ quản lý, trình độ kỹ thuật và kỹ năng làm việc.
Nhằm đào tạo đội ngũ lao động đáp ứng thị trường lao động, Công ty
trong những năm vừa qua đã luôn cố gắng để có một đội ngũ công nhân lành
nghề phục vụ cho nhu cầu phát triển của công ty. Điều đó được thể hiện
thông qua bảng số liệu trên. Lực lượng lao động có trình độ trung cấp có xu
hướng tăng qua các năm. Năm 2011 là 5 người chiếm 7,4% đến năm 2014 là
25 người chiếm 8,8% trong tổng số lao động. Đây là lực lượng lao động có
trình độ tay nghề và là lực lượng lao động trực tiếp tham gia vào quá trình
sản xuất kinh doanh của công ty. Với sự tăng lên về lao động có trình độ
trung cấp chứng tỏ đội ngũ lao động của công ty ngày càng được bổ sung
thêm đội ngũ công nhân lành nghề nhiều hơn, đây là dấu hiệu tốt cho công
ty.
Bên cạnh đó thì lực lượng công nhân kỹ thuật cũng có xu hướng tăng
nhanh về số lượng qua các năm, từ 2011 đến năm 2014 tăng 74 người. Đây
là lực lượng lao động đông nhất trong tổng số lao động, là lực lượng lao
động kế cận với lực lượng lao động có trình độ trung cấp để bổ sung vào vận
hành, thi công xây dựng các công trình môi trường. Những lao động này về
tay nghề còn thấp, chủ yếu làm các công việc giản đơn. Tuy nhiên trong thời
gian qua về tỷ lệ có xu hướng giảm xuống từ 72,1% năm 2011 xuống 71,5%
năm 2014. Song số lượng vẫn tăng là do hàng năm công ty vẫn tuyển dụng
những lao động phổ thông tham gia vào quá trình làm việc của công ty.
Trong tương lai thì số lượng lao động này sẽ giảm xuống thay vào đó là tăng
số lượng lao động có trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học.
Nếu chỉ nhìn vào trình độ tay nghề của công nhân được đào tạo khi vào
làm việc tại doanh nghiệp thì chưa thỏa đáng, chúng ta phải xem xét sự tái
đào tạo trong quá trình lao động của họ. Có như vậy chúng ta mới thấy được
toàn diện trình độ của đội ngũ công nhân hiện nay trong doanh nghiệp. Khi

được hỏi “Trong quá trình lao động tại Công ty, anh/chị có được đào tạo
thêm về trình độ chuyên môn không?” thì có tới 83% công nhân được hỏi đã
trả lời: “Có”.

25


×