Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

tiểu luận hợp đồng thương mại quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.37 KB, 45 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ LUẬT

TIỂU LUẬN
MÔN: LUẬT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

1


MỤC LỤC
Xem Nhiếp Hải, 2014. Nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mua bán hàng
hóa < />ChannelId=42&articleID=818> [Ngày truy cập: 17/3/2015]_____________18
3. Nghĩa vụ thanh toán____________________________________________22
3.1. Thời hạn thanh toán__________________________________________23
3.2. Việc ngừng thanh toán tiền mua hàng____________________________24
3.3. Xác định giá_______________________________________________25
3.4. Địa điểm thanh toán_________________________________________25
3.5. Phương thức thanh toán_______________________________________26
4. Nghĩa vụ nhận hàng____________________________________________31
5.2. Tranh chấp do giao hàng có khuyết tật __________________________38

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................45

2


MỞ ĐẦU
Hiện nay, khi mà việc hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng tăng cường các
mối quan hệ hợp tác với nước ngoài là một nhu cầu thiết yếu không thể thiếu thì
quá trình tham gia ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là vấn đề được quan
tâm nhất


Mặt khác, vì hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là một hợp đồng liên
quan tới yếu tố nước ngoài nên việc giao kết hợp đồng sẽ liên quan tới việc hợp
tác mua bán với các nước khác nhau. Vì vậy, cần phải có một sự hiểu biết nhất
định về luật pháp quốc tế và quốc gia về các vấn đề cơ bản của hợp đồng. Trong
đó, đặc biệt và nổi bật nhất là quyền và nghĩa vụ các bên tham gia hợp đồng
thương mại quốc tế
Do đó, ở một chuẩn mực nhất định, đứng ở góc độ bản chất của một quan
hệ hợp đồng thì đây là vấn đề chúng ta cần nắm rõ một cách toàn diện và hệ thống
để từ đó hoàn thiện hơn về các nội dung có liên quan
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày đề tài, chắc chắn không thể tránh
khỏi những sai sót, mong cô đưa ra những góp ý để bài làm của nhóm hoàn thiện
hơn, chúng em xin chân thành cám ơn!

3


NỘI DUNG CHÍNH

1. Nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu và quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng
hóa
Để tránh phát sinh sự tranh chấp với bên thứ ba, người bán có nghĩa vụ
phải thực hiện các biện pháp cần thiết để đảm bảo quyền sở hữu cũng như
quyền sở hữu trí tuệ của người mua đối với hàng hóa
1.1.

Quyền sở hữu đối với hàng hóa
Trong hợp đồng mua bán hàng hóa, bên bán phải đảm bảo tính hợp pháp về

quyền sở hữu và việc chuyển giao quyền sở hữu đối với hàng hóa giao cho bên
mua, đảm bảo quyền sở hữu của bên mua đối với hàng hóa đã bán không bị tranh

chấp bởi bên thứ ba. Ở đây, sự tranh chấp quyền sở hữu hàng hóa với bên thứ ba
có thể là: i) thứ nhất, chủ sở hữu thực tế của hàng hóa; ii) thứ hai, hàng hóa không
hợp pháp; iii) thứ ba, việc chuyển giao hàng hóa phải hợp pháp
Theo quy định tại Công ước Viên 1980:
Điều 41: Người bán phải giao những hàng hóa không bị ràng buộc bởi bất
cứ quyền hạn hay yêu sách nào của người thứ ba trừ trường hợp người mua đồng
ý nhận loại hàng bị ràng buộc vào quyền hạn và yêu sách như vậy.
Quy định tại Luật thương mại 2005:
Điều 45. Nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu đối với hàng hoá
Bên bán phải bảo đảm:
1. Quyền sở hữu của bên mua đối với hàng hóa đã bán không bị tranh chấp
bởi bên thứ ba;
2. Hàng hóa đó phải hợp pháp;
4


3. Việc chuyển giao hàng hoá là hợp pháp
1.1.1. Quyền sở hữu của bên mua đối với hàng hóa không bị tranh chấp bởi
bên thứ ba
Chuyển quyền sở hữu đối với hàng hóa của bên bán cho bên mua là việc
bên bán chuyển quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt hàng hóa cho bên mua. Như
vậy, việc xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với hàng hóa từ người bán
sang người mua có ý nghĩa pháp lý hết sức quan trọng, bởi sau khi được chuyển
quyền sở hữu đối với hàng hóa, bên mua sẽ trở thành người chủ thực sự đối với
những hàng hóa đó với đầy đủ các quyền năng của chủ sở hữu như đã nêu.
Cụ thể là, sau thời điểm chuyển quyền sở hữu, người bán hết quyền định
đoạt hàng hóa còn người mua có được thẩm quyền của người chủ sở hữu đối với
hàng hóa là đối tượng của hợp đồng và trong nhiều trường hợp mặc dù có thể chưa
nhận được hàng nhưng người mua có toàn quyền định đoạt với hàng hóa, tức là có
thể bán lại cho người thứ ba, thế chấp ngân hàng hay trong trường hợp hàng hóa

mất mát, hư hỏng thì chỉ có chủ sở hữu mới có quyền yêu cầu người gây ra tổn
thất hay công ty bảo hiểm (nếu hàng hóa đó có bảo hiểm) bồi thường thiệt hại.
Ngoài ra, sau thời điểm chuyển quyền sở hữu thì hàng hóa trở thành tài sản
của người mua và chủ nợ của người mua có thể có quyền yêu cầu đối với tài sản
đó. Cuối cùng, sau thời điểm đó, người mua phải chịu trách nhiệm trước người thứ
ba về những tổn thất do hàng hóa gây ra.
Như vậy, việc xác định quyền sở hữu hàng hóa đã được chuyển giao hay
chưa, địa điểm, thời gian chuyển quyền sở hữu có ý nghĩa quan trọng trong việc
xác định tài sản của doanh nghiệp, giải quyết phá sản và đặc biệt là để xác định
trách nhiệm về rủi ro đối với hàng hóa.
Điều 62 Luật thương mại năm 2005 quy định về thời điểm chuyển quyền
sở hữu hàng hóa: “Trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc các bên có
5


thỏa thuận khác, quyền sở hữu được chuyển từ bên bán sang bên mua kể từ thời
điểm hàng hóa được chuyển giao”
Như vậy, thời điểm quyền sở hữu chuyển từ bên bán sang bên mua được
xác định là thời điểm hàng hóa được chuyển giao, tuy nhiên, Luật thương mại lại
không quy định rõ ràng thời điểm hàng hóa được chuyển giao là chuyển giao về
mặt pháp lý hay trên thực tế. Mặt khác, từ quy định của Luật thương mại 2005 tại
Điều 62 có thể thấy không phải lúc nào quyền sở hữu cũng được chuyển từ bên
bán sang bên mua kể từ thời điểm hàng hóa được chuyển giao. Trong trường hợp
có sự thỏa thuận khác hay những trường hợp pháp luật quy định khác thì quyền sở
hữu hàng hóa sẽ được chuyển giao trong một thời hạn nhất định. Nếu các bên đã
thỏa thuận, cam kết, các thỏa thuận đó không trái với pháp luật, đạo đức xã hội thì
các bên sẽ phải chịu sự ràng buộc với các điều khoản được ghi rõ trong hợp đồng.
Nếu hợp đồng mua bán có thỏa thuận điều kiện bắt buộc thì khi thiếu điều kiện
này, người bán không thể giao hàng cho người mua hoặc người mua không thể
nhận hàng của người bán thì quyền sở hữu hàng hóa chỉ được chuyển từ người bán

sang người mua khi điều kiện đó đã được thực hiện
Quy định của pháp luật về thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với hàng hóa
từ người bán sang người mua là quy phạm có tính chất lựa chọn, tức là các bên có
quyền tự do thỏa thuận thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với hàng hóa là đối
tượng của hợp đồng mua bán. Pháp luật chỉ can thiệp khi không có sự thỏa thuận
của các bên.
Thực tiễn mua bán hàng hóa cho thấy, việc xác định thời điểm chuyển
quyền sở hữu đối với hàng hóa được chuyển từ người bán sang người mua phụ
thuộc vào đối tượng của hợp đồng, tính chất của việc chuyển giao hàng hóa và
phương thức mua bán.


Theo đối tượng của hợp đồng:

6


 Với hàng hóa đồng loại: hàng hóa phải được cá thể hóa cho mục
đích của hợp đồng, nghĩa là hàng hóa được chuyển quyền sở hữu từ
người bán sang người mua sau khi đã xếp hàng hóa vào nơi riêng biệt,
đóng gói, đóng dấu bằng ký hiệu, mã hiệu hay những hành vi khác có
mục đích đưa hàng hóa vào một tình trạng để có thể giao cho người mua
như là hàng đặc định.
 Với hàng đặc định: thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với hàng hóa
được pháp luật các nước khác nhau quy định khác nhau, như tự thỏa
thuận hoặc khi hàng hóa được chuyển giao…1


Theo tính chất của việc chuyển giao hàng hóa:
 Đối với hàng hóa khi giao nhận được dịch chuyển về mặt cơ học,

quyền sở hữu hàng hóa được chuyển giao cho người mua khi người bán
đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng
 Đối với những hàng hóa khi giao nhận không được dịch chuyển về
mặt cơ học (hàng hóa gắn liền với đất đai), việc giao nhận hàng hóa
được thông qua việc giao nhận chứng từ liên quan đến hàng hóa, thì
quyền sở hữu hàng hóa được chuyển giao cho người mua khi người bán
hoàn tất việc chuyển giao các chứng từ liên quan đến hàng hóa.
 Đối với hàng hóa mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu
thì quyền sở hữu hàng hóa được chuyển giao cho bên mua kể từ thời
điểm hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với hàng hóa đó. Kể
từ thời điểm này việc thực thi hợp đồng mới được bắt đầu, quyền và
nghĩa vụ của các bên mới phát sinh, bên bán đã giao hàng hóa cho bên
mua nhưng bên mua chưa đăng ký quyền sở hữu thì hàng hóa đó vẫn
thuộc người bán.
 Trong trường hợp hàng hóa không dịch chuyển về mặt cơ học khi
giao dịch và cũng không có chứng từ về hàng hóa, quyền sở hữu hàng

PGS.TS Nguyễn Văn Luyện - PGS.TS Lê Thị Bích Thọ - TS Dương Anh Sơn, Giáo trình Luật
Hợp đồng thương mại quốc tế, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2011, tr. 284
1

7


hóa được coi là đã chuyển giao cho bên mua tại thời điểm hợp đồng có
hiệu lực.2

Theo phương thức mua bán:
 Mua bán hàng hóa theo phương thức mua sau khi sử dụng thử được
quy định tại Điều 460 Bộ luật dân sự 2005, trong thời hạn dùng thử, bên

mua có thể trả lời mua hoặc không mua hàng hóa vẫn thuộc sở hữu của
bên bán, không phải hoàn trả hoa lợi do việc dùng thử mang lại. Tuy
nhiên nếu làm mất mát, hư hỏng vật dùng thử thì phải bồi thường thiệt
hại cho bên bán. Đây là phương thức có tính thực tiễn cao giúp người
mua có cơ hội đánh giá, kiểm tra hàng hóa trước khi mua; người bán đã
chia sẻ một phần quyền sử dụng cho người mua.
 Mua bán theo phương thức trả chậm, trả dần (Điều 461 Bộ luật dân
sự 2005), hình thức này thường áp dụng với hàng hóa có giá trị lớn như
bất động sản. Thực tiễn trên thị trường quyền sử dụng đất hiện nay, có
rất nhiều hợp đồng được ký kết mà các bên thỏa thuận phương thức
thanh toán nhiều lần, nhiều kỳ. Bên bán được bảo lưu quyền sở hữu cho
đến khi bên mua đã trả đủ tiền và thực hiện các nghĩa vụ khác trong hợp
đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.3
1.1.2. Hàng hóa là hợp pháp
Đầu tiên, các bên cần tìm hiểu về tính hợp pháp của loại hàng hóa mà mình
chuẩn bị mua bán. Bởi không phải mọi loại hàng hóa đều được đưa vào kinh
doanh, mua bán. Có những hàng hóa bị cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh hoặc
kinh doanh có điều kiện. Đối với loại hàng hóa kinh doanh có điều kiện thì phải
đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật mới được thực hiện việc
mua bán. Đây là bước nền tảng để thực hiện việc mua bán hàng hóa. Các điều kiện
về số lượng, chất lượng, cách thức bảo quản, đóng gói... hàng hóa do các bên thỏa
thuận lúc xác lập hợp đồng mua bán hàng hóa.
Hàng hóa cũng được coi là bất hợp pháp nếu như hàng hóa nằm dưới sự
2
3

ĐH Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại tập 2, NXB Công an nhân dân, 2012, tr. 40
ĐH Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại tập 2, NXB Công an nhân dân, 2012, tr. 41

8



kiểm soát của ngân hàng tại thời điểm mua bán hay hàng hóa là do quá trình thực
hiện hành vi phạm tội mà có được…
1.1.3. Chuyển giao hàng hóa hợp pháp
Việc chuyển giao hàng hóa hợp pháp thường yêu cầu đối với hàng hóa xuất
nhập khẩu, yêu cầu về thuế, phương tiện vận chuyển…
Kết luận:
Như vậy, nghĩa vụ giao hàng cho người mua không bị người thứ ba tranh
chấp liên quan đến quyền sở hữu có hai yếu tố nội hàm: người bán có nghĩa vụ
phải thông báo cho người mua biết việc hàng hóa là đối tượng của hợp đồng đang
bị người thứ ba tranh chấp và người bán có nghĩa vụ phải áp dụng những biện
pháp cần thiết để loại bỏ sự tranh chấp đó nếu người mua không đồng ý nhận
hàng.
Trong trường hợp hàng hóa là đối tượng của biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự thì theo quy định tại Điều 48 Luật Thương mại thì nghĩa vụ của
bên bán là thông báo cho bên mua về biện pháp bảo đảm và phải nhận được sự
đồng ý của bên nhận bảo đảm về việc bán hàng hóa đó. Tuy nhiên, Công ước Viên
1980 không có điều nào quy định về nghĩa vụ của người bán trong trường hợp
hàng hóa đó là đối tượng của biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự mà tại
Điều 41 chỉ quy định người bán phải giao những hàng hóa không bị ràng buộc bởi
bất kỳ quyền hạn hay yêu sách nào của người thứ ba trừ trường hợp người mua
đồng ý nhận loại hàng bị ràng buộc vào quyền hạn và yêu sách như vậy.
1.2. Quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa
Người bán không những phải có nghĩa vụ đảm bảo quyền sở hữu mà còn
phải có nghĩa vụ đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa cho người mua.
Trước đây pháp luật Việt Nam, cụ thể là Luật Thương mại 1997 không điều chỉnh
mối quan hệ pháp lý giữa người bán và người mua khi có sự tranh chấp của người
9



thứ ba liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa. Sự hạn chế này được
khắc phục trong Luật Thương mại 2005. Có thể nói rằng sự thay đổi này không
những thể hiện được sự tương thích của pháp luật Việt Nam với luật pháp quốc tế
về thương mại mà còn đáp ứng được nhu cầu và phù hợp với hoạt động thương
mại thực tiễn ở nước ta, đặc biệt là trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới hiện
nay
Điều 42 Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế quy định:
“Người bán phải giao những hàng hóa không bị ràng buộc bởi bất cứ quyền hạn
hay yêu sách nào của người thứ ba trên cơ sở sở hữu công nghiệp hoặc sở hữu trí
tuệ khác mà người bán đã biết hoặc không thể không biết vào thời điểm ký kết hợp
đồng, với điều kiện nếu các quyền và yêu sách nói trên được hình thành trên cơ sở
sở hữu công nghiệp hoặc sở hữu trí tuệ khác”.
Cũng theo quy định tại Điều 46 luật thương mại Việt Nam 2005: “Bên
bán không được bán hàng hóa vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Bên bán phải chịu
trách nhiệm trong trường hợp có tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ
đối với hàng hóa đã bán”.
Theo như quy định của Công ước Viên và Luật thương mại Việt Nam thì ta
có thể rút ra được rằng, người bán có trách nhiệm phải bảo đảm quyền sở hữu trí
tuệ đối với hàng hóa. Nếu bên bán không thực hiện các biện pháp cần thiết để thực
hiện nghĩa vụ của mình đối với bên mua, trường hợp có tranh chấp xảy ra thì
người bán phải chịu trách nhiệm đối với khiếm khuyết về sở hữu trí tuệ đó. Vậy
trách nhiệm của người bán đối với hàng hóa có tranh chấp về sở hữu trí tuệ phát
sinh do:


Quyền của người thứ ba đối với hàng hóa trong hợp đồng giữa người

bán và người mua



Do yêu cầu của người thứ ba
10




Khi người bán biết hoặc không thể không biết vào thời điểm ký kết

hợp đồng
1.3. Giới hạn trách nhiệm về quyền sở hữu và quyền sở hữu trí tuệ đối với
hàng hóa
Khi có tranh chấp xảy ra liên quan đến quyền sở hữu và quyền sở hữu trí tuệ
của hàng hóa thì người bán phải chịu trách nhiệm, tuy nhiên người bán được miễn
trừ trách nhiệm trong các trường hợp sau:
+ Thứ nhất, người mua đã biết hoặc không thể không biết về các tranh chấp nói
trên tại thời điểm ký kết hợp đồng
+ Thứ hai, sự tranh chấp đó bắt nguồn từ việc người bán đã tuân theo các bản
thiết kế kỹ thuật, hình vẽ, công thức hay những số liệu cơ sở do người mua cung
cấp.
Tuy nhiên, việc xác định sự vi phạm nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu và quyền
sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa của người bán chỉ cho phép người mua quyền
khiếu kiện, còn việc có thực hiện được việc khiếu kiện hay không lại tùy thuộc
vào một số điều kiện luật định. Theo đó:
Điều 43 Công ước Viên 1980 quy định:
“1. Người mua mất quyền khiếu nại dựa vào các quy định của điều 41 và điều
42 nếu như họ không thông báo cho người bán những tin tức về tính chất của
quyền hạn hay yêu sách của người thứ ba, trong một thời hạn hợp lý kể từ lúc
người mua đã biết hay đáng lẽ phải biết về quyền hoặc yêu sách đó.
2. Người bán không có quyền viện dẫn những sự quy định từ điểm 1 nêu trên

nếu người bán đã biết về quyền hạn hay yêu sách của người thứ ba và về tính chất
của quyền hạn hay yêu sách đó.”
Điều 47 Luật Thương mại 2005 quy định:
11


“1. Bên bán mất quyền viện dẫn quy định tại khoản 2 Điều 46 của Luật này
nếu bên bán không thông báo ngay cho bên mua về khiếu nại của bên thứ ba đối
với hàng hoá được giao sau khi bên bán đã biết hoặc phải biết về khiếu nại đó, trừ
trường hợp bên mua đã biết hoặc phải biết về khiếu nại của bên thứ ba.
2. Bên mua mất quyền viện dẫn quy định tại Điều 45 và khoản 1 Điều 46 của
Luật này nếu bên mua không thông báo ngay cho bên bán về khiếu nại của bên thứ
ba đối với hàng hoá được giao sau khi bên mua đã biết hoặc phải biết về khiếu nại
đó, trừ trường hợp bên bán biết hoặc phải biết về khiếu nại của bên thứ ba.”
Ở đây có thể nhận thấy, Luật Thương mại yêu cầu thông báo ngay, còn Công
ước viên yêu cầu phải thông báo trong một thời hạn hợp lý. Quy định của Công
ước viên là phù hợp và bảo vệ quyền lợi của người mua ở một mức độ cao hơn,
bởi vì trong thực tế không phải bao giờ người mua cũng có khả năng thông báo
ngay cho người bán vì những lý do khác nhau. Thời hạn hợp lý theo quy định của
Công ước Viên được xác định phụ thuộc vào tính chất của tranh chấp cũng như
thực tế của giao dịch thương mại cụ thể và hoàn cảnh thực tế.
Tuy nhiên, nếu người bán tại thời điểm ký kết hợp đồng đã biết hay không
thể không biết về những tranh chấp đó mà không thông báo cho người mua thì
phải chịu trách nhiệm ngay cả khi người mua không thông báo cho người bán
trong thời hạn hợp lý nói trên.
Mặt khác, Theo quy định của CISG thì khi có tranh chấp xảy ra liên quan đến
quyền sở hữu trí tuệ của hàng hóa thì:
+ Áp dụng pháp luật của quốc gia nơi hàng hóa sẽ được bán lại hay sử dụng
bằng cách khác, nếu vào lúc ký kết hợp đồng các bên có dự đoán rằng hàng hóa sẽ
được bán lại hay sử dụng bằng cách khác tại quốc gia đó, hoặc là:

+ Trong mọi trường hợp khác – áp dụng luật pháp của quốc gia có trụ sở
thương mại của người mua.
2. Nghĩa vụ đảm bảo sự phù hợp của hàng hóa
12


2.1. Sự phù hợp của hàng hóa
Hàng hoá là đối tượng của hợp đồng mua bán, vì vậy việc giao hàng đảm
bảo chất lượng, chủng loại,… đã thoả thuận luôn là mối quan tâm hàng đầu của
các bên.
Khi thực hiện hợp đồng, bên bán có nghĩa vụ giao hàng hoá phù hợp với
hợp đồng. Một cách đơn giản, hàng hoá phù hợp với hợp đồng là hàng hoá đúng
với mô tả về chất lượng, chủng loại, quy cách,… như các bên đã thoả thuận. 4
Tuy nhiên, các quốc gia khác nhau thì có những quy định khác nhau về tính
phù hợp của hàng hóa.
Ví dụ, ở Châu Âu, một hàng hóa được coi là phù hợp khi đáp ứng đủ các
điều kiện sau5


Đáp ứng các mô tả của người bán và có các tính chất của hàng mẫu

mà người bán đưa cho người mua trước đó;


Phù hợp với bất kì mục đích cụ thể nào mà người mua mong muốn

đạt được hoặc người bán đã cho biết vào thời điểm giao kết hợp đồng hoặc
người bán đã chấp nhận;



Phù hợp với mục đích sử dụng thông thường của các hàng hóa cùng

chủng loại;


Các phẩm chất và đặc tính thể hiện như hàng hóa cùng loại thường

có và đáp ứng yêu cầu hợp lý của người mua, dựa trên tính chất cơ bản của
hàng hóa và tính đến bất cứ thông báo công khai nào về các đặc điểm của
hàng hóa được người bán, người sản xuất hoặc đại diện của họ đưa ra, đặc
biệt là qua quảng cáo hoặc nhãn hiệu.
Xem Nghĩa vụ giao hàng phù hợp với hợp đồng < [Ngày truy cập: 16/3/2015]
5
Xem chỉ thị 44/99 của Nghị viện châu Âu
4

13


Công ước Viên cũng có quy định về tính phù hợp của hàng hóa, cụ thể tại
khoản 1, khoản 2 Điều 35 có ghi nhận:
“1. Người bán giao hàng đúng số lượng, phẩm chất và mô tả như quy định
trong hợp đồng, và đúng bao bì hay đóng gói như hợp đồng yêu cầu.
2. Ngoại trừ những trường hợp các bên đã thỏa thuận khác, hàng hóa bị
coi là không phù hợp với hợp đồng nếu:
a) Hàng hóa không thích hợp với mục đích sử dụng mà các hàng hóa cùng
loại vẫn thường đáp ứng.
b) Hàng hóa không thích hợp cho bất kì mục đích cụ thể nào mà người bán
đã trực tiếp hoặc gián tiếp biết được vào lúc kí hợp đồng, trừ trường hợp nếu căn
cứ vào các hoàn cảnh cụ thể có thể thấy rằng không dựa vào ý kiến hay sự phán

đoán của người bán hoặc nếu đối với họ làm như thế là không hợp lý.
c) Hàng không có tính chất của hàng mẫu hoặc kiểu dáng mà người bán đã
cung cấp cho người mua.
d) Hàng không được đóng phong bì theo cách thông thường cho những
hàng cùng loại hoặc, nếu không có cách thông thường, thì bằng cách thích hợp để
giữ gìn và bảo vệ hàng hóa đó.
Theo đó, Luật thương mại 2005 cũng có những quy định tương tự như
những quy định trong công ước Viên, tại khoản 1 Điều 39 Luật thương mại quy
định :
“Trường hợp hợp đồng không có quy định cụ thể thì hàng hoá được coi là
không phù hợp với hợp đồng khi hàng hoá đó thuộc một trong các trường hợp sau
đây:
a) Không phù hợp với mục đích sử dụng thông thường của các hàng hoá
cùng chủng loại;
14


b) Không phù hợp với bất kỳ mục đích cụ thể nào mà bên mua đã cho bên
bán biết hoặc bên bán phải biết vào thời điểm giao kết hợp đồng;
c) Không bảo đảm chất lượng như chất lượng của mẫu hàng hoá mà bên
bán đã giao cho bên mua;
d) Không được bảo quản, đóng gói theo cách thức thông thường đối với
loại hàng hoá đó hoặc không theo cách thức thích hợp để bảo quản hàng hoá
trong trường hợp không có cách thức bảo quản thông thường”
Như vậy, có thể thấy, một hàng hóa được xem là phù hợp khi đáp ứng được
những điều kiện theo quy định sau:
Thứ nhất, hàng hóa phù hợp với chất lượng, phẩm chất và mô tả trong hợp
đồng. Thông thường khi nói đến số lượng hàng hóa, người bán và người mua
thường quy định một mức giá xấp xỉ để đề phòng trường hợp hàng hóa xảy ra vấn
đề hay việc vận chuyển khiến hàng hóa hư hỏng một phần nào đó. Việc giao hàng

thừa hay thiếu số lượng quy định quá nhiều sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của các bên.
Bên cạnh đó, phẩm chất của hàng hóa cũng là một vấn đề quan trọng và
được quan tâm, phẩm chất hàng hóa không phải chỉ dựa vào những đặc điểm kĩ
thuật hay quy cách của hàng hóa đó, mà đôi khi một hàng hóa mặc dù đáp ứng đủ
tiêu chuẩn về chất lượng nhưng lại không phù hợp với các yêu cầu trong hợp đồng
về xuất xứ hàng hóa hay bao bì hàng hóa thì cũng không được coi là phù hợp
phẩm chất của hàng hóa.
Hàng hóa phải đáp ứng đầy đủ và chính xác các đặc điểm mang tính chất
mô tả trong hợp đồng như về màu sắc, về hình thức bên ngoài…
Thứ hai, hàng hóa được bảo quản, đóng gói theo đúng yêu cầu của hợp
đồng. Đây là một trong những tiêu chí để xác định hàng hóa phù hợp với hợp
đồng, hay nói đúng hơn là tình trạng đóng gói bao bì sẽ ảnh hưởng đến tính phù
hợp của hàng hóa. Nếu như một hàng hóa mà đóng gói hay bảo quản không giống
15


những quy định trong hợp đồng hoặc không tương đồng với những hàng hóa cùng
loại khác, thì sẽ bị nghi ngờ là hàng hóa không đảm bảo chất lượng như người
mua yêu cầu.
Thứ ba, hàng hóa phải phù hợp với mục đích sử dụng. Một hàng hóa sẽ bị
coi là không phù hợp nếu như hàng hóa đó không có mục đích sử dụng như hàng
hóa cùng loại thông thường hoặc hàng hóa đó không phù hợp với bất kì mục đích
sử dụng nào mà người bán đã biết trực tiếp hoặc gián tiếp khi giao kết hợp đồng.
Thông thường, tiêu chuẩn để đánh giá tính phù hợp về mục đích sử dụng được xác
định theo nước người bán. Do đó, khi giao kết hợp đồng, người mua nên đưa ra
cho người bán những tiêu chuẩn và mục đích của mình về hàng hóa mình sẽ mua.
Thứ tư, hàng hóa có tính chất của hàng mẫu mà người bán đưa cho người
mua trước khi giao kết hợp đồng. Đây là nghĩa vụ của người bán, trong CISG
cũng có quy định một hàng hóa được xem là không phù hợp nếu không đảm bảo
đúng tính chất của hàng mẫu.

2.2. Trách nhiệm của người bán về việc hàng hóa không phù hợp với hợp
đồng
Trách nhiệm của người bán trong trường hợp hàng hóa không phù hợp
được hiểu là người bán đã vi phạm một trong những điều khoản của Hợp đồng về
tính phù hợp của hàng hóa, những trường hợp nào người bán phải chịu hoàn toàn
trách nhiệm và trường hợp nào người bán được miễn trừ trách nhiện đều được quy
định rõ ràng trong Công ước Viên.
2.2.1. Trường hợp người bán phải chịu trách nhiệm
Trường hợp này trong CISG được quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 36,
cụ thể:
“1. Người bán chịu trách nhiệm chiếu theo hợp đồng và Công ước này, về
mọi sự không phù hợp nào của hàng hóa mà sự không phù hợp đó vào lúc chuyển
16


giao quyền rủi ro cho người mua, ngay cả khi sự không phù hợp của hàng hóa chỉ
được phát hiện sau đó.
2. Người bán cũng chịu trách nhiệm về mọi sự không phù hợp của hàng
hóa xảy ra sau thời điểm đã nói ở điểm trên và là hậu quả của việc người bán vi
phạm bất cứ một nghĩa vụ nào của mình, kể cả việc không thể hoàn toàn đảm bảo
rằng trong một thời hạn nào đó, hàng hóa vẫn thích hợp cho mục đích sử dụng
thông thường hay mục đích cụ thể hoặc vẫn duy trì được những tính chất hay đặc
tính đã quy định.”
Luật thương mại 2005 cũng có quy định về vấn đề này tại khoản 2,
khoản 3 điều 40:
“2. Trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, trong thời hạn khiếu
nại theo quy định của Luật này, bên bán phải chịu trách nhiệm về bất kỳ khiếm
khuyết nào của hàng hoá đã có trước thời điểm chuyển rủi ro cho bên mua, kể cả
trường hợp khiếm khuyết đó được phát hiện sau thời điểm chuyển rủi ro;
3. Bên bán phải chịu trách nhiệm về khiếm khuyết của hàng hóa phát sinh

sau thời điểm chuyển rủi ro nếu khiếm khuyết đó do bên bán vi phạm hợp đồng.”
Có thể thấy, cả CISG và Luật thương mại 2005 đều lấy thời điểm chuyển
giao rủi ro hàng hóa để xác định phạm vi trách nhiệm của người bán về tính phù
hợp của hàng hóa. Người bán phải đảm bảo tính phù hợp của hàng hóa và chịu
hoàn toàn trách nhiệm nếu như hàng hóa có khiếm khuyết nào trước thời điểm
chuyển giao rủi ro hàng hóa. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, hàng hóa sau khi
đã chuyển giao cho người mua mới bộc lộ những khiếm khuyết, thông thường là
khi đưa vào sử dụng, trong những trường hợp như vậy, người bán vẫn phải chịu
trách nhiệm với bất cứ khiếm khuyết nào hoặc là hậu quả do bên bán vi phạm hợp
đồng, có nghĩa là, người bán vi phạm nghĩa vụ đảm bảo tính phù hợp của hàng hóa
hoặc một nghĩa vụ khác quy định trong hợp đồng.
17


Một trường hợp khác mà người bán phải chịu trách nhiệm với bất cứ khiếm
khuyết nào của hàng hóa trong thời hạn mà người bán đã đảm bảo rằng hàng hóa
phù hợp với mục đích sử dụng thông thường hoặc mục đích cụ thể hay vẫn duy trì
được tính chất và đặc tính đã quy định.6
2.2.2. Trường hợp người bán được miễn trừ trách nhiệm.
Với những quy định trên, người bán phải chịu trách nhiệm khi hàng hóa
không phù hợp với hợp đồng, tuy nhiên, ngoài những trường hợp đó, người bán có
thể được miễn trừ trách nhiệm trong các trường hợp được quy định tại khoản 3,
Điều 35 và Điều 39 Công ước Viên 1980 cụ thể:
Khoản 3, điều 35 ghi nhận: “người bán không chịu trách nhiệm về việc
giao hàng không đúng hợp đồng như đã nêu trong các điểm a đến điểm d khoản
trên nếu như người mua đã biết hoặc không thể không biết về việc hàng không
phù hợp vào lúc kí kết hợp đồng”.
Tương tự, điều 39 mặc dù không trực tiếp quy định về việc miễn trừ trách
nhiệm của người bán, nhưng lại quy định về trách nhiệm của người mua, trong
trường hợp người mua vi phạm điều này thì người bán sẽ không phải chịu trách

nhiệm về tính phù hợp của hàng hóa.
“1. Người mua bị mất quyền khiếu nại về việc hàng hóa không phù hợp
hợp đồng nếu người mua không thông báo cho người bán những tin tức về việc
không phù hợp đó trong một thời hạn hợp lí kể từ lúc người mua đã phát hiện ra
sự không phù hợp đó.
2. Trong mọi trường hợp, người mua bị mất quyền khiếu nại về việc hàng
không phù hợp với hợp đồng nếu như họ không thông báo cho người bán biết về
việc đó chậm nhất trong thời hạn 2 năm kể từ ngày hàng hóa đã thật sự giao cho
6

Xem Nhiếp Hải, 2014. Nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mua bán hàng hóa
< />[Ngày truy cập: 17/3/2015]

18


người mua trừ phi thời hạn này trái ngược với thời hạn bảo hành quy định trong
hợp đồng.”
2.2.3. Các chế tài được áp dụng khi người bán giao hàng không phù hợp với
hợp đồng:
Trong trường hợp người bán giao hàng không phù hợp với hợp đồng, pháp
luật có quy định các biện pháp người mua có thể áp dụng, dựa trên các quy định
của Công ước Viên từ điều 45 đến điều 52 về quyền của người mua khi người bán
vi phạm tính phù hợp của hợp đồng, tương tự, Luật thương mại 2005 cũng có
những chế tài áp dụng đối với trường hợp này, ta có thể tóm lại như sau:


Người bán phải khôi phục tính phù hợp của hàng hóa bằng cách sửa

chữa phần hàng hóa bị khiếm khuyết hoặc giao hàng thay thế và mọi chi

phí sửa chữa hay giao hàng do người bán chịu.

Người bán có thể phải chấp nhận giảm giá hàng hóa tùy vào độ
khiếm khuyết của hàng hóa.

Người bán phải chịu khoản phạt vi phạm nếu trong hợp đồng có quy
định về phạt vi phạm.

Người bán phải bồi thường thiệt hại nếu sự không phù hợp của hàng
hóa gây thiệt hại cho người mua.

Người mua có quyền từ chối nhận hàng nếu người bán giao hàng
không phù hợp với hợp đồng.

Hợp đồng có thể bị hủy nếu trong hợp đồng có quy định hoặc trong
trường hợp sự vi phạm của người bán bị xem là vi phạm nghiêm trọng hợp
đồng (vi phạm cơ bản, vi phạm chủ yếu…).7
Ngoài ra, để xác định việc người bán có vi phạm tính phù hợp của hàng hóa
hay không, pháp luật có quy định, người mua phải có trách nhiệm kiểm tra chất
lượng hàng hóa trước khi nhận hàng. Việc kiểm tra này là cơ sở để người mua
khiếu nại nếu như tính phù hợp của hàng hóa không được đảm bảo, và phải được
thực hiện trong một thời hạn nhất định tùy theo từng tình huống cụ thể. Việc kiểm
7

Xem Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế, từ Điều 45 đến Điều 52

19


tra hàng hóa được quy định tại Điều 44 Luật thương mại 2005:

“1. Trường hợp các bên có thoả thuận để bên mua hoặc đại diện của bên
mua tiến hành kiểm tra hàng hoá trước khi giao hàng thì bên bán phải bảo đảm
cho bên mua hoặc đại diện của bên mua có điều kiện tiến hành việc kiểm tra.
2. Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên mua hoặc đại diện của bên mua
trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này phải kiểm tra hàng hóa trong một
thời gian ngắn nhất mà hoàn cảnh thực tế cho phép; trường hợp hợp đồng có quy
định về việc vận chuyển hàng hóa thì việc kiểm tra hàng hoá có thể được hoãn lại
cho tới khi hàng hoá được chuyển tới địa điểm đến.
3. Trường hợp bên mua hoặc đại diện của bên mua không thực hiện việc
kiểm tra hàng hóa trước khi giao hàng theo thỏa thuận thì bên bán có quyền giao
hàng theo hợp đồng.
4. Bên bán không phải chịu trách nhiệm về những khiếm khuyết của hàng
hoá mà bên mua hoặc đại diện của bên mua đã biết hoặc phải biết nhưng không
thông báo cho bên bán trong thời hạn hợp lý sau khi kiểm tra hàng hoá.
5. Bên bán phải chịu trách nhiệm về những khiếm khuyết của hàng hoá mà
bên mua hoặc đại diện của bên mua đã kiểm tra nếu các khiếm khuyết của hàng
hoá không thể phát hiện được trong quá trình kiểm tra bằng biện pháp thông
thường và bên bán đã biết hoặc phải biết về các khiếm khuyết đó nhưng không
thông báo cho bên mua.”
“Khiếm khuyết” được hiểu đơn giản là những điểm thiếu sót, không phù
hợp giữa hàng hoá trên thực tế so với thỏa thuận về hàng hóa trong hợp đồng như
chất lượng, quy cách, bao bì,... Trách nhiệm của bên mua và bên bán đối với
khiếm khuyết của hàng hoá được xác định như sau:


Đối với những khiếm khuyết có thể phát hiện bằng biện pháp thông

thường như quy cách, bao bì,… trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên
20



mua phải nhanh chóng tiến hành kiểm tra hàng hóa trong khoảng thời gian
hợp lý và thông báo cho bên bán được biết về khiếm khuyết của hàng hóa.
Khoảng thời gian hợp lý được xác định tuỳ vào loại hàng hoá. Lưu ý rằng,
nếu bên mua hoặc đại diện bên mua không thực hiện việc kiểm tra hàng hóa
trước khi giao hàng theo thỏa thuận thì bên bán có quyền giao hàng theo
hợp đồng. Đồng thời bên bán sẽ không phải chịu trách nhiệm về những
khiếm khuyết của hàng hóa mà bên mua hoặc đại diện bên mua đã biết
hoặc phải biết nhưng không thông báo cho bên bán trong thời hạn hợp lý
sau khi kiểm tra hàng hoá, ngoại trừ những khiếm khuyết không thể phát
hiện bằng biện pháp thông thường.


Đối với những khiếm khuyết không thể phát hiện bằng biện pháp

thông thường như các tiêu chuẩn kỹ thuật,… bên bán phải chịu trách nhiệm
đối với những khiếm khuyết này mặc dù bên mua hoặc đại diện bên mua đã
kiểm tra đồng thời bên bán đã biết hoặc phải biết về các khiếm khuyết đó
nhưng không thông báo cho bên mua. Tuy nhiên, thông thường bên mua
gặp khá nhiều khó khăn trong việc chứng minh trách nhiệm của bên bán
trong trường hợp này.
Để hạn chế những rủi ro khi thực hiện hợp đồng, bên mua nên lưu ý đến
các nội dung liên quan đến thông tin chi tiết của hàng hóa, thời gian kiểm tra hàng
hóa của bên mua, việc thông báo của bên mua đến bên bán trong trường hợp hàng
hóa có khiếm khuyết cũng như trách nhiệm của bên bán trong việc tạo điều kiện
cho bên mua tiến hành kiểm tra hàng hóa và các nội dung khác tùy thuộc vào loại
hàng hóa, phương thức giao hàng.
Sau khi kiểm tra hàng hóa, nếu phát hiện hàng hóa không phù hợp hợp
đồng thì người mua có quyền khiếu nại và áp dụng các chế tài theo quy định của
hợp đồng và theo quy định của pháp luật.


21


3. Nghĩa vụ thanh toán
Theo Điều 50 Luật Thương mại Việt Nam 2005 quy định về nghĩa vụ
thanh toán:
“1. Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng và nhận hàng theo thỏa
thuận.
2. Bên mua phải tuân thủ các phương thức thanh toán, thực hiện việc thanh
toán theo trình tự, thủ tục đã thỏa thuận và theo quy định của pháp luật.
3. Bên mua vẫn phải thanh toán tiền mua hàng trong trường hợp hàng hoá
mất mát, hư hỏng sau thời điểm rủi ro được chuyển từ bên bán sang bên mua, trừ
trường hợp mất mát, hư hỏng do lỗi của bên bán gây ra”
Cũng theo quy định tại Điều 53 Công ước viên 1980:
“Người mua có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng và nhận hàng theo quy định
của hợp đồng và của Công ước này”
Khi xem xét nghĩa vụ thanh toán của người mua theo hợp đồng mua bán
hàng hoá có thể nhận thấy rằng, Luật thương mại 2005 có một quy định được xây
dựng trên cơ sở có sự tham khảo Công ước Viên 1980 (Khoản 3 Điều 58). Khoản
2 Điều 55 Luật Thương mại 2005 quy định rằng, người mua không có nghĩa vụ
thanh toán tiền hàng trước khi họ có thể kiểm tra hàng hoá, trừ trường hợp phương
thức giao hàng hay thanh toán do các bên thoả thuận không cho phép người mua
kiểm tra hàng trước khi thanh toán. Ví dụ hợp đồng mua bán với điều kiện giao
hàng FOB cảng Sài Gòn có quy định rằng: người bán giao chứng từ liên quan đến
hàng hoá cho người mua (vận đơn, các loại giấy chứng nhận chất lượng…) và có
nghĩa vụ mời người mua kiểm tra chất lượng trước khi hàng được xếp lên tàu. Tuy
nhiên, người mua đã không thể kiểm tra hàng hoá do lỗi của người bán. Như vậy,
trong trường hợp này người mua có quyền chưa thanh toán cho đến khi họ có thể
kiểm tra được chất lượng của hàng tại cảng đến.

22


3.1. Thời hạn thanh toán
Pháp luật của nhiều nước cũng như pháp luật của Việt Nam quy định rằng,
trong trường hợp không có sự thoả thuận khác thì việc thanh toán phải được thực
hiện đồng thời với việc giao hàng hay giao chứng từ liên quan đến hàng hoá (Điều
1651 Bộ luật Dân sự Pháp, Điều 28 Luật bán hàng hoá của Anh năm 1979, Điều
2-310 Bộ luật Thương mại Thống nhất Hóa kỳ, Điều 58 Công ước Viên 1980,
Điều 50 Luật Thương mại Việt Nam)… Trong trường hợp hợp đồng không quy
định thời hạn thanh toán, thì người mua có nghĩa vụ thanh toán khi người bán đã
đặt hàng hay chứng từ liên quan đến hàng hoá dưới sự định đoạt của người mua
theo quy định của hợp đồng. Ví dụ, mặc dù hợp đồng không quy định thời hạn
thanh toán nhưng người mua có nghĩa vụ phải thanh toán khi người bán đã giao
hàng cho người vận chuyển.
Khoản 3 Điều 50 Luật Thương mại Việt Nam quy định người mua có nghĩa
vụ phải thanh toán trong trường hợp hàng hoá bị mất mát, hư hỏng và sự mất mát,
hư hỏng này xảy ra sau thời điểm chuyển quyền sở hữu trừ trường hợp mất mát,
hư hỏng do lỗi của người bán.
Lưu ý, theo khoản 2 điều 55 Luật thương mại 2005 quy định về thời hạn
thanh toán thì: Bên mua không có nghĩa vụ thanh toán cho đến khi có thể kiểm tra
xong hàng hoá trong trường hợp có thỏa thuận theo quy định tại Điều 44 của Luật
này. Như vậy, kiểm tra hàng hoá không phải là nghĩa vụ luật định của bên mua,
mà đây là quyền lợi của bên mua đồng thời cũng là nghĩa vụ của bên bán. Trong
trường hợp các bên có thỏa thuận về việc kiểm tra hàng hóa trước khi giao hàng
thì bên bán phải tạo điều kiện cho bên mua thực hiện việc kiểm tra của mình. Bên
mua phải thực hiện việc kiểm tra hàng hóa trong một thời gian nhắn nhất mà hoàn
cảnh thực tế cho phép. Nếu bên mua không thực hiện việc kiểm tra hàng hóa theo
thỏa thuận thì đến thời hạn giao hàng, bên bán có quyền giao hàng theo hợp đồng.
Khi kiểm tra nếu bên mua phát hiện hàng hóa không phù hợp với hợp đồng thì

phải thông báo cho bên bán trong một thời hạn hợp lý. Nếu bên mua không thực
23


hiện việc thông báo này thì bên bán không phải chịu trách nhiệm về những khiếm
khuyết của hàng hóa, trừ khi những khiếm khuyết đó không thể phát hiện được
trong quá trình kiểm tra bằng biện pháp thông thường và bên bán đã biết hoặc phải
biết về những khiếm khuyết đó mà không thông báo cho bên mua. Bên mua có
quyền thực hiện việc kiểm tra hàng hóa trước khi bên bán giao hàng theo các thỏa
thuận của hai bên trong hợp đồng. Việc kiểm tra hàng hoá được bên mua thực hiện
trước khi giao hàng nhằm phát hiện kịp thời khiếm khuyết của hàng hoá và thông
báo cho bên bán tìm biện pháp khắc phục, giảm thiểu các chi phí phát sinh, đảm
bảo quyền lợi cho bên mua.
3.2. Việc ngừng thanh toán tiền mua hàng
Một trong những vấn đề mới được đưa vào Luật Thương mại 2005 đó là
quyền ngừng thanh toán tiền mua hàng. Điều 51 Luật Thương mại 2005 quy định
rằng, nếu trong hợp đồng không có sự thoả thuận khác thì người mua có quyền
tạm ngưng việc thanh toán trong những trường hợp: thứ nhất, bên mua có bằng
chứng về việc bán lừa dối (1); thứ hai, bên mua có bằng chứng về việc hàng hoá
đang là đối tượng bị tranh chấp và tranh chấp đó chưa được giải quyết xong (2);
thứ ba, bên mua có bằng chứng về việc bên bán đã giao hàng không phù hợp với
hợp đồng và người bán chưa khắc phục xong sự không phù hợp đó (3).
Có thể nhận thấy rằng, các quy định nói trên được xây dựng trên cơ sở
nguyên tắc thiện chí và trung thực trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng. Tuy
nhiên một câu hỏi có thể được đặt ra khi xem xét quy định nói trên của Luật
Thương mại 2005, liệu quy định đó có giá trị pháp lý hay không khi các bên trong
hợp đồng áp dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ theo UCP 500. Nếu
trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, khi các bên thoả thuận phương thức
thanh toán bằng tín dụng chứng từ và thoả thuận áp dụng UCP 500 thì các quy
định nói trên không có giá trị pháp lý, bởi vì việc các bên thoả thuận áp dụng UCP

500 có thể hiểu rằng, giữa họ có sự thoả thuận ngầm sẽ không áp dụng quy định
24


của pháp luật. Trong trường hợp các bên vừa thoả thuận áp dụng UCP 500, vừa
thoả thuận các điều kiện tạm ngưng việc thanh toán thì rõ ràng các quy định của
Điều 55 Luật Thương mại vẫn còn có giá trị pháp lý.
Một vấn đề có thể được đặt ra trong thực tiễn thương mại nói chung, thực
tiễn mua bán hàng hoá quốc tế nói riêng đó là hậu quả pháp lý của những trường
hợp, khi những căn cứ, trên cơ sở chúng người bán thực hiện việc tạm ngừng
thanh toán, không có cơ sở xác thực. Có thể nói những người soạn thảo Luật
thương mại 2005 đã có sự dự liệu trước cách giải quyết trong những trường hợp
đó. Khoản 4 Điều 55 Luật Thương mại 2005 quy định rằng, nếu bằng chứng mà
bên mua đưa ra khi tạm ngừng thanh toán không xác thực, gây thiệt hại cho người
bán thì bên mua phải bồi thường thiệt hại và phải chịu các chế tài khác theo quy
định của pháp luật. Quy định này buộc người mua phải có sự cân nhắc, thận trọng
khi thực hiện quyền tạm ngừng thanh toán.
3.3. Xác định giá
Nói đến nghĩa vụ thanh toán của người mua không thể không nói đến
những trường hợp, khi trong hợp đồng các bên không thoả thuận giá cả hay cách
thức xác định giá của hàng hoá thì người mua phải thanh toán như thế nào. Để giải
quyết những trường hợp tương tự, Điều 52 Luật Thương mại 2005 quy định rằng,
trong trường hợp không có thoả thuận về giá của hàng hoá hay không thoả thuận
về phương thức xác định giá và cũng không có bất kỳ sự chỉ dẫn nào khác về giá
thì giá của hàng hoá được xác định theo giá của loại hàng hoá đó trong các điều
kiện tương tự về phương thức giao hàng, thời điểm mua bán hàng hoá, thị trường
địa lý, phương thức thanh toán và các điều kiện khác có ảnh hưởng đến giá.
3.4. Địa điểm thanh toán
Địa điểm thanh toán có ý nghĩa quan trọng bởi vì liên quan đến sự giám sát
ngoại tệ từ phía nhà nước. Theo quy định của pháp luật Pháp (Điều 1651) và Hoa

25


×