PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong bối cảnh mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động xuất nhập
khẩu của các nước là thước đo đánh giá kết quả của quá trình hội nhập quốc tế
và phát triển trong mối quan hệ phụ thuộc vào nhau giữa các quốc gia.
Hoạt động xuất nhập khẩu còn là yếu tố quan trọng nhằm phát huy mọi
nguồn nội lực, tạo thêm vốn đầu tư để đổi mới công nghệ, tăng thêm việc làm,
thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Đẩy mạnh xuất khẩu nông sản hàng hóa được coi là chiến lược lâu dài của
Đảng và Nhà nước ta. Nông sản ngay từ đầu đã được xác định là mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam. Với ưu thế về điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc
nuôi trồng tạo nguồn hàng xuất khẩu cao hàng đầu trong các nhóm hàng chủ lực,
nông sản hàng hóa chiếm tỷ trọng lớn trong các mặt hàng xuất khẩu. Tuy nhiên
đa số các mặt hàng xuất khẩu của ta đều ở dưới dạng thô nên khối lượng nông
sản xuất khẩu cao nhưng kim ngạch xuất khẩu lại thấp. Chính vì lý do trên mà
việc chế biến nông sản trước khi xuất khẩu là một việc làm cần thiết để bảo quản
nông sản trong thời gian lâu hơn, giảm tối đa sự hư hỏng trong quá trình vận
chuyển và nâng cao được giá trị hàng nông sản.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay các doanh nghiệp nhỏ và vừa xuất
hiện ngày càng nhiều, hiệu quả hoạt động của họ đóng góp đáng kể vào nền kinh
tế quốc dân. Nhà nước ta hiện nay đang khuyến khích các doanh nghiệp này
hoạt động và đã có một số chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trên. Công ty Dưa
& Dưa là một công ty TNHH nhỏ chuyên kinh doanh trong lĩnh vực xuất khẩu
nông sản hàng hóa đã qua chế biến. Các sản phẩm của công ty được chế biến từ
các loại nông sản rất phổ biến ở Việt Nam là cà chua, dưa chuột, dứa… Các mặt
1
hàng của công ty rất được ưa chuộng tại Nga và các nước Đông Âu. Trong
những năm vừa qua do sự biến động của giá cả thị trường và chịu sự ảnh hưởng
chung của khủng hoảng thế giới, việc kinh doanh của công ty nói riêng và các
doanh nghiệp khác cùng lĩnh vực kinh doanh nói chung trở nên khó khăn hơn:
số lượng đơn hàng ít hơn do khủng hoảng về kinh tế dẫn đến kim ngạch xuất
khẩu giảm, bên cạnh đó do tính mùa vụ làm cho giá các sản phẩm đầu vào biến
động cũng ảnh hưởng tới việc kinh doanh của công ty.
Vì các lý do như trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu
giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nông sản hàng hóa tại công ty
TNHH Dưa & Dưa – phố Hào Nam - phường Ô Chợ Dừa – quận Đống Đa –
Hà Nội”.
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng xuất khẩu nông sản hàng hóa đã qua chế
biến tại công ty Dưa & Dưa và phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động
xuất khẩu của công ty, đề tài đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động
xuất khẩu nông sản phẩm của công ty, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh
và lợi nhuận của công ty trong thời gian tới.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
(1) Phản ánh cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn về tiêu thụ sản phẩm và xuất khẩu
nông sản.
(2) Phản ánh thực trạng xuất khẩu sản phẩm nông sản tại công ty Dưa & Dưa.
(3) Phân tích những yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu nông sản của
công ty Dưa & Dưa.
2
(4) Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu nông sản hàng
hoá tại công ty.
1.3 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động xuất khẩu nông sản hàng
hóa đã qua chế biến của công ty Dưa & Dưa: thực trạng xuất khẩu các sản phẩm
của công ty, các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu, từ đó đưa ra các giải
pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản đối với công ty.
1.4 PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.4.1 Phạm vi về không gian
Đề tài tiến hành nghiên cứu tại công ty TNHH Dưa & Dưa, trụ sở đặt tại
số 28, ngách 56, ngõ 127, phố Hào Nam, phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa,
thành phố Hà Nội.
1.4.2 Phạm vi về thời gian
Đề tài được thực hiện trong thời gian từ tháng 12/2009 đến tháng 5/2010.
trong thời gian này tôi tiến hành thu thập các số liệu, phân tích và đưa ra các
đánh giá của mình về hoạt động xuất khẩu của công ty, qua đó đưa ra các giải
pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của công ty. Cụ thể như sau:
Số liệu thứ cấp: sử dụng các số liệu về kết quả hoạt động kinh doanh của
công ty trong khoảng thời gian 3 năm: 2007-2009.
Số liệu sơ cấp: tiến hành các cuộc phỏng vấn những người có liên quan đến
hoạt động của công ty trong thời gian thực tập tại công ty từ tháng 12/2009 –
5/2010.
3
PHẦN II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.1 Lí luận về tiêu thụ sản phẩm
Tiêu thụ sản phẩm là quá trình chuyển đổi giá trị và giá trị sử dụng của
hàng hóa. Qua tiêu thụ, hàng hóa chuyển đổi từ hình thái hiện vật sang hình thái
tiền tệ và vòng chu chuyển vốn của doanh nghiệp được hoàn thành. Đây là giai
đoạn cuối cùng của sản xuất kinh doanh, quyết định đến sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp. Ở giai đoạn này, sản phẩm thoát khỏi giai đoạn sản xuất, qua
khâu lưu thông và được chuyển đến tay người tiêu dùng.
Tiêu thụ sản phẩm là công việc thường xuyên của các doanh nghiệp đòi
hỏi sự quan tâm sâu sắc. Tổ chức tiêu thụ sản phẩm có hiệu quả có tác dụng rất
lớn đếnquá trình sản xuất. Khi doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm hết và kịp thời là
thông tin chính xác nhất cho việc thực hiện kế hoạch sản xuất ở quá trình sau.
Như vậy doanh nghiệp sẽ điều chỉnh hợp lí vốn sản xuất, tránh ứ đọng và nhanh
chóng thực hiện quá trình tái sản xuất, thực hiện nhanh chóng và kịp thời tiêu
thụ sản phẩm mới sản xuất ra, rút ngắn được thời gian lưu kho, lưu thông và chu
kì sản xuất kinh doanh của sản phẩm.
Trái lại việc sản phẩm của công ty không tiêu thụ được là một tín hiệu xấu
đòi hỏi doanh nghiệp phải tìm nguyên nhân ở khâu sản xuất hay lưu thông sản
phẩm, từ đó có biện pháp điều chỉnh kịp thời và chính xác, phù hợp với điều
kiện thực tế của doanh nghiệp và yêu cầu của thị trường.
Thực tế cho thấy có những doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm tốt nhưng
không tiêu thụ được sản phẩm do khâu tiêu thụ kém, không đáp ứng được nhu
cầu của thị trường và xã hội.
4
Như vậy tiêu thụ sản phẩm kịp thời và nhanh chóng là tiền đồ quan trọng
của việc thực hiện phân phối sản phẩm và và kết thúc có hiệu quả quá trình sản
xuất kinh doanh, có tầm quan trọng đặc biệt trong việc thực hiện hoạt động sản
xuất kinh doah của doanh nghiệp trong điều kiện thị trường hiện nay. (Jack
Hirsh Leiter,1993)
Quá trình tiêu thụ sản phẩm bao gồm nhiều khâu khác nhau, mỗi khâu có
đặc điểm hoạt động riêng được thực hiện theo những phương thức nhất địnhvà
đặc biệt hoạt động kinh doanh quốc tế thường phức tạp hơn các hoạt động kinh
tế trong nước vì các lí do: bạn hàng ở cách xa, chịu sự điều tiết của hệ thống
pháp luật và tiến tệ tài chính khác, do đó doanh nghiệp phải chuẩn bị chu đáo từ
khâu nghiên cứu từ khâu nghiên cứu, dự báo thị trường, lựa chọn phương thức
tiêu thụ, xác định giá và công tác hỗ trợ tiêu thụ.
2.1.1 Xuất khẩu và hình thức xuất khẩu
2.1.1.1 Khái niệm về xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu hàng hóa là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho một
quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền làm phương tiện thanh toán. Tiền tệ ở đây có
thể coi là ngoại tệ đối với một quốc gia hoặc cả hai quốc gia.
Cơ sở của hoạt động xuất khẩu hàng hóa là hoạt động mua bán và trao
đổi hàng hóa giữa các nước. Khi việc trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia có lợi,
các quốc gia đều quan tâm và mở rộng hoạt động này.
Trên thực tế, bất cứ quốc gia nào muốn đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế
của mình đều phải mở rộng quan hệ đối ngoại đối với các nước khác. Đối với
nước ta đang trong quá trình CNH – HĐH, do đó trao đổi hàng hóa đối với nước
ngoài là hết sức cần thiết.
5
Hoạt động xuất khẩu hàng hóa là một trong hai hình thức cơ bản của hoạt
động ngoại thương đã xuất hiện lâu đời và ngày càng phát triển. Tuy hình thức
cơ bản là trao đổi hàng hóa vàg dịch vụ giữa các nước nhưng hiện nay nó được
biểu hiện ở nhiều hình thức khác nhau trên nhiều lĩnh vực và nhiều đều kiện
kinh tế.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng, cả về điều kiện không
gian lẫn thời gian. Nó có thể được diễn ra trong một hai ngày hoặc kéo dài hàng
năm, có thể được tiến hành trong phạm vi một quốc gia hay nhiều quốc gia khác
nhau. Chính vì thế trong quá trình thực hiện giao dịch giữa các quốc gia thường
gặp một số khó khăn trở ngại như: không cùng ngôn ngữ, luật lệ, chính sách
ngoại thương, phương tiện thanh toán, chế độ quản lí ngoại hối, khoảng cách địa
lí, phong tục tập quán…
2.1.2.2 Các hình thức xuất khẩu chủ yếu
* Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là việc xuất khẩu trực tiếp các hàng hóa dịch vụ do
doanh nghiệp thu mua từ các đơn vị sản xuất kinh doanh hoặc thu mua từ các
vùng nông sản trong cả nước… sau đó doanh nghiệp trực tiếp tiến hành xuất
khẩu ra nước ngoài với danh nghĩa là hàng của mình.
Các bước tiến hành một thương vụ xuất khẩu trực tiếp của một doanh
nghiệp là:
- Trước khi chào hàng cho khách hàng nước ngoài và trước khi ký kết hợp
đồng ngoại, các phòng xuất khẩu của doanh nghiệp nhất thiết phải tiến hành
khảo sát khả năng nguồn hàng của mình để biết được độ chắc chắn của nguồn
hàng thì mới có thể đảm bảo độ tin cậy cho việc ký kất hợp đồng.
6
- Ký kết hợp đồng ngoại với khách hàng nước ngoài với các điều khoản
phù hợp với thông lệ quốc tế về giao nhận và thanh toán.
- Ký kết hợp đồng nội mua bán và trả tiền hàng cho các đơn vị sản xuất
trong nước.
Hình thức xuất khẩu này có ưu điểm là lợi nhuận cao hơn với vai trò là
người bán hàng trực tiếp, đơn vị ngoại thương có thể nâng cao uy tín của mình
thông qua chất lượng hàng hóa và các đơn vị có điều kiện tiếp cận thị trường
nắm bắt thông tin nhanh nhạy nhằm mục đích đưa ra các cách xử lí thích hợp
với thị trường. Tuy vậy nó đòi hỏi các đơn vị phải đáp ứng trước một lượng vốn
khá lớn để mua hàng hóa hoặc có thể gặp rủi ro không xuất được hàng hay chậm
thanh toán do các điều kiện tự nhiên làm đơn vị không mua được hàng để xuất
khẩu do lạm phát, lãi suất ngân hàng cao.
* Xuất khẩu gián tiếp (xuất khẩu ủy thác)
Là hình thức bán hàng hóa dịch vụ của doanh nghiệp ra thị trường nước
ngoài thông qua người trung gian (thông qua người thứ ba). Các trung gian mua
bán chủ yếu trong kinh doanh xuất khẩu củ yếu là: đại lí, công ty quản lí xuất
nhập khẩu và công ty kinh doanh xuất nhập khẩu. Các trung gian mua bán hàng
này không chiếm hữu hàng hóa của doanh nghiệp nhưng trợ giúp doanh nghiệp
xuất khẩu hàng hóa dịch vụ sang thị trường nước ngoài.
2.1.3 Vai trò của hoạt động xuất khẩu
a, Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với một nền kinh tế:
• Xuất khẩu tạo nguồn thu ngoại tệ đảm bảo nhu cầu nhập khẩu.
Sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia phụ thuộc vào 4 nhân tố đó là:
vốn, công nghệ, nhân lực và tài nguyên. Song không phải quốc gia nào cũng có
7
đầy đủ cả 4 yếu tố này đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển và chậm
phát triển.
Mô hình:
Thiếu vốn
Khả năng sản xuất kém
Công nghệ lạc hậu
Hiện nay hầu hết các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển đều thiếu
vốn thế nên họ không có cơ hội để nhập khẩu công nghệ hiện đại và không thể
đầu tư nâng cao trình độ nguồn nhân lực do đó trình độ sản xuất của họ rất thấp.
Ngược lại trình độ sản xuất thấp lại chính là nguyên nhân làm cho quốc gia này
thiếu vốn. Vì vậy, đây chính là một vòng luẩn quẩn của các quốc gia đang phát
triển và chậm phát triển. Để thoát khỏi vòng luẩn quẩn này buộc các quốc gia
này phải có vốn để nhập khẩu công nghệ tiên tiến mà trong nước chưa sản xuất
được và nâng cao trình độ nguồn nhân lực qua đó nâng cao khả năng sản xuất.
Nhưng một câu hỏi được đặt ra với các quốc gia là: Làm thế nào để có một
lượng ngoại tệ cần thiết đáp ứng cho nhu cầu này?
Thực tiễn cho thấy, để có đủ một lượng ngoại tệ đáp ứng cho nhu cầu này
các quốc gia có thể sử dụng các nguồn huy động vốn chính sau:
Nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ.
Nguồn đầu tư nước ngoài.
Nguồn vay nợ, viện trợ.
Nguồn từ các dịch vụ thu ngoại tệ như dịch vụ ngân hàng , du lịch.
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang phát triển chậm lại như hiện nay
thì các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển sẽ gặp rất nhiều khó khăn
8
trong việc huy động được nguồn vốn từ các hoạt động đầu tư, vay nợ, viện trợ
và các dịch vụ thu ngoại tệ. Thêm vào đấy, với các nguồn vốn này các quốc gia
phải chịu những thiệt thòi và những ràng buộc về chính trị nhất định. Vì vậy
nguồn vốn quan trọng nhất mà các quốc gia này có thể trông chờ là nguồn thu từ
hoạt động xuất khẩu.
• Hoạt động xuất khẩu phát huy được lợi thế của quốc gia.
Để hoạt động xuất khẩu có hiệu quả thì các quốc gia thường phải lựa chọn
các mặt hàng sản xuất ở quốc gia đó có lợi thế hơn so với sản xuất tại các quốc
gia khác. Đây chính là những mặt hàng có sử dụng nguồn nguyên liệu dồi dào,
lao động rẻ, ứng dụng nền sản xuất trong nước. Chính vì vậy mà hoạt động xuất
khẩu phát huy được lợi thế của quốc gia.
Ta có thể chứng minh điều này ở ví dụ sau: Giả sử trong nền kinh tế thế
giới chỉ có hai quốc gia Việt Nam và Đài Loan sản xuất hai loại mặt hàng là
thép và vải.
Bảng 1: Lợi thế kinh tế đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia.
Quốc gia
Việt Nam
Đài Loan
Thép ( kg/1 công )
1
6
Vải ( m/1h công )
4
3
Hàng hóa
Qua bảng số liệu trong ta thấy: trong ngành sản xuất thép năng suất lao
động của Đài Loan lớn hơn năng suất lao động của Việt Nam. Tuy nhiên trong
ngành sản xuất vải thì Việt Nam lại có năng suất lao động lớn hơn. Do vậy Việt
Nam có lợi thế trong sản xuất thép còn Đài Loan có lợi thế trong sản xuất vải.
Theo quy luật lợi thế so sánh, cả hai quốc gia sẽ cùng có lợi nếu Việt Nam
chuyên môn hoá sản xuất vải còn Đài Loan chuyên môn hoá sản xuất thép. Sau
9
đấy hai nước sẽ mang trao đổi một phần sản phẩm cho nhau. Nếu tỷ lệ trao đổi
bằng tỷ lệ trao đổi nội địa của mỗi quốc gia thì một trong hai quốc gia sẽ từ chối
trao đổi. Do vậy tỷ lệ trao đổi quốc tế phải nằm ở khoảng giữa. Tức là:
6/3 >
Tỷ lệ trao đổi quốc tế (thép/vải) > 1/4. Giả sử tỷ lệ trao đổi của Việt Nam và Đài
Loan là 6 thép lấy 6 vải. Khi đó, Đài Loan sẽ được lợi 3 mét vải tương đương
với tiết kiệm được một giờ công lao động. Việt Nam sẽ được lợi 18 mét vải
tương đương với tiết kiệm được 4,5 giờ công lao động. Qua phân tích ở trên cho
thấy hoạt động xuất khẩu sẽ phát tạo cơ hội cho một quốc gia phát huy được lợi
của mình.
• Hoạt động xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất.
Thông thường các nhà xuất khẩu sẽ tập trung vào xuất khẩu những mặt
hàng có lợi thế của đất nước. Khi lợi nhuận thu được từ xuất khẩu mặt hàng ấy
càng lớn thì số người tập trung vào sản xuất mặt hàng ấy ngày càng nhiều. Do
vậy cơ cấu sản xuất trong nước sẽ thay đổi. Sự thay đổi này không chỉ diễn ra
trong ngành mà còn diễn ra ở cả những ngành phụ trợ cho ngành hàng xuất
khẩu. VD: khi hoạt động xuất khẩu hàng nông sản phát triển thì nó kéo theo sự
phát triển của ngành sản xuất phân bón, ngành vận tải ngành công nghiệp thực
phẩm phát triển kéo theo ngành trồng trọt chăn nuôi phát triển ngành dệt may
phát triển kéo theo ngành trồng bông đay cũng phát triển.
• Hoạt động xuất khẩu giải quyết công ăn việc làm, tạo nguồn thu nhập,
nâng cao mức sống và trình độ của người lao động.
Hoạt động xuất khẩu là một trong những hoạt động mang lại nguồn lợi
nhuận lớn trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy số lượng lao
động hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu hàng hóa không ngừng
tăng. Hàng năm ngành xuất khẩu giải quyết việc làm cho một số lượng lớn lao
động. Thêm vào đó do có điều kiện tiếp xúc với thị trường mới, phương thức
10
quản lý mới, khoa học công nghệ hiện đại nên trình độ của người lao động cũng
được cải thiện để đáp ứng với yêu cầu chung của thị trường quốc tế.
• Hoạt động xuất khẩu nâng cao uy tín của quốc gia trên trường quốc tế:
Để đánh giá uy tín của một quốc gia người ta thường dựa vào 4 điều kiện
đó là: GDP, lạm phát, thất nghiệp và cán cân thanh toán. Hoạt động xuất khẩu
đem lại nguồn thu ngoại tệ, góp phần làm cân bằng cán cân thanh toán do vậy là
một trong bốn điều kiện đánh giá sự phát triển kinh tế của một quốc gia : Cao
hơn nữa hoạt động xuất khẩu làm tăng tích lũy ngoại tệ của một quốc gia và có
thể biến quốc gia trở thành quốc gia xuất siêu và tạo sự đảm bảo trong thanh
toán cho đối tác, tăng được uy tín trong kinh doanh. Qua hoạt động xuất khẩu,
hàng hóa của quốc gia được bày bán trên thị trường thế giới, khuếch trương
tiếng vang và sự hiểu biết từ nước ngoài. Ngoài ra hoạt động xuất khẩu làm tiền
đề cho các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như: Dịch vụ, ngân hàng, đầu tư,
hợp tác liên doanh... và làm cho quan hệ giữa các nước trở nên chặt chẽ hơn.
b, Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với một doanh nghiệp:
Hoạt động xuất khẩu tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tham gia vào cuộc
cạnh tranh về giá cả, chất lượng, mẫu mã hàng hóa trên thị trường thế giới.
Chính yếu tố này buộc doanh nghiệp phải năng động, sáng tạo hơn, phải không
ngừng nâng cao trình độ quản trị kinh doanh, tăng cường đầu tư đổi mới trang
thiết bị... để tự hoàn thiện mình.
Hoạt động xuất khẩu tạo cơ hội cho các doanh nghiệp mở rộng quan hệ
buôn bán với nhiều đối tác nước ngoài từ đó người lao động trong doanh nghiệp
có thể nâng cao năng lực chuyên môn của mình, tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm
quản lý của đối tác.
11
Hoạt động xuất khẩu tạo nguồn thu ngoại tệ cho doanh nghiệp để mở rộng
và nâng cao trình độ sản xuất đồng thời tạo việc làm và thu nhập ổn định cho
người lao động trong doanh nghiệp.
2.1.4 Nội dung của hoạt động xuất khẩu hàng hóa
Giao dịch mua bán hàng hóa và dịch vụ ngoại thương có những nét đặc
trưng, phức tạp hơn nhiều so với hoạt động thương mại trong nước. Vì vậy
doanh nghiệp xuất khẩu muốn tiến hành hoạt động của mình có hiệu quả thì phải
tuân theo các bước sau:
a. Nghiên cứu tiếp cận thị trường
Công việc này bao gồm nghiên cứu hàng hóa thế giới, lựa chọn mặt hàng,
nắm bắt dung lượng thị trường và giá cả hàng hóa.
• Nghiên cứu thị trường hàng hóa thế giới
Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền sản xuất với lưu thông
hàng hóa. Ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hóa thì ở đó có thị trường.
Như vậy, thị trường có thể nhìn thấy cũng có thể không nhưng nó bao gồm các
quan hệ mua bán hàng hóa, dịch vụ và dung lượng thị trường.
Nghiên cứu thị trường hàng hóa để các nhà kinh doanh biết được các quy
luật vận động của chúng. Mỗi thị trường hàng hóa cụ thể có những quy luật
riêng, quy luật này thể hiện qua sự biến đổi nhu cầu, cung cấp và giá cả hàng
hóa trên thị trường. Nắm vững các quy luật thị trường hàng hóa để vận dụng và
giải quyết các vấn đề của thực tiễn kinh doanh như yêu cầu của thị trường đối
với hàng hóa, hình thức và biện pháp thâm nhập thị trường.
Trong nghiên cứu thị trường hàng hóa thế giới, đặc biệt là khi muốn kinh
doanh xuất khẩu thành công công việc nhận biết sản phẩm phù hợp với thị
12
trường và năng lực xuất khẩu là không thể thiếu được đối với doanh nghiệp.
Muốn vậy doanh nghiệp phải xác định được các vấn đề sau:
- Mặt hàng thị trường đang cần là mặt hàng gì?
Điều này đòi hỏi phải bán cái mà thị trường cần chứ không phải bán cái mà ta
có. doanh nghiệp xuất khẩu cần phải tìm hiểu nhu cầu thị trường nước ngoài về
mạt hàng, quy cách, phẩm chất, mẫu mã, chủng loại, số lượng.
- Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào?
Mặt hàng được người tiêu dùng mua theo thói quen và được thể hiện ở: thời gian
tiêu dùng, thị hiếu tiêu dùng, quy luật biến động của quan hệ cung cầu mặt hàng
đó...Có nắm vững được điều này thì doanh nghiệp mới có thể đáp ứng được nhu
cầu của thị trường.
- Mặt hàng đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống?
Mỗi mặt hàng đều có một khoảng thời gian tồn tại nhất định, mỗi khoảng thời
gian này được thể hiện qua bốn pha của chu kỳ sống của sản phẩm bao gồm:
+
Pha triển khai: Về cơ bản chưa có sản phẩm và đơn vị cạnh tranh. Do
vậy doanh nghiệp cần phải nỗ lực làm cho khách hàng biết tới sản phẩm
của mình.
+
Pha tăng trưởng: sản phẩm được thị trường chấp nhận, doanh nghiệp
cần phải đẩy nhanh quá trình kinh doanh để đưa sản phẩm có tính độc đáo
của mình vào thị trường, qua đó tạo được môi trường tốt, tăng mở rộng thị
trường cho sản phẩm.
+
Pha bão hoà: Lúc này có sự cạnh tranh quyết liệt giữa các đơn vị
tham gia vào thị trường. Khi đó nếu doanh nghiệp cần dựa vào nguồn vốn
tích luỹ để triển khai chiến lược, mặt hàng khác biệt tiến tới kinh doanh
mặt hàng đặc biệt.
13
+
Pha suy thoái: Mặt hàng trong giai đoạn này hầu như không còn bán
được trên thị trường. Vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp là phải dự đoán
được khoảng thời gian lão hoá của sản phẩm để thay thế bằng sản phẩm
mới khác chặn đứng tình trạng suy thoái.
Doanh nghiệp phải biết được mặt hàng kinh doanh đang ở giai đoạn nào
thì mới xác định được các biện pháp thích hợp để nâng cao doanh thu.
- Tình hình sản xuất mặt hàng đó ra sao?
Doanh nghiệp phải nắm vững tình hình cung cầu mặt hàng doanh nghiệp
đang quan tâm. Đặc biệt doanh nghiệp phải tập trung vào yếu tố cung hàng hóa
các yếu tố đó bao gồm: khả năng sản xuất, tập quán sản xuất, việc áp dụng tiến
bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất mặt hàng đó.
• Dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng.
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hóa được giao dịch trên phạm vi
thị trường nhất định trong một thời gian nhất định. Dung lượng thị trường
thường biến động do chịu ảnh hưởng của ba nhóm nhân tố sau:
- Nhóm các nhân tố làm dung lượng thị trường thay đổi có tính chu kỳ:
Gồm: sự vận động của tình hình kinh tế các nước xuất khẩu, tính thời vụ trong
sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hóa. Do đặc điểm của sản xuất lưu thông
và tiêu dùng là khác nhau nên ảnh hưởng của nhân tố thời vụ đến thị trường
hàng hóa cũng rất đa dạng về phạm vi và mức độ.
- Nhóm các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến dung lượng thị trường như:
các nhân tố thuộc nhóm này rất nhiều, chúng ảnh hưởng đến dung lượng thị
trường rất dài. VD: tiến bộ khoa học công nghệ, chế độ chính sách của nhà
nước, thị hiếu và tập quán của người tiêu dùng.
- Nhóm các nhân tố ảnh hưởng có tính tạm thời đến dung lượng thị trường.
Bao gồm sự đầu cơ trên thị trường làm đột biến tình hình cung, cầu trên thị
14
trường , sự biến động của các chính sách chính trị - xã hội, sự biến động của
thiên nhiên.
• Giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới.
Đây là một vấn đề rất quan trọng. Giá cả hàng hóa trên thị trường sẽ phản
ánh quan hệ cung cầu hàng hóa đó trên thị trường thế giới. Xác định đúng đắn
giá cả hàng hóa có ý nghĩa to lớn đối với kết quả kinh doanh xuất khẩu. Trong
kinh doanh quốc tế việc xác định giá cả hàng hóa rất phức tạp do việc buôn bán
diễn ra trong một thời gian dài, hàng hóa vận chuyển qua nhiều nước khác nhau
với chính sách thuế khác nhau. Để đạt được hiệu quả cao trên thương trường
quốc tế đòi hỏi các nhà kinh doanh phải theo dõi, nghiên cứu sự biến động của
giá cả đồng thời phải có biện pháp tính toán, xác định giá một cách chính xác,
khoa học để giá thực sự trở thành một công cụ trong kinh doanh quốc tế. Thông
thường các nhà kinh doanh xuất khẩu xác định giá bán hàng hóa dựa trên ba căn
cứ:
- Căn cứ vào giá thành và các chi phí khác (chi phí vận chuyển, mua bảo
hiểm, chi phí bao bì, đóng gói...).
- Căn cứ vào sức mua và nhu cầu của người tiêu dùng.
- Căn cứ vào gía cả của hàng hóa cạnh tranh.
b. Lựa chọn đối tác giao dịch.
Lựa chọn đối tác giao dịch bao gồm các vấn đề lựa chọn nước để giao dịch
và lựa chọn thương nhân để giao dịch.
Khi lựa chọn nước để làm đối tượng xuất khẩu hàng hóa chúng ta phải tìm
hiểu tình hình sản xuất tiêu thụ hàng hóa của nước đó, nhu cầu nhập khẩu thuộc
đối tượng mặt hàng nghiên cứu, tình hình dự trữ ngoại tệ để biết được khả năng
nhập khẩu, phương hướng nhập khẩu của nước này và có thể dự đoán đối thủ
15
cạnh tranh. Doanh nghiệp phải đưa ra chính sách thương mại đối với nước lựa
chọn làm đối tác giao dịch để lường trước mọi việc có thể xảy ra.
Chọn thương nhân để giao dịch. Trong điều kiện cho phép thì lựa chọn
những người nhập khẩu trực tiếp sẽ mang lại cho doanh nghiệp hiệu quả cao
nhất. Tuy nhiên trong trường hợp muốn thâm nhập vào thị trường mới thì việc
giao dịch qua trung gian với tư cách là đại lý hay môi giới lại rất có ý nghĩa.
Việc lựa chọn thương nhân để giao dịch phải dựa trên cơ sở các nghiên cứu sau:
+
Tình hình sản xuất kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh của thương nhân.
+
Khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật.
+
Thái độ và quan điểm kinh doanh.
+
Uy tín và các mối quan hệ của thương nhân.
Việc lựa chọn đối tác sáng suốt và chính xác là cơ sở vững chắc để dẫn tới
thành công trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ.
c. Lập kế hoạch kinh doanh.
Trên cơ sở những kết quả thu gom được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận
thị trường, đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh cho mình. Phương án
này là kế hoạch hoạt động của đơn vị nhằm đạt tới mục tiêu xác định trong kinh
doanh. Việc xây dựng phương án bao gồm:
- Đánh giá tình hình thị trường, dựa trên sự đánh giá đó doanh nghiệp sẽ
phác hoạ nên bức tranh tổng quát về hoạt động kinh doanh, những thuận lợi và
khó khăn.
- Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh, sự
lựa chọn này phải có tính thuyết phục trên cơ sở phân tích tình hình có liên
quan.
- Đề ra mục tiêu cụ thể như: Sẽ bán được bao nhiêu hàng, giá bán bao
nhiêu, thâm nhập vào thị trường nào.
16
- Đề ra những biện pháp, cách thực hiện để đạt được những mục tiêu. Đó
có thể là các biện pháp trong nước (Đầu tư vào sản xuất, cải tiến bao bì, chất
lượng sản phẩm...) và những biện pháp ngoài nước (quảng cáo, tăng cường lập
chi nhánh ở nước ngoài tăng cường quan hệ bạn hàng...).
Một kế hoạch kinh doanh có khoa học dựa trên sự phân tích chuẩn xác và
đúng đắn về thị trường, bạn hàng cũng như nội lực của doanh nghiệp sẽ quyết
định nhiều đến thành công trong kinh doanh của doanh nghiệp.
d. Ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
• Ký kết hợp đồng xuất khẩu.
Sau khi nghiên cứu về thị trường, mặt hàng xuất khẩu, tìm hiểu đối tác và
đàm phán để thoả thuận mọi điều kiện có liên quan thì doanh nghiệp kinh doanh
xuất khẩu và đối tác sẽ thực hiện bước tiếp theo là ký kết hợp đồng. Khi đã ký
kết hợp đồng có nghĩa giữa doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu và đối tác cùng
ràng buộc với nhau thông qua các điều khoản quy định trong hợp đồng. Một
trong hai bên nếu vi phạm sẽ bị sử lý, chính vì vậy khi ký kết hợp đồng với đối
tác cần phải căn cứ vào:
- Các định hướng kế hoạch của nhà nước, các chính sách, chế độ và các
chuẩn mực kinh tế hiện hành.
- Khả năng phát triển của sản xuất kinh doanh, chức năng hợp đồng kinh tế
của mỗi bên.
- Nhu cầu của thị trường, đơn đặt hàng, chào hàng của bạn hàng.
- Tính hợp pháp của hợp đồng kinh tế và khả năng đảm bảo về tài sản của
mỗi bên khi ký kết.
Một hợp đồng xuất khẩu hàng hóa phải bao gồm các nội dung sau:
- Số hợp đồng.
- Ngày, tháng, năm và nơi ký hợp đồng.
17
- Các điều khoản của hợp đồng trong đó có những điều kiện bắt buộc.
Điều1:
Tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, bao bì, ký mã hiệu.
Điều2:
Giá cả, tên giá, tổng giá trị.
Điều3:
Thời gian, địa điểm và phương tiện giao hàng.
Điều4:
Điều kiện xếp hàng, cơ chế thưởng phạt.
Điều5:
Giám định hàng hóa.
Điều6:
Những chứng từ cần thiết cho lô hàng xuất khẩu.
Điều7:
Điều kiện thanh toán.
Điều8:
Trách nhiệm của các bên khi vi phạm hợp đồng.
Điều9:
Thủ tục giải quyết tranh chấp.
Điều10: Thời gian hiệu lực của hợp đồng.
Khi ký kết các hợp đồng cần phải lưu ý các vấn đề sau:
- Hợp đồng phải được trình bày rõ ràng, sáng sủa, nội dung phản ánh đúng,
đầy đủ các vấn đề đã thỏa thuận.
- Ngôn ngữ dùng trong hợp đồng nên là thứ ngôn ngữ phổ biến mà cả hai
bên cùng thông thạo.
- Các điều khoản của hợp đồng phải tuân thủ đúng pháp luật quốc tế cũng
như pháp luật của các bên tham gia ký hợp đồng.
- Người ký kết hợp đồng phải có đủ thẩm quyền chịu trách nhiệm về nội
dung đã ký.
- Thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Sau khi lý hợp đồng xuất khẩu doanh nghiệp xuất khẩu sẽ tổ chức thực hiện
hợp đồng mình đã ký. Căn cứ vào nội dung hợp đồng, doanh nghiệp tiến hành
sắp xếp các công việc phải làm, ghi thành bảng theo dõi tiến độ thực hiện hợp
đồng.
Sơ đồ các bước tiến hành thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
18
Chuẩn bị
hàng hóa
Kiểm nghiệm
hàng hóa
Xin giấy phép
xuất khẩu Làm thủ tục
Thuê tàu
hải quan
Giải quyết
khiếu nại
Hoàn thành bộ
CTTD
Mua bảo
hiểm
Giao hàng lên
tàu
2.1.6 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu
Bất kỳ một hoạt động thương mại nào cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của
môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh có thể tạo điều kiện thuận lợi
thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp song cũng có thể tạo ra những
khó khăn, kìm hãm sự phát triển của hoạt động này.
Đối với hoạt động xuất khẩu - một trong những hoạt động quan trọng của
thương mại thì ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đến hoạt động này càng
trở nên mạnh mẽ bởi trong thương mại quốc tế các yếu tố thuộc môi trường kinh
doanh rất phong phú và phức tạp. Ta có thể phân chia các nhân tố thuộc môi
trường kinh doanh tác động đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thành
các nhóm sau:
2.1.5.1
Nhóm các nhân tố vĩ mô
a. Các công cụ của nhà nước trong quản lý kinh tế
Các quốc gia khác nhau thường có những chính sách thương mại khác nhau
thể hiện ý chí và mục tiêu của nhà nước trong việc can thiệp và điều chỉnh các
hoạt động thương mại quốc tế có liên quan đến nền kinh tế quốc gia mình. Để
nền kinh tế quốc dân vận hành có hiệu quả thì những chính sách thương mại
thích hợp là thực sự cần thiết. Trong lĩnh vực xuất khẩu, các công cụ chính sách
chủ yếu thường được sử dụng để điều tiết hoạt động này gồm:
19
• Thuế quan
Trong hoạt động xuất khẩu, thuế quan là loại thuế đánh vào từng đơn vị
hàng xuất khẩu. Việc đánh thuế xuất khẩu được chính phủ ban hành nhằm quản
lý hoạt động xuất khẩu theo chiều hướng có lợi nhất cho quốc gia mình. Công
cụ này thường chỉ được áp dụng với một số ít mặt hàng xuất khẩu nhằm bổ
sung cho ngân sách nhà nước, hạn chế xuất khẩu để đáp ứng đầy đủ nhu cầu
tiêu dùng mặt hàng ấy trong nước.
Ngoài thuế quan xuất khẩu, thuế quan nhập khẩu cũng có tác động đến hoạt
động xuất khẩu của doanh nghiệp. Thuế quan nhập khẩu là thuế quan mà nước
nhập khẩu đánh vào một đơn vị hàng nhập khẩu. Do vậy nó sẽ làm tăng gía bán
hàng xuất khẩu của doanh nghiệp tại thị trường nhập khẩu. Vì vậy hàng xuất
khẩu của doanh nghiệp sẽ giảm sức cạnh tranh.
• Hạn ngạch
Hạn ngạch được hiểu như là quy định của nhà nước về số lượng cao nhất
một mặt hàng hay một nhóm hàng doanh nghiệp được phép xuất khẩu hay nhập
khẩu. Quốc gia xuất khẩu sẽ quy định hạn ngạch xuất khẩu nhằm điều chỉnh
lượng hàng xuất khẩu, nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Quốc gia nhập khẩu sẽ quy
định hạn ngạch nhập khẩu nhằm hạn chế lượng hàng nhập khẩu vào trong nước,
bảo hộ nền sản xuất trong nước, bảo vệ tài nguyên và cải thiện cán cân thanh
toán. Tương tự thuế quan, cả hạn ngạch xuất khẩu và nhập khẩu đều có thể gây
tác động trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
• Tiêu chuẩn kỹ thuật
Ngoài hai công cụ thuế quan và hạn ngạch, một công cụ khác tinh vi hơn
ngày càng được nhiều quốc gia sử dụng đó là việc đề ra các tiêu chuẩn chất
lượng, kỹ thuật cho sản phẩm nhập khẩu. Đây là biện pháp phi thuế quan cũng
nhằm mục đích hạn chế lượng hàng xuất nhập khẩu của doanh nghiệp.
20
• Tỷ giá hối đoái và các chính sách đòn bẩy có liên quan nhằm khuyến
khích xuất khẩu
Tỷ giá hối đoái là sức mua của một đồng tiền so với đồng tiền khác. Sức
mua của đồng tiền là khả năng thanh toán của một đơn vị tiền tệ với một khối
lượng hàng xuất khẩu nhất định gắn liền với thanh thanh toán quốc tế. Trong
thanh toán quốc tế người ta thường sử dụng những đồng tiền mạnh như USD để
thanh toán. Nếu tỷ giá hối đoái tăng, tương đương với giá trị ngoại tệ tăng so với
nội tệ khi đó hoạt động xuất khẩu sẽ được khuyến khích. Ngược lại nếu tỷ giá
hối đoái giảm sẽ kìm hãm sự phát triển của hoạt động xuất khẩu.
Trợ cấp xuất khẩu cũng là một trong những biện pháp có tác dụng thúc đẩy,
mở rộng xuất khẩu đối với mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu. Biện pháp
này thường được nhiều quốc gia sử dụng vì: Khi xâm nhập vào thị trường nước
ngoài doanh nghiệp sẽ gặp phải rủi ro cao hơn so với thị trường trong nước.
Việc trợ cấp xuất khẩu có thể được nhà nước sử dụng dưới nhiều hình thức như:
trợ giá, miễn giảm thuế xuất khẩu, hạ lãi suất vốn vay, hoặc cho bạn hàng nước
ngoài vay ưu đãi đẻ họ có điều kiện mua sản phẩm của nước mình...
• Các chính sách đối với cán cân thanh toán và thương mại
Việc đảm bảo cán cân thanh toán và cán cân thương mại sẽ góp phần củng
cố lòng tin của đối tác nước ngoài với quốc gia, nâng cao uy tín của quốc gia
trên trường quốc tế. Biện pháp để quốc gia có thể giữ cán cân thanh toán, cán
cân thương mại có thể là: Khuyến khích xuất khẩu, cấm nhập khẩu, hạn chế
nhập khẩu hoặc vay vốn. Tuy nhiên sự cân bằng theo các hình thức cấm nhập
khẩu là cân bằng tiêu cực, gây tác động xấu đến sự phát triển kinh tế của quốc
gia. Chính vì vậy, để cải thiện cán cân thanh toán và cán cân thương mại các
quốc gia không còn con đường nào khác ngoài khuyến khích xuất khẩu, trong đó
chú trọng tới mặt hàng chủ lực.
21
Như vậy nhìn chung việc giữ cân bằng cán cân thanh toán và cán cân
thương mại đã chứa đựng trong đó yếu tố thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của
quốc gia.
b. Các quan hệ kinh tế quốc tế
Các mối quan hệ quốc tế sẽ có tác động cực kỳ mạnh mẽ tới hoạt động
thương mại quốc tế của một quốc gia nói chung và tác động tới hoạt động
thương mại của doanh nghiệp nói riêng. Hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp
là một trong những nội dung quan trọng của hoạt động thương mại quốc tế chính
vì vậy nó cũng chịu sự tác động mạnh mẽ của các mối quan hệ này.
Khi hàng hóa của doanh nghiệp xâm nhập được vào thị trường của một
quốc gia thì nó sẽ được hưởng chính sách ưu đãi hoặc phải đối mặt với các rào
cản thương mại từ quốc gia này như: thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu, các tiêu
chuẩn kỹ thuật sản phẩm... Mức độ ưu đãi mà doanh nghiệp được hưởng hay các
rào cản thương mại mà doanh nghiệp phải đối đầu chặt chẽ hay nới lỏng hoàn
toàn phụ thuộc vào mối quan hệ kinh tế song phương giữa quốc gia xuất khẩu
và quốc gia nhập khẩu.
Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới như hiện nay, nhiều hiệp
định kinh tế song phương và đa phương đã được ký kết, nhiều liên minh kinh tế
đã được hình thành với mục tiêu là giảm bớt thuế quan giữa các nước tham gia,
giảm giá cả, thúc đẩy hoạt động thương mại trong khu vực và trên thế giới. Nếu
là một thành viên trong liên minh kinh tế hoặc hiệp định thương mại ấy thì quốc
gia sẽ có cơ hội thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Nếu không phải, chính các hiệp
định thương mại, liên minh kinh tế này sẽ trở thành một rào chắn lớn cho việc
xâm nhập và mở rộng thị trường của doanh nghiệp.
Tóm lại, có được những mối quan hệ mở rộng, bền vững và tốt đẹp sẽ tạo
tiền đề cho việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
22
c. Ảnh hưởng của nền sản xuất, thương mại trong nước và quốc tế
Sản xuất trong nước là nhân tố chủ yếu quyết định đến lượng cung hàng
xuất khẩu. Nếu nền sản xuất trong nước phát triển, khả năng cung ứng hàng xuất
khẩu sẽ tăng lên, giá cả thu mua hàng xuất khẩu sẽ giảm xuống, doanh nghiệp sẽ
gặp thuận lợi trong khâu đầu vào. Ngược lại, khi nền sản xuất trong nước bị
giảm sút dẫn tới giá cả hàng xuất khẩu sẽ tăng lên, doanh nghiệp sẽ gặp khó
khăn để chọn được hàng hóa có chất lượng cao, đồng loại phục vụ cho xuất
khẩu.
Đối với nền sản xuất nước ngoài thì ngược lại. Khi nền sản xuất nước ngoài
phát triển, nhu cầu nhập khẩu sẽ ít đi, khả năng xuất khẩu của các doanh nghiệp
vào thị trường của họ sẽ bị hạn chế. Ngược lại, khi nền sản xuất của họ bị giảm
sút, nhu cầu nhập khẩu của họ cao. Đây sẽ là thời cơ để doanh nghiệp thúc đẩy
hoạt động xuất khẩu của mình.
Vấn đề không đơn thuần chỉ có các yếu tố cung, cầu, giá cả mới tác động
đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Rất nhiều các yếu tố khác cũng tác
động đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp như: chất lượng, mẫu mã,
chủng loại của sản phẩm. Khi các yếu tố này đều tốt thì khả năng cạnh tranh của
sản phẩm trên thị trường quốc tế sẽ cao. Đây là một sự thuận lợi cho hoạt động
xuất khẩu của doanh nghiệp.
Ngoài ra, sự phát triển của hoạt động thương mại trong nước và quốc tế
cũng góp phần hạn chế hay khuyến khích xuất khẩu vì nó quyết định đến sự chu
chuyển hàng hóa trong nội bộ nền kinh tế của một quốc gia với nền kinh tế thế
giới.
d. Trình độ phát triển của hệ thống tài chính ngân hàng, thông tin liên lạc, cơ sở
hạ tầng quốc gia
23
Hiện nay hệ thống tài chính ngân hàng đang phát triển khá mạnh và có can
thiệp rất lớn tới hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động trong mọi lĩnh vực
dù doanh nghiệp đó thuộc thành phần kinh tế nào và hoạt động trong lĩnh vực
nào. Một hệ trong thống ngân hàng phát triển không đơn thuần chỉ là nơi cấp
vốn cho doanh nghiệp mà nó còn giúp các doanh nghiệp trong việc thanh toán
một cách thuận tiện, nhanh chóng và chính xác. Đây là một trong những yếu tố
thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
Hệ thống thông tin liên lạc của một quốc gia cũng góp phần thúc đẩy hoạt
động xuất khẩu của doanh nghiệp thông qua việc cung cấp thông tin đầy đủ,
chính xác và nhanh chóng cho doanh nghiệp.
Hệ thống cơ sở hạ tầng quốc gia cũng có tác động rất lớn tới hoạt động
xuất khẩu của doanh nghiệp. Một quốc gia có hệ thống đường xá, cầu cống phát
triển sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất, nâng cao khả năng tham gia của doanh
nghiệp vào thị trường thương mại quốc tế. Đặc biệt các bến bãi, các nhà ga, các
cảng biển có tác động trực tiép tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Nếu
hệ thống này được đầu tư xây dựng phù hợp với yêu cầu chung của thị trường
quốc tế sẽ là nhân tố tác động tích cực tới hoạt động xuất khẩu của doanh
nghiệp. Ngược lại, hệ thống cảng biển, nhà ga, bến dỡ không đạt yêu cầu tối
thiểu về kỹ thuật sẽ gây tâm lý nghi ngại từ phía đối tác nước ngoài và rất có thể
doanh nghiệp sẽ mất cơ hội kinh doanh.
2.1.5.2
Nhóm các nhân tố vi mô
a. Nguồn nhân lực
Con người là chủ thể của mọi hoạt động xã hội và hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp suy đến cùng cũng là do con người và vì con người. Bởi vậy
con người luôn được đặt ở vị trí trung tâm khi xem xét đến các vấn đề liên quan
đến doanh nghiệp. Một đội ngũ lao động vững vàng trong chuyên môn, có kinh
24
nghiệm trong buôn bán quốc tế, có khả năng ứng phó linh hoạt trước biến động
của thị trường và đặc biệt có lòng say mê trong công việc luôn là đội ngũ lý
tưởng trong hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu nguồn
nhân lực của doanh nghiệp yếu kém về chất lượng và hạn chế về số lượng thì
doanh nghiệp sẽ luôn trong tình trạng bị động và kinh doanh kém hiệu quả. Như
vậy, nhân lực quyết định hoạt động của doanh nghiệp nên doanh nghiệp muốn
hoạt động có hiệu quả nhất thiết phải quan tâm tuyển chọn đội ngũ lao động
thực sự có năng lực, đồng thời chú trọng đến công tác quản lý nhằm tạo động
lực cho người lao động trong doanh nghiệp làm việc có hiệu quả.
b. Khả năng tài chính
Khả năng tài chính là một trong những nhân tố quyết định sức mạnh của
doanh nghiệp trong thời đại ngày nay. Nếu có tiềm lực tài chính mạnh, doanh
nghiệp sẽ có thể đầu tư đổi mới công nghệ, thu hút lao động có chất lượng cao,
mở rộng quy mô hoạt động. Ngoài ra khi có tiềm lực về tài chính doanh nghiệp
có trong thể thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của mình thông qua việc cấp tín dụng
cho khách hàng qua hình thức mua trả chậm.
Như vậy có thể nói hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh
hưởng lớn bởi khả năng tài chính của doanh nghiệp.
c. Vị trí địa lý
Nếu được bố trí ở gần nơi cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động sản
xuất kinh doanh hoặc vùng gần nhà ga cảng biển, doanh nghiệp sẽ giảm được
chi phí vận chuyển - đây là cơ sở để doanh nghiệp giảm giá thành sản phẩm,
tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Đặc biệt, với ưu thế về khoảng cách
địa lý nhà cung ứng yếu tố đầu vào, doanh nghiệp có thể thường xuyên xuống cơ
sở sản xuất tạo lập mối quan hệ nhằm xây dựng chân hàng vững chắc phục vụ
25