Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Vai trò của Đảng trong sự phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.29 KB, 24 trang )

1. Liên hệ thực tế
Vai trò của Đảng chính trị với sự phát triển của các quốc gia.
Đảng chính trị là một nhân tố hết sức quan trọng trong hệ thống chính trị của các
nước tư bản. Nó có vai trò là một trong những thành phần cơ bản của chế độ chính trị,
của xã hội công dân hiện đại, có ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị, từ cơ cấu tổ
chức đến sự vận hành của hệ thống chính trị. Đây là một tổ chức chính trị phản ánh
lợi ích của giai cấp, của tầng lớp xã hội, nó liên kết, lãnh đạo những người đại diện
tích cực nhất của tầng lớp hay xã hội đó để cùng thực hiện đạt những mục tiêu và lý
tưởng nhất định.
Ngày nay, trên thế giới không có quốc gia nào lại không có Đảng chính trị. Hình
thức tiền thân của Đảng chính trị là các nhóm chính trị, các câu lạc bộ chính trị… Sự
ra đời và phát triển của các Đảng chính trị có liên quan chặt chẽ với quyền tồn tại của
các nhóm khác nhau trong xã hội, quyền các nhóm được kiểm soát, chi phối lãnh đạo
và hạn chế quyền của Đảng cầm quyền. Chúng phải có tổ chức, phải luôn tìm kiếm sự
ủng hộ từ dân chúng và phải khác biệt với các nhóm khác.
Ở Pháp, Đảng chính trị với đúng ý nghĩa của nó xuất hiện từ đầu thế kỷ 20. Tuy
nhiên hoạt động chính trị, ảnh hưởng của chúng trên các hệ thống thông tin đại chúng
cũng như khả năng huy động lực lượng Đảng viên là tương đối yếu. Người Pháp
không thích Đảng lắm, theo một điều tra của SOFRES vào 9/1983, 13% người được
phỏng vấn hy vọng rằng “trong tương lai, các Đảng sẽ có vị trí quan trọng hơn”, 39%
cho rằng “chúng nên giữ vai trò giống như hiện tại” và 31% cho rằng “chúng nên có
vai trò khiêm tốn hơn”. Hiến pháp thể hiện vai trò của Đảng cũng chỉ được quy định
tương đối hạn chế, chỉ là “góp sức vào việc thể hiện ý chí của số đông dân chúng”. Dù
theo luật ngày 01/7/1901, các Đảng chính trị được hưởng cùng quy chế với các Hiệp
hội, và để hoạt động nó chỉ cần đăng ký tên và điều lệ, nhưng phải đến thời đệ ngũ
Cộng hòa, các Đảng mới được hưởng một quy chế xứng đáng.
Việc người dân lựa chọn bầu Tổng thống (như ở Mỹ) hay người dân bầu hạ nghị


sĩ vào Hạ nghị viện (như ở Anh), chính là việc nhân dân lựa chọn một Đảng chính trị
làm đại diện cho họ. Đảng chính trị trong Nhà nước Tư bản phải:


- Lãnh đạo, điều hành chính quyền Nhà nước, tổ chức giai cấp và các lực lượng
chính trị để đấu tranh chính trị.
- Bảo vệ lợi ích của đất nước, đảm bảo quyền của công dân và giáo dục công dân.
- Tiến hành bầu cử và bảo đảm việc thay đổi chính quyền một cách hoà bình.
Chính vì vậy, sự tồn tại của một Đảng chính trị gắn với cuộc đấu tranh giành
chính quyền, thỏa mãn những lợi ích của giai cấp, đạt được mục tiêu cuối cùng là trở
thành Đảng cầm quyền, và đương nhiên, thành lập Chính phủ để thể hiện ý chí thống
trị xã hội của giai cấp mình. Nhiệm vụ chủ yếu của các Đảng chính trị là trở thành
Đảng cầm quyền. Muốn như thế thì trước hết Đảng chính trị phải có vai trò tổ chức để
vạch ra “ý chí chung”, trong đó hệ thống hóa những khuynh hướng, lập trường chính
trị khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau thành một chương trình hành động cụ thể,
một chính sách nhất định, và tiến hành giành chính quyền bằng nhiều biện pháp. Bên
cạnh đó, Đảng phải tổ chức giáo dục tư tưởng, tuyên truyền phổ biến tư tưởng của
Đảng mình cho quần chúng.
Người ta gọi chính trị, đảng phái có nghĩa là cơ cấu chính trị trong đó nhiều đảng
tranh gianh quyền lãnh đạo chính quyền một cách hòa bình với nhau thông qua bầu
cử. Trong các nước tư sản, hình thái chủ yếu của chính trị đảng phái là có chế độ Nội
các Nghị viện và chế độ Tổng thống. Tùy theo số lượng Đảng chính trị lớn ở trong
một nước, người ta chia thành các loại lưỡng đảng, đa đảng… Để bảo đảm cho Quốc
hội và các Đảng được điều hành ổn định, điều quan trọng là sự bảo đảm tự do về
chính trị, ngôn ngữ, lập hội và bầu cử công bằng và giảm bớt những căng thẳng trong
nội bộ xã hội.
Trong nền Cộng hòa thứ năm của Pháp, các đảng chính trị tập hợp thành 2 cực
phân biệt rõ rệt là phe tả và phe hữu, dù nội bộ từng phe đều có những bất đồng. Lực
lượng cánh tả gồm các đảng như: đảng Xã hội (PS), đảng Cộng sản Pháp (PCF),


phong trào cấp tiến cánh tả (MRG). Cánh hữu và phe giữa gồm: đảng Tập hợp vì nền
cộng hòa (RPR), đảng Liên minh vì nền dân chủ Pháp (UDF). Ngoài ra còn có một số
đảng phái khác thuộc các đảng cực hữu (như đảng Mặt trận dân tộc-FN, một số phong

trào và nhóm nhỏ tự tuyên bố theo tinh thần dân tộc) và cực tả (Liên đoàn cộng sản
cách mạng, Phong trào đấu tranh công nhân, đảng Xanh...).
Có nhiều lý do khiến các đảng phải liên kết lại trong hoạt động chính trị và nắm
chính quyền. Trước hết, do chế độ bầu cử Tổng thống và các cuộc bầu cử quan trọng
khác (như bầu cử Quốc hội, Hội đồng) theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu với đa số
phiếu qua hai vòng bầu cử đã buộc các đảng ít có hy vọng thắng cử phải liên kết với
các đảng lớn để có cơ hội giành thắng lợi cho ứng cử viên chung của họ, và tránh bị
gạt ra khỏi trường chính trị sau này vì tỷ lệ phiếu bầu thu được quá ít. Một lý do nữa
là, các nguyên tắc hoạt động của các thể chế Nhà nước buộc các đảng phái phải tập
hợp lại với nhau để bảo vệ quyền lợi của mình (đối với phe đa số nắm quyền) hoặc để
chống đối, gây cản trở cho chính quyền hoạt động (đối với phe đối lập). Nhũng buổi
thảo luận tại Quốc hội, thượng nghị viện, thông qua các đạo luật, bỏ phiếu tín nhiệm
hay không tín nhiệm Chính phủ... đều cho thấy rõ quan điểm đối lập giữa 2 phe và sự
tập hợp lực lượng của mỗi phe thể hiện qua tiếng nói chung của nhóm nghị sĩ đại
diện.
So với các nước Âu, Mỹ, Đảng chính trị ở Nhật Bản mang những đặc điểm tương
đối khác do tác động của truyền thống lịch sử, văn hóa và chính trị. Chúng có tổ chức
quần chúng yếu, hoạt động thất thường trong khu vực bầu cử. Các Đảng chính trị
Nhật Bản thường liên kết và thông qua các tổ chức ngoài Đảng kinh tế, công đoàn
hoặc các đoàn thể quần chúng, tổ chức xã hội để tập hợp phiếu nhân sự cũng như giúp
đỡ về tài chính để hoạt động chính trị. Vì thế, các Đảng dễ bị các tổ chức ngoài Đảng
chi phối trong việc quyết định chính sách và hoạt động lập pháp.
Một trong những vai trò rất quan trọng của các Đảng chính trị là vai trò đối lập
của đảng không cầm quyền. Sự đối lập này thể hiện rất rõ trong hoạt động các Đảng
Chính trị của nhà nước tư sản Anh, Mỹ – nơi điển hình của hệ thống lưỡng đảng.


Ngoài Chính phủ đang cầm quyền, pháp luật Anh còn cho phép thành lập “Nội các
trong bóng tối” của các Đảng đối lập, có nhiệm vụ tìm ra những khiếm khuyết trong
chính sách của Đảng cầm quyền, giám sát những người đang làm nhiệm vụ cai trị đất

nước dưới sự hướng dẫn của Đảng cầm quyền. Đây được gọi là sự đối lập có trách
nhiệm, chúng có tác dụng nhất định giúp nhà nước tư sản thận trọng hơn khi đưa ra
các quyết định của mình.
Các Đảng chính trị thường tìm cách để tạo cho quần chúng ấn tượng về mình là tổ
chức thể hiện nhu cầu, khát vọng chung của cộng đồng xã hội. Hiện nay ở các nước tư
sản tồn tại một số Đảng tiêu biểu như: Đảng Tự do, Đảng Bảo thủ, Đảng Dân chủ –
Thiên chúa giáo, Đảng Xã hội, Đảng Cộng hòa, Đảng theo lãnh thổ, sinh thái học…
II. ĐẢNG CẦM QUYỀN ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC TRONG CHỦ NGHĨA TƯ
BẢN HIỆN ĐẠI
1. Con đường cơ bản để đưa Đảng chính trị trở thành Đảng cầm quyền. Những
điều kiện để Đảng chính trị trở thành Đảng cầm quyền:
Việc xuất hiện và phát triển của các Đảng chính trị ở các nước tư sản thường gắn
liền với sự xuất hiện và phát triển của Quốc hội và các hoạt động bầu cử. Thông qua
các Nghị sĩ là thành viên của mình mà Đảng gây ảnh hưởng đối với các quyết định
của Nhà nước, của Chính phủ nhằm mang lại lợi ích cho nhóm, giai cấp mà nó đại
diện. Biểu hiện cụ thể là, các Đảng chính trị tranh giành quyền lực và trở thành Đảng
cầm quyền thông qua con đường tuyển cử và đấu tranh ở Quốc hội. Đây là con đường
cơ bản để đưa một Đảng chính trị trở thành Đảng cầm quyền.
Để các Đảng chính trị thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ và được điều hành ổn
định, cần phải xây dựng một chế độ bầu cử công bằng, thực hiện trên nguyên tắc dân
chủ, tự do, công bằng. Đồng thời, phương pháp chọn đại biểu và quy chế về khu vực
bầu cử cũng cần được quan tâm, tính toán sao cho phù hợp với cơ cấu chính trị và
truyền thống của quốc gia.
Chế độ bầu cử đại biểu theo tỷ lệ phiếu (số phiếu trong Quốc hội được phân bổ


cho các chính Đảng theo tỷ lệ phiếu mà Đảng đó giành được) là chế độ bầu cử công
bằng nhất. Tuy nhiên, ngoài mục đích phản ảnh ý chí của nhân dân trong việc lựa
chọn đại biểu, còn một mục đích nữa là thông qua bầu cử, nhân dân sẽ nâng cao ý
thức chính trị, cảm thấy gần gũi với chính trị và dễ dàng chấp nhận hơn khi có sự thay

đổi chính quyền.
Cuộc bầu cử đầu tiên ở Nhật Bản được tiến hành vào năm 1890, sau khi nghị viện
Hoàng gia ra đời. Nhưng mãi đến sau chiến tranh, Nhật Bản mới thực hiện chế độ bầu
cử phổ thông đầu phiếu và mọi ngườii dân đến tuổi trưởng thành đều có quyền bầu
cử. Tuy nhiên, đặc điểm chế độ bầu cử Nhật Bản còn nhiều hạn chế, như: người dân
chưa xem bầu cử là cơ hội lựa chọn chính khách quan trọng đối với chính trị đất nước
để có sự cân nhắc kỹ khi bỏ phiếu cho ai, do đó vẫn tồn tại tình trạng ứng cử viên thu
hút lá phiếu với cách mua chuộc bằng tiền bạc, hàng hóa… và thu được lợi qua các
quỹ hỗ trợ của các tổ chức; quy định thời gian vận động tranh cử ngắn hơn so với các
nước Âu Mỹ, cấm ứng cử viên đến từng gia đình vận động tranh cử, tuy có cho phép
vận động trên phương tiện thông tin đại chúng nhưng theo mức độ đã được quy định
và hạn chế tuyên truyền trên sách báo, ngôn luận, do đó hoạt động chính trị của các
Đảng không đi vào quần chúng, cản trở sự tích cực của nhân dân trong việc tham gia
vào hoạt động chính trị thông qua hoạt động bầu cử…
Ở các nước có từ hai Đảng trở lên, bầu cử là cuộc đấu tranh giành giật quyền lực
rất gay gắt giữa các Đảng chính trị. Sau cuộc tổng tuyển cử, Đảng cầm quyền – là
Đảng chiếm đa số ghế trong nghị viện và ứng cử viên của mình thắng cử trong cuộc
bầu cử – có quyền đứng ra thành lập Chính phủ và các thành viên hoạt động tích cực
trong chiến dịch vận động bầu cử của Đảng sẽ được bổ nhiệm vào các chức vụ trong
chính quyền. Mọi hoạt động của Chính phủ phải thể hiện ý chí của Đảng cầm quyền
thông qua ý chí của người lãnh đạo.
Để trở thành Đảng cầm quyền, Đảng chính trị cần phải:
- Có tổ chức, hệ tư tưởng đủ mạnh và tuyên truyền, giáo dục hệ tư tưởng, đường


lối của Đảng mình cho thành viên và công chúng để có khả năng thu hút lực lượng về
mình và nhận được sự ủng hộ cũng như bảo vệ của các lực lượng xã hội.
- Bảo đảm số ứng cử viên là thành viên của Đảng thắng cử tham gia vào cơ quan
nhà nước và có khả năng thực hiện lợi ích của Đảng.
- Tuyển chọn và bố trí nhân sự vào bộ máy cơ quan quyền lực nhà nước. Đảng

nắm chính quyền thông qua đội ngũ Đảng viên là công chức trong các cơ quan lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
- Xây dựng chủ trương, cương lĩnh, chính sách của Đảng đúng đắn, phù hợp,
phản ảnh và thỏa mãn nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân và cam kết thực hiện
nếu thắng cử và lập được Chính phủ.
2. Vai trò của Đảng cầm quyền trong việc xác lập: bộ máy nhà nước, vị trí cán bộ
chủ chốt trong bộ máy nhà nước cấp Trung ương và địa phương, vị trí cán bộ chủ chốt
thuộc các bộ phận cấu thành hệ thống quyền lực nhà nước:
Hoạt động của Đảng cầm quyền luôn gây ảnh hưởng đến đời sống chính trị và
hoạt động của bộ máy Nhà nước, làm cho các cơ quan nhà nước hoạt động không
theo quy định của pháp luật và trở nên hình thức, có sự phân chia quyền lực nhà nước
giữa các Đảng.
Ở Cộng hòa Xingapo, Đảng cầm quyền PAP của Xingapo lãnh đạo Chính phủ và
chi phối Quốc hội. Tuy nhiên giữa chúng có sự phân chia quyền lực: các chủ trương,
đường lối, chính sách lớn của Đảng phải được Quốc hội thông qua mới được thi hành,
và Chính phủ là cơ quan triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối đó.
Quốc hội Xingapo là cơ quan lập pháp gồm 51 nghị sĩ do dân bầu. Tổng thống là
người đứng đầu Nhà nước do Quốc hội cử, và chỉ định Thủ tướng (người đứng đầu
Đảng chiếm đa số ghế trong Quốc hội). Theo đề nghị của Thủ tướng, Tổng thống sẽ
chỉ định các thành viên của Nội các (gồm 14 Bộ trưởng và các quan chức hành chính
cao cấp). Một Hội đồng cố vấn được lập ra làm tham mưu cho Tổng thống, các ý kiến


của Hội đồng trong các cuộc họp cấp cao có thể được Tổng thống tham khảo, ví dụ
như việc bổ nhiệm cán bộ chủ chốt cho nền hành chính của quốc gia.
Ở Malaysia, bộ máy nhà nước được chia thành 3 ngành lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Trong đó, Quốc hội liên bang giữ quyền lập pháp của liên bang (cụ thể là
Thượng và Hạ nghị viện), có chức năng làm luật và kiểm soát tài chính của Chính
phủ.
Thượng nghị viện hoạt động dưới sự chủ trì của Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch, gồm

69 thành viên, trong đó có 40 người được sự chỉ định của Vua. Hạ nghị viện gồm 192
thành viên, trong đó 145 thành viên được cử tri bầu trực tiếp từ 104 khu vực bầu cử
miền Tây Malaysia, số còn lại được bầu gián tiếp qua bộ phận lập pháp của bang
Sabah (20 thành viên) và Sarawak (27 thành viên). Các thành viên được bầu gián tiếp
sẽ được thay thế bằng các thành viên được bầu trực tiếp sau kỳ tổng tuyển cử toàn liên
bang. Chủ trì Hạ viện là người phát ngôn do Viện bầu chọn. Hiến pháp Malaysia có
quy định một điều đặc biệt là người phát ngôn Hạ viện có thể là người ngoài Viện, khi
đó ngừơi được đề cử sẽ được coi là một thành viên thứ 193 của Viện.
Theo truyền thống lịch sử, Quốc vương Malaysia là ngừơi đứng đầu liên bang, có
quyền cao nhất, bảo đảm sự trị vì đất nước, kiểm soát cả 3 ngành lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Quốc vương có quyền bổ nhiệm Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thẩm
phán và giải tán Quốc hội khi cần thiết. Theo quy trình làm luật, dự luật muốn trở
thành luật phải được thông qua từ Hạ viện đến Thượng viện và cuối cùng là Vua, do
đó Vua là người ký ban hành các đạo luật. Ngoài ra, Vua còn một số đặc quyền khác
như: ân xá, bảo vệ quyền lợi cho các dân tộc thiểu số, bảo vệ quyền đặc biệt của
người Mã lai…
Trong hoạt động của Chính phủ, Vua là nguyên thủ quốc gia nắm quyền hành
pháp. Việc điều hành công việc hàng ngày của đất nước được giao cho Nội các. Để
tránh tình trạng độc đoán, Hiến pháp quy định: Vua quyết định trên cơ sở tư vấn của
Thủ tướng và Nội các, trừ trường hợp bổ nhiệm Thủ tướng, giải tán Quốc hội và triệu


tập Hội nghị 9 tiểu vương quốc. Tuy nhiên trong thực tế, Vua vẫn có sự tham khảo ý
kiến của Thủ tướng và các thành viên Nội các.
Theo quy định và Hiến pháp, Thủ tướng là người đứng đầu Đảng chiếm đa số ở
Quốc hội, nắm quyền lãnh đạo Chính phủ và đứng ra thành lập Nội các. Trong trường
hợp không có Đảng nào giành được đa số ghế tại Quốc hội thì Vua sẽ phải chọn Thủ
tướng. Sau khi được Vua bổ nhiệm chính thức và được giao quyền thành lập Chính
phủ, Thủ tướng sẽ phải xem xét đến số ghế tương quan giữa 3 Đảng lớn Mã lai – Hoa
– Ấn và số ghế giữa các Bang để tránh tình trạng có nhiều thành viên Nội các là người

của một Đảng hay một Bang nào đó. Bộ trưởng được chọn trong số đại biểu của 2
Viện, nhưng chủ yếu là của Hạ nghị viện. Hiện nay, Malysia có 27 Bộ trưởng, trong
đó có 4 Bộ trưởng không Bộ nằm trong Văn phòng Thủ tướng. Thủ tướng có đặc
quyền kiêm nhiệm chức vụ Bộ trưởng ở bất kỳ Bộ nào, không hạn chế.
Hiến pháp Nhật Bản quy định Quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao, là cơ quan
lập pháp duy nhất của đất nước. Điều đó cho thấy, Quốc hội được công nhận về tầm
quan trọng của mình cao hơn các cơ quan khác như Nội các và Tòa án. Vì vậy, nền
chính trị nhà nước hoạt động theo nguyên tắc Quốc hội là trung tâm. Nhật Bản cơ cấu
Quốc hội theo chế độ 2 viện được tổ chức hết sức công phu, dù tổ chức 2 viện khác
nhau nhưng phải phù hợp với mục đích của Quốc hội. Ngoài quyền lập pháp, hai viện
của Quốc hội còn có quyền giám sát tài chính quốc gia và điều tra các hoạt động
chính trị của đất nứơc.
Do áp dụng chế độ Nội các Nghị viện nên Thủ tướng Nhật Bản được chỉ định
trong số các nghị sĩ bằng quyết nghị của Quốc hội. Thực tế, nghị sĩ là Chủ tịch Đảng
chiếm đa số ghế tại Hạ nghị viện làm Thủ tướng. Thủ tướng có quyền bổ nhiệm các.
Bộ trưởng và hơn nửa số Bộ trưởng phải được chọn trong số các nghị sĩ Quốc hội
(thực tế thì đa số ghế Bộ trưởng trong Nội các thuộc Đảng cầm quyền).
Nội các gồm Thủ tướng và khoảng 20 Bộ trưởng, cơ quan giúp việc cho Nội các
là Văn phòng Nội các và các cơ quan của Cục pháp chế Nội các. Ngoài công việc


hành chính nói chung, Nội các còn thực thi và chịu trách nhiệm trước Quốc hội về các
công việc hành chính như chấp hành pháp luật, tổng hợp các công việc của quốc gia,
xử lý các quan hệ ngoại giao, ký kết các hiệp ước, ban hành các sắc lệnh thi hành
Hiến pháp, pháp luật và có đặc quyền về ân xá như đại xá, đặc xá. Các Bộ trưởng
được phân công phụ trách các công việc hành chính như Phủ Thủ tướng, các Bộ và
các vị trí quan trọng như: Đổng lý văn phòng Nội các (tức Bộ trưởng Văn phòng
chính phủ), Chủ tịch Uy ban an ninh quốc gia, Bộ trưởng phụ trách các vấn đề chung,
Cục trưởng Cục phòng vệ …
Tại nước Anh, theo quy định của pháp luật, Nữ hoàng được quyền bổ nhiệm Thủ

tướng – người đứng đầu bộ máy hành pháp – với điều kiện người đó là thủ lĩnh của
Đảng cầm quyền (tức Đảng chiếm đa số ghế trong Hạ viện), các Đảng viên cũng phải
biểu quyết theo ý chí của Đảng mình. Tuy Chính phủ chịu trách nhiệm trước Nghị
viện (vì được thành lập trên cơ sở Nghị viện), nhưng thực tế Đảng cầm quyền có
quyền đứng ra thành lập Chính phủ và thao túng toàn bộ tổ chức, hoạt động của bộ
máy Nhà nước và hoạt động của Hạ nghị viện Anh. Mọi hoạt động của Chính phủ đều
thể hiện ý chí của Đảng cầm quyền thông qua ý chí của người lãnh đạo.
Ở Mỹ, Đảng chính trị có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của bộ máy nhà nước.
Chủ tịch Hạ viện bao giờ cũng là Đảng viên của Đảng chiếm đa số ghế trong Hạ viện,
và là người có nhiều quyền lực nhất trong Quốc hội. Với tư cách là người lãnh đạo
Đảng, ông ta là một trong những người phát ngôn chủ chốt về các chính sách của
Đảng, thực hiện sự kiểm soát của Đảng đối với mọi hoạt động của Hạ viện, đồng thời
gây áp lực đối với việc phân công các thành viên vào các Ủy ban. Ngoài ra, còn có
các tổ chức Đảng ở Thượng viện và Hạ viện rất có quyền thế can thiệp sâu vào mọi
hoạt động lập pháp của Quốc hội, Đảng Cộng hòa gọi là Hội nghị, còn Đảng Dân chủ
gọi là phiên nhóm, không những đề cử Đảng viên vào các chức vụ quan trọng mà còn
lựa chọn Chủ tịch Ủy ban chính sách và điều hành, người này phụ trách chiến lược
của Đảng ở diễn đàn Quốc hội và có quyền quyết định nghị sĩ - đảng viên nào sẽ được
nói cũng như nói vào lúc nào.


Bên cạnh đó, sự chi phối của Tổng thống đối với Quốc hội cũng rất đáng kể.
Tổng thống là nguyên thủ quốc gia, chịu trách nhiệm về hành động của mình trước cử
tri toàn quốc theo quy định, nhưng do là một Đảng viên của Đảng cầm quyền và cũng
là để thực hiện quyền lợi của Đảng, giữ uy tín cho Đảng, đồng thời cũng là đặt nền
móng cho việc tái cử trong nhiệm kỳ sau nên mọi hoạt động của Tổng thống thường
đi theo đường lối chính sách của Đảng đã hứa với cử tri khi vận động bầu cử.
Tổng thống chỉ định tất cả các quan chức cao cấp liên bang và có toàn quyền
trong việc bổ nhiệm các thành viên Nội các – một trong những cơ quan giúp việc
quan trọng nhất của Tổng thống, và các thành viên này là cộng sự đắc lực có ảnh

hưởng lớn trong việc điều hành đất nước của Tổng thống. Để nhận được sự ủng hộ
lâu dài của Đảng, Tổng thống thường bổ nhiệm các Đảng viên cùng Đảng đã có sự
ủng hộ tích cực trong chiến dịch bầu cử vào các chức vụ quan trọng. Bên cạnh đó,
Tổng thống cũng bổ nhiệm một vài chức vụ cho Đảng viên đối lập nhằm củng cố
thêm mối quan hệ trong Bộ máy Nhà nước.
Tổng thống thực hiện quyền lực của mình với sự trợ giúp của trên 100 cơ quan
khác nhau, trong đó quan trọng nhất là Hội đồng an ninh quốc gia, Cơ quan quản lý
ngân sách, Hội đồng đối nội, Cục Tình báo Trung ương, Cục điều tra liên bang, Hội
đồng cố vấn kinh tế, Nội các…
Đứng đầu cơ quan tư pháp Malaysia là Ủy ban tư pháp. Đây là cơ quan độ lập,
chịu sự chi phối trực tiếp của Nhà vua và Hoàng gia. Người đứng đầu Ủy ban do Vua
bổ nhiệm. Thành phần Ủy ban gồm các luật gia, thẩm phán Toà án Tối cao và Toà án
cấp I, II. Thẩm phán do Vua bổ nhiệm trên cơ sở tham khảo ý kiến của Thủ tướng và
người đứng đầu ngành Tư pháp. Các Thẩm phán được bổ nhiệm đều phải xuất phát từ
Ủy ban tư pháp và đi lên từ Tòa án huyện.
Hiến pháp Mỹ quy định: Tổng thống có quyền đề cử và với ý kiến cùng sự thoả
thuận của Thượng nghị viện, bổ nhiệm các đại sứ, công sứ và các lãnh sự, các thẩm
phán Tòa án tối cao liên bang và tất cả công chức liên bang khác… Theo đó, những


người có chức vụ cần được bổ nhiệm một cách trực tiếp hoặc gián tiếp (do nhân dân
chọn lựa), các thẩm phán liên bang được nhân dân chọn lựa gián tiếp qua những
người đại diện cho họ. Quốc hội cũng quy định thủ tục như vậy đối với việc lựa chọn
thẩm phán cho các Tòa án liên bang khác. Như vậy, việc Tổng thống và Thượng nghị
viện cùng quyết định chọn ai là thẩm phán liên bang không phụ thuộc vào cấp Tòa án
tối cao hay cấp dưới, số lượng thẩm phán của các tòa án liên bang do Quốc hội quy
định. Trong trường hợp có ghế khuyết trong bất kỳ Tòa án liên bang nào trong nhiệm
kỳ của mình, Tổng thống có thể đề cử và bổ nhiệm thẩm phán vào vị trí khuyết đó.
Tuy nhiên, như vậy cũng không có nghĩa là Tổng thống và Thượng nghị viện có
quyền tuỳ tiện bổ nhiệm những người mà công chúng hay các nhóm Đảng cho là

không đủ khả năng, không phù hợp. Điều đó rất dễ làm họ bị giảm sút uy tín chính trị
và có thể sẽ không tiếp tục được tái cử. Chính vì vậy khi bổ nhiệm, Tổng thống và
Thượng nghị viện phải làm thỏa mãn 2 yêu cầu: thứ nhất là phù hợp với quan điểm
chính trị của họ, thứ hai là không làm cho công chúng và các tổ chức liên quan khác
mất lòng. Thường là Tổng thống bổ nhiệm người cùng Đảng với mình, cụ thể trong
gần 200 năm lịch sử của Tòa án tối cao, có chưa đến 1/7 trong tất cả các thẩm phán là
thuộc Đảng đối lập với Tổng thống.
Ở Pháp, 9 thành viên của Tòa án tối cao được Tổng thống và Chủ tịch Hai viện bổ
nhiệm. Ở Italia, trong 15 thành viên thì có 1/3 do người đứng đầu Nhà nước lựa chọn,
1/3 do 2 viện bổ nhiệm và 1/3 do các Tòa cấp dưới chỉ định. Ở Đức, Nghị viện liên
bang chỉ định 8/16 thành viên, số còn lại do Hội đồng liên bang chỉ định. Ở Nhật Bản,
Tòa án tối cao gồm 1 Chánh án và 14 thẩm phán, Chánh án do Vua bổ nhiệm trên cơ
sở nội các chỉ định, 14 thẩm phán do nội các bổ nhiệm.

Ở những nước có hệ thống lưỡng Đảng như Anh, Mỹ,… thì một trong hai Đảng
thay nhau cầm quyền. Còn ở những nước có hệ thống đa Đảng như Pháp, Ý, Đức…,
nếu không có Đảng nào chiếm đa số ghế trong Quốc hội thì buộc phải thành lập
Chính phủ liên minh các Đảng. Ngoài ra còn có hệ thống một Đảng nắm quyền tuyệt


đối.
2. Vai trò của Đảng cầm quyền trong việc tác động quá trình hình thành chính
sách Nhà nước:
Một Đảng chính trị sau khi thắng cử trở thành Đảng cầm quyền, thông qua
các nghị sĩ là Đảng viên của Đảng, nắm quyền kiểm soát các hoạt động của Bộ máy
Nhà nước. Hoạt động của Nhà nước luôn tuân thủ theo sự lãnh đạo của Đảng cầm
quyền, cụ thể hóa các mục tiêu, cương lĩnh cũng như quyền lợi của Đảng vào chính
sách của quốc gia.
Một điều có ý nghĩa quyết định của đảng cầm quyền đối với Nhà nước là đưa tư
tưởng của đảng thâm nhập vào chính sách, quyết sách của Nhà nước.

Con đường cơ bản để Đảng cầm quyền củng cố, duy trì vị trí cầm quyền của mình
là người đại diện cho Đảng cầm quyền đang giữ vai trò lãnh đạo trong bộ máy cơ
quan Nhà nước phải thực hiện các chương trình hành động cũng như làm tròn trách
nhiệm đối với các cam kết của Đảng mình trong chiến dịch tranh cử đối với nhân dân.
Nguồn lực để Đảng cầm quyền duy trì hoạt động của mình là công tác đào tạo sử
dụng cán bộ. Công tác này phải được làm một cách thường xuyên, liên tục, có kế
hoạch, hiệu quả và chất lượng cao.
III. Sự ra đời của Đảng chính trị ở Việt Nam
Phong trào công nhân cuối những năm 20 phát triển không đồng đều, mạnh nhất
là phong trào công nhân ở Bắc Kỳ, bởi ở đây có đông hội viên và trong hoạt động
thực tiễn có nhiều sáng tạo. Phong trào "vô sản hóa" cũng được phát sinh từ đây và đã
góp phần đẩy nhanh quá trình kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân. Từ thực tiễn sinh động đó, những ng¬ười lãnh đạo trong Kỳ bộ '' Bắc Kỳ những
học trò xuất sắc của Nguyễn ái Quốc, đã nắm bắt được đòi hỏi '' của phong trào, nhận
ra sự cấp thiết phải thành lập một Đảng Cộng sản thay cho HVNCMTN để tiếp tục
đưa phong trào giải phóng dân tộc tiến lên.


Tháng 3-1929, Trần Văn Cung, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu,
Đỗ Ngọc Du, Dương Hạc Đính và Nguyễn Tuân, họp tại ngôi nhà số 5D phố Hàm
Long (Hà Nội) đã quyết định lập ra chi bộ cộng sản đầu tiên nhóm làm đầu tàu cho
cuộc vận động thành lập Đảng Cộng sản Ở Việt Nam.
Tại Đại hội đầu biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ họp vào cuối tháng 3-1929 trong đồn điền Bô
ren (Sơn Tây) đã nhất trí thông qua chủ trương lập Đảng Cộng sản thay cho
HVNCMTN đã hết vai trò lịch sử và cử một đoàn đại biểu gồm 4 đồng chí do Trần
Văn Cung, Bí thư Kỳ bộ, dẫn đầu đi dự Đại hội I của Hội VNCMTN sẽ họp ở Hương
Cảng. Đại hội cũng giao cho đoàn đại biểu của mình có nhiệm vụ '' đấu tranh khẳng
định xu thế thành lập Đảng Cộng sản của Kỳ bộ mình tại Đai '' hội I Hội VNCMTN. 1
Đầu tháng 5-1929, tại Đại hội I của HVNCMTN, Đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ đã đưa
ra đề nghị giải tán tổ chức Thanh niên và thành lập Đảng Cộng sản. Nhưng đề nghị đó

không được chấp nhận, nên Đoàn đã bỏ đại hội ra về.
Sau khi về tới Hà Nội, ngày 1-6-1929, Đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ đã ra Tuyên
ngôn giải thích lý do họ bỏ Đại hội ra về và chỉ ra những điều kiện khách quan và chủ
quan đã chín muồi để thành lập một chính đảng của giai cấp công nhân.
Đêm 17-6-1929, 20 đại biểu ưu tú của Kỳ bộ Bắc Kỳ đã nhóm họp từ ngôi nhà
312 phố Kham Thiên (Hà Nội) tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản đảng. Hội
nghị đã thông qua Tuyên ngôn, Điểu lệ và quyết định xuất bản báo Búa liềm làm cơ
quan ngôn luận của Đảng. Tuyên ngôn của Đông Dương Cộng sản đảng xác định rõ
tính chất của Đảng : "Đông Dương Cộng sản đảng là Đảng cách mạng, đại biểu cho
tất cả anh chị em vô sản giai cấp (tức thợ thuyền) ở Đông Dương. Đảng Cộng sản là
đảng bênh vực cho toàn thế giới vô sản giai cấp, nhưng chỉ gồm những người nào
giác ngộ cách mạng, tiên tiến hơn cả trong giai cấp vô sản".
Cùng với công tác tuyên truyền, Đông Dương Cộng sản đảng đã cử người vào
Trung Kỳ và Nam Kỳ tuyên truyền và tổ chức các cơ sở Đảng Ở các địa phương đó.
Trước ảnh hưởng sâu rộng của Đông Dương Cộng sản đảng, Tổng bộ Thanh niên và


Kỳ bộ Nam Kỳ đã quyết định thành lập An Nam Cộng .sản đảng vào tháng 8-1929(7),
xuất bản báo ĐỎ làm cơ quan ngôn luận của mình.
Cùng với quá trình phân hóa trong HVNCMTN dẫn tới sự ra đởi của hai tổ chức
cộng sản, khuynh hướng tư tưởng xã hội chủ nghĩa ngày càng thắng thế trong Tân
Việt Cách mạng đảng. Các đại biểu cấp tiến của Tân Việt đã nhóm họp tại Sài Gòn
vào tháng 9-1929, ra "Tuyên đạt" tuyên bố chính thức thành lập Đông Dương Cộng
sản liên đoàn và sẽ cùng Đông Dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản đảng
"1iên hợp thành một tổ chức cộng sản ở Đông Dương để cho sức mạnh cộng sản vững
chắcvà duy nhất". Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở nửa sau năm 1929 khẳng định
hệ tư tưởng cộng sản đã chiếm ưu thế trong phong trào dân tộc ở Việt Nam.
• Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Sau khi ra đời, ba tổ chức cộng sản đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng sản, kêu
gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và đều tự nhận là đảng cách mạng

chân chính. Trong quá trình phát triển tổ chức của mình, các đảng cộng sản không thể
không tranh giành ảnh hưởng trong quần chúng nhân dân, và không tránh khỏi công
kích lẫn nhau. Tình hình đó sớm muộn sẽ gây ra sự chia rẽ trong phong trào công
nhân, dẫn đến sự tổn thất cho phong trào cách mạng. Một đòi hỏi khách quan là phải
thống nhất các tổ chức cộng sản lại làm một. Vì vậy, ngày 27-10-1929 Quốc tế Cộng
sản đã gửi một lá thư, như một chỉ thị cho những ng¬ười cộng sản Đông Dương,
trong đó yêu cầu các tổ chức cộng sản phải chấm dứt sự chia rẽ, công kích lẫn nhau
và tích cực xúc tiến việc hợp nhất thành một đảng duy nhất ở Đông Dương. Thực hiện
chỉ thị đó của Quốc tế Cộng sản, Đông Dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản
đảng đã cử những đại diện của mình, tiến hành những cuộc tiếp xúc bàn việc hợp
nhất, nhưng không thành.
Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cộng sản trong nước, với tư cách là phái
viên của Quốc tế Cộng sản, có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến
phong trào cách mạng Ở Đông Dương Nguyễn Ái Quốc đã tới Hương Cảng (Trung


Quốc) để triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy
nhất.
Hội nghị hợp nhất gồm hai đại biểu của Đông Dương Cộng sản đảng là Trịnh
Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh, 2 đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng là Châu Văn
Liêm và Nguyễn Thiệu dưới sự chủ trì của Nguyễn ái Quốc, đã họp ở Cửu Long
Hương Cảng (Trung Quốc). Tại phiên họp ngày 3-2-1930, các đại biểu đã nhất trí hợp
nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chính cương
vắn tắt, sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ tóm tắt(8). Trong các văn
kiện chủ yếu trên, Đảng Cộng sản Việt Nam được xác định là 'đội tiền phong của vô
sản giai cấp" chủ trương tiến hành “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản". Đồng thời, qua các văn kiện đó, Đảng Cộng sản Việt Nam
xác định cho mình nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng đánh đổ đế
quốc Pháp và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc, thành lập chính phủ công nông
binh, tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc phong kiến chia cho nông dân nghèo, quốc

hữu hoá các sản nghiệp, mở mang sản xuất, thực hiện các quyền tự do dân chủ, quyền
bình đẳng nam nữ, thi hành luật ngày làm việc 8 giờ ...
Để thực hiện được mục tiêu chiến lược trên, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương
tập hợp được đại bộ phận giai cấp công nhân, làm cho giai cấp công nhân lãnh đạo
được quần chúng, phải thu phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa vào hạng dân
cay nghèo. Đồng thời phái “hết sức liên lạc với tiểu tư sản trí thức, trung nông... để lôi
kéo họ về phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản
Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít nữa là làm cho họ
trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ".
Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt do Nguyễn ái Quốc khởi thảo và thông
qua tại Hội nghị hợp nhất là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng một cương lĩnh
cách mạng đúng đắn và sáng tạo.
Sau Hội nghị hợp nhất, ngày 24-2-1930 theo đề nghị của Đông Dương cộng sản


liên đoàn, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấp
nhận hợp nhất tổ chức này vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, việc hợp nhất các
tổ chức cộng sản đến cuối tháng 2 năm 1930 mới hoàn tất.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa
Mác-lênin tư tưởng cách mạng tiên tiến của thời đại với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chứng tỏ giai
cấp công nhân nước ta đã trưởng thành và đủ khả năng đảm nhiệm vai trò lãnh đạo
cách mạng Việt Nam. Thông qua đội tiền phong của mình, giai cấp công nhân có sứ
mệnh lãnh đạo toàn thể nhan dân tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc tới
thắng lợi. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấm dứt cuộc khủng hoảng
đường lối cứu nước lừ cuối thế kỷ trước. Sự ra đời của Đảng chính là sự chuẩn bị
nhân tố quan trọng đầu tiên cho những thắng lợi tiếp sau. Sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam là bước ngoặt lịch sử quan trọng trong lịch sử nước ta.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, dưới tác động của chương trình khai thác thuộc
địa lần thứ hai, đất nước ta đã có những biến chuyển mạnh mẽ trên phương diện kinh

tế và xã hội. Từ đó, phong trào dân tộc cũng có những bước phát triển mạnh mẽ.
Trong những năm 20 của thế kỷ này, các giai tầng xã hội đã bước lên vũ đài chính trị
với những đòi hỏi, yêu cầu và những hành động cách mạng riêng, tùy thuộc vào mối
quan hệ của mình đối với chính quyền thực dân, tùy thuộc vào vị thế của mình trong
kết cấu giai cấp của xã hội thuộc địa. Phong trào dân tộc sau chiến tranh có những
chuyển biến mới trong nội dung và phong phú về các hình thức biểu hiện. Và cuối
cùng, lịch sử đã chứng kiến sự bất lực của hệ tư tưởng dân chủ tư sản trước nhiệm vụ
cứu nước và chứng kiến sự chuyển giao ngọn cờ giải phóng vào tay giai cấp công
nhân với đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam.


Vai trò của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với sự phát triển của nước

Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hiện nay, trong giai đoạn cách mạng mới, thế giới đã có nhiều thay đổi và


diễn biến phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác, phát triển và hội nhập vẫn là
xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh cục bộ, can thiệp, lật
đổ, khủng bố vẫn diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh, các nước lớn
dùng mọi thủ đoạn tinh vi, thậm chí cả hành động quân sự dưới mọi chiêu bài
để can thiệp, lấn lướt các quốc gia nhỏ, yếu thế và tội phạm công nghệ cao
tiếp tục gia tăng. Những vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, an ninh lương
thực, thiên tai, dịch bệnh,... sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, không chỉ còn là
vấn đề của mỗi quốc gia mà muốn giải quyết được phải có sự chung tay, góp
sức của tất cả các nước trên thế giới. Song, chế độ chính trị, lợi ích của mỗi
nước lại khác nhau, số nước do Đảng Cộng sản là Đảng duy nhất cầm quyền,
lãnh đạo không còn nhiều, trong khi sự chia sẻ trên tinh thần đoàn kết, hy sinh
giúp đỡ của các nước có chế độ do Đảng Cộng sản cầm quyền, lãnh đạo đối
với nước ta cũng đã thay đổi nhiều. Tuy xu hướng hòa bình, hữu nghị vẫn là

chính, nhưng việc tính toán để bảo vệ quyền lợi của mỗi quốc gia cũng thay
đổi. Quốc gia nào cũng có toan tính riêng trong bối cảnh phức tạp hơn. Toàn
cầu hóa, hội nhập và cách mạng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ
thông tin phát triển mạnh mẽ, làm cho thời gian như ngắn lại, không gian như
nhỏ đi, thúc đẩy hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Quá trình cấu
trúc lại nền kinh tế thế giới và nền kinh tế của mỗi quốc gia diễn ra mạnh mẽ
theo chiều sâu, lấy chất lượng tăng trưởng làm mục tiêu. Trong khi đó, cạnh
tranh trên tất cả các lĩnh vực, cả ở thị trường tại mỗi quốc gia và thị trường thế
giới, giữa các nước ngày càng gay gắt. Đấu tranh giai cấp và dân tộc vẫn diễn
biến phức tạp. Khu vực Thái Bình Dương, trong đó có Đông - Nam Á là khu
vực phát triển năng động nhưng vẫn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định;
tranh chấp lãnh thổ, biển đảo càng nóng bỏng. Trong nước, tuy đã có thành
tựu và kinh nghiệm của hơn 25 năm đổi mới, tạo ra thế và lực mới cho đất
nước, nhưng "nước ta vẫn phải đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen
nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng


suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng.
Những biểu hiện xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội, "tự diễn biến", "tự chuyển
hóa" có diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện "diễn biến
hòa bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền"
hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta".
Trong bối cảnh, thời cơ và thách thức đan xen như hiện nay, vai trò lãnh
đạo sáng suốt của Đảng càng cực kỳ quan trọng và luôn là nhân tố hàng đầu
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta. Để đảm đương được vai trò
lãnh đạo, Đảng phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, tăng cường bản chất
giai cấp công nhân và tính tiền phong để xây dựng Đảng thật sự trong sạch,
vững mạnh, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học... Muốn

vậy, cần tập trung vào một số vấn đề trọng tâm sau:
Một là, Đảng ta cần tiếp tục nâng tầm trí tuệ và đổi mới tư duy để lãnh
đạo toàn diện đất nước phù hợp với diễn biến nhanh chóng, mau lẹ của thực
tế; phù hợp với đường lối đổi mới của cách mạng Việt Nam. Mỗi đảng viên
phải nhận thức đúng, đầy đủ trách nhiệm của mình khi tự nguyện đứng trong
hàng ngũ của Đảng và tuyên thệ dưới cờ Đảng để cố gắng phấn đấu thực hiện
tốt các nhiệm vụ của người đảng viên và mọi nhiệm vụ được giao. Đảng lãnh
đạo thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên của mình hoạt động trong mọi lĩnh
vực. Do đó, cần xây dựng đội ngũ đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng,
kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi mới của Đảng;
có phẩm chất đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, "cần kiệm liêm chính,
chí
công vô tư"; có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ được giao và có khả năng tổng kết, giải đáp những vấn đề thực tiễn của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đồng thời mỗi đảng viên phải


xây dựng cho mình phương pháp và tác phong công tác, làm cho mỗi đảng
viên và cán bộ phải thật sự thấm thuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân như căn
dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc đi xa.
Thực tế vừa qua, một số đảng viên chưa xứng đáng là người lãnh đạo và
lại càng chưa xứng đáng là người đầy tớ của nhân dân mà có người lại tìm
cách "xâm hại quyền lợi của dân", làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với
Đảng; tình trạng suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, cơ hội, thực
dụng và quan liêu, tham nhũng, lãng phí của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên vẫn diễn ra với tính chất và mức độ nghiêm trọng... Trước tình trạng
này, Đảng muốn giữ được vai trò và uy tín để lãnh đạo, cần tập trung vào

phòng, chống suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống, tham nhũng,
lãng phí, trước hết là trong nội bộ Đảng, xác định rõ trách nhiệm của đảng
viên trong cuộc đấu tranh quyết liệt này. Đây là cuộc đấu tranh lâu dài, phức
tạp ngay trong nội bộ, đảng viên phải có quyết tâm chính trị cao, thường
xuyên tự phê bình và phê bình, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, học
tập và làm theo tấm gương đạo đức, tác phong, phong cách Hồ Chí Minh, quét
sạch chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ tham nhũng, tiêu cực. Cùng với việc tiếp
tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, cần thực
hiện sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng về trách nhiệm của người
đảng viên, để mọi đảng viên đều gương mẫu, tiên phong. Chỉ khi đó, Đảng
mới thật sự lãnh đạo hệ thống chính trị và xã hội thông qua đội ngũ đảng viên
của mình, như vậy mới thực hiện được phương thức Đảng lãnh đạo cách mạng
thông qua tính tiền phong, gương mẫu của đảng viên.
Hai là, nêu cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, nhất là người
đứng đầu cấp ủy. Điều lệ Đảng đã quy định rõ, cấp ủy là cơ quan lãnh đạo của


Đảng giữa hai kỳ đại hội. Như vậy, cấp ủy, nhất là người đứng đầu cấp ủy có
vai trò, trách nhiệm quyết định đối với hoạt động và hiệu quả lãnh đạo của
Đảng và cũng là biểu hiện tập trung Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng.
Thực tế cho thấy vai trò của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng là cực kỳ
quan trọng. Họ có quyền và trách nhiệm thay mặt cấp ủy, tổ chức đảng. Trình
độ, năng lực, sự trong sạch, gương mẫu của các cấp ủy viên, nhất là người
đứng đầu cấp ủy là nhân tố hàng đầu bảo đảm hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Sự
gương mẫu, tiên phong của cấp ủy viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, ở cấp
càng cao thì sự lan tỏa, sức thuyết phục đối với đội ngũ đảng viên, nhân dân
càng rộng lớn và còn có giá trị thuyết phục cao hơn nhiều những bài thuyết
giáo chung chung. Nhưng nếu người đứng đầu cấp ủy suy thoái đạo đức hoặc
lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng nhất

là ở cấp vĩ mô "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" thì điều đó là nguy hiểm khôn
lường đối với Đảng và chế độ mà sự tan rã của Đảng Cộng sản Liên Xô và các
nước XHCN ở Đông Âu đã cho ta bài học đắt giá. Cần quy định rõ trách
nhiệm thông qua các tiêu chí cụ thể đánh giá người đứng đầu cấp ủy trong
lãnh đạo thực hiện công tác xây dựng Đảng và nhiệm vụ chính trị, chuyên
môn của cơ quan, đơn vị mình, đặc biệt cần tập trung vào trách nhiệm trong
công tác tổ chức cán bộ và phát triển đội ngũ kế cận. Đảng ta thống nhất lãnh
đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, mà thực chất công tác cán bộ
là của cấp ủy và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy. Nếu coi việc đề bạt,
bổ nhiệm cán bộ là một đặc ân, đặc quyền của Đảng thì sẽ là nguy cơ lớn đối
với Đảng. Do đó, việc lựa chọn đúng người, xếp đúng việc là việc quan trọng
hàng đầu trong tổ chức cán bộ.

Thực tế vừa qua, công tác cán bộ còn nhiều tồn tại và hạn chế, tình trạng
một số cấp ủy còn mất đoàn kết, một số đảng viên còn chạy chức, chạy
quyền,... vẫn chưa được khắc phục; việc đánh giá đúng năng lực của cán bộ để


sử dụng và bố trí đúng người, đúng việc vẫn còn bất cập. Cần nhận thức rằng
yếu kém, khuyết điểm này, trước hết thuộc trách nhiệm của cấp ủy và người
đứng đầu cấp ủy để từ đó có biện pháp đổi mới thật sự công tác cán bộ của
Đảng. Chỉ có như vậy chất lượng lãnh đạo, uy tín của Đảng mới được nâng
cao; niềm tin của dân với Đảng mới thật sự được củng cố; Đảng mới bảo đảm
được vai trò lãnh đạo thông qua đội ngũ cán bộ của mình.
Ba là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã
hội một cách toàn diện trên các mặt phong cách, nội dung, phương pháp. Về
phong cách lãnh đạo phải gần dân, nghe dân, học dân và trọng dân theo đúng
tư tưởng "lấy dân làm gốc" và "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám
sát"; học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh bằng các hành
động thiết thực, cụ thể trong công việc, trong quan hệ với nhân dân, đồng chí,

đồng nghiệp, gia đình... nhằm khắc phục triệt để tình trạng quan liêu, xa dân,
ngại tiếp xúc với dân, không nghe ý kiến phê bình, phản biện của dân, thậm
chí còn chèn ép dân của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Điều đó làm mất lòng
tin của nhân dân đối với Đảng. Cần phân định rõ chủ thể lãnh đạo với chủ thể
quản lý để không có sự "lấn sân", bao biện làm thay của chủ thể lãnh đạo,
hoặc ngược lại, buông lỏng lãnh đạo và quản lý, xác định rõ nguyên tắc, nội
dung, phương pháp, hình thức và thẩm quyền, trách nhiệm của chủ thể lãnh
đạo và của đối tượng chịu sự lãnh đạo bằng các nguyên tắc, quy định, quy chế,
quy trình,... cụ thể. Về nội dung lãnh đạo phải đổi mới cách ra nghị quyết,...
trước mắt cần rà soát lại, sơ kết, tổng kết các nghị quyết của Đảng đã ban
hành, xem những nghị quyết nào còn nguyên giá trị phải tiếp tục đẩy mạnh
thực hiện, nhằm khắc phục hiện tượng nghị quyết này chồng lên nghị quyết
kia hoặc nhắc lại nội dung của các nghị quyết đã có trước. Tập trung lãnh đạo
việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; cải
cách hành chính, tạo môi trường thông thoáng, bình đẳng cho các thành phần
kinh tế hoạt động theo luật pháp, cùng cạnh tranh bình đẳng và phát triển lành


mạnh; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới quan hệ phân phối, điều
tiết kinh tế phù hợp để thực hiện công bằng trong từng chính sách và từng
bước phát triển; bảo vệ vững chắc chủ quyền, lãnh thổ quốc gia... Đồng thời
với việc đổi mới cách ra nghị quyết, phải đổi mới việc quán triệt, học tập,
tuyên truyền nghị quyết để mọi đảng viên và nhân dân nhận thức đúng, đầy đủ
và thực hiện tốt các nghị quyết đã đề ra. Về phương pháp lãnh đạo phải tuân
thủ triệt để nguyên tắc tập trung dân chủ và tự phê bình, phê bình trong Đảng.
Nhưng để thực hiện được các nguyên tắc này trong thực tiễn không phải dễ.
Tình trạng khi kiểm điểm hằng năm, mọi cấp ủy viên, đảng viên đều viết rằng
mình đã thực hiện đúng và tốt việc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình,
nhưng thực tế có nhiều nơi, nhiều đảng viên vẫn độc đoán, chuyên quyền,
thậm chí có khi, có lúc người đứng đầu cấp ủy lấy ý kiến cá nhân mình áp đặt

cho tập thể cấp ủy.
Bốn là, mở rộng dân chủ ngoài xã hội; thực hành dân chủ thật sự trong
Đảng. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân, biết kế thừa những tinh hoa dân chủ của các Nhà
nước pháp quyền trong lịch sử và đã, đang phát triển lên tầm cao mới, khác
hẳn về bản chất và cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản, nhưng chưa
tuyên truyền, giáo dục cho người dân hiểu đúng về dân chủ đi liền với kỷ
cương nên một số người đã cố tình lợi dụng dân chủ để gây rối, chia rẽ làm tác
động xấu đến trật tự, an toàn xã hội.
Việc thực hành dân chủ trong nội bộ Đảng rất quan trọng. Trong Đảng có
thật sự dân chủ thì mới có điều kiện mở rộng và phát huy dân chủ của nhân
dân. Điều 3, Điều lệ Đảng đã quy định rõ quyền của đảng viên, trong đó thể
hiện cụ thể quyền dân chủ của đảng viên. Do vậy, cần phải xây dựng và ban
hành Quy chế dân chủ trong Đảng để có cơ sở thực hiện dân chủ trong thực
tiễn. Quy chế chất vấn trong Đảng hiện nay mới quy định chất vấn trong sinh
hoạt cấp ủy, như vậy chủ thể, đối tượng và phạm vi chất vấn rất hẹp, cần sửa


đổi bổ sung Quy chế chất vấn trong Đảng theo hướng mở rộng chủ thể, đối
tượng, phạm vi và hình thức chất vấn.
Năm là, tăng cường giữ gìn kỷ luật, tạo sự đoàn kết nhất trí của Đảng là
sức mạnh vô địch của Đảng. Đảng điều chỉnh hành vi của các tổ chức đảng,
đảng viên bằng kỷ luật của mình. Buông lỏng kỷ luật, sớm hay muộn Đảng sẽ
bị suy yếu, tan rã.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: kỷ luật của Đảng là "kỷ luật sắt,
nghĩa là nghiêm túc và tự giác", ai ai cũng phải phục tùng kỷ luật và chịu các
hình thức kỷ luật (nếu có khuyết điểm, sai lầm). Về vấn đề thi hành kỷ luật, tư
tưởng Hồ Chí Minh thể hiện rõ tính dân chủ, lòng bao dung, độ lượng sâu sắc:
Người đời ai cũng có khuyết điểm (chỉ có trẻ em mới sinh ra và người chết
mới không có khuyết điểm), nhưng chúng ta không sợ sai lầm, khuyết điểm,

chỉ sợ không chịu khó cố gắng sửa chữa và cũng chỉ sợ người lãnh đạo không
biết tìm cách đúng để giúp cán bộ sửa chữa những khuyết điểm, sai lầm. Mọi
vi phạm kỷ luật đảng đều phải được xem xét, nếu đến mức phải thi hành kỷ
luật thì xử lý thích đáng, không có "vùng cấm", không được che đậy, thiên
lệch, nể nang. Thực tế vừa qua, việc chấp hành kỷ luật của một số tổ chức
đảng và đảng viên chưa nghiêm túc; việc xử lý kỷ luật (khi có vi phạm) còn nể
nang, nhẹ trên, nặng dưới, thiếu tác dụng giáo dục, ngăn ngừa và răn đe, chưa
tạo được sự đồng thuận cao của xã hội,... Có trường hợp làm cán bộ, đảng
viên phân tâm. Do vậy cần tăng cường giữ gìn kỷ luật sắt, tạo sự đoàn kết nhất
trí của Đảng và sự đồng thuận của xã hội. Đây chính là sức mạnh vô địch của
Đảng, "cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi
của mắt mình".




×