Tải bản đầy đủ (.pdf) (266 trang)

Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng trưởng kinh tế ở các vùng của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.46 MB, 266 trang )

-1-

MỞ ĐẦU

1. Giới thiệu công trình nghiên cứu
Từ những năm 1960, dòng vốn FDI đã được lý giải bởi Hymer. Từ khi xuất hiện
đến nay, dòng vốn này đã có những tác động tích cực đối với nước tiếp nhận đầu tư
và không ngừng gia tăng qua thời gian trên bình diện quốc tế. Mức độ lan tỏa ngày
càng sâu rộng khắp các châu lục với sự đa dạng, nhiều chiều. Trong đó, đáng kể
nhất là tác động của FDI đến tăng trưởng kinh tế, cũng như những tác động lan tỏa
khác. Thực tế đó, dẫn đến mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế được sự
quan tâm của các nhà nghiên cứu trong nước cũng như nước ngoài với những
phương pháp nghiên cứu khác nhau. Kết quả đạt được rất đa dạng: Tác động dương
của FDI đến tăng trưởng kinh tế (Nguyễn Thị Tuệ Anh, 2006; Le Thanh Thuy,
2007; Aviral và Mihai, 2011; Chien et al., 2012; Elsadig, 2012); Tăng trưởng kinh
tế tác động đến FDI (Anh và Thang, 2007; Ab Quyoom Khachoo và Khan, 2012;
Fayyaz Hussain, Constance Kabibi Kimuli, 2012; Chirstian và C. Richard, 2012;
Cuong et al., 2013). Một số nghiên cứu phát hiện mối tương quan đồng thời hai
chiều giữa FDI và tăng trưởng kinh tế (Caves, 1996; Zhang 2000; Sajid Anwar và
Lan Phi Nguyen, 2010; Chien và Linh, 2013) và các nghiên cứu cho thấy tác động
của FDI đến tăng trưởng kinh tế cần có những điều kiện về nguồn nhân lực, quy mô
thị trường, độ mở của nền kinh tế (Blomstrom et al., 1992; Borensztein et al., 1998;
Basu et al., 2003). Bên cạnh đó, FDI không có tác động đến tăng trưởng kinh tế
(Ericsson và Irandoust, 2001; Carkovic và Levine, 2002; Dilek và Aytac, 2013).
Trên thực tế, các nghiên cứu giữa FDI và tăng trưởng kinh tế chủ yếu thực hiện ở
không gian quốc gia và một số ít thực hiện ở không gian vùng trong quốc gia. Ở
Việt Nam, các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh
tế được thực hiện chủ yếu đối với tổng thể quốc gia, như các nghiên cứu của
Nguyễn Mại (2003), Nguyen Thi Phuong Hoa (2004), Nguyễn Thị Tuệ Anh,
(2006), Le Thanh Thuy (2007) và một số nghiên cứu ở cấp độ vùng (Sajid Anwar



-2-

và Lan Phi Nguyen, 2010; Chien et al., 2012). Kết quả của các nghiên cứu cho thấy
tồn tại đa dạng mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Tuy
nhiên, khai thác những ưu điểm của phương pháp nghiên cứu nói chung cũng như
phương pháp nghiên cứu định lượng nói riêng chưa được quan tâm, cũng như tính
cập nhật dữ liệu thực tiễn chưa được thực hiện, nhất là thời điểm kinh tế có những
khó khăn như hiện nay.
Căn cứ Nghị định số 92/2006/NĐ-CP (Điều 15), ngày 07 tháng 09 năm 2006 của
Chính phủ về Lập, phê duyệt, quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội
và Nghị định số 04/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 01 năm 2008 về Sửa đổi, bổ sung
một số điều Nghị định số 92/2006/NĐ-CP, Việt Nam có sáu vùng kinh tế-xã hội:
vùng Đồng bằng Sông Hồng, vùng Trung du miền núi phía Bắc, vùng Bắc Trung
Bộ và Duyên hải miền Trung, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam Bộ và vùng
Đồng bằng sông Cửu Long. Mỗi vùng có những đặc trưng về kinh tế xã hội, nên
mức phát triển, cũng như tính hấp dẫn dòng vốn FDI khác nhau. Mặc dù dòng vốn
FDI ở các vùng có khác biệt, nhưng đóng góp của FDI đối với tăng trưởng kinh tế
rất đáng kể, thể hiện tỷ lệ FDI/GDP qua các năm: 19% (năm 2011), 17% (năm
2012); FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, đóng góp vào
ngành công nghiệp hỗ trợ, tạo việc làm, tạo nguồn thu cho NSNN, góp phần hội
nhập quốc tế. Khi nghiên cứu chi tiết các cấp không gian, thì đóng góp của FDI đối
với tăng trưởng kinh tế có sự chênh lệch giữa các vùng, liên kết vùng và tổng thể
vùng ở Việt Nam.
Do đó, cần có công trình nghiên cứu sâu về mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng
kinh tế ở các không gian của Việt Nam, đặc biệt với phương pháp nghiên cứu phù
hợp. Từ đó có cơ sở khoa học đánh giá mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh
tế, góp phần hoàn thiện lý thuyết, đưa ra giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
đồng thời tăng cường thu hút dòng vốn FDI vào Việt Nam.
Từ những thực tiễn trên, dựa vào:



-3-

(i) Mô hình lý thuyết của Cobb-Douglas (1928), Slolow (1956, 1957) và các lý
thuyết đánh giá tác động của FDI đối với nước nhận đầu tư như MacDougall
(1960), Hymer (1960) và các đóng góp khác được thực hiện bởi Buckley và Casson
(1976), Caves (1971), Dunning (1973), Kindleberger (1969) và Vernon (1966);
(ii) Dựa trên các nghiên cứu về mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế theo
phương pháp định lượng (Caves, 1996; Zhang, 2000; Nguyễn Thị Tuệ Anh và cộng
sự, 2006; Le Thanh Thuy, 2007; Wei K., 2008; Sajid và Nguyen, 2011; Elsadig,
2012; Dilek và Aytac, 2013, …);
(iii) Khai thác và sử dụng phương pháp GMM (Difference Generalized Method of
Moments) của Arellano-Bond (1991) và phương pháp PMG (Pooled Mean Group)
của Pesaran, Shin và Smith (1999) với dữ liệu bảng được thu thập từ năm 1997 đến
năm 2012 ở các tỉnh thành Việt Nam từ Tổng Cục Thống kê.
Đề tài nghiên cứu Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng trưởng kinh tế ở các vùng
của Việt Nam được thực hiện.
2. Lý do chọn đề tài
FDI và tăng trưởng kinh tế được nhiều nhà nghiên cứu trong nước và nước ngoài
quan tâm thực hiện với đối tượng nghiên cứu (không gian, thời gian), phương pháp
nghiên cứu khác nhau nhưng chưa có sự thống nhất về quan hệ tác động giữa FDI
và tăng trưởng kinh tế, vấn đề vẫn đang được quan tâm tranh luận.
Ở Việt Nam, từ khi mở cửa nền kinh tế và quan trọng là từ khi Luật Đầu tư nước
ngoài ra đời (1987), FDI có những đóng góp tích cực đối với kinh tế-xã hội trên
nhiều phương diện. Đến nay, kinh tế có những khó khăn mang tính toàn cầu, Việt
Nam vẫn tiếp tục mở rộng giao thương quốc tế, vẫn tiếp tục quan tâm thu hút dòng
vốn FDI. Vấn đề đặt ra, mối quan hệ FDI-tăng trưởng kinh tế như thế nào là điều
cần được nghiên cứu chuyên sâu và chi tiết. Mặc dù có vài nghiên cứu đã được thực
hiện để giải quyết vấn đề, nhưng kỹ thuật, phương pháp thực hiện cũng như phạm vi

không gian, thời gian nghiên cứu mang tính so sánh cấp vùng, liên kết vùng và tổng
thể vùng cần được quan tâm cập nhật và hoàn thiện. Thực tế đó, đòi hỏi cần thực


-4-

hiện nghiên cứu Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng trưởng kinh tế ở các vùng
của Việt Nam.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Để tiếp tục đóng góp vào những tranh luận hiện nay và làm rõ mối quan hệ giữa
FDI-tăng trưởng kinh tế, đồng thời lấp vào những khoảng trống về nghiên cứu tác
động giữa FDI và tăng trưởng kinh tế, đề tài của luận án hướng đến các mục tiêu
chủ yếu sau:
Đánh giá tác động của dòng vốn FDI đến tăng trưởng kinh tế ở tổng thể vùng
của Việt Nam. Đồng thời, kiểm định tác động của dòng vốn FDI đối với tăng
trưởng trong trường hợp nghiên cứu riêng vùng và liên kết vùng ở Việt Nam.
Ngoài ra, để hỗ trợ trong việc đề xuất chính sách thu hút dòng vốn FDI phục vụ
tăng trưởng kinh tế, đề tài luận án nghiên cứu các yếu tố quyết định thu hút dòng
vốn FDI vào Việt Nam.
Dựa vào kết quả nghiên cứu, luận án góp phần hoàn thiện lý thuyết về mối quan
hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế, đặc biệt nghiên cứu ở góc độ vùng. Về mặt
thực tiễn, luận án đưa ra các khuyến nghị để hoàn thiện chính sách nhằm thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế vùng và gợi ý chính sách thu hút dòng vốn FDI góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
Các mục tiêu nghiên cứu ở trên hướng vào trả lời các câu hỏi nghiên cứu:
(i) Liệu dòng vốn FDI có tác động đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam xét ở
không gian tổng thể và không gian vùng;
(ii) Các yếu tố nào quyết định thu hút dòng vốn FDI vào Việt Nam trong thời gian
qua.



-5-

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tác động của FDI đối với tăng trưởng kinh tế dựa trên hàm sản xuất
Cobb-Douglas (1928), trong đó bao gồm hai biến đầu vào cơ bản là lao động, vốn
và một tập hợp các biến hiệu chỉnh liên quan. Trên cơ sở các nghiên cứu mở rộng
tiếp theo được thiết lập bởi MacDougall (1960) có nguồn gốc từ lý thuyết thương
mại quốc tế. Theo đó, xem xét các lợi ích của nước nhận đầu tư từ nhà đầu tư nước
ngoài (trực tiếp và gián tiếp) trong điều kiện của nhân tố sản xuất, việc làm và dòng
chảy của vốn. Một cách tiếp cận khác, đi tiên phong bởi Hymer (1960) về lý thuyết
của tổ chức công nghiệp.
Ngoài ra, còn có các đóng góp quan trọng khác đã được thực hiện qua các nghiên
cứu của Buckley và Casson (1976), Caves (1971), Dunning (1973), Kindleberger
(1969) và Vernon (1966). Kết hợp với các nghiên cứu thực nghiệm của các tác giả
trong nước cũng như ở nước ngoài về FDI và tăng trưởng kinh tế (Le Thanh Thuy,
2007; Wei K., 2008; Sajid và Nguyen, 2011; Elsadig, 2012; Dilek và Aytac, 2013;
…) đối tượng nghiên cứu của đề tài là mối quan hệ tác động giữa FDI và tăng
trưởng kinh tế cùng với tập hợp các biến kiểm soát liên quan.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Không gian nghiên cứu: tổng thể 63 tỉnh/thành ở các vùng của Việt Nam.
Trường hợp nghiên cứu vùng
Vùng là một lãnh thổ được tách ra dựa trên cơ sở tập hợp các dấu hiệu (hiện tượng)
có quan hệ mật thiết với nhau (Từ điển bách khoa địa lý, 1998). Hay vùng là phần
đất đai hoặc khoảng không gian tương đối rộng có những đặc điểm về tự nhiên và
xã hội, phân biệt với các phần khác ở xung quanh (Từ điển tiếng Việt, 1994).
Vùng là một bộ phận của quốc gia có một sắc thái đặc trưng nhất định, hoạt động
như một hệ thống, có quan hệ tương đối chặt chẽ giữa các thành phần cấu tạo nên
nó và có quan hệ chọn lọc với khoảng không gian bên ngoài (Lê Bá Thảo, 1998).



-6-

Qua các khái niệm cho thấy vùng là một lãnh thổ tương đối đồng nhất bao gồm các
bộ phận cấu thành có mối liên hệ chặt chẽ với nhau nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và
phát triển của bản thân lãnh thổ đó cũng như giữa nó với các lãnh thổ khác. Phân
vùng là việc phân chia một lãnh thổ lớn thành những lãnh thổ đồng cấp có quy mô
nhỏ hơn, phục vụ cho những mục tiếu nhất định. Tùy theo mục tiêu, vùng được
phân loại: Vùng hành chính; Vùng theo trình độ phát triển; Vùng kinh tế ngành và
Vùng kinh tế tổng hợp (vùng kinh tế-xã hội).
Căn cứ vào Nghị định số 92/2006/NĐ-CP, ngày 07 tháng 09 năm 2006 của Chính
phủ về Lập, phê duyệt, quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội và Nghị
định số 04/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 01 năm 2008, Việt Nam có sáu vùng kinh
tế-xã hội. Khi thực hiện phương pháp nghiên cứu định lượng, các vùng có số lượng
tỉnh/thành ít: vùng Đông Nam Bộ (6 tỉnh/thành), vùng Tây Nguyên (5 tỉnh); vùng
Đồng bằng sông Cửu Long thu hút FDI ít, không liên tục. Các vùng này không đáp
ứng xử lý theo mô hình thực nghiệm và kết quả ước lượng dùng để dự báo sẽ ít tin
cậy. Thực tế trên, đề tài luận án tiến hành nghiên cứu thực nghiệm vùng đối với:
Đồng bằng sông Hồng, Trung du miền núi phía Bắc và Bắc Trung Bộ-Duyên hải
miền Trung.
Trường hợp nghiên cứu liên kết vùng
Để thúc đẩy sự phát triển chung của cả nước cũng như tạo mối liên kết và phối hợp
trong phát triển kinh tế-xã hội giữa các vùng kinh tế, Chính phủ Việt Nam đã và
đang cố gắng đẩy mạnh sự liên kết giữa các vùng để có khả năng đột phá, tạo động
lực thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của cả nước với tốc độ cao và bền vững, tạo
điều kiện nâng cao mức sống của toàn dân và nhanh chóng đạt được sự công bằng
xã hội trong cả nước. Việc đẩy mạnh liên kết vùng là nhằm đáp ứng những nhu cầu
của thực tiễn nói chung và đỏi hỏi của nền kinh tế nước ta nói riêng.
Liên kết kinh tế vùng là liên kết các ngành kinh tế mang tính hợp tác bổ sung lẫn

nhau giữa các địa phương có những nét tương đồng về vị trí địa lý, điều kiện tự
nhiên, phân bố dân cư v.v... Nhằm mục đích tăng cường sức hút đồng thời thúc đẩy


-7-

sự phát triển của các địa phương trong vùng. Phương thức liên kết vùng rất đa dạng:
tập trung phát triển một hạt nhân trung tâm, xung quanh là các vệ tinh hoặc là một
thành phẩm được đưa qua nhiều giai đoạn mà mỗi địa phương đảm nhận một vai trò
trong chuỗi giá trị sản phẩm đó (Hồ Kỳ Minh và Lê Minh Nhất Duy, 2012).
Căn cứ vào thực tiễn hỗ trợ của các vùng có điều kiện tương đồng trong phát triển
kinh tế-xã hội, các địa phương có điều kiện địa lý gần nhau và căn cứ vào quyết
định của Chính phủ về thành lập các vùng kinh tế trọng điểm: Bắc Bộ, Trung Bộ,
Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, thể hiện sự kết nối giữa các vùng với nhau
trong phát triển kinh tế xã hội (chẳng hạn tỉnh Long An, Tiền Giang thuộc vùng
Đồng bằng sông Cửu Long, nhưng lại thuộc vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ,
không thuộc vùng kinh tế trọng điểm Đồng bằng sông Cửu Long).
Từ thực tiễn trên, đề tài luận án tiến hành nghiên cứu tác động của dòng vốn FDI
đến tăng trưởng kinh tế đối với các liên kết vùng thuộc miền Bắc (gồm Đồng bằng
sông Hồng và Trung du miền núi phía Bắc); liên kết vùng thuộc miền Trung-Tây
Nguyên (gồm Bắc Trung Bộ-Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên) và liên kết
vùng thuộc miền Nam (gồm Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long).
Không gian nghiên cứu được sử dụng cho mô hình thực nghiệm là 43 tỉnh/thành
phân bổ bao phủ và đại diện ở các vùng Việt Nam vì dữ liệu về FDI, tăng trưởng
kinh tế và các biến kiểm soát trong mô hình nghiên cứu được thu thập đầy đủ và
liên tục đáp ứng được yêu cầu của phương pháp nghiên cứu định lượng.
Thời gian: dữ liệu về các biến chính (FDI, tăng trưởng kinh tế) và các biến kiểm
soát trong mô hình nghiên cứu thực nghiệm về quan hệ giữa FDI-tăng trưởng kinh
tế được tập hợp chủ yếu từ Tổng cục Thống kê Việt Nam trong khoảng thời gian
1997-2012. Bên cạnh đó, dữ liệu còn được thu thập từ Ngân hàng phát triển Châu Á

(thu thập về hệ số khử lạm phát), thu thập từ Cục Đầu tư nước ngoài về so sánh đối
chiếu số liệu liên quan đến dòng vốn FDI.


-8-

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài luận án được thực hiện để trả lời các câu hỏi nghiên cứu về mối quan hệ giữa
FDI-tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam với không gian nghiên cứu khác nhau. Thông
qua đó đáp ứng ý nghĩa khoa học và thực tiễn:
 Đánh giá tác động của dòng vốn FDI đến tăng trưởng kinh tế ở các không gian
của Việt Nam.
 Xác định các yếu tố khẳng định thu hút dòng vốn FDI vào Việt Nam.
 Đóng góp lý thuyết về tác động của dòng vốn FDI đến tăng trưởng kinh tế vùng
cũng như tổng thể quốc gia.
 Đóng góp lý thuyết về các yếu tố khẳng định thu hút dòng vốn FDI.
 Gợi ý chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thu hút dòng vốn FDI vào Việt
Nam từ kết quả thực nghiệm của đề tài.
6. Các công trình nghiên cứu về FDI và tăng trưởng kinh tế
6.1. Những công trình nghiên cứu trong nước về FDI và tăng trưởng kinh tế
Các công trình nghiên cứu trong nước về FDI và tăng trưởng kinh tế, xét về đối
tượng không gian nghiên cứu, chủ yếu được thực hiện ở cấp độ quốc gia, một số
thực hiện ở cấp độ địa phương, vùng, nhưng chưa có sự nghiên cứu so sánh vùng,
liên kết vùng và tổng thể vùng trong một câu hỏi nghiên cứu. Về dữ liệu nghiên
cứu, chủ yếu thực hiện với dữ liệu chuỗi thời gian, một số tác giả sử dụng dữ liệu
bảng. Về phương pháp thực hiện nghiên cứu, chủ yếu thực hiện bằng phân tích
thống kê số liệu, phân tích mô tả. Một số tác giả thực hiện mô hình nghiên cứu định
lượng. Kết quả nghiên cứu của các tác giả trong nước cho thấy tồn tại mối quan hệ
dương giữa FDI và tăng trưởng kinh tế với những mức độ khác nhau. Bên cạnh đó,
các tác giả cũng quan tâm đến mối quan hệ giữa FDI với cơ cấu kinh tế, thương

mại và thể chế cũng như nghiên cứu các yếu tố thúc đẩy dòng vốn FDI vào Việt
Nam.


-9-

FDI và tăng trưởng kinh tế
Hầu hết các tác giả đều khẳng định tác động dương của FDI lên tăng trưởng kinh tế,
như Nguyễn Mại (2003) cho thấy FDI có tác động dương đến tăng trưởng kinh tế ở
mức độ quốc gia và nhận định để thu hút vốn FDI vào Việt Nam cần mở rộng thị
trường và tìm đối tác mới. Nguyen Thi Phuong Hoa (2004) kết luận FDI có tác
động dương tới tăng trưởng kinh tế của các địa phương thông qua hình thành, tích
lũy tài sản vốn và có sự tương tác cùng chiều giữa FDI với nguồn nhân lực. Nguyễn
Thị Tuệ Anh và cộng sự (2006) nghiên cứu về tác động của FDI tới tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam với dữ liệu chuỗi thời gian giai đoạn 1988-2003 cho thấy tác
động của FDI tới tăng trưởng kinh tế qua kênh đầu tư. Le Thanh Thuy (2007) nhận
định FDI đã bổ sung cho đầu tư trong nước giúp cho việc mở rộng sản xuất, giúp
giảm thâm hụt ngân sách chính phủ, đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu, giải quyết
việc làm. Đồng thời khu vực tư nhân trong nước đóng vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy hiệu ứng lan tỏa từ FDI. Điều này cho thấy chính sách tăng cường sự phát
triển của khu vực tư nhân nên được đẩy mạnh để gia tăng hiệu ứng lan tỏa của FDI.
Anh và Thang (2007) nghiên cứu các nhân tố quyết định dòng vốn FDI ở các tỉnh
thành Việt Nam cho thấy quy mô thị trường, lao động và cơ sở hạ tầng có tác động
ý nghĩa lên FDI, trong khi chính sách của chính phủ thông qua chỉ số cạnh tranh cấp
tỉnh không có ý nghĩa. Le Viet Anh (2009), nghiên cứu về mối quan hệ giữa FDI và
tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam cho thấy đóng góp của FDI đối với tăng trưởng
được ước tính 7% trong 37% tổng số vốn đóng góp cho sự tăng trưởng trong giai
đoạn 1988-2002. Phân tích hồi quy thấy rằng FDI có mối quan hệ dương với đầu tư
trong nước và tăng trưởng kinh tế cũng như FDI tạo ra những tác động dương đáng
kể trong ngắn hạn và dài hạn lên tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Chien et al.

(2012) khẳng định FDI có tác động dương lên tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
giai đoạn 2000-2010. Chirstian và C.Richard (2012) khẳng định các biến vĩ mô như
GDP và chi phí lao động có tác động dương ý nghĩa lên FDI ở Việt Nam, trong khi
sự sụt giá của đồng nội tệ lại tác động âm. Chien và Linh (2013) sử dụng dữ liệu
bảng để đánh giá mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Kết quả


- 10 -

có mối quan hệ dương hai chiều giữa FDI và GDP bình quân. Cuong et al. (2013)
lập luận rằng tự do hóa thương mại sau khi gia nhập WTO có tác động rất lớn lên
dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam.
FDI và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Các nghiên cứu đã chứng minh tác động tích cực của FDI đến chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ở các địa phương như Đỗ Thị Thủy (2001) nghiên cứu về FDI với sự nghiệp
CNH, HĐH ở Việt Nam đã phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến FDI ở Việt Nam
giai đoạn 1997-2000. Từ những đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân, tác giả
đã nêu giải pháp để thu hút FDI vào Việt Nam phục vụ CNH, HĐH đất nước.
Nguyễn Tiến Long (2010) kiểm định FDI-chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Thái
Nguyên, với phương pháp phân tích định tính và định lượng từ số liệu giai đoạn
năm 1993-2009 cho thấy: (i) FDI góp phần quan trọng đối với chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của tỉnh Thái Nguyên theo hướng CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế;
(ii) FDI tác động tích cực đến cân đối tài chính tỉnh Thái Nguyên, tăng nhanh kim
ngạch xuất nhập khẩu, mở rộng thị trường, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế và (iii) FDI góp phần đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, phát triển kinh tế đồng
đều tại các vùng kinh tế của Thái Nguyên. Nguyễn Tấn Vinh (2011) nghiên cứu
FDI đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế TP Hồ Chí Minh đã đề xuất những
giải pháp cơ bản nhằm thu hút và sử dụng FDI thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
TP Hồ Chí Minh theo hướng hiệu quả và bền vững.
FDI và thương mại

Sajid Anwar và Lan Phi Nguyen (2011) với FDI và thương mại ở Việt Nam. Bằng
phương pháp định lượng xem xét tác động FDI đến xuất khẩu, nhập khẩu của Việt
Nam từ dữ liệu liên quan đến 19 đối tác thương mại lớn của Việt Nam giai đoạn
1990-2007. Nghiên cứu cũng xem xét tác động của FDI đến thương mại trong ba
giai đoạn: trước-trong và sau khủng hoảng tài chính châu Á, thực nghiệm bổ sung
cho mối liên kết giữa FDI và xuất khẩu; FDI và nhập khẩu cho giai đoạn 19902007. Sajid Anwar, Lan Phi Nguyen (2011) kiểm tra FDI và lan truyền xuất khẩu ở


- 11 -

Việt Nam cho thấy sự hiện diện của các công ty nước ngoài có thể đem lại lợi ích
doanh nghiệp trong nước thông qua việc hình thành các mối liên kết giữa các công
ty. Bằng cách sử dụng dữ liệu cấp độ doanh nghiệp từ lĩnh vực sản xuất của Việt
Nam, nghiên cứu xem xét tác động của mối liên kết ngang và dọc giữa doanh
nghiệp trong nước và nước ngoài về: (i) các quyết định của doanh nghiệp trong
nước để xuất khẩu và (ii) tỷ trọng xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước. Phân tích
thực nghiệm cho thấy mối liên kết ngang đã dẫn đến hiệu ứng lan tỏa xuất khẩu
đồng thời nhận định về sự hiện diện của các công ty nước ngoài góp phần định
hướng xuất khẩu tại Việt Nam.
FDI và môi trường thu hút đầu tư
Dương Thị Bình Minh (2009) nghiên cứu cải thiện môi trường đầu tư, thu hút vốn
FDI ở một số nước Châu Á và bài học kinh nghiệm cho TP Hồ Chí Minh. Tác giả
đề xuất giải pháp mang tính định hướng về cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường
thu hút FDI tại TP Hồ Chí Minh cũng như tại Việt Nam nói chung. Dương Thị Bình
Minh và cộng sự (2010) với hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút FDI vào TP
Hồ Chí Minh trong bối cảnh Việt Nam là thành viên WTO. Kết quả cho thấy vấn đề
hoàn thiện môi trường đầu tư trên địa bàn TP Hồ Chí Minh cần được thực hiện trên
nhiều phương diện đồng thời phù hợp với các cam kết của Việt Nam đối với WTO:
ổn định bền vững môi trường kinh tế vĩ mô, phát triển thể chế phù hợp với thông lệ
quốc tế; đẩy mạnh hơn nữa quy mô và chất lượng cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội; phát

triển và nâng cao trình độ công nghệ quốc gia; đổi mới tư duy quản lý, nâng cao
năng lực quản trị công của chính quyền TP. Hồ Chí Minh; chống tham nhũng và cải
thiện chất lượng cung cấp dịch vụ công.
FDI và thể chế chính sách
Dang Duc Anh (2013) nghiên cứu FDI và chất lượng thể chế ở Việt Nam. Bằng
cách sử dụng dữ liệu từ khảo sát năng lực cạnh tranh cấp tỉnh và FDI từ khi gia
nhập WTO của trên 60 tỉnh/thành, tác giả ghi nhận tỷ lệ thuận giữa thể chế và thu
hút FDI. Đặc biệt, tỉnh giải ngân FDI lớn thường có chất lượng thể chế tốt hơn. Kết


- 12 -

quả cũng nhận định dòng vốn FDI tác động đến thể chế lớn hơn ở các tỉnh miền Bắc
so với quốc gia, đồng thời có thể sử dụng FDI như một chất xúc tác cho cải cách thể
chế trong nước và thúc đẩy hội tụ chất lượng thể chế giữa các vùng Việt Nam.
6.2. Những công trình nghiên cứu ở nước ngoài về FDI và tăng trưởng kinh tế
Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài về FDI và tăng trưởng kinh tế được thực
hiện bởi nhiều tác giả, với đa dạng đối tượng nghiên cứu, dữ liệu nghiên cứu và
phương pháp thực hiện nghiên cứu. Về đối tượng nghiên cứu của các tác giả nước
ngoài chủ yếu ở cấp độ quốc gia, khu vực bao gồm nhiều quốc gia. Một số ít nghiên
cứu ở cấp độ vùng trong một quốc gia như Wei K. (2008), Svetlana Ledyaeva và
Mikael Linden (2010). Kết quả đạt được của các tác giả vẫn chưa có sự thống nhất.
Ba phân tích đầu tiên về tác động của FDI đến nước nhận đầu tư có Caves (1974),
Globerman (1979), Blomstrom và Persson (1983), các tác giả này đã ước tính sự tồn
tại của tác động lan tỏa bằng cách kiểm tra liệu FDI có tác động đến năng suất lao
động địa phương ở các công ty Australia, Canada và Mexico. Kết quả của tất cả
những nghiên cứu này, được báo cáo là FDI có tác động quan trọng và tích cực đến
tăng trưởng kinh tế.
Một số nghiên cứu cung cấp bằng chứng tác động dương của dòng vốn FDI đến
tăng trưởng kinh tế ở nước nhận đầu tư, đặc biệt là ở các nước đang phát triển

(Ozawa, 1992; Blomstrom và Wolff, 1994; Zhang, 2001; Yao, 2006 và Yao và Wei
2007). Gần đây, Aviral Kumar Tiwari, Mihai Mutascu (2011) thấy rằng cả hai FDI
và xuất khẩu tăng cường quá trình tăng trưởng.
Một số học giả cũng nhận định giữa dòng vốn FDI và tăng trưởng kinh tế có tác
động tích cực hai chiều (Zhang, 2001; Liu, Burridge và Sinclair, 2002; Choe, 2003;
Hansen và Rand, 2006; Abdus Samad, 2009).
Một số nghiên cứu tìm thấy tác động tiêu cực của FDI đến nước nhận đầu tư.
Cantwell (1989) xem xét tác động lan tỏa của doanh nghiệp các nước châu Âu trong
sự hiện diện của doanh nghiệp đa quốc gia Hoa Kỳ giai đoạn 1955-1975. Không
phải tất cả các ngành công nghiệp châu Âu đã được tìm thấy có tác động lan tỏa tích


- 13 -

cực của công nghệ từ các chi nhánh doanh nghiệp đa quốc gia Hoa Kỳ. Tác giả cho
rằng năng lực công nghệ của các công ty bản địa và kích thước của thị trường trong
nước là hai yếu tố quan trọng trong việc xác định những thành công của các công ty
châu Âu phản ứng với những cơ hội từ các công ty đa quốc gia Hoa Kỳ. Kế đến
Nadiri (1991) có kết luận tương tự bằng cách kiểm tra tác động của FDI Hoa Kỳ
vào nhà máy và thiết bị sản xuất ở Pháp, Đức, Nhật Bản và Anh từ năm 1968 đến
năm 1988.
Karikari (1992) xem xét mối quan hệ nhân quả giữa FDI và tăng trưởng kinh tế ở
Ghana giai đoạn 1961-l988, kết quả cho thấy FDI không ảnh hưởng đến tăng trưởng
kinh tế, trong khi tăng trưởng kinh tế tác động làm giảm nhẹ dòng vốn FDI. Theo
tác giả, kết quả này có thể là do khối lượng vốn FDI không đáng kể theo dữ
liệu thời gian, tác động FDI làm tăng tự do thương mại hơn là thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Haddad và Harrison (1991, 1993) cũng không tìm thấy tác động đáng kể
của FDI đến tăng trưởng trong nước khi thực hiện kiểm tra tác động tràn của FDI và
tăng trưởng kinh tế ở các công ty của Moroccan trong thời gian 1985-1989. Tương
tự, khi nghiên cứu 72 nước phát triển và đang phát triển với phương pháp OLS và

GMM, Carkovic và Levine (2002) đã không tìm thấy mối quan hệ mạnh mẽ giữa
FDI và tăng trưởng. Durham (2004) điều tra về vai trò của FDI tới tăng trưởng của
80 quốc gia giai đoạn 1979-1998 đã không tìm thấy mối quan hệ dương giữa hai
biến và lập luận rằng tác động của FDI phụ thuộc vào khả năng hấp thụ của nước
nhận đầu tư.
Bende-Nabende et al. (2003) tìm thấy FDI có tác động dương đáng kể đối với các
nước kém phát triển ở châu Á như Philippines và Thái Lan, nhưng đóng một vai trò
tiêu cực ở các quốc gia hay vùng lãnh thổ phát triển hơn về kinh tế như Nhật Bản và
Đài Loan.
Các nghiên cứu khác tìm thấy mối quan hệ tiêu cực giữa FDI và tăng trưởng kinh tế
đối với nước nhận đầu tư như Aitken và Harrison (1999), Barry et al. (2001),
Damijan et al. (2001), Djankov và Hoekman (1998) và Konings (2001).


- 14 -

Gần đây, Elsadig Musa Ahmed (2012) phát hiện dòng vốn FDI và đầu vào được sử
dụng góp phần tác động tiêu cực đến năng suất nhân tố tổng hợp. Dilek và Aytac
(2013) nghiên cứu mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế ở Thổ Nhĩ Kỳ giai
đoạn 1992-2007 đã phát hiện không tồn tại mối quan hệ có ý nghĩa giữa FDI và
tăng trưởng kinh tế.
Đối với nghiên cứu về các yếu tố thu hút dòng vốn FDI: Ab Quyoom Khachoo,
Mohd Imran Khan (2012) kết luận quy mô thị trường, tổng trữ lượng, cơ sở hạ tầng
và chi phí lao động là yếu tố quyết định chính của dòng vốn FDI đến các nước đang
phát triển. Fayyaz Hussain, Constance Kabibi Kimuli (2012) cũng kết luận yếu tố
quyết định dòng chảy FDI vào các nước đang phát triển là quy mô thị trường.
Từ những nghiên cứu trên cho thấy có mâu thuẫn về bằng chứng thực nghiệm trong
các tài liệu liên quan đến vai trò của FDI đối với tăng trưởng kinh tế cũng như các
nhân tố quyết định đến thu hút dòng vốn FDI. Tác động của FDI đối với tăng
trưởng kinh tế có thể là cùng chiều, ngược chiều hoặc không đáng kể (Li và Liu,

2005). Nhiều phân tích đồng ý rằng tác động của FDI lên tăng trưởng kinh tế phụ
thuộc nhiều vào điều kiện trong nước của nước nhận đầu tư và xem đó là quyết định
về tầm quan trọng và phạm vi tác động lan tỏa của các dự án FDI. Các điều kiện ở
địa phương có thể được phân loại thành ba nhóm: chính sách thương mại
(Balasubramanyam et al., 1996; Zhang, 2001); chính sách nguồn nhân lực (Keller,
1996; Borensztein et al., 1998; Olofsdotter, 1998; Xu, 2000; Bengoa và SanchezRobles, 2003 và Bhattacharya et al., 2004) và khoảng cách công nghệ (Sjoholm,
1999; Glass và Saggi, 1998).
Từ đánh giá kết quả các nghiên cứu trong nước cũng như nước ngoài, liệu có mối
quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế trong điều kiện vùng ở Việt Nam hiện nay.
Đây là câu hỏi lớn cần giải quyết một cách thấu đáo, thể hiện sự chuyển hóa dữ liệu
quốc gia thành dữ liệu vùng. Từ đó khuyến nghị chính sách phù hợp ở các không
gian khác nhau nhằm phát huy mối quan hệ tích cực giữa FDI và tăng trưởng kinh
tế ở Việt Nam.


- 15 -

7. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt mục tiêu nghiên cứu của đề tài luận án, phương pháp nghiên cứu định lượng
được sử dụng trên cơ sở mô hình lý thuyết Cobb-Douglas và được mở rộng với tập
hợp các biến tác động đến tăng trưởng kinh tế. Đồng thời nghiên cứu thực nghiệm
các yếu tố thu hút dòng vốn FDI vào Việt Nam, với dữ liệu thứ cấp từ Tổng Cục
Thống kê giai đoạn 1997-2012 và không gian của 43 tỉnh/thành Việt Nam.
Để trả lời câu hỏi thứ nhất: FDI tác động như thế nào đến tăng trưởng kinh tế Việt
Nam xét ở khía cạnh vùng và tổng thể vùng. Dựa vào mô hình thực nghiệm tăng
trưởng kinh tế, đề tài luận án tiến hành kiểm định mối quan hệ nhân quả Granger
giữa FDI với các biến có quan hệ với tăng trưởng kinh tế để đánh giá tác động lan
tỏa của dòng vốn FDI đến tăng trưởng kinh tế. Sau đó tiến hành ước lượng GMM
sai phân của Arellano-Bond (1991) để đánh giá tác động của FDI lên tăng trưởng
kinh tế trong điều kiện xử lý các vấn đề nội sinh và tự tương quan trong mô hình.

Phương pháp ước lượng PMG của Pesaran, Shin và Smith (1999) được sử dụng để
đánh giá đặc tính năng động ngắn hạn cũng như đồng liên kết dài hạn của quan hệ
FDI với tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Hai phương pháp hồi quy chủ yếu GMM sai
phân và PMG được sử dụng để khai thác thế mạnh riêng có và bổ sung cho nhau,
góp phần trả lời câu hỏi nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
Để trả lời câu hỏi thứ hai: Các yếu tố nào quyết định thu hút dòng vốn FDI vào
Việt Nam. Dựa vào lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm các yếu tố thu hút dòng
vốn FDI, luận án xây dựng mô hình nghiên cứu, sau đó sử dụng các phương pháp
ước lượng GMM Arellano – Bond và PMG để ước lượng các yếu tố tác động đến
thu hút dòng vốn FDI vào Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở các bước tiến hành:
Trước tiên, lược khảo các nghiên cứu trong nước cũng như ở nước ngoài về FDI,
tăng trưởng kinh tế và mối quan hệ giữa chúng;
Thứ hai, xác định mô hình nghiên cứu lý thuyết;
Thứ ba, xây dựng mô hình và phương pháp thực nghiệm;


- 16 -

Thứ tư, thu thập dữ liệu phục vụ mô hình thực nghiệm;
Thứ năm, sử dụng phần mềm Stata để xử lý dữ liệu với kiểm định quan hệ nhân quả
Granger, hồi quy theo phương pháp GMM Arellan-Bond và phương pháp PMG
dạng dữ liệu bảng;
Thứ sáu, kiểm tra mô hình, đảm bảo độ tin cậy của dữ liệu cũng như tính hợp lý của
mô hình được sử dụng;
Thứ bảy, thảo luận kết quả từ ước lượng;
Và cuối cùng, gợi ý chích sách, nhận dạng hạn chế, xác định hướng nghiên cứu tiếp
theo của đề tài và kết luận đề tài. Quy trình nghiên cứu được tóm tắt theo hình 1.
Xác định Câu hỏi nghiên cứu
(FDI và tăng trưởng kinh tế)


Xác định khung lý thuyết và mô hình nghiên cứu lý thuyết
(Lý thuyết FDI-tăng trưởng kinh tế; mô hình hồi quy)

Xác định mô hình thực nghiệm
(Mô hình hồi quy bội)

Thu thập và kiểm tra dữ liệu
(Dữ liệu thứ cấp và kiểm tra thuộc tính dữ liệu)

Hồi quy mô hình thực nghiệm
(Kiểm định Granger, hồi quy theo phương pháp GMM Arellano-Bond và PMG)
Hình 1. Quy trình nghiên cứu
Nguồn: Tác giả đề xuất

8. Kết cấu đề tài
Nội dung của đề tài luận án được cơ cấu thành các phần, chương để thực hiện mục
tiêu nghiên cứu cũng như để trả lời các câu hỏi nghiên cứu được đặt ra. Trong đó,
cơ cấu các phần hướng đến nhấn mạnh phần phương pháp nghiên cứu theo lý thuyết


- 17 -

cũng như phương pháp nghiên cứu khám phát thực tiễn từ dữ liệu của Việt Nam.
Theo đó, luận án bao gồm phần tổng quan, đến lược khảo lý thuyết phục vụ nghiên
cứu. Từ đó, xác định mô hình lý thuyết, xây dựng mô hình thực nghiệm, xử lý mô
hình thực nghiệm, kiểm định mô hình, thảo luận kết quả ước lượng và gợi ý các
chính sách để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời thu hút dòng chảy FDI vào
Việt Nam. Đề tài luận án cũng rút ra các kết luận, nhận dạng những hạn chế và xác
định hướng nghiên cứu tiếp theo. Cụ thể nội dung nghiên cứu của đề tài luận án bao

gồm 7 chương chính:
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN FDI VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG FDI VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở CÁC VÙNG CỦA
VIỆT NAM
CHƯƠNG 3: MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP
CHƯƠNG 4: TÁC ĐỘNG CỦA FDI ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở TỔNG THỂ
VÙNG CỦA VIỆT NAM
CHƯƠNG 5: TÁC ĐỘNG CỦA FDI ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ: LỰA CHỌN
VÙNG Ở VIỆT NAM
CHƯƠNG 6: CÁC YẾU TỐ THU HÚT DÒNG VỐN FDI VÀO VIỆT NAM
CHƯƠNG 7: TỔNG KẾT VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH

Ngoài ra, đề tài luận án còn có phần mở đầu, kết luận để giới thiệu công trình nghiên
cứu, lý do nghiên cứu đến mục tiêu, đối tượng, phạm vi và ý nghĩa đề tài nghiên cứu và
kết luận tổng quan đề tài. Phần phụ lục trình bày những nội dung hỗ trợ cho nội dung
chính của đề tài; phần tài liệu tham khảo hỗ trợ hoàn thành đề tài luận án.


- 18 -

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
FDI VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

1.1. Giới thiệu
Việc tích lũy vốn thường được xem là tích lũy tài sản có giá trị, gia tăng hoặc tạo ra
của cải. Kinh nghiệm thông thường thừa nhận việc tích lũy vốn như điều kiện tiên
quyết cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Các nghiên cứu hiện hành đề xuất nhiều
tương tác giữa FDI và tăng trưởng kinh tế như trong hình 1.1.


FDI

Khả năng hấp thụ

Các nhân tố
điều kiện

Lan tỏa
Cạnh tranh

Gắn kết

Kỹ năng

Học hỏi

Tác động gián tiếp
Đầu tư trong nước
Tác động phản hồi

Tác động trực tiếp

Tăng trưởng kinh tế

Hình 1.1 Các kênh tác động của FDI lên tăng trưởng kinh tế
Nguồn: Bhissum Nowbutsing (2009)


- 19 -


Hình 1.1 phác họa mối quan hệ giữa FDI-tăng trưởng. Bản chất của mối quan hệ
được chia thành ba tác động chính: (i) tác động trực tiếp; (ii) tác động gián tiếp và
(iii) tác động phản hồi.
Tác động trực tiếp được chỉ bằng mũi tên đi trực tiếp từ FDI đến tăng trưởng. Trong
hàm sản xuất Q = f(L, K) hàm ý là FDI trực tiếp tạo nên sản lượng thông qua tích
lũy các tài sản hữu hình (hoặc gia tăng K). Tác động trực tiếp của FDI được lý giải
bằng cách sử dụng mô hình tân cổ điển. Tuy nhiên, việc xác định tác động trực tiếp
chỉ cho thấy sự hiểu biết một phần của mối quan hệ FDI-tăng trưởng. Vì thế, quan
trọng là đằng sau tác động trực tiếp của FDI: các lý thuyết mới về tăng trưởng được
xem xét để điều chỉnh tầm quan trọng của tác động gián tiếp gắn liền với FDI.
Tác động gián tiếp được chỉ ra trong hình 1.1 bằng 4 mũi tên đi từ FDI đến “chuỗi
lan tỏa” (ring of spillovers). Thuật ngữ chuỗi lan tỏa hàm ý mối tương quan dương
mạnh giữa bốn kênh tác động lan tỏa. Bốn mũi tên thể hiện bốn kênh chính của hiệu
ứng lan tỏa FDI: cạnh tranh, gắn kết, kỹ năng và học hỏi (sao chép). Chuỗi lan tỏa
hàm ý tác động lan tỏa tổng thể do FDI tạo nên, được giả định tùy thuộc vào khả
năng hấp thụ. Khả năng hấp thụ được xác định như là sự đo lường khả năng của một
quốc gia tạo nên và/hay hấp thụ được các hiệu ứng lan tỏa FDI. Hiệu ứng lan tỏa
được xác định bằng các yếu tố điều kiện. Từ hình vẽ, tác động gián tiếp được chỉ ra
bằng mũi tên đi từ chuỗi lan tỏa đến đầu tư trong nước và sau cùng là tăng trưởng
kinh tế.
Cuối cùng, tác động phản hồi được cho là xảy ra nếu tăng trưởng kinh tế dẫn đến
việc gia tăng dòng vốn FDI. Sự hiện diện của tác động phản hồi được chỉ ra trong
các nghiên cứu về mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế (Blomstrong et al.,
1996; Choe, 2003; Chakraborty, 2004).
Từ thực tiễn trên, chương này sẽ tập trung làm rõ mối quan hệ giữa FDI-tăng trưởng
kinh tế với phần 1.2 tác động của dòng vốn FDI lên tăng trưởng kinh tế và phần 1.3
các yếu tố thu hút dòng vốn FDI.


- 20 -


1.2. Tác động của dòng vốn FDI lên tăng trưởng kinh tế
1.2.1. Lý thuyết tác động của FDI lên tăng trưởng kinh tế
Lý thuyết tăng trưởng cung cấp cơ sở để giải thích tăng trưởng kinh tế toàn cầu, là
phương tiện để tìm hiểu các yếu tố tạo nên tăng trưởng kinh tế trong một nước
thông qua việc cung cấp các mô hình, cơ chế giải thích và khuôn khổ dự đoán.
Nhiều nỗ lực lý thuyết và thực nghiệm đã xác định các yếu tố thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế để đề xuất hoạch định chính sách thu hẹp khoảng cách giữa các nước phát
triển và đang phát triển, tạo ra phát triển bền vững (De Jager, 2004). Do đó, phần
này tập trung vào sự phát triển lý thuyết, chủ yếu là lý thuyết tăng trưởng ngoại sinh
và lý thuyết tăng trưởng nội sinh để đánh giá sự đóng góp của dòng vốn FDI vào
tăng trưởng kinh tế ở nước nhận đầu tư.
Lý thuyết tăng trưởng ngoại sinh
Lý thuyết tăng trưởng ngoại sinh, thường được gọi là mô hình tăng trưởng tân cổ
điển hoặc mô hình tăng trưởng Solow-Swan đi tiên phong bởi Solow (1956). Lý
thuyết này cho rằng kinh tế tăng trưởng được tạo ra thông qua các yếu tố ngoại sinh
của các chức năng sản xuất như tích lũy vốn và lao động. Barro và Sala-I-Martin
(1995) chứng minh rằng có mối quan hệ tích cực giữa tăng trưởng kinh tế và tích
lũy vốn theo thời gian. Lý thuyết tăng trưởng ngoại sinh cho rằng FDI làm gia tăng
vốn ở nước sở tại và sau đó thúc đẩy kinh tế tăng trưởng hướng tới trạng thái ổn
định mới bằng cách tích tụ vốn. Theo lý thuyết tăng trưởng ngoại sinh thì FDI tác
động đến tăng trưởng kinh tế thông qua tác động đến đầu tư trong nước (Herzer et
al., 2008).
Lý thuyết tăng trưởng nội sinh
Vào giữa những năm 1980, lý thuyết tăng trưởng ngoại sinh đã trở thành lý thuyết
không phù hợp trong việc giải thích các yếu tố quyết định tăng trưởng dài hạn
(Barro và Sala-I-Martin, 1995). Vì vậy, lý thuyết tăng trưởng nội sinh, tiên phong
bởi Romer (1986), trong đó tập trung vào hai yếu tố: tăng trưởng kinh tế có nguồn
gốc từ nguồn nhân lực và sau đó từ thay đổi công nghệ (De Jager, 2004).



- 21 -

Lý thuyết tăng trưởng nội sinh xác định tăng trưởng kinh tế bằng việc giới thiệu quy
trình sản xuất công nghệ mới ở nước sở tại và FDI được giả định là hiệu quả hơn
đầu tư trong nước (De Mello, 1999; Herzer et al., 2008). Do đó, FDI tăng cường
tăng trưởng kinh tế thông qua sự lan tỏa công nghệ, dịch chuyển lao động, đào tạo
kỹ năng quản lý và sắp xếp tổ chức (Romer, 1990; Barro và Sala-I-Martin, 1995; De
Jager, 2004). Kết quả là, đầu tư nước ngoài có thể làm tăng năng suất nền kinh tế
chủ nhà và sau đó FDI có thể được coi như là chất xúc tác của đầu tư trong nước và
tiến bộ công nghệ.
Về mặt lý thuyết, FDI có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng nhiều cách khác
nhau (Herzer et al., 2008). Một số nhà nghiên cứu cho rằng những tác động của FDI
tới tăng trưởng kinh tế dự kiến sẽ có hai phần (De Mello, 1999; Kim và Seo, 2003).
Thứ nhất, FDI có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế thông qua tích lũy vốn
bằng cách giới thiệu hàng hóa mới và công nghệ nước ngoài. Quan điểm này xuất
phát từ lý thuyết tăng trưởng ngoại sinh. Thứ hai, FDI có thể thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế thông qua công tác nghiên cứu phát triển ở nước sở tại về chuyển giao kiến
thức. Quan điểm này xuất phát từ lập luận của lý thuyết tăng trưởng nội sinh. Vì
vậy, FDI về mặt lý thuyết có thể đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế
thông qua việc tăng tích lũy vốn, lan truyền công nghệ và sự tiến bộ (Herzer et al.,
2008). Kết luận này cho thấy FDI có thể góp phần phát triển kinh tế và hứa hẹn lợi
ích tiềm năng để phát triển ở nước tiếp nhận đầu tư.
Sự tăng mạnh của dòng vốn FDI toàn cầu trong thập kỷ qua đã thu hút sự chú ý của
các học giả. Các tài liệu lý thuyết và thực nghiệm tập trung vào các mối quan hệ
nhân quả giữa FDI và tăng trưởng kinh tế ở nước tiếp nhận đầu tư. Lý thuyết kinh tế
cung cấp hai phương pháp tiếp cận để nghiên cứu tác động của FDI đối với nước
tiếp nhận đầu tư. Thứ nhất, được thiết lập bởi MacDougall (1960), có nguồn gốc từ
lý thuyết thương mại quốc tế, xem xét lợi ích của nước nhận đầu tư từ nhà đầu tư
nước ngoài (trực tiếp và gián tiếp) trong điều kiện của nhân tố sản xuất, việc làm và

dòng chảy vốn. Thứ hai, đi tiên phong bởi Hymer (1960) với lý thuyết tổ chức công
nghiệp. Đóng góp quan trọng khác được thực hiện bởi Buckley và Casson (1976),


- 22 -

Caves (1971), Dunning (1973), Kindleberger (1969) và Vernon (1966). Cách tiếp
cận này là kết quả của sự không hoàn hảo của thị trường hàng hóa hoặc các yếu tố
công nghệ hoặc một số can thiệp về cạnh tranh bởi chính phủ hoặc doanh nghiệp,
thường tập trung vào các tác động trực tiếp hoặc tác động lan tỏa.
Trong những năm gần đây, FDI đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong việc
tích lũy vốn và tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển. Dòng vốn FDI được
biết đến như là một gói tổng hợp của chứng khoán vốn, bí quyết và công nghệ (De
Mello, 1997). Dòng vốn FDI có thể giúp tăng trưởng kinh tế bằng cách tăng cường
tiết kiệm trong nước, sau đó tăng cường tích lũy trong nền kinh tế nước nhận đầu tư.
De Mello (1997) cho biết thêm rằng FDI tăng cường tăng trưởng thông qua vốn tích
lũy, sử dụng đa dạng hơn các sản phẩm trung gian trong sản xuất của các dự án FDI
liên quan và phát triển công nghệ.
Blomstrom và Kokko (1998) lập luận rằng khi các công ty đa quốc gia thành lập các
chi nhánh bên ngoài đất nước họ là khác nhau từ các công ty hiện có trong nền kinh
tế nước tiếp nhận đầu tư vì hai lý do. Đầu tiên, các dự án FDI mang đến nước nhận
đầu tư công nghệ độc quyền của họ, công nghệ này tạo nên lợi thế cho công ty cụ
thể của họ và cho phép họ cạnh tranh thành công với các công ty trong nước hiện tại
khác có lợi thế của thị trường trong nước, sở thích của người tiêu dùng và thực tiễn
kinh doanh. Lý do thứ hai, sự xâm nhập và hiện diện của các chi nhánh công ty đa
quốc gia làm nhiễu loạn trạng thái cân bằng hiện có trên thị trường và buộc các
doanh nghiệp trong nước phải hành động để bảo vệ thị phần và lợi nhuận của họ.
Borensztien et al. (1998) thấy rằng FDI, như là một phương tiện quan trọng cho
việc chuyển giao công nghệ với một ngưỡng tối thiểu của vốn cổ phần ở nước sở
tại, góp phần làm tăng trưởng kinh tế hơn so với đầu tư trong nước. Bên cạnh đó,

Hymer (1960) và Dunning (1981) cũng cho rằng doanh nghiệp đa quốc gia có động
cơ để ngăn chặn sự lan tỏa của công nghệ đến công ty khác thông qua các biện pháp
bảo vệ sở hữu trí tuệ, nhãn hiệu và bằng sáng chế của họ.


- 23 -

Từ các lược khảo cho thấy lý thuyết kinh tế xác định một số kênh mà qua đó FDI có
thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế cả trực tiếp và gián tiếp. FDI có thể thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế trực tiếp nếu dẫn đến sự gia tăng tỷ lệ đầu tư hoặc FDI có thể
gián tiếp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nếu dẫn đến các khoản đầu tư có liên quan
dẫn đến tác động lan tỏa tích cực, có thể nâng cao năng suất lao động và vốn ở nền
kinh tế nước nhận đầu tư.
1.2.2. Đánh giá các nghiên cứu thực nghiệm tác động của dòng vốn FDI lên tăng
trưởng kinh tế
Nhiều nghiên cứu tiến hành thực nghiệm mối quan hệ tác động của dòng vốn FDI
lên tăng trưởng kinh tế với phạm vi và phương pháp đa dạng. Các nghiên cứu có thể
chia thành: (i) Các nghiên cứu với dữ liệu chuỗi thời gian; (ii) Các nghiên cứu với
dữ liệu chéo hoặc bảng.
1.2.2.1. Các nghiên cứu thực nghiệm với dữ liệu chuỗi thời gian
Các nghiên cứu thực nghiệm với dữ liệu chuỗi thời gian phát hiện tác động cùng
chiều của FDI đến tăng trưởng kinh tế; tác động của FDI đến tăng trưởng kinh tế
với những điều kiện nhất định và FDI không tác động đến tăng trưởng kinh tế.
(i) FDI tác động cùng chiều đến tăng trưởng kinh tế
Kueh (1992) nghiên cứu các vùng duyên hải của Trung Quốc, kết luận FDI đóng
góp có ý nghĩa vào tổng vốn đầu tư cũng như tăng trưởng sản lượng và xuất khẩu.
Blomstrom et al. (1992) và Rodriguez-Glare (1996) cũng cho rằng FDI có thể thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế của nước sở tại thông qua chuyển giao công nghệ và hiệu
quả lan tỏa. Chuyển giao công nghệ trực tiếp từ các doanh nghiệp đa quốc gia đối
với các chi nhánh địa phương cho phép các nước chủ nhà nâng cấp các ngành công

nghiệp của họ bằng cách tiếp thu công nghệ mới trong sản xuất. Athukorala và
Menon (1995) cho thấy FDI tác động đến Malaysia về chuyển giao công nghệ và
cải thiện kỹ năng của lực lượng lao động. FDI cũng góp phần gián tiếp đến tăng
trưởng thông qua các doanh nghiệp trong nước cạnh tranh với các chi nhánh nước


- 24 -

ngoài và sự phổ biến của kỹ năng lao động trong nền kinh tế khi các nhân viên di
chuyển đến các công ty thuộc sở hữu trong nước.
FDI không chỉ gia tăng cung cấp vốn ở các nước tiếp nhận mà còn đưa đến các hiệu
ứng lan tỏa thông qua rất nhiều kênh như sao chép, học hỏi kỹ năng, cạnh tranh và
xuất khẩu (Gorg và Greenaway, 2004). Ramirez (2000) nghiên cứu FDI tác động
đến tăng trưởng kinh tế Mexico, giai đoạn 1960-1995 với phương pháp hiệu chỉnh
sai số. Kết quả ghi nhận tác động tích cực của FDI đến kinh tế Mexico thông qua
năng suất lao động. Bende-Nabende và Ford (1998) dùng dữ liệu của Đài Loan giai
đoạn 1959-1995 với phương pháp ước lượng 3SLS để nghiên cứu FDI, điều chỉnh
chính sách và tăng trưởng ở Đài Loan. Kết quả, FDI tác động tích cực đến kinh tế
Đài Loan.
Kim và Seo (2003) sử dụng dữ liệu ở Hàn Quốc giai đoạn 1985-1999, cho thấy tác
động tích cực mạnh mẽ từ tốc độ tăng trưởng GDP tới FDI và không tồn tại tác
động của FDI tới tăng trưởng kinh tế nhưng FDI góp phần tăng trưởng đầu tư trong
nước, thể hiện tác động lan tỏa của dòng vốn FDI. Akinlo (2004) dùng dữ liệu ở
Nigeria giai đoạn 1970-2001 để nghiên cứu mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng
kinh tế, cho thấy FDI tác động đến kinh tế Nigeria. Dritsaki et al. (2004) phát hiện
tác động một chiều từ FDI đến xuất khẩu và từ FDI đến GDP thực ở Hy Lạp bằng
cách sử dụng dữ liệu hàng năm của IMF giai đoạn 1960-2002. Fedderke và Romm
(2006) dùng dữ liệu giai đoạn 1956-2003 ở Nam Phi, cho thấy dòng vốn FDI vào
Nam Phi chủ yếu theo chiều ngang thay vì theo chiều dọc.
Gần đây, Mihai Daniel Roman và Andrei Padureanu (2012) đề xuất mô hình cho

mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế trong quá trình chuyển đổi ở Romania,
tác giả sử dụng mô hình tân cổ điển với chức năng sản xuất Cobb-Douglas để phân
tích tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế. Kết quả, kinh tế Romania tăng trưởng
từ ảnh hưởng tích cực của chính sách tài khóa, FDI và từ mức độ hòa nhập vào EU.
Ở Việt Nam, Nguyễn Thị Tuệ Anh và cộng sự (2006) sử dụng dữ liệu chuỗi thời
gian giai đoạn 1988-2003, cho thấy tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế qua


- 25 -

kênh đầu tư. Le Thanh Thuy (2007) nhận định FDI vừa tác động trực tiếp vừa tác
động lan tỏa gián tiếp đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Le Viet Anh (2009)
nghiên cứu mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam cho thấy đóng
góp tích cực của dòng vốn FDI đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn
1988-2002.
Ngoài ra, các nghiên cứu còn cho thấy giữa FDI và tăng trưởng kinh tế tồn tại mối
quan hệ hai chiều. Zhang (2001) cho rằng tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, không
chỉ tạo ra nhu cầu về vốn FDI mà còn cung cấp cơ hội tốt hơn để tạo ra lợi nhuận và
do đó thu hút nhiều hơn nữa dòng vốn FDI. Thêm vào đó, FDI có thể tác động đến
tăng trưởng kinh tế nhanh hơn và hỗ trợ phát triển kinh tế của các nền kinh tế chủ
nhà thông qua tác động trực tiếp và hiệu ứng lan tỏa gián tiếp. Do đó, FDI và tăng
trưởng kinh tế phụ thuộc lẫn nhau và sẽ dẫn đến quan hệ nhân quả hai chiều.
Liu et al. (2002) kiểm tra sự tồn tại mối quan hệ lâu dài giữa tăng trưởng kinh tế,
FDI và thương mại ở Trung Quốc. Sử dụng dữ liệu hàng quý cho xuất khẩu, nhập
khẩu, FDI và tăng trưởng giai đoạn 1981-1997. Nghiên cứu tìm thấy tồn tại quan hệ
nhân quả hai chiều giữa FDI, tăng trưởng và xuất khẩu. Chowdhury và Mavrotas
(2005) sử dụng dữ liệu thời gian ở Chile, Malaysia và Thái Lan giai đoạn 19692000 với kiểm định Toda-Yamamoto. Kết quả, quan hệ nhân quả hai chiều giữa
FDI và GDP được tìm thấy ở Thái Lan, Malaysia. Đồng thời GDP tác động tới dòng
vốn FDI trong trường hợp của Chile.
(ii) FDI tác động cùng chiều đến tăng trưởng kinh tế với những điều kiện nhất định

Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy hiệu quả tác động của FDI đến tăng trưởng
kinh tế không phải là tự động, nó phụ thuộc vào một số yếu tố nhất định (quy mô thị
trường, nguồn nhân lực, lợi thế so sánh, độ mở thương mại, khoảng cách công nghệ,
thị trường tài chính, yếu tố văn hóa và thể chế). Điều đó góp phần lý giải tại sao tác
động của dòng vốn FDI là hoàn toàn khác nhau giữa các quốc gia có cùng mức độ
phát triển, cùng lĩnh vực và cùng loại công ty.


×