Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

báo cáo thực tập tốt nghiệp Marketing du lịch phát triển du lịch bền vững tại sapa, tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (890.85 KB, 70 trang )

i
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện đề tài nghiên cứu: “Phát triển du lịch bền vững tại Sapa, tỉnh
Lào cai ”, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân, chúng em đã nhận được rất nhiều sự quan
tâm giúp đỡ tận tình của các thầy cô trong trường, cán bộ Uỷ ban nhân dân huyện
Sapa, Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai và bạn bè đã cung cấp tài liệu giúp đỡ chúng em
trong suốt quá trình làm đề tài.
Chúng em xin gửi lời cảm ơn tới: Các thầy, cô bộ môn Marketing Du lịch, khoa
Khách sạn - Du lịch, trường Đại học Thương Mại; Tập thể lãnh đạo và cán bộ Uỷ ban
nhân dân huyện Sapa, tỉnh Lào Cai, Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai; bạn
bè đã cung cấp tài liệu giúp đỡ chúng em trong suốt quá trình hoàn thiện đề tài. Đặc
biệt, chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô giáo hướng dẫn ThS. Hoàng Thị
Lan đã trực tiếp hướng dẫn, quan tâm hỗ trợ, cung cấp cho chúng em những tài liệu
trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Đây là những dữ liệu làm cơ sở cho việc phân
tích, đánh giá chính xá thực trạng của du lịch Sapa và là tiền đề cho sự thành công của
đề tài.
Mặc dù có nhiều cố gắng hoàn thành nội dung nghiên cứu, tuy nhiên đề tài
không tránh khỏi những thiếu sót, chúng em rất mong nhận được ý kiến đóng góp quý
báu của các thầy cô và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Nhóm nghiên cứu
Hà Bích Phượng
Đỗ Thị Quyến
Nguyễn Thị thắm


ii
MỤC LỤC
- Tăng cường quản lý đô thị, xây dựng nông thôn mới: bên cạnh việc chú trọng phát triển
ngành du lịch, Sapa cũng đang rất quan tâm tăng cường công tác quản lý trật tự đô thị, hệ
thống chiếu sáng đô thị, công tác vệ sinh môi trường, chăm sóc cây xanh, thảm hoa, thảm cỏ.


Giải quyết có hiệu quả tình trạng lấn chiếm lòng lề đường để bán hàng, tình trạng chèo kéo,
đeo bám khách du lịch, bán hàng rong trên địa bàn thị trấn.....................................................24
- Tăng cường các hoạt động hỗ trợ phát triển du lịch Sapa (Lào Cai) của Trung tâm Thông tin
và Xúc tiến Du lịch tỉnh Lào Cai: Trung tâm Thông tin Du lịch tỉnh Lào Cai sau khi được kiện
toàn, đổi tên thành trung tâm Thông tin và Xúc tiến Du lịch tỉnh Lào Cai theo quyết định số
1032/QĐ - UBND ngày 17 tháng 4 năm 2014 của UBND tỉnh Lào Cai đã triển khai thực hiện
hiệu quả nhiều hoạt động về thông tin tư vấn du lịch, quảng bá, phát triển sản phẩm và xúc
tiến du lịch, đặc biệt là các hoạt động tăng cường hỗ trợ phát triển du lịch Sapa.....................24
Ÿ Nguyễn Đình Hòe, Du Lịch Bền Vững (NXB Đại Học Quốc Gia 2001), 186 Trang...........58
Ÿ Phạm Trung Lương (chủ biên) (2007), Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam, NXB
Giáo dục....................................................................................................................................58
Ÿ Trần Thị Mai (2001), Giáo trình Tổng quan du lịch, Tổng cục du lịch.................................58
Ÿ Nguyễn Văn Mạnh (2006), Giáo trình Maketing Du lịch, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân.58
Ÿ Website: />Ÿ Website Tổng cục Du lịch: />Ÿ Website Sở văn hóa thể thao và Du lịch tỉnh lào Cai: />Ÿ Cổng thông tin điện tử huyện Sapa: />

iii
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Tên bảng biểu
Trang
Bảng 2.1. Đánh giá lượng khách hàng về chất lượng dịch vụ
29
du lịch Sapa
Biểu đồ 1. Lượng khách du lịch đến Sapa
26
Biểu đồ 2. Tính độc đáo hấp dẫn của du lịch Sapa qua trải
29
nghiệm của du khách
Biểu đồ 3. Đánh giá của du khách về chất lượng tour du lịch
30
Sapa

Biểu đồ 4. Chất lượng nguồn nhân lực đã qua đào tạo tại
30
Sapa
Biểu đồ 5. Tỉ trọng các khu vực kinh tế tỉnh Lào Cai năm
38
2015
Biểu đồ 6. Đánh giá của khách du lịch về môi trường tự
40
nhiên tại Sapa
Biểu đồ . Tình hình an ninh trật tự tại Sapa
41
Hình 3.1. Ruốc cá hồi ở Sapa
43
Hình 3.2. Gà ác nướng tại Sapa
44
Hình 3.3. Thắng cố của dân tộc H’mông
45
Hình 3.4. Các món nướng ở Sapa
46
Hình 3.5. Sản phẩm thổ cẩm Sapa luôn hấp dẫn du khách
49

DANH
VIẾT

Viết tắt
CNH, HĐH
DNDL
DLBV
DLTC

DTLS
KDDL
LHDL
SPDL
TPHCM
UBND
VCGT
VHTTDL

Từ đầy đủ
Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa
Doanh nghiệp du lịch
Du lịch bền vững
Danh lam thắng cảnh
Di tích lịch sử
Kinh doanh du lịch
Loại hình du lịch
Sản phẩm du lịch
Thành phố Hồ Chí Minh
Ủy ban nhân dân
Vui chơi giải trí
Văn hóa, Thể thao và Du lịch

MỤC TỪ
TẮT


iv



v
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài
Du lịch là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân, là ngành “công
nghiệp không khói”. Đây là ngành kinh tế quan trọng có ý nghĩa lớn về nhiều phương
diện như tạo việc làm, tăng thu nhập, đáp ứng tốt hơn nhu cầu văn hóa, tinh thần, cải
thiện sức khỏe con người và thân thiện với môi trường... Ở các nước phát triển đây là
ngành chiếm tỷ trọng khá lớn cả về cơ cấu lao động cũng như đóng góp thu nhập quốc
dân và có xu hướng gia tăng mạnh. Trong xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế
giới, du lịch là ngành có tốc độ tăng trưởng cao và có triển vọng. Đi liền với tốc độ
tăng trưởng nhanh, ngày nay khi nói đến phát triển du lịch người ta đặc biệt quan tâm
đến nội dung bền vững nhất là trong các nền kinh tế “kinh tế tri thức”, “kinh tế xanh”.
Dòng khách du lich thế giới đang hướng tới những khu vực có nền chính trị ổn định,
kinh tế phát triển; đặc biệt là dòng khách du lịch đang có xu thế chuyển dần sang khu
vực Châu Á-Thái Bình Dương và Đông Nam Á, những nơi có nền kinh tế phát triển
năng động và nền chính trị hòa bình ổn định, trong đó Việt Nam được đánh giá là điểm
đến an toàn và thân thiện.
Với các điều kiện tự nhiên - địa lý, kinh tế - xã hội đặc thù và có nhiều tiềm
năng du lịch, nhiều nước, nhiều khu vực đã và đang tiếp tục xác định đây là ngành
kinh tế quan trọng, thậm chí là mũi nhọn của họ. Du lịch vừa khai thác cái mới, vừa
bảo tồn “cái cũ” mang tính truyền thống nên du lịch làm tăng giá trị, góp phần bổ sung
giá trị về nhiều mặt của tự nhiên cũng như đời sống xã hội.
Du lịch bền vững đã trở thành một xu thế tất yếu của thời đai, là mục tiêu đặt ra
cho phát triển và có ý nghĩa quan trọng đối với nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó
có Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định “du lịch là một ngành kinh tế mũi
nhọn của đất nước”, “phát triển du lịch bền vững gắn chặt với việc bảo tồn phát huy
các giá trị văn hóa dân tộc; giữ gìn cảnh quan, bảo vệ môi trường; đảm bảo an ninh,
quốc phòng, trật tự an toàn xã hội” (Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến 2020,
tầm nhìn đến năm 2030). Nhà nước đã quan tâm đầu tư cho du lịch phát triển và ban
hành nhiều chính sách nhằm khuyến khích thu hút các nhà đầu tư cũng như khách du

lịch đến Việt Nam được thuận lợi.
Sapa được coi là một thành phố trong sương, có một sức hút lạ kỳ đối với du
khách không chỉ bởi cảnh quanh, khí hậu và sự đa dạng văn hóa dân tộc cùng với hệ
thống di sản độc đáo của thiên nhiên như núi Hàm Rồng, khu chạm khắc đá cổ, suối đá
vàng, thác tình yêu, những thửa ruộng bậc thang uốn lượn vào mùa lúa chín như
những dải lụa vàng vắt ngang lưng trời... mà còn bởi một cuộc sống mộc mạc, giản dị
nhưng mang đậm nét văn hóa vùng cao của đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống tại


vi
đây. Đây là những tiềm năng giúp Sapa phát triển du lịch một cách thuận lợi.
Tuy nhiên, hoạt động phát triển du lịch tại Sapa, tỉnh Lào Cai chưa thực sự đạt
được hiệu quả cũng như chưa khai thác hết giá trị của nó. Thực trạng phát triển du lịch
tại Sapa, tỉnh Lào Cai còn nhiều hạn chế và chưa tương xững với tiềm năng.
2. Xác lập và tuyên bố vấn đề trong đề tài
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, nhóm nghiên cứu đã quyết định chọn đề
tài: “Phát triển du lịch bền vững tại Sapa, tỉnh Lào Cai ” làm đề tài nghiên cứu khoa
học của mình.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là đề xuất một số giải pháp để phát triển du lịch
bền vững tại Sapa, tỉnh Lào Cai.
Từ mục tiêu trên, đề tài có các nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa một số cơ sở lý luận về du lịch và phát triển du lịch bền vững.
- Đánh giá chung tổng quan tình hình và các kết quả phát triển du lịch bền vững
tại Sapa, tỉnh Lào Cai.
- Đề xuất giải pháp và các kiến nghị nhằm củng cố, phát triển du lịch bền vững
tại Sapa, tỉnh Lào Cai.
4. Các câu hỏi đặt ra cho nghiên cứu
- Kinh nghiệm phát triển của một số khu vực trong nước về phát triển du lịch
bền vững?

- Các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình phát triển du lịch bền vững tại Sapa, tỉnh
Lào Cai?
- Thực trạng phát triển du lịch bền vững tại Sapa, tỉnh Lào Cai?
- Những tồn tại, thách thức trong quá trình phát triển du lịch bền vững tại Sapa,
tỉnh Lào Cai?
- Các định hướng và giải pháp phát triển du lịch bền vững tại Sapa, tỉnh Lào Cai
đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030?
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Thực tiễn phát triển du lịch bền vững tại Sapa, tỉnh
Lào Cai.
-Thời gian nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu xu hướng phát triển du lịch
bền vững trong thời gian 3 năm gần đây nhất và xu hướng phát triển đến năm 2020.
- Không gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu phát triển du lịch bền vững tại
Sapa, tỉnh Lào Cai.
6. Ý nghĩa của nghiên cứu
- Về mặt lý luận, đề tài đã hệ thống hóa và làm sáng tỏ được một số khái niệm
cơ bản về du lịch, du lịch bền vững, các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch


vii
bền vững, nội dung phát triển du lịch bền vững...
- Về mặt thực tiễn, thông qua việc phân tích cụ thể tiềm năng và thực trạng phát
triển du lịch bền vững tại Sapa giai đoạn 2013 - 2015, đề tài đã rút ra những kết quả
đạt được và những hạn chế, tồn tại trong quá trình thực hiện từ đó đề xuất giải pháp
cũng như kiến nghị nhằm phát triển du lịch bền vững tại Sapa tương xứng với tiềm
năng của mình trong thời gian tới.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài các phần: Lời cảm ơn, Mục lục, Danh mục bảng biểu, Danh mục từ viết
tắt, Lời mở đầu, Danh mục tài liệu tham khảo và Các phụ lục thì đề tài gồm 3 chương
chính sau:

Chương 1. Cơ sở lý luận về phát triển du lịch bền vững tại một điểm đến.
Chương 2. Thực trạng phát triển du lịch bền vững tại Sapa, tỉnh Lào Cai.
Chương 3. Định hướng mục tiêu và một số giải pháp góp phần tiếp tục phát
triển du lịch bền vững tại Sapa, tỉnh Lào Cai.


1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG
TẠI MỘT ĐIỂM ĐẾN DU LỊCH
1.1. Tổng quan về phát triển du lịch bền vững
1.1.1. Một số quan điểm về du lịch
Du lịch: Theo quan niệm phổ biến của du lịch học: “ Du lịch là hoạt động rời
khỏi nơi cư trú (làm việc) thường xuyên đến nơi thường xa lạ không nhằm mục đích
định cư hay sinh sống mà nhằm thỏa mãn trí tò mò nâng cao sự hiểu biết, hoặc đơn
thuần chỉ là một sự nghỉ ngơi và thư giãn” [6; tr.5]. Tuy nhiên, theo Luật du lịch
(2005), du lịch được hiểu là hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài
nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí,
nghỉ dưỡng trong một thời gian nhất định (Luật du lịch 2005,
khoản 1, điều 4, chương 1); [1; tr.18].
Khách du lịch: Về cơ bản là cá nhân hay tập thể có nhu cầu hưởng thụ SPDL, là
những người có nhu cầu và có tiền để chi trả cho việc nhận cung cấp các sản phẩm và
dịch vụ du lịch. Trên thị trường du lịch, khách du lịch là yếu tố quyết định cầu du lịch
và do vậy tác động mạnh mẽ đến môi trường kinh doanh du lịch.
Sản phẩm du lịch: “là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của
khách du lịch trong chuyến đi du lịch” (Luật du lịch 2005, khoản 10, điều 4, chương
1); [1; tr.19]. Theo nhiều nhà chuyên môn, SPDL là sự kết hợp giữa một món hàng cụ
thể (mức độ tiện nghi của các thiết bị trong phòng, thức ăn tại nhà hàng, chất lượng
của các món quà…) và một món hàng cụ thể (bầu không khí tại nơi nghỉ mát, chất
lượng dịch vụ của các nhà cung ứng…), hay nói cách khác SPDL là tổng hợp các
thành tố khác nhau, nhằm cung cấp cho du khách những kinh nghiệm du lịch trọn vẹn

và sự hài lòng. SPDL có thể là vật chất (vật thể) như những DLTC, các DTLS, đền
chùa - lăng tẩm, các công trình nhân tạo phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi, vui chơi, chất
lượng các món quà lưu niệm… nhưng cũng có thể là phi vật chất (phi vật thể) như
trình độ chuyên môn và khả năng giao tiếp của nhân viên du lịch, sự thân thiện của
dân cư địa phương, các sản phẩm văn hóa phi vật thể như các loại hình nghệ thuật dân
tộc ( Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, dân ca quan họ Bắc Ninh, nhã
nhạc cung đình Huế, ca trù Hà Nội…). Chất lượng SPDL còn tùy thuộc vào nhiều yếu
tố khác như các điều kiện tự nhiên (sự thay đổi khí hậu), hay các yếu tố kinh tế - chính
trị - xã hội (như tình hình an ninh chính trị, chất lượng các phương tiện giao thông vận
tải, điều kiện bảo đảm vệ sinh môi trường, công tác bảo hiểm du lịch…).
1.1.2. Một số quan điểm về du lịch bền vững
Trong xu thế phát triển xã hội, với mục tiêu cải thiện và nâng cao chất lượng
cuộc sống, hoạt động du lịch với tư cách là bộ phận quan trọng trong các ngành dịch
vụ, ngày một tăng nhanh. Từ những tác động tích cực của cuộc cách mạng khoa học


2
kỹ thuật mới, sản xuất càng được tự động hóa, các hoạt động dịch vụ càng được mở
rộng. Nhu cầu xã hội về dịch vụ càng được tăng cao, các điều kiện đáp ứng nhu cầu
càng hoàn thiện, phong phú. Theo thống kê ở các nước công nghiệp lực lượng lao
động tập trung trong lĩnh vực du lịch, dịch vụ chiếm 60% - 70%, thậm chí còn cao
hơn, thu nhập dành để chi tiêu thỏa mãn nhu cầu vui chơi, giải trí, chăm sóc sức
khỏe… ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập xã hội. Hiện nay, hầu hết
các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới đều quan tâm đầu tư mạnh vào ngành
“công nghiệp không khói” này với hy vọng khai thác tối đa lợi thế về các giá trị du
lịch đặc thù nhằm giải quyết việc làm, thu hút tiền bạc, khuếch trương vị thế quốc
gia… Tuy nhiên, trong định hướng phát triển du lịch, cũng như các ngành kinh tế
khác, ngày nay người ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề phát triển bền vững.
Phát triển bền vững (sustainable development, development duable): Ngày nay
khi nói đến phát triển chúng ta không chỉ hiểu một cách đơn giản đó là sự tăng trưởng,

chỉ là sự gia tăng về số lượng mà còn bao hàm sự tăng trưởng, sự phát triển bền vững.
Mặc dù đây là khái niệm còn khá mới mẻ, song cho tới nay đã có nhiều định
nghĩa và cách hiểu tương đối đa dạng về vấn đề này. Có quan điểm cho rằng: “Du lịch
bền vững là du lịch mà giảm thiểu các chi phí và nâng cao tối đa các lợi ích của du lịch
cho môi trường tự nhiên và cộng đồng địa phương và có thể được thực hiện lâu dài
nhưng không ảnh hưởng xấu đến nguồn lợi mà nó phụ thuộc vào” [4].
Tuy vậy, theo Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên Quốc tế (World Conservation Union
- IUCN): “Du lịch bền vững là: Việc di chuyển và tham quan đến các vùng tự nhiên
một cách có trách nhiệm với môi trường để tận hưởng và đánh giá cao tự nhiên (và tất
cả những đặc điểm văn hóa kèm theo, có thể là trong quá khứ và cả hiện tại) theo cách
khuyến cáo về bảo tồn, có tác động thấp từ du khách và mang lại những lợ ích cho sự
tham gia chủ động về kinh tế - xã hội của cộng đồng địa phương”, (World
Conservation Union - IUCN, 1996). Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) đưa ra tại
hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên hiệp quốc tại Rio de Janeriro băn 1992:
“Du lịch bền vững là việc phát triển các hoạt động nhằm đáp ứng các nhu cầu hiện tại
của khách du lịch và quan tâm đến người dân bản địa trong khi vẫn quan tâm đến việc
bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên cho phát triển du lịch trong tương lai. Du lịch
bền vững sẽ có kế hoạch quản lý các nguồn tài nguyên nhằm thỏa mãn các nhu cầu về
kinh tế, xã hội, thẩm mỹ của con người trong khi vẫn duy trì được sự toàn vẹn về văn
hóa, đa dạng sinh học, sự phát triển của hệ sinh thái và các hỗ trợ cho cuộc sống con
người”. Còn Luật Du lịch Việt Nam định nghĩa “Du lịch bền vững là sự phát triển du
lịch đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng
nhu cầu về du lịch của tương lai” (khoản 18, điều 4, chương 1. Luật Du Lịch Việt
Nam 2005);[1; tr.20]. Du lịch bền vững được chủ động xây dựng kế hoạch một cách


3
cẩn thận từ lúc bắt đầu để mang lại những lợi ích cho cộng đồng địa phương, tôn trọng
văn hóa, bảo tồn nguồn lợi tự nhiên và giáo dục du khách và cả cộng đồng địa phương.
Du lịch bền vững không chỉ tạo ra “lợi tức” mà còn có nhiều lợi ích được chuyển lại

cho cộng đồng địa phương và các nguồn lợi tự nhiên, các giá trị văn hóa vùng được
bảo vệ. Du lịch bền vững dựa trên những kế hoạch cũng được thiết lập cẩn thận nhằm
giảm thiểu các tác động xấu của “ Công nghiệp du lịch”, đồng thời còn đóng góp vào
công tác bảo tồn và tăng cường “sức khỏe” của cộng đồng về cả mặt kinh tế và xã hội.
Nhiều ý kiến cho rằng, mục tiêu của Du lịch bền vững là : Phát triển, gia tăng
sự đóng góp của du lịch vào kinh tế và môi trường; cải thiện tính công bằng xã hội
trong phát triển, cải thiện chất lượng cuộc sống của cộng đồng bản địa, đáp ứng cao độ
nhu cầu của du khách và duy trì chất lượng môi trường.
1.2. Nội dung phát triển du lịch bền vững trong kinh doanh du lịch tại một
điểm đến
1.2.1. Vai trò của phát triển du lịch bền vững
1.2.1.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển kinh tế
Du lịch có vai trò quan trọng đối với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát
triển kinh tế, góp phần giải quyết hài hòa mối quan hệ cung - cầu, khai thác có hiệu
quả các nguồn lực để nhanh chóng phát triển kinh tế; với sự phát triển của ngành, du
lịch đóng góp ngày càng lớn số lượng và tỷ trọng thu nhập vào tổng thu nhập của quốc
gia. Với vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn, du lịch đang có những bước chuyển mình
lớn đồng thời như thay áo mới cho kinh tế của cả nước.
Phát triển du lịch vừa gắn liền, vừa góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc, tôn vinh vẻ đẹp và văn hóa làng bản. Phát triển du lịch góp phần nâng cao
vị thế chính trị của đất nước, làm cho bạn bè quốc tế hiểu biết hơn về đất nước, con
người Việt Nam, qua đó góp phần vào sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước ta,
tạo thêm môi trường thuận lợi, thân thiện thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
1.2.1.2. Giải quyết việc làm và góp phần ổn định xã hội
Sự tác động có tính hệ thống của hoạt động du lịch đối với việc giải quyết việc
làm có thể được khái quát bằng công thức đơn giản sau: 1/5. Từ du lịch có thể kèm
theo các hoạt động khác và qua đó vừa đòi hỏi vừa tạo điều kiện để giải quyết việc làm
hàng loạt như: giao thông vận tải, khách sạn, nhà hàng, phục vụ ăn uống, hướng dẫn
du lịch, bán hàng lưu niệm và các dịch vụ khác như: tắm hơi, mát sa... Từ nhu cầu du
lịch cấp 1 (lao động trực tiếp trong ngành du lịch) có thể được mở rộng thêm các

hoạt động cấp 2 như các dịch vụ phục vụ cho giao thông vận tải, phục vụ ăn uống,
xây dựng khách sạn nhà hàng,những người sản xuất hàng lưu niệm, các dịch vụ y
tế, các dịch vụ hoạt động thể thao... Ngoài ra du lịch còn kéo theo cả những hoạt
động có thẻ giải quyết việc làm gián tiếp có lợi ích nhiều cho xã hội như an ninh,
vệ sinh môi trường...


4
1.2.1.3. Phát triển và bảo tồn văn hóa
Sự hấp dẫn của sản phẩm và chất lượng dịch vụ du lịch là ở chỗ có được và tạo
ra được nét đặc thù của các vùng du lịch hay các quốc gia tổ chức du lịch. Khách du
lịch tách rời khỏi nơi mình cư trú đến nơi khác để tìm kiếm và hưởng thụ các sản
phẩm du lịch, các sản phẩm vật chất và tinh thần mà nơi mình sinh sống không có
được. Sự di chuyển của các luồng khách du lịch không chỉ vì họ thích tách khỏi nơi họ
cư trú mà chủ yếu do sự lôi cuốn bởi tính hấp dẫn của sản phẩm du lịch ở những điểm
họ muốn đến. Sự phát triển hơn nữa là phát triển bền vững du lịch vừa dựa trên tính
chất đặc thù của các nền văn hóa đồng thời vừa đòi hỏi phải xây dựng và bảo tồn các
di sản văn hóa tại điểm đến du lịch. Du khách sẽ không đầu tư tiền bạc và thời gian để
đến những nơi mà mọi thứ đều giống như địa bàn họ sinh sống. Người ta sẽ thất vọng
hoặc ít nhất họ cho rằng không thành công nếu không may một lần nào đó thực hiện
một chuyến du lịch mà không để lại ấn tượng gì nhờ tính đặc thù về văn hóa nơi họ
đến tham quan du lịch. Kinh nghiệm thế giới cũng như nhiều vùng trong nước cho
thấy những nơi tổ chức du lịch thành công là những nơi biết bảo tồn, giữ gìn tốt
các di sản văn hóa đặc trưng.
1.2.1.4. Bảo vệ môi trường
Đây vừa là yêu cầu đồng thời là kết quả của việc phát triển du lịch bền vững.
Để phát triển du lịch, vấn đề môi trường, cảnh quan, quy hoạch và kiến trúc các công
trình có sự tác động mạnh mẽ đến du khách. Sự hài lòng hay bất bình của du khách
liên quan nhiều đến yếu tố này vì nó là bộ phận quan trọng của sản phẩm du lịch.
Do vậy, để tồn tại và phát triển dù muốn hay không ngành du lịch phải hết sức

quan tâm giải quyết tốt vấn đề môi trường và góp phần tích cực vào việc xây dựng
văn hóa địa phương.
1.2.2. Các tiêu chí đánh giá sự phát triển du lịch bền vững
Cho đến nay, theo quan điểm của nhiều quốc gia và tổ chức kinh tế văn hóa thế
giới, về cơ bản, để đánh giá sự phát triển bền vững đối với một nền kinh tế người ta
thường dựa vào 3 tiêu chí chủ yếu: về kinh tế - xã hội, về con người và về môi trường.
- Về kinh tế - xã hội: Tiêu chuẩn về kinh tế được phản ánh bởi mức tăng đóng
góp vào GNP hoặc GDP của ngành du lịch. Cũng như các lĩnh vực kinh doanh khác,
tiêu chí kinh tế của phát triển du lịch bền vững thể hiện mức tăng trưởng của GDP của
ngành, mức GDP bình quân doanh nghiệp, hiệu quả sử dụng các tài nguyên du lịch và
vốn đầu tư kinh doanh du lịch, thu nhập bình quân lao động du lịch... Thông thường
người ta dựa vào các chỉ tiêu mức tăng trưởng kinh tế do quá trình phát triển mang lại,
mức đóng góp phát triển kinh tế địa phương, mức độ phát triển phù hợp với mục tiêu
đề ra trong quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của quốc gia và địa phương. Việc đầu
tư phải đem lại lợi nhuận, phải nâng cao tống sản phẩm trong nước. Một chỉ tiêu quan


5
trọng để đánh giá tăng trưởng kinh tế trong quan hệ với môi trường là mức độ tiêu thụ
tài nguyên thiên nhiên theo đầu người. Phát triển bền vững bao hàm việc xóa dần sự
cách biệt về thu nhập và chăm sóc sức khỏe, tạo sự công bằng về sở hữu ruộng đất, cải
thiện giáo dục và chăm sóc sức khỏe cho xã hội, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.
Trong lĩnh vực du lịch, phát triển bền vững thể hiện tương quan giữa vốn đầu
tư, tỷ lệ khai thác các tiềm năng du lịch, việc tôn tạo, bảo tồn các SPDL, nâng cao hiệu
suất sử dụng các cơ sở lưu trú, nhà hàng, tăng tính hấp dẫn của môi trường KDDL…
tăng doanh thu xã hội.
Phát triển bền vững du lịch thường được thể hiện qua các chỉ tiêu: Doanh số
tổng hợp và doanh thu xã hội của các tổ chức cá nhân kinh doanh du lịch (các khách
sạn, nhà hàng, lưu trú, các cá nhân và tổ chức kinh doanh tour du lịch, các đại lý du
lịch, các cơ sở sản xuất và kinh doanh quà lưu niệm hay các SPDL khác như chữa

bệnh, hội nghị…); Các lợi ích xã hội như mức độ thỏa mãn nhu cầu khách du lịch,
tương quan tỷ lệ về thu nhập giữa các đơn vị kinh doanh du lịch với thu nhập quốc gia,
tương quan thu nhập giữa các LHDL; bảo vệ, bảo tồn, tôn tạo cảnh quan môi trường,
các di sản văn hóa lịch sử (vật thể, phi vật thể), các DLTC, các làng nghề truyền thống,
các nét đẹp của mỗi dân tộc; số lượng và chất lượng cơ sở hạ tầng kỹ thuât và xã hội
phục vụ kinh doanh du lịch được cải tạo, đầu tư xây dựng mới; Sự đa dạng hóa và chất
lượng SPDL, chất lượng dịch vụ du lịch…
Phát triển du lịch không chỉ thể hiện thuần túy về sự gia tăng lượng khách du
lịch mà còn đòi hỏi tính toán cân đối giữa các dòng khách như khách đến với khách đi,
xuất xứ du khách (Đến từ vùng nào? Nước nào?) vì suy cho cùng đây là nhân tố trực
tiếp ảnh hưởng lớn đến doanh thu du lịch. Nếu hoạt động du lịch có vai trò rất lớn
trong nền kinh tế quốc dân thì việc thiếu cân đối về cơ cấu khách hàng chưa hẳn có kết
quả tốt cho dù lượng khách gia tăng.
Bảo vệ, bảo tồn, tôn tạo cảnh quan, duy trì bản sắc các dân tộc,duy trì các làng
nghề truyền thống… là yêu cầu hết sức ngặt nghèo và rất khó khăn vì nó không chỉ tốn
kém về thời gian, tiền bạc và công sức mà nó còn đòi hỏi sự kiên trì và hiểu biết của
mọi người, không chỉ những người lãnh đạo, người làm du lịch mà là cả xã hội. Sự đa
dạng hóa và tăng chất lượng SPDL, chất lượng dịch vụ du lịch, sự ổn định chính trị xã
hội,an ninh được đảm bảo, trình độ văn hóa và nhận thưc của cộng đồng xã hội, sự
thân thiện của cư dân bản địa… là những yếu tố hết sức quan trọng tạo môi trường xã
hội thuận lợi thu hút du khách và cải thiện sức cạnh tranh của ngành du lịch.
Các chỉ tiêu kinh tế phản ánh sự đầu tư phát triển du lịch bền vững còn được thể
hiện ở hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật trực tiếp phục vụ du khách (như hệ thống cơ sở
lưu trú, nhà hàng và các trang thiết bị bảo đảm sinh hoạt tiện nghi cho khách); Số
lượng và chất lượng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội phục vụ KDDL (như tổ hợp hệ


6
thống các phương tiện vận tải, thông tin liên lạc, cung cấp năng lượng được cải tạo,
nâng cấp, đầu tư xây dựng mới); Công tác quản lý và thực hành phục vụ khách hàng

của các công ty KDDL, các công ty lữ hành, các đại lý du lịch… có chất lượng, có uy
tín và biết quan tâm đến khách hàng.
- Về con người:
Là bộ phận cấu thành đồng thời là tiêu chí đánh giá sự phát triển bền vững du
lịch, con người được thể hiện ở sự công bằng về quyền lợi và điều kiện phát triển giữa
các cá nhân, tập thể hay cộng đồng dân cư. Vấn đề con người liên quan đến thực hiện
các chính sách như: chính sách giáo dục, chính sách trợ cấp xã hội, chính sách việc
làm và thu nhập nhằm nâng cao dân trí, cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống…
Vấn đề con người được thể hiện cụ thể qua các chỉ tiêu như khai thác hợp lý các giá trị
văn hóa, giáo dục, xây dựng các kế hoạch bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống
trong quan hệ với tiếp thu các giá trị văn hóa tiên tiến của nhân loại… Dân cư phải ổn
định, có mức độ, cân bằng, sử dụng đúng đắn tài nguyên con người, thúc đẩy cải thiện
giáo dục, dịch vụ sức khỏe và chống đói nghèo; cung cấp nước sạch; cải thiện phúc lợi
tập thể bảo vệ phát triển văn hóa đa dạng đầu tư vốn cho phát triển con người. Nhờ
nâng cao dân trí, người dân sẽ tích cực tham gia bảo vệ môi trường, bảo đảm cho sự
phát triển bền vững. Phát triển bền vững đòi hỏi phải có sự tham gia toàn diện,tích
cực, tự nguyện của nhân dân.
Trong lĩnh vực du lịch, vai trò của con người mà trước hết là cư dân địa phương
vô cùng quan trọng bởi rất nhiều trường hợp họ la người làm du lịch và đặc biệt họ là
người trực tiếp quản lý, sử dụng, bảo vệ, bảo tồn các SPDL hay cung câp sản phẩm và
dịch vụ du lịch. Kết quả hoạt động du lịch, bản sắc của SPDL, tính hấp dẫn của thị
trường du lịch… và cuối cùng là sự bền vững của hoạt động du lịch phụ thuộc trực tiếp
và có ý nghĩa quyết định là ở họ.
Trong lĩnh vực du lịch, vai trò của con người mà trước hết là cư dân địa phương
vô cùng quan trọng bởi rất nhiều trường hợp họ là người làm du lịch và đặc biệt họ là
người trực tiếp quản lý, sử dụng, bảo vệ, bảo tồn các SPDL hay cung cấp sản phẩm và
dịch vụ du lịch. Kết quả hoạt động du lịch, bản sắc của SPDL, tính hấp dẫn của thị
trường du lịch… và cuối cùng là sự bền vững của hoạt động du lịch phụ thuộc trực tiếp
và có ý nghĩa quyết định là ở họ.
- Về môi trường:

Môi trường là yếu tố trực tiếp tác động đến du lịch bởi môi trường chính là
SPDL (cảnh quan thiên nhiên, tính hoang sơ của các nguồn dự trữ tài nguyên) hay một
phần không thể thiếu cấu thành SPDL (không khí, nguồn nước, vệ sinh thực phẩm)
đặc biệt là các LHDL về DTLS, DLTC. Sự phát triển bền vững du lịch vừa phải khai
thác, sử dụng tối đa tự nhiên đồng thời phải tính toán về quy mô, điều kiện sự dụng tối


7
ưu tự nhiên. Thực tế cho thấy rất nhiều danh lam ở nước ta đẹp nhưng quy mô nhỏ
trong khi không có kế hoạch nên nhiều địa phương bố trí, tổ chức một lượng khách
quá lớn, đồng thời không chủ động khắc phục ô nhiễm nên đã bị xuống cấp nghiêm
trọng như: Bãi Cháy (Quảng Ninh)… Một trong những mục đích của du lịch là nghỉ
ngơi, vui chơi, giải trí, để hòa mình vào thiên nhiên trong lành, yên bình nên du khách
sẽ không lựa chọn hay hủy bỏ chuyến du lịch khi không đáp ứng được mục tiêu trên.
Ngoài ra, một tiêu chí mà hiện nay đang được nhiều nước quan tâm, trong đó
có Việt Nam là: Bảo đảm an ninh quốc phòng, góp phần bảo vệ và giữ vững biên giới,
biển đảo tổ quốc. Phát triển bền vững bao hàm sự ổn định, an toàn, ngược lại ổn định
để phát triển. Cả về lý luận và thực tiễn đều chứng minh rằng ổn định là tiền đề, điều
kiện để phát triển. Bảo đảm anh ninh quốc phòng, giữ vững biên giới tổ quốc (gồm cả
đất liền, biển đảo) để giữ gìn các giá trị về tự nhiên, văn hóa quốc gia đó là những tài
nguyên du lịch mà thiếu nó sẽ không có mọi hoạt động và kinh doanh du lịch. Một dân
tộc thuộc địa hay bất ổn về an ninh, chính trị sẽ không có chủ quyền hoặc hết sức khó
khăn trong việc xây dựng chiến lược phát triển ngành du lịch vì ở đó không có hoặc ít
có nhu cầu du lịch...
1.2.3. Một số nội dung chính của phát triển du lịch bền vững
1.2.3.1. Thị trường khách du lịch
Ưu tiên khai thác và thu hút khách du lịch từ các thị trường các nước phát triển,
đồng thời mở rộng thị trường khách du lịch nội địa truyền thống và duy trì khai thác
thị trường khách du lịch Trung Quốc và khách du lịch nước thứ 3 từ Vân Nam (Trung
Quốc) sang Lào Cai (Việt Nam). Tăng cường thu hút khách du lịch có mức chi trả cao,

đồng thời mở rộng quan hệ với các nước trong khu vực và các tỉnh, thành xung quanh
để thu hút khách và mở rộng thị trường du lịch.
1.2.3.2. Sản phẩm du lịch
Xây dựng các sản phẩm du lịch mới thông qua chương trình “Biến di sản thành
sản phẩm du lịch”: Sản phẩm du lịch tâm linh, du lịch lịch sử, du lịch văn hóa và sản
phẩm du lịch địa phương. Phát triển hệ thống các làng văn hóa thành làng du lịch cộng
đồng tiêu biểu với những bản sắc, sản phẩm du lịch mang sắc thái riêng của tộc người,
của địa phương. Phấn đấu đến năm 2016, xây dựng từ 5 - 10 làng du lịch cộng đồng
tiêu biểu. Khuyến khích doanh nghiệp và người dân tập trung xây dựng khu phố bán
hàng lưu niệm, quầy hàng ẩm thực đặc sản.
Nâng cao chất lượng điểm đến thông qua các sản phẩm du lịch: Tiếp tục nâng
cao chất lượng dịch vụ du lịch. Xây dựng thương hiệu du lịch cho các điểm tham
quan: chợ, vùng cao. Phát triển các khu du lịch nghỉ dưỡng kết hợp với chữa bệnh
bằng thuốc của đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng các khu vui chơi, giải trí tại các
địa bàn phát triển du lịch văn hóa, lịch sử trên địa bàn.


8
1.2.3.3. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch
Cơ sở hạ tầng du lịch bao gồm:
- Mạng lưới và phương tiện giao thông vận tải là những nhân tố quan trọng
hàng đầu. Du lịch gắn với việc di chuyển con người trên phạm vi nhất định. Điều này
phụ thuộc chặt chẽ vào giao thông vận tải. Một đối tượng có thể có sức hấp dẫn đối
với du lịch nhưng vẫn không thể khai thác được nếu thiếu yếu tố giao thông vận tải.
Thông qua mạng lưới giao thông thuận tiện, nhanh chóng du lịch mới trở thành một
hiện tượng phổ biến trong xã hội.
- Thông tin liên lạc là một bộ phận quan trọng của cơ sở hạ tầng phục vụ du
lịch. Nó là điều kiện cần để đảm bảo giao lưu cho khách du lịch trong nước và quốc tế.
Trong hoạt động du lịch, nếu mạng lưới giao thông và phương tiện giao thông vận tải
phục vụ cho việc đi lại của con người thì thông tin liên lạc đảm nhiện việc vận chuyển

các tin tức một cách nhanh chóng và kịp thời, góp phần thực hiện mối giao lưu giữa
các vùng trong phạm vi cả nước và quốc tế. Trong đời sống hiện đại nói chung, cũng
như ngành du lịch không thể thiếu được các phương tiện thông tin liên lạc.
- Các công trình cung cấp điện, nước. Khách du lịch là những người rời khỏi
nơi cư trú thường xuyên… Khi rời khỏi nơi cư trú thường xuyên đến một địa điểm
khác, ngoài các nhu cầu về ăn, uống, ở, đi lại… du khách còn có nhu cầu đảm bảo về
điện, nước để cho quá trình sinh hoạt được diễn ra bình thường. Cho nên yếu tố điện,
nước cũng là một trong những nhân tố quan trọng phục vụ trực tiếp việc nghỉ ngơi giải
trí của khách.
Như vậy, cơ sở hạ tầng là tiền đề, là đòn bẩy của mọi hoạt động kinh tế, trong đó có
du lịch.
Cơ sở vật chất – kỹ thuật:
Cơ sở vật chất kỹ thuật đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình tạo
ra và thực hiện sản phẩm du lịch cũng như quyết định mức độ khai thác tiềm năng du
lịch nhằm thoả mãn nhu cầu của khách du lịch. Chính vì vậy nên sự phát triển của
ngành du lịch bao giờ cũng gắn liền với việc xây dựng và hoàn thiện cơ sở vật
chất kỹ thuật.
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch bao gồm cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành du
lịch và cơ sở vật chất kỹ thuật của một số ngành kinh tế quốc dân tham gia phục vụ du
lịch: thương nghiệp, dịch vụ… cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch và tài nguyên du lịch có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tài nguyên du lịch ảnh hưởng tới công suất, thể loại,
thứ hạng của hầu hết các thành phần cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Khả năng tiếp
nhận của tài nguyên du lịch là cơ sở xây dựng công suất các công trình phục vụ du
lịch. Sức hấp dẫn của chúng có ảnh hưởng đến thứ hạng của các cơ sở này.


9
Sự kết hợp hài hoà giữa tài nguyên du lịch và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch
giúp cho cơ sở phục vụ du lịch có hiệu quả, kéo dài thời gian sử dụng chúng trong
năm. Vị trí của tài nguyên du lịch là căn cứ để bố trí hợp lý cơ sở vật chất kỹ thuật trên

các vùng lãnh thổ của đất nước và là tiền đề cơ bản để hình thành các trung tâm du
lịch.
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch bao gồm nhiều thành phần, chúng có những
chức năng và ý nghĩa nhất định đối với việc tạo ra, thực hiện các sản phẩm du lịch. Để
đảm bảo cho việc tham quan du lịch trên qui mô lớn cần phải xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật tương ứng như các khách sạn, nhà hàng, cămping, cửa hiệu, trạm cung cấp
xăng dầu, trạm y tế, nơi vui chơi thể thao… Khâu trung tâm của cơ sở vật chất kỹ
thuật là phương tiện phục vụ cho việc ăn ngủ của khách, tức là nguồn vốn cố định của
du lịch.
1.2.3.4. Hoạt động xúc tiến quảng bá mở rộng thị trường du lịch để phát triển du lịch
Hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch được coi là một nhân tố quan trọng, góp
phần vào sự phát triển của ngành du lịch mỗi địa phương. Xác định được tầm quan
trọng đó, thời gian gần đây, Quảng Ninh đã có nhiều nỗ lực trong hoạt động quảng bá,
xúc tiến du lịch và đạt được kết quả khả quan, thu hút khách du lịch đến với địa
phương nhiều hơn...
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch bền vững tại một điểm đến
Thực chất, phát triển bền vững du lịch trong nền kinh tế thị trường chính là
thường xuyên cải thiện được môi trường kinh doanh trên các nội dung (yếu tố) chủ yếu
như: các yếu tố kinh tế, yếu tố thể chế, yếu tố chính trị, văn hóa, xã hội, tình hình an
ninh, an toàn; cơ sở hạ tầng...
1.3.1. Các yếu tố kinh tế
Bao gồm quy mô hay khả năng cung ứng hàng hóa, SPDL (các DTLS, DLTC,
các giá trị văn hóa vật thể hay phi vật thể, quà lưu niệm, số lượng và chất lượng dịch
vụ chăm sóc sực khỏe, hội họp… ); quy mô, tính chất của nhu cầu xã hội về du lịch
(thu nhập và khả năng chi tiêu cho du lịch, nhu cầu nghỉ ngơi giải trí, sinh hoạt cộng
đồng của dân cư…); quy mô, mật độ, tiện ích của hệ thống các công cụ tài chính, tín
dụng, ngân hàng, tình hình cạnh tranh thị trường, sự biến động của giá cả hàng hóa và
dịch vụ trên thị trường có tác động đến cung - cầu du lịch…
1.3.2. Các yếu tố thể chế
Bao gồm hệ thống các văn bản pháp lý; những quy ước, quy định, thỏa ước,

điều lệ của địa phương, điều ước quốc tế, hệ thống bộ máy quản lý nhà nước, cơ chế
quản lý của nhà nước liên quan đến sinh hoạt cộng đồng và hoạt động du lịch ...
1.3.3. Yếu tố chính trị, văn hóa, xã hội
Gồm tình hình an ninh chính trị tại các điểm đến du lịch thể hiện sự an toàn cho


10
khách; dân số và cơ cấu dân cư (tuổi tác, giới tính, dân tộc, tôn giáo…); các yếu tố văn
hóa như tập quán sinh hoạt, thói quen tiêu dùng, trình độ văn hóa thể hiện sự am hiểu
của dân cư về các sản phẩm và các LHDL cũng như khả năng cảm thụ, thưởng thức
SPDL, bản sắc văn hóa đặc thù của các vùng, miền; trình độ phát triển và khả năng
ứng dụng những sản phẩm khoa học phục vụ du lịch; thông tin và mức độ nắm bắt
thông tin về các loại hình, địa điểm du lịch…
1.3.4. Tình hình an ninh, an toàn
Đây là yếu tố quan trọng kích thích hoặc hạn chế nhu cầu du lịch. Người ta sẽ
không đến nơi có nhiều tệ nạn xã hội hay an ninh không đảm bảo. Thực tế ở nhiều
quốc gia như Thái Lan, Ai Cập… những năm gần đây đã chứng tỏ thêm nhận định
trên. Ngành du lịch Thái Lan vốn chiếm tới 7% GDP và thu hút trên 2 triệu lao động
đất nước. Theo số liệu của Hiệp hội Công nghiệp Thái Lan, chỉ sau chưa đầy một năm,
ngành du lịch của họ mất khoảng 35 tỷ baht doanh thu, tương đương với 1,1 tỷ USD,
nhiều tour du lịch sang Thái Lan của các nước như Việt nam, Trung Quốc, các nước
Tây Âu… bị hủy bỏ do tình hình chính trị bất ổn thời gian qua. Theo số liệu thống kê
của các cơ quan quản lý du lịch Thái Lan, kể từ khi cuộc biểu tình của những người áo
đỏ diễn ra, số khách du lịch quốc tế đến Thái Lan giảm tới 40%. Tỷ lệ hủy tour rất cao,
đặc biệt sau khi có tới 43 quốc gia ban hành cảnh báo công dân đến Thái Lan.
Phần lớn nhu cầu du lịch là nhu cầu tinh thần nên người ta có thể hủy bỏ hay
điều chỉnh địa điểm du lịch nếu xét thấy tại điểm lựa chọn không đáp ứng tốt nhu cầu
cho họ. Du lịch không chỉ là khám phá cái mới mà còn là quá trình nghỉ ngơi, vui chơi,
giải trí do vậy sự lựa chọn của du khách là có được sự cải thiện về thể chất và tinh thần
sau mỗi lần kết thúc một chuyến đi xa… Cái họ không cần là sự căng thẳng, nặng nề

khi phải tiếp xúc với những gì mà họ không mong muốn như sự ghẻ lạnh của con
người, những hành vi thiếu văn hóa, mua bán, tranh cướp, lừa lọc… Đó là các yếu tố
của văn hóa du lịch.
1.3.5. Cơ sở hạ tầng (vật chất - xã hội)
Trực tiếp hay gián tiếp phục vụ hoạt động và kinh doanh du lịch như các
phương tiện phục vụ du lịch (đường sá, phương tiện vận tải, hệ thống khách sạn, nhà nghỉ,
nhà hàng ăn uống, cung ứng năng lượng…); số lượng, chất lượng của hệ thống giáo dục
đào tạo cán bộ, nhân viên du lịch, văn hóa bản địa và cộng đồng, sự thân thiện của con
người… Và các yếu tố tự nhiên như địa hình, thời tiết, khí hậu, độ ẩm không khí...
Ngoài ra, hiểu theo Ngân hàng thế giới (WB) và Tổ chức tài chính quốc tế (IFC),
mức độ thuận lợi, hấp dẫn của môi trường kinh doanh du lịch ở các quốc gia đối với các
chủ thể KDDL (DNDL, cá nhân hay tổ chức) còn được thể hiện qua các tiêu chí gồm: các
điều kiện thành lập doanh nghiệp. Nói khác đi cũng như trong các lĩnh vực kinh doanh


11
khác, môi trường của các chủ thể kinh doanh du lịch bao trùm một hệ thống các yếu tố trải
dài trong suốt thời kỳ từ lúc khai sinh cho đến lúc khai tử chủ thể đó.
1.4. Một số mô hình và bài học kinh nghiệm về phát triển du lịch bền vững trong
và ngoài nước
1.4.1. Bài học kinh nghiệm từ một số thành phố trong nước
1.4.1.1. Thành phố Đà Nẵng
Với những đặc trưng vốn có, Đà Nẵng là lãnh thổ hội tụ nhiều điều kiện thuận
lợi cho phát triển du lịch, thừa hưởng những thế mạnh hấp dẫn về du lịch biển, sinh
thái, văn hóa... và nhiều địa danh du lịch nổi tiếng. Thành phố Đà Nẵng không chỉ
được biết đến là trung tâm du lịch nổi tiếng ở miền Trung, mà còn là thành phố xanh,
sạch, đẹp, văn minh, thân thiện và đáng sống; thêm vào đó là một thành phố trẻ năng
động, sáng tạo, tạo dựng nhiều lợi thế so sánh mà các địa phương khác phải ao ước.
Theo tổng cục du lịch, giai đoạn 2006-2010, lượng khách du lịch đến Đà Nẵng
tăng bình quân 20%/ năm, doanh thu tăng bình quân 25%/ năm. Giai đoạn 2011-1014,

trong bối cảnh thị trường ảm đạm thì tổng lượt khách đến tham quan du lịch tại Đà
Nẵng đạt 12,4 triệu lượt, tăng 21%/ năm; tổng thu nhập từ du lịch ước đạt 28.100 tỷ
đồng, tăng 30%/ năm. Riêng năm 2014 là năm đầu tiên thành phố Đà Nẵng đón tới 3,8
triệu lượt du khách, tăng 21,9% so với năm 2013, trong đó khách quốc tế ước đạt 955
nghìn lượt, tăng 28,5%; lượt khách nội địa ước đạt 2,8 triệu lượt tăng 19,8% so với
năm 2013. Tổng doanh thu ước đạt 9.740 tỷ đồng, tăng 25,1% so với năm 2013. Năm
2015, tổng lượng khách đến Đà Nẵng tham quan, du lịch ước đạt 4,6 triệu lượt, tăng
20,5% so với năm 2014. Tổng doanh thu từ du lịch ước đạt 12700 tỉ đồng, tăng 28,7%
so với năm 2014.
Những số liệu trên cho thấy du lịch đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của
thành phố và ngày càng có thương hiệu mang tầm vóc quốc tế. Điều đó có thể thấy rõ
qua các giải thưởng và danh hiệu nổi bật đã đạt được:
- Đà Nẵng là thành phố duy nhất của Việt Nam đạt giải thưởng Thành phố bền
vững về môi trường ASEAN và được công nhận là 1 trong 20 thành phố có hàm lượng
carbon trong khí thải ra môi trường thế giới.
- Bãi biển Mỹ Khê được bình chọn là 1 trong 6 bãi biển quyến rũ nhất hành tinh
và là 1 trong 10 bãi biển châu Á được yêu thích nhất thế giới.
- Năm 2013 và 2014, Đà Nẵng nằm trong Top 10 điểm đến hấp dẫn hàng đầu
châu Á do tạp chí trực tuyến uy tín Smart Travel Asia bình chọn và vinh dự nhận giải
thưởng “Phong cảnh thành phố châu Á năm 2013” do Tổ chức Định cư con người
Liên Hiệp Quốc tại châu Á trao tặng.
- Năm 2014, Đà Nẵng là 1 trong 10 điểm đến du lịch mới nổi hấp dẫn ở châu Á
theo đánh giá của trang mạng nổi tiếng Agoda. Đà Nẵng xếp vị trí thứ nhất trong Top
10 điểm đến mới nổi hấp dẫn nhất thế giới do trang mạng uy tín hàng đầu thế giới về


12
du lịch TripAsvisor bình chọn. Cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng đã lọt top 3 sân bay
tốt nhất thế giới năm 2014 theo kết quả khảo sát của hãng hàng không Dragon A hãng hàng không lớn thứ 2 của Hồng Kông về chất lượng dịch vụ tại 96 sân bay trên
toàn cầu.

- Đà Nẵng tiếp tục là 1 trong 52 điểm đáng đến nhất thế giới năm 2015 - đây là
danh sách được chuyên mục Du lịch của tờ báo The New York Time (Mỹ) bình chọn.
Thành phố đã trở thành điểm đến không thể bỏ qua của du khách trong và ngoài nước.
Để đạt được những thành tích đáng nể đó, thành phố Đà Nẵng nói chung và
ngành du lịch Đà Nẵng nói riêng đã có những chính sách và việc làm rất thiết thực
nhằm đưa du lịch phát triển du lịch một cách nhanh chóng và bền vững. Cụ thể:
- Thành phố chú trọng nâng cấp, phát triển các sản phẩm du lịch theo hướng
hình thành sản phẩm đặc trưng, có chất lượng cao. Về định hướng thị trường khách,
điều quan trọng là nghiên cứu, xúc tiến thị trường, xác định đối tượng khách chủ lực
của Đà Nẵng để có hướng đầu tư, khai thác thích hợp, cũng như thống kê, phân loại
khách du lịch theo từng loại hình (khách mua sắm, khách nghỉ dưỡng, khách tham
quan) để đáp ứng sản phẩm dịch vụ nhằm phục vụ khách du lịch tốt hơn.
- Bên cạnh đó đẩy mạnh khai thác các thị trường du lịch nước ngoài, nhất là
khai thác khách thông qua việc mở đường bay trực tiếp. Đồng thời, tập trung đẩy
mạnh chiến dịch quảng bá, tuyên truyền xây dựng Đà Nẵng trở thành điểm đến hấp
dẫn, an toàn, thân thiện; xây dựng chiến lược và có kế hoạch khai thác tốt thị trường
khách nước ngoài qua tuyến Hành lang kinh tế Đông - Tây; khai thác lợi thế đô thị loại
1 và là trung tâm vùng trọng điểm kinh tế miền Trung - Tây Nguyên để xúc tiến thị
trường khách du lịch nội địa, khách du lịch MICE...
- Để du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, thành phố đã tăng cường xúc
tiến, quảng bá du lịch theo hướng chuyên nghiệp hơn. Việc bồi dưỡng và đào tạo
nghiệp vụ quản lý cũng sẽ được chú trọng; từng bước chuẩn hóa nâng cao chất lượng;
đẩy mạnh xã hội hóa công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch có chất
lượng nhằm đảm bảo tính chuyên nghiệp trong tổ chức hoạt động và phục vụ khách du
lịch; xây dựng môi trường du lịch văn minh, thân thiện và an toàn.
- Chú trọng đến việc bảo vệ môi trường: khách du lịch đến với bán đảo Sơn Trà
ngày một đông, tuy nhiên, sau mỗi chuyến đi như thế , thứ mà du khách để lại trên núi
là túi nylon, vỏ lon, vỏ chai nước... ở một số khu nghỉ dưỡng cao cấp dọc bãi biển,
theo đánh giá của các chuyên gia du lịch, chỉ tập trung khai thác du lịch mang lại lợi
nhuận, chưa quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường. Nước thải từ các khu du lịch, nhà

hàng ven biển chưa được xử lý triệt để.
Nhằm khắc phục thực trạng đó, nhiều doanh nghiệp lữ hành, lưu trú trên đia
bàn thành phố Đà nẵng từng bước tiếp cận với loại hình du lịch bền vững, thiết kế và
đưa vào những chương trình tour thân thiện với môi trường như tour đi bộ, đạp xích


13
lô, lặn ngắm san hô... kết hợp với các hoạt động bảo vệ môi trường. Tiêu biểu phải kể
đến năm 2014, CLB Vì biển xanh đã trồng 1000 cây phi lao tại bãi biển T20, sau đó
phối hợp với nhân viên của VietNamMobile trồng thêm 1000 cây phi lao ở bờ biển
T18, kết hợp các hoạt động tuyên truyền bảo vệ môi trường cho người dân sống gần
đó.
Đẩy mạnh công tác truyên truyền bảo vệ môi trường: Ông Nguyễn Đức Vũ,
Phó Ban quản lý (BQL) bán đảo Sơn Trà và các bãi biển du lịch Đà Nẵng cho hay, để
đảm bảo môi trường trên núi Sơn Trà và các bãi biển, BQL thường xuyên bố trí lực
lượng giám sát Xí Nghiệp Dịch vụ số 1 trong việc thu gom rác; đội quản lý trật tự du
lịch biển cũng chủ động nhặt rác, hướng dẫn nhắc nhở khách tắm biển và người dân
giữ gìn vệ sinh tại các bãi tắm. Ngoài nội dung tuyên truyền được phát trên loa phát
thanh tại các bãi tắm, phối hợp với các đài truyền hình địa phương phổ biến các quy
định, nội quy tại bãi biển đến người dân, du khách, BQL còn trang bị thêm 100 giỏ rác
inox và 40 thùng rác hình con chim cánh cụt, 40 thùng rác 240 lít để thu gom rác tại
các điểm đông khách. Mới đây, BQL triển khai chương trình “Hãy chung tay bảo vệ
môi trường du lịch biển” dưới hình thức chiếu các đoạn phim tuyên truyền, phát tờ rơi.
Đồng thời, BQL triển khai làm 6 cây cầu xanh để kết nối sinh cảnh sống cho loại
voocj chà vá châu nâu cũng như tạo ra sản phẩm du lịch mới lạ tại bán đảo Sơn Trà.
“BQL tập trung phát triển dịch vụ tại các điểm đến theo hướng du lịch sinh thái, gần
gũi với thiên nhiên, không xây dựng bê-tông để tránh phá vỡ cảnh quan làm ảnh
hưởng đến môi trường sống của các loài động, thực vật tại bán đảo Sơn Trà. Riêng các
tour ngắm động vật hoang dã phải đảm bảo khách không chọc phá, gây hoảng sợ cho
động vật hoang dã, đồng thời hạn chế những phương tiện có động cơ gây tiếng ồn lớn

di chuyển trên các tuyến du lịch Sơn Trà”, ông Vũ nhấn mạnh.
1.4.1.2 Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh nằm trên dải đất miền Đông Nam Bộ có diện tích
2095,6 km2 và dân số khoảng 7 triệu người, từng được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn
Đông, là trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học kĩ thuật, du lịch lớn của Việt Nam. Đây
là một thành phố trẻ mới 300 tuổi, nhưng bất cứ lúc nào chúng ta cũng cảm nhận được
sự năng động, sự thay da đổi thịt hàng ngày của thành phố. Trẻ trung và hiện đại, song
trong lòng thành phố lại chứa đựng biết bao giá trị văn hóa nhân văn - văn hóa lịch sử
được kết tinh và thăng hoa từ sự giao lưu của nhiều nền văn hóa khác nhau trên nền
tảng văn hóa mang đậm bản sắc Việt Nam.
Là một thành phố phát triển năng động thuộc loại bậc nhất cả nước, TPHCM
cũng là một trong những thành phố dẫn đầu về việc thu hút khách du lịch. Theo
UBND TPHCM, năm 2015, lượng khách quốc tế đến Thành phố ước khoảng 4,7 triệu
lượt, tăng 7% so với năm 2014, đạt 100% kế hoạch năm. Khách du lịch nội địa đến


14
Thành phố ước đạt 19,3 triệu lượt, tăng 13% so với năm 2014. Lượng khách đến
TPHCM luôn cao hơn và đặc biệt khách quốc tế hàng năm gần gấp 2 lần Hà Nội. Thực
tế cho thấy, du lịch của TPHCM có rất nhiều điểm nổi bật mà các tỉnh thành khác có
thể tham khảo. Cụ thể:
- Về công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch, TPHCM xây dựng kế hoạch tổ
chức các chiến dịch truyền thông tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức trong cộng
động về phát triển du lịch, trong đó chú trọng các hình thức mới và mang lại hiệu quả
như truyền thông qua các mạng xã hội; nâng cao chất lượng chuyên mục du lịch trên
các đài phát thanh, truyền hình địa phương; tiếp tục phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng
thông tin du lịch như Tổng đài thông tin du lịch 1087, cổng thông tin điện tử du lịch và
trạm thông tin du lịch Thành phố.
- Về hoạt động xúc tiến du lịch, TPHCM tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế
xúc tiến du lịch theo hướng chuyên nghiệp hóa, trong đó chú trọng xây dựng chiến

lược, kế hoạch phát triển thị trường, quảng bá hình ảnh thương hiệu điểm đến du lịch
Thành phố, đặc biệt là đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch. Bên
cạnh đó, Thành phố cũng sẽ phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức các sự kiện du
lịch nổi bật mang tính định kỳ tại Thành phố; phối hợp với Tổng cục Du lịch và các
doanh nghiệp tổ chức các hoạt động quảng bá, phát động thị trường tại các khu vực
trọng điểm và tiềm năng; tham gia các hoạt động của Tổ chức Xúc tiến du lịch các
thành phố châu Á - Thái Bình Dương (TPO)...
- Đặc biệt, sự kiện Sở Du lịch TPHCM thành lập vào tháng 10/2014 đã chứng
tỏ quyết tâm của thành phố hướng đến việc phát triển du lịch chuyên nghiệp, sâu rộng
hơn. Ngoài vị trí là một trong những điểm đến hấp dẫn nhất với du khách trong và
ngoài nước, TPHCM còn là trung tâm du lịch phát triển nhất nước với hàng trăm công
ty lữ hành, nhà hàng, khách sạn cùng hàng ngàn đội ngũ hướng dẫn viên chuyên
nghiệp, được đào tạo bài bản. Ước tính lượng khách quốc tế đến TP.HCM chiếm từ 50
- 55% lượng khách đến Việt Nam hàng năm. Doanh thu lĩnh vực du lịch chiếm khoảng
47% doanh thu cả nước, đóng góp 11% GDP thành phố.
1.4.1.3. Thành phố Hà Nội
Thủ đô Hà Nội, trung tâm chính trị - hành chính quốc gia là một trong hai "cửa
ngõ" quan trọng đón khách du lịch đồng thời là cầu nối giữa các tỉnh phía Bắc với cả
nước, giữa Việt Nam với khu vực và quốc tế. Năm năm qua, với sự chỉ đạo quyết liệt
của lãnh đạo thành phố cùng sự quyết tâm cao độ của những người làm du lịch Thủ
đô, Hà Nội ngày càng trở thành điểm đến hấp dẫn với du khách trong và ngoài nước.
Hà Nội hiện có 5.175 di tích văn hóa lịch sử trong đó có 1.050 di tích được
xếp hạng quốc gia, chiếm gần 20% tổng số di tích của cả nước, nhiều di tích nổi tiếng
đã được UNESCO vinh danh như: Hoàng thành Thăng Long, Văn Miếu - Quốc Tử


15
Giám, phố cổ Hà Nội... Hà Nội cũng có 1.350 làng nghề trong đó có nhiều làng nghề
thủ công truyền thống lâu đời như: Đúc đồng Ngũ Xã, gốm sứ Bát Tràng, lụa Vạn
Phúc... Với những lợi thế cơ bản về tài nguyên du lịch nói trên, 5 năm qua, Hà Nội đã

phát triển nhiều loại sản phẩm thu hút khách du lịch như: du lịch tham quan di tích văn
hóa, lịch sử; du lịch làng nghề; du lịch lễ hội; du lịch ẩm thực, du lịch tổng hợp sinh
thái, giải trí, thể thao, nghỉ dưỡng…
Ngành Du lịch thành phố đã khẳng định vai trò, vị trí là một ngành kinh tế lớn,
tốc độ tăng trưởng ổn định, quy mô hoạt động ngày càng mở rộng, đóng góp có hiệu
quả vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố. Dù thời gian gần đây, ngành Du lịch
gặp khó khăn do tác động của suy thoái kinh tế chung, nhưng lượng khách du lịch đến
Hà Nội vẫn có tốc độ tăng trưởng ấn tượng, mức tăng bình quân hơn 10%; năm 2014
đạt 15,4 triệu lượt khách nội địa, 3 triệu lượt khách quốc tế, gấp 2 lần so với năm
2010, tăng trưởng bình quân doanh thu du lịch ổn định mức 15,1%. Trong 9 tháng năm
2015, khách quốc tế đến Hà Nội đạt gần 2,3 triệu lượt, tăng 14%; khách trong nước đạt
hơn 12,7 triệu lượt, tăng 6,5%, doanh thu đạt 38.579 tỷ đồng, tăng 7% cùng kỳ. Trong
5 năm qua, Hà Nội liên tiếp được các trang web uy tín của thế giới vinh danh là điểm
đến hấp dẫn hàng đầu khu vực và thế giới.
Để đạt được những thành tựu đáng kể đó, ngành du lịch Hà Nội đã có những
những việc làm kịp thời và phù hợp:
- Hà Nội có cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch tương đối tốt. Hiện thành
phố có 3.081 cơ sở lưu trú với khoảng 38.000 phòng và 1.500 doanh nghiệp kinh
doanh lữ hành. Thành phố có nhiều cơ sở dịch vụ ăn uống, ẩm thực phong phú như các
nhà hàng Âu Á, tiệm cà phê, bar, các cơ sở dịch vụ vui chơi giải trí cao cấp như: Sân
golf (Đồng Mô, Sóc Sơn), Khu du lịch Sóc Sơn, đồi 79 Mùa Xuân (huyện Mê Linh)...
5 năm qua, nhân lực du lịch Hà Nội cũng đã phát triển mạnh với 88.000 lao động trực
tiếp có chất lượng tương đối tốt. Cụ thể, khoảng 80% nhân viên các doanh nghiệp lữ
hành quốc tế và khách sạn từ 3 đến 5 sao đều có trình độ đại học trở lên. Đặc biệt, các
doanh nghiệp liên doanh nước ngoài có đội ngũ cán bộ trình độ cao, chuyên nghiệp,
được đào tạo bài bản. 2.613 hướng dẫn viên du lịch quốc tế được cấp thẻ đều có thể sử
dụng được ít nhất một ngoại ngữ.
- Trong thời gian qua, ngành Du lịch Thủ đô đã chủ trì tổ chức đăng cai thành
công nhiều sự kiện lớn như: Năm Du lịch quốc gia 2010, Hội nghị lần thứ XI của Hội
đồng Xúc tiến du lịch Châu Á (năm 2012). Đặc biệt trong 3 năm 2013 - 2015, Hà Nội

tổ chức thành công 3 sự kiện lớn sẽ được duy trì tổ chức định kỳ: Liên hoan Du lịch
làng nghề truyền thống Hà Nội vào dịp tháng 10; Tổ chức đoàn của thành phố tham
gia Hội chợ JATA và Lễ hội Việt Nam tại Tokyo (Nhật Bản) vào dịp tháng 9; Hội chợ
Du lịch quốc tế Việt Nam - Hà Nội vào dịp tháng 4 hằng năm.


16
- Ưu tiên phát triển sản phẩm mang đậm nét Hà Nội: Giám đốc Sở Du lịch Hà
Nội Đỗ Đình Hồng cho biết, Quy hoạch phát triển du lịch Hà Nội đã chỉ rõ, đến năm
2020, du lịch Hà Nội thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế
của Thủ đô, có tính chuyên nghiệp, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật đồng bộ, hiện đại;
sản phẩm du lịch chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, có sức cạnh tranh; mang
đậm bản sắc văn hóa dân tộc, thân thiện với môi trường, đưa Hà Nội trở thành điểm
đến hấp dẫn, có đẳng cấp và xứng đáng là trung tâm du lịch lớn của cả nước và khu
vực. Để đạt mục tiêu này, Hà Nội đã và đang tập trung thu hút các nguồn lực cho đầu
tư phát triển sản phẩm du lịch đặc thù dựa trên nền tảng các giá trị di sản văn hóa, đó
là: Đầu tư nâng cấp dịch vụ du lịch tại khu vực Phố Cổ - Hoàn Kiếm, phát triển tuyến
du lịch ven Sông Hồng; khai thác, phát triển du lịch bền vững tại quần thể "Không
gian lễ hội Gióng"; phát triển du lịch cộng đồng tại Ba Vì... Đặc biệt, chú trọng khai
thác mặt nước và không gian cảnh quan xung quanh Hồ Tây như: Phát triển dịch vụ
thuyền buồm du lịch, trình diễn các loại hình nghệ thuật trên mặt nước với ánh sáng
laser, pháo sáng, pháo hoa... kết hợp tuyến du lịch tâm linh, cùng với các làng nghề
cổ như trồng đào Nhật Tân, quất Tứ Liên, cá cảnh Nghi Tàm, trồng sen và ướp trà
Quảng Bá…
Bên cạnh đó, ngành Du lịch Hà Nội chủ động phối hợp với Công an thành phố
và UBND các quận, huyện, thị xã xây dựng phương án kiên quyết xóa bỏ các tệ nạn
chèo kéo, ép khách, chặt chém. Cùng với đó là phối hợp với cộng đồng địa
phương tổ chức tốt các dịch vụ vệ tinh phục vụ khách du lịch như xe buýt, xe taxi,
xe điện du lịch, các nhà hàng, phát triển các dòng sản phẩm lưu niệm mang đậm
nét đặc trưng của Hà Nội.

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng bá: hoạt động tuyên truyền, quảng bá,
hợp tác phát triển du lịch trong nước và quốc tế của ngành Du lịch chú trọng vào việc
triển khai các chương trình hợp tác phát triển du lịch với các tỉnh, thành phố trong
nước và các tổ chức mà Hà Nội làm thành viên hoặc đã có quan hệ. Bên cạnh đó,
ngành Du lịch Hà Nội cũng chủ động phối hợp với các đại sứ quán, các tổ chức quốc
tế trên địa bàn để kết nối, giới thiệu, quảng bá, hợp tác phát triển du lịch tại các thị
trường quốc tế như: Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Châu Âu, Bắc Mỹ, Australia. Du lịch
Hà Nội cũng sẽ nâng tầm tổ chức các sự kiện du lịch như: Hội chợ Du lịch quốc tế
Việt Nam - Hà Nội; Liên hoan Du lịch làng nghề truyền thống Hà Nội... theo hướng
ngày càng chuyên nghiệp và xã hội hóa cao; tổ chức một số sự kiện du lịch mới mang
đậm dấu ấn của ngành Du lịch Thủ đô như: Lễ hội áo dài, Liên hoan Ẩm thực Hà
thành, Ngày hội Du lịch Hà Nội...
1.4.2. Kinh nghiệm từ một số nước trong khu vực
1.4.2.1. Thái Lan


17
Năm 2014,Thái Lan đón tiếp 19,2 triệu lượt khách, xếp thứ 2 ở Đông Nam Á và
lọt top 10 thế giới về lượng khách du lịch quốc tế tới thăm. Nói một cách công bằng,
đất nước chùa Vàng không có nhiều lợi thế về cảnh sắc thiên nhiên cũng như khí hậu
tuyệt vời như nước ta nhưng tại sao xứ sở ấy lại trở thành thiên đường du lịch? Có thể
nói, để trở thành “ thiên đường du lịch” như ngày nay, Thái Lan đã tận dụng mọi
nguồn lực của mình.
Có 6 điều đáng học hỏi từ ngành du lịch Thái Lan:
Thứ nhất, đầu tư cơ sở vật chất: trong những thập niên vừa qua, chính phủ Thái
Lan đã đầu tư rất mạnh cho giao thông công cộng, nổi bật là việc xây dựng hệ thống
tàu điện trên không Skyrail, giúp cho việc đi lại trong thành phố đơn giản, thuận tiện
hơn rất nhiều. Đường sá, đường ray được bảo trì, làm mới đã khiến thành phố càng trở
nên thân thiện hơn với khách du lịch.
Thứ hai, luôn hướng tới tiêu chuẩn quốc tế: mỗi người dân Thái Lan đều có ý

thức rất cao hướng tới việc phát triển du lịch mang tầm quốc tế. Hầu như ai cũng nói
được tiếng anh, từ những người bán đồ ăn trên phố tới những tài xế tuk tuk. Tại hầu
hết các điểm du lịch, luôn có bảng hướng dẫn bằng tiếng Anh cho du khách.
Thứ ba, phát triển du lịch đường sông: Bangkok là một trong những thành phố
tận dụng tốt nhất tài nguyên sông nước của mình. Con sông Chao Phraya trở thành
một đường giao thông dành cho người dân đi lại, chuyên chở trong thành phố. Dòng
sông cũng được tận dụng nhiều tour du lịch khám phá thành phố, mang lại nhiều lợi
nhuận cho Thái Lan.
Thứ tư, khách hàng thực sự là thượng đế: Ở Thái Lan hầu như chẳng bao giờ
thấy những người bán hàng cau có. Dù bạn có mua đồ, mặc cả “siết”, người dân Thái
vẫn nở nụ cười và nói những câu thật ngọt ngào, nhẹ nhàng. Đặc biệt, ở những khu
chợ như Chatukchak, bạn thoải mái nói ra những yêu cầu mua hàng của mình, dù là kỳ
quặc nhất, những người bán hàng chẳng bao giờ phàn nàn mà chỉ tìm cách thực hiện
yêu cầu đó. Chẳn sai khi nói Thái Lan là “đất nước của những nụ cười”.
Thứ năm, phát triển ẩm thực thành phố: không chỉ những nhà hàng, quán ăn xa
hoa mới mang lại nguồn lợi nhuận. Ở Bangkok, văn hóa ẩm thực đường phố đóng vai
trò vô cùng quan trọng. Đồ ăn tươi đủ các loại bán trên khắp các đường phố, dậy
hương thơm và rất bắt mắt, thu hút đông đảo tâm hồn ẩm thực tới đây.
Thứ sáu, yêu cầu sự tôn trọng: người làm dịch vụ ở Thái Lan coi khách hàng là
thượng đế, nhưng họ cũng đòi hỏi ở du khách sự tôn trọng đối với hoàng gia của họ.
Đừng bao giờ nói xấu vua Thái Lan hay các thành viên trong gia đình hoàng tộc bới
hành động này được coi là vô cùng khiếm nhã. Với việc yêu cầu sự tôn trọng này, du
khách cũng thận trọng và có ý thức giữ gìn hơn khi bước vào các công trình hoàng gia.
Một điểm đặc biệt giúp Thái Lan phát triển du lịch chính là chiến lược
Marketing cực kì độc đáo và hấp dẫn với slogan “Amazing Thái Lan”. Thái Lan tăng


18
cường công tác marketing thông qua duy trì, phát hành thẻ thành viên “Thái Lan kỳ
diệu” dành cho các khách hàng thường xuyên, có sự đồng cảm, yêu mến Thái Lan.

Đồng thời, ngành du lịch nước này lại tích cực đi tìm thị trường mới bằng việc mở
những văn phòng đại diện mới ở một số nơi đông dân và tiềm năng như Côn Minh
(Trung Quốc), Mumbay (Ấn Độ), Jakarta (Indonesia), thậm chí là Srilanka, Pakistan,
Syria, Jordan và Iran.
1.4.2.2. Singapore
Singapore là một quốc đảo nhỏ ở Đông Nam Á, có diện tích 710km2 (tương
đương Đảo Phú Quốc của Việt Nam) và 5,2 triệu dân. Nằm trong khu vực khí hậu
nhiệt đới, không phân mùa rõ rệt, có độ ẩm cao và mưa nhiều; không có giọt nước
ngọt từ sông và hồ; bờ biển chỉ dài 193km, không có bãi tắm, trừ một bãi tắm nhân tạo
ở đảo du lịch Sentosa... nên nguồn tài nguyên du lịch của Singapore rất hạn chế. Mặc
dù vậy, Singapore đã phát huy lợi thế vị trí địa lý là đầu mối giao lưu hàng hải, hàng
không của thế giới và tiềm lực con người để vươn lên phát triển vượt bậc trong du lịch.
Hàng năm, quốc đảo này đón trên 10 triệu lượt khách quốc tế, gấp 3 lần dân số. Mức
tăng trưởng bình quân hàng năm giai đoạn 2010 - 2014 về lượng khách và thu hập
bình quân đạt 2 con số, khoảng 10%. Để đạt được những thành tích đáng kể như vậy,
ngành du lịch Singapore đã có những biện pháp hết sức thiết thực:
Một là, hoạch định và tổ chức thực hiện chiến lược phát triển du lịch phù hợp
với từng thời kì. Cụ thể là: Chiến lược Du lịch Singapore năm 1968, có chủ đề phát
huy công sức, trí tuệ của người dân quốc đảo tham gia quy hoạch đảo du lịch Sentosa.
Chiến lược phát triển du lịch năm 1986 với chủ đề bảo tồn và khôi phục các khu lịch
sử văn hóa. Chiến lược phát triển du lịch năm 1993, chủ đề là phát triển các sản phẩm
du lịch mới. Chiến lược Du lịch 21 năm 1996, chuẩn bị và thực hiện tầm nhìn dài hạn
cho sự phát triển của du lịch trong Thế kỷ 21, với chủ đề “Nhà vô địch du lịch
Singapore”. Năm 2005, Singapore xây dựng Chiến lược “Du lịch 2015”, với chủ đề
phát triển Singapore thành một điểm du lịch “phải đến”, cải thiện tiêu chuẩn dịch vụ
nhằm cung cấp các dịch vụ đáng nhớ cho khách du lịch, nâng cấp cơ sở hạ tầng du
lịch, phát triển các doanh nghiệp du lịch và nguồn nhân lực du lịch chuyên nghiệp,
phát triển các sản phẩm trọng tâm của du lịch… Chiến lược phát triển du lịch năm
2012 của Singapore với chủ đề “Địa giới du lịch 2020”, đầu tư 300 triệu đô la
Singapore để tổ chức các sự kiện du lịch, 340 triệu đô la phát triển sản phẩm du lịch,

265 triệu đô la phát triển nguồn nhân lực du lịch; phấn đấu năm 2015 đón 17 triệu lượt
khách quốc tế, thu nhập du lịch 30 tỷ đô la Singapore và tạo ra 250.000 việc làm.
Hai là, đầu tư lớn và thường xuyên tu bổ danh thắng, cơ sở vật chất kỹ thuật du
lịch: Từ giữa những năm 80 của Thế kỷ trước, Chính phủ Singapore đầu tư hàng trăm


×