Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

sáng kiến kinh nghiệm: Hướng dẫn học sinh thực hiện có hiệu quả các thí nghiệm trong giờ học Vật lí cấp THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.49 KB, 20 trang )

MỤC LỤC

PHẦN

NỘI DUNG

TRANG

Phần thứ nhất

Đặt vấn đề

2

I

Lí do chọn đề tài

2

II

Phạm vi, đối tượng, mục đích của đề tài

3

Phần thứ hai

Nội dung đề tài

4



I

Cơ sở lí luận

4

II

Cơ sở thực tiễn

4

III

Các giải pháp thực hiện để nâng cao chất lượng

6

1

Chuẩn bị thí nghiệm

6

2

Tổ chức hoạt động thí nghiệm của học sinh trên lớp

7


Phần thứ ba

Kết luận

12

1

Hiệu quả sử dụng SKKN

12

2

Bài học kinh nghiệm

13

3

Lời kết

13

4

Tài liệu tham khảo

14


1


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
HƯỚNG DẪN HỌC SINH THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ CÁC
THÍ NGHIỆM TRONG GIỜ HỌC VẬT LÍ
PHẦN THỨ NHẤT : ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Vật lí học thực chất là một khoa học thực nghiệm. Vì vậy trong giảng dạy
và học tập môn Vật lí, thực nghiệm là một khâu có vai trò rất quan trọng. Nó
không chỉ làm tăng tính hấp dẫn của môn học, giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn
các kiến thức lí thuyết đã học và rèn luyện kĩ năng thực nghiệm của học sinh,
mà quan trọng hơn là nó từng bước tạo cho học sinh một trực giác nhạy bén đối
với các hiện tượng vật lí.
Trong những năm gần đây, nghị quyết của Đại hội Đảng và nhiều văn
kiện khác của nhà nước, của Bộ giáo dục và đào tạo đều nhấn mạnh việc đổi
mới phương pháp là một nhiệm vụ quan trọng của tất cả các cấp học và bậc học
ở nước ta, nhằm đào tạo những con người tích cực, tự giác, năng động và sáng
tạo, có năng lực giải quyết vấn đề, biết vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Nghị
quyết hội nghị lần thứ 2 của Ban chấp hành trung ương khóa VIII về những giải
pháp chủ yếu trong giáo dục và đào tạo đã chỉ rõ: " Đổi mới mạnh mẽ phương
pháp Giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành
nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng những phương pháp
tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và
thời gian tự học, tự nghiên cứu của học sinh....".
Đặc biệt chương trình môn Vật lí THCS được phân phối số tiết có thí
nghiệm thực hành tăng nhiều lần so với trước. Do đó việc giảng dạy đòi hỏi
người giáo viên phải có kiến thức sâu rộng, am hiểu nhiều không những của bộ
môn mà còn ở cả các môn học khác có liên quan, đồng thời tìm hiểu cả trong

thực tế cuộc sống. Việc học tập đòi hỏi người học sinh phải có tư duy nhạy bén,
óc sáng tạo, lòng ham mê khám phá thế giới xung quanh. Vì vậy việc rèn cho
học sinh làm quen, làm tốt thí nghiệm vật lí là vô cùng quan trọng. Nó không
những làm cho học sinh say mê học bộ môn, rèn cho học sinh thói quen làm
2


việc khoa học mà còn góp phần tạo cho học sinh phương pháp, kĩ năng làm việc
của một nhà khoa học.
Xuất phát từ những nội dung, yêu cầu nêu trên, tôi đã nghiên cứu trao đổi
với các nhóm bộ môn cũng như với giáo viên dạy vật lí và đề xuất sáng kiến
kinh nghiệm về vấn đề khai thác, "Hướng dẫn học sinh thực hiện có hiệu quả
các thí nghiệm trong giờ học vật lí", nhất là thí nghiệm vật lí khối 8, 9, tạo điều
kiện thuận lợi để hơn nữa để đạt hiệu quả trong việc tiếp thu kiến thức của học
sinh.
II. PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG, MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
1. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh khối 8, 9 trường THCS Tích Sơn.
2. Mục đích của đề tài:
Giáo viên tìm hiểu những hạn chế của học sinh khi sử dụng đồ dùng thí
nghiệm từ đó có những biện pháp khắc phục, vận dụng phương pháp mới một
cách linh hoạt để tổ chức tốt một giờ Vật lí trên lớp cho học sinh. Qua đó dần
hình thành cho học sinh cách tư duy Vật lí, kĩ năng sử dụng thiết bị thí nghiệm
Vật lí nhằm nâng cao chất lượng dạy - học bộ môn.
Giúp cho việc sử dụng và đưa thí nghiệm vật lí vào giảng dạy một cách
có hiệu quả nhất.
Giúp học sinh biết tiến hành các thí nghiệm cơ bản trong quá trình học và
biết sử dụng bộ thí nghiệm.

3



PHẦN THỨ HAI:

NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Mục đích của các khoa học tự nhiên là nghiên cứu thế giới tự nhiên,
nắm được các tính chất, các qui luật về bản chất của tự nhiên để chinh phục nó,
bắt nó phải phục vụ con người. Thế giới tự nhiên nhất định không thể tách rời
nó khỏi trạng thái vận động. Vì vậy một trong những đối tượng nghiên cứu của
khoa học tự nhiên là nghiên cứu các dạng vận động của thế giới tự nhiên, thế
giới vật chất.
Mục đích của Vật lí học là nghiên cứu những đặc trưng, những qui luật
tổng quát về cấu tạo và vận động của vật chất. Như vậy Vật lí học là một thực
nghiệm để tìm ra những tính chất, những qui luật tổng quát của vật thể phải sử
dụng phương pháp thực nghiệm rồi rút ra những kết luận, định luật, hiện tượng
vật lí. Nhằm nâng cao chất lượng đào tạo để thực hiện tốt mục tiêu của của nền
giáo dục nước ta hiện nay.
Dạy học là cả một nghệ thuật, làm như thế nào để người giáo viên thành
công với vai trò của mình? Để đánh giá mức độ thành công còn tùy thuộc vào
mục tiêu dạy học cụ thể. Theo quan niệm dạy học mới thì điều quan trọng là
cách thức tiếp cận tri thức nhờ có sự hướng dẫn của Giáo viên. Có thể sau một
tiết học có thí nghiệm thực hành, kết quả mà học sinh thu được chưa được khả
quan lắm nhưng học sinh đã biết với từng trường hợp thì có cách xử lí, khắc
phục như thế nào để đi đến thành công.
Do đó việc sử dụng các dụng cụ thí nghiệm đã được nêu rõ trong tài liệu
bồi dưỡng thường xuyên chu lì III: " Sử dụng các dụng cụ thí nghiệm là yêu
cầu bắt buộc trong giảng dạy và học tập môn Vật lí, sử dụng một cách có
hiệu quả và hợp lí không những nâng cao chất lượng giảng dạy mà con giúp
cho việc học tập của học sinh hứng thú, nhẹ nhàng hơn ".

II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Trong dạy học vật lí, thí nghiệm vật lí là cơ sở để xây dựng, chứng minh
kiến thức vật lí. Thí nghiệm vật lí (cho học sinh làm) có tác dụng bồi dưỡng cho
học sinh phương pháp nghiên cứu Vật lí, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, sử dụng các
dụng cụ đo và các dụng cụ thiết bị khác.
4


Trường THCS Tích Sơn có cơ sở vật chất đủ phục vụ cho việc giảng dạy
bộ môn. Tuy phòng học kiên cố, sạch sẽ nhưng phòng bộ môn không đảm bảo
tiêu chuẩn rất ảnh hưởng đến chất lượng học tập bộ môn.
Tuy nhiên thực tế cho thấy, kĩ năng sử dụng đồ dùng thiết bị thí nghiệm
của học sinh còn rất yếu, nhất là khâu lắp ráp dụng cụ thí nghiệm. Trong giờ
học phần này chiếm mất rất nhiều thời gian. Khi làm thí nghiệm, học sinh
thường tập trung nhiều đến hiện tượng chứ không tập trung đến mục đích thí
nghiệm. Vì vậy nếu Giáo viên không có phương pháp giảng dạy phù hợp sẽ rất
dễ dẫn đến cháy giáo án, thiếu thời gian cho các hoạt động khác, chất lượng
học tập không cao, sẽ có kết quả ngược lại không như mong muốn.
Thiết bị thí nghiệm được trang bị đồng bộ nhưng chất lượng không cao.
Nhiều bộ dụng cụ thí nghiệm cho kết quả không chính xác đòi hỏi giáo viên
phải đầu tư thời gian để hiệu chỉnh, sửa chữa.
Từ những nguyên nhân trên dẫn đến chất lượng của bộ môn chưa được
như mong muốn. Do đó trong 4 giải pháp đổi mới phương pháp dạy học Vật lí ở
trường trung học cơ sở thì giải pháp "phấn đấu làm đầy đủ, có chất lượng các
thí nghiệm trên lớp là giải pháp được đặt lên hàng đầu" (theo tài liệu "Đổi
mới phương pháp dạy học" của tác giả Trần Kiều)
Điều tra kết quả học tập trước khi sử dụng đề tài
Thực tế về điều tra trình độ học tập của học sinh qua khảo sát:

Tổng số học

sinh
Khối TSHS

Kết quả xếp loại
Giỏi

Khá

Trung bình

SL

%

SL

%

SL

%

Yếu
SL

%

8

138


14

10,1%

35

25,4%

65

47,1% 24

17,4%

9

110

16

14,6%

23

20,9%

58

52,7% 13


11,8%

5


III. CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG.
Để hướng dẫn tốt cho học sinh thực hiện có hiệu quả thí nghiệm trong
giảng dạy Vật lí và rèn được cho học sinh kĩ năng sử dụng thiết bị thí nghiệm,
sử dụng có hiệu quả vào thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, người giáo
viên phải thực hiện tốt cả hai khâu: Chuẩn bị của Giáo viên trước khi lên lớp và
tổ chức tiến hành thí nghiệm trên lớp cho học sinh.
1. Chuẩn bị thí nghiệm:
Trước hết giáo viên phải nắm rõ các bộ dụng cụ của bộ môn có trong
phòng thí nghiệm Vật lí của trường, của từng khối lớp, từng chương trình học.
Ví dụ: Cơ, nhiệt, điện, quang và từng thiết bị đó phục vụ cho bài học cụ thể
nào? Nắm vững cấu tạo, đặc điểm, chức năng của từng dụng cụ.
Cần nghiêm túc thực hiện việc lập kế hoạch sử dụng thiết bị dạy học
trong tuần để có định hướng về thiết bị cần sử dụng, từ đó có phương án chuẩn
bị dụng cụ và làm thử trước mỗi bài dạy. Bởi khi làm thử giáo viên sẽ định
hướng được thời gian thực hành thí nghiệm, thấy được điểm mạnh, yếu của
dụng cụ thí nghiệm và có thể cải tiến cho phù hợp với bài dạy, đối tượng học
sinh và tác dụng của dụng cụ. Với những bài có sử dụng dụng cụ phải lắp ráp
phức tạp, giáo viên có thể lắp sẵn cho học sinh để tránh mất nhiều thời gian trên
lớp ảnh hưởng đến mục đích chính của tiết học. Cần phải làm thử tất cả bộ dụng
cụ sẽ cho học sinh làm, làm nhiều lần để định hướng hướng dẫn học sinh trong
quá trình làm thí nghiệm và những chú ý trong quá trình làm thí nghiệm, những
yêu cầu phải thực hiện để đảm bảo thí nghiệm thành công. Việc này mất rất
nhiều thời gian đòi hỏi giáo viên phải tạo thói quen có nhu cầu sử dụng thiết bị
thí nghiệm trong dạy học bộ môn.

Các điều kiện của thí nghiệm Vật lí phải được lựa chọn và thiết lập có
chủ định sao cho thông qua thí nghiệm, học sinh có thể trả lời được câu hỏi đặt
ra, có thể kiểm tra được giả thuyết hoặc hệ quả suy ra từ giả thuyết.
Các thiết bị thí nghiệm có độ chính xác ở mức độ nhất định. Đầu tiên
chúng ta tìm thấy một qui luật sai và rồi chúng ta tìm thấy một qui luật đúng.
Bây giờ, thí nghiệm có thể sai như thế nào? đầu tiên, trong một lần thử, nếu
điều gì đó sai do dụng cụ thí nghiệm, chúng ta không để ý đến nó. Nhưng
những điều này dễ xác định, kiểm tra đi, kiểm tra lại, đến khi không còn một lỗi
nhỏ, vậy làm sao kết quả thí nghiệm có thể sai được? Chỉ vì sự thiếu chính xác
6


của dụng cụ đo. Đảm bảo sự quan sát được của các đại lượng biến đổi trong khi
tiến hành thí nghiệm. Giáo viên có thể làm lại thí nghiệm nhiều lần và đảm bảo
kết quả thu tương đối giống nhau. Nếu không chuẩn bị kĩ như vậy, thí nghiệm
trên lớp phải làm đi làm lại nhiều lần, nếu thất bại sẽ phá vỡ tiến trình bài học
gây tâm lí hoang mang, thất vọng đối với học sinh và quan trọng hơn là làm cho
học sinh mất đi niềm tin khoa học.
Điều không thể thiếu được là giáo viên phải chuẩn bị hệ thống câu hỏi
hướng dẫn học sinh quan sát hiện tượng, phân tích kết quả thí nghiệm vận dụng
các kiến thức có liên quan để đi đến tri thức mới một cách logic.
Khi soạn bài, giáo án của giáo viên phải phân chia thành các hoạt động cụ
thể, phù hợp với từng phần kiến thức tương ứng với sách giáo khoa và thí
nghiệm phục vụ cho hoạt động đó, cho phần kiến thức đó. Cần nêu rõ được thí
nghiệm nào do giáo viên tiến hành, thí nghiệm nào do nhóm học sinh làm, giáo
viên cũng định hình được thời gian làm cho thí nghiệm đó...nhằm đạt được yêu
cầu hình thành kiến thức, phát huy tính độc lập của học sinh và đáp ứng các yêu
cầu của giờ lên lớp với chất lượng cao. Trong mỗi phần thí nghiệm của học
sinh, giáo viên cần nêu rõ những chú ý trong khi làm thí nghiệm, đó là những
kinh nghiệm, những yêu cầu kĩ thuật hay những sáng tạo của giáo viên để đảm

bảo cho thí nghiệm thành công. Nhưng dù cho thí nghiệm do giáo viên hay do
học sinh tiến hành cũng đều phải tuân thủ các bước và những quy định trong
phương pháp dạy học đặc thù của bộ môn, đảm bảo tính khoa học, chính xác, an
toàn.
2. Tổ chức hoạt động thí nghiệm của học sinh trên lớp.
Trong khuôn khổ chuyên đề này tôi chỉ nhấn mạnh vào việc hướng dẫn
học sinh thực hiện một cách có hiệu quả các thí nghiệm trong giờ học Vật lí
nhằm nâng cao chất lượng dạy - học bộ môn. Để giúp học sinh sử dụng thiết bị
thí nghiệm có hiệu quả cần theo các bước sau:
Bước 1: Đặt vấn đề nghiên cứu (Thu thập thông tin)
Đây là một bước mà mỗi giáo viên đều thực hiện khi tiến hành một bài
giảng hoặc chuẩn bị đi vào nghiên cứu một vấn đề cụ thể. Nó có tác dụng làm
nảy sinh vấn đề nghiên cứu, xuất hiện nhu cầu phải tiến hành thí nghiệm, nó
cũng có tác dụng kích thích tính tò mò, óc sáng tạo và và hứng thú trong học tập
7


của của học sinh. Để đạt được điều đó, giáo viên cần nêu được các hiện tượng
có liên quan, các câu hỏi có tính chất đặt ra vấn đề cần nghiên cứu.
Cũng có thể giáo viên đưa ra một tình huống, hoặc một thí nghiệm nhỏ để
học sinh quan sát trong thời gian ngắn nhằm tích cực hóa nhận thức của học
sinh, công việc thí nghiệm phải được tiến hành đồng thời với cả lớp và những
chỉ dẫn của giáo viên trong tiến trình thí nghiệm là cần thiết. Hoặc có thể mô tả
một hiện tượng xảy ra và học sinh trả lời câu hỏi tổ chức tình huống của giáo
viên. Câu trả lời của học sinh có thể đúng hoặc sai, điều này tùy thuộc vào vốn
kinh nghiệm của học sinh, cách đặt câu hỏi của giáo viên sao cho vừa sức với
học sinh. Quan trọng là giáo viên phải khéo léo dẫn dắt được học sinh đi đúng
hướng để có câu trả lời đúng ý định.
Bước 2: Yêu cầu học sinh đề xuất phương án thí nghiệm để kiểm tra dự
đoán.

Giáo viên yêu cầu học sinh đưa ra phương án thí nghiệm.
Các phương án học sinh đưa ra có thể giống trong sách giáo khoa nhưng
cũng có thể học sinh đưa ra phương án mà với những điều kiện thiết bị đã chuẩn
bị không thể thực hiện được. Giáo viên nên tôn trọng các ý kiến đó và có những
đánh giá nhất định. Những phương án đi đúng hướng sẽ được sử dụng.
Trong trường hợp học sinh không đưa ra được phương án thí nghiệm,
hoặc cũng có thí nghiệm với trình độ nhận thức của học sinh sẽ khó đưa ra được
phương án thí nghiệm, giáo viên có thể gợi ý hoặc đưa ra thí nghiệm và cho học
sinh làm.
Bước 3: Học sinh làm thí nghiệm.
Phương pháp thực hành là hình thành và rèn luyện cho học sinh một số kĩ
năng lao động tới một trình độ nào đó, việc học là rất quan trọng, một kĩ năng
thực hành được xác định bởi những tiêu chuẩn sau:
+ Là đơn vị của một công việc hoàn chỉnh.
+ Có qui trình riêng và được hoàn thành trong một thời gian nhất định.
+ Có điểm khởi đầu và điểm kết thúc rõ ràng.
+ Có thể quan sát, đo đếm và đánh giá được.
Vì vậy bước này học sinh phải tuân thủ theo qui trình thực hành thí nghiệm:
8


a/ Giới thiệu sơ đồ thí nghiệm:
Giáo viên hướng dẫn học sinh tiến hành thí nghiệm theo sơ đồ thí nghiệm
có trong sách giáo khoa hoặc có cải tiến theo từng bài, theo dụng cụ thí nghiệm.
Ví dụ: Trong bài 5: "Sự cân bằng lực - quán tính" (Vật lí 8)
Sách giáo khoa đưa ra phương án thí nghiệm kiểm tra dự đoán tác dụng
của hai lực cân bằng lên một vật đang chuyển động là: Đo quãng đường của quả
cân A chuyển động sau mỗi khoảng thời gian 2 giây và tính vận tốc của A.
Nhưng phương án này là không khả thi với dụng cụ đo là máy A-tút. Vì vậy nên
đưa ra cho học sinh phương án làm thí nghiệm như sau: Đo thời gian đi được

của quả cân A sau mỗi quãng đường là: 10cm, 20cm, 30cm và yêu cầu học sinh
tính vận tốc.
b/ Giới thiệu các dụng cụ có trong thí nghiệm.
Với sự chuẩn bị của giáo viên về dụng cụ thí nghiệm, giáo viên phải lần
lượt giới thiệu tên từng dụng cụ thí nghiệm tương ứng có trong sơ đồ thí
nghiệm. Với các thiết bị mà học sinh đã biết thì giới thiệu nhanh, nếu dụng cụ
học sinh mới gặp lần đầu thì phải giới thiệu tỉ mỉ về cách sử dụng, tính năng,
cách mắc...
Nhưng trong vật lí cũng có những dụng cụ đã lắp ráp thành bộ rất chắc
chắn, không đòi hỏi học sinh phải lắp ráp, giáo viên chỉ cần giới thiệu bộ dụng
cụ thí nghiệm đó, tính năng và cách sử dụng chúng. Ví dụ: Bộ thí nghiệm khảo
sát chuyển động đều - chuyển động không đều trên máng nghiêng hai đoạn, bộ
thí nghiệm khảo sát tính dẫn nhiệt của các chất rắn khác nhau (đồng, sắt, thủy
tinh) (Vật lí 8), máy ảnh, bộ thí nghiệm trộn các ánh sáng màu (Vật lí 9)...
Giáo viên cần chú ý học sinh cách sử dụng các dụng cụ cho an toàn như
nước nóng, đèn cồn, ánh sáng đèn Laze...
c/ Lắp ráp dụng cụ thí nghiệm theo sơ đồ.
Giáo viên hướng dẫn học sinh mắc đúng, nhanh nhẹn. Với những nhóm
học sinh yếu hoặc những dụng cụ thí nghiệm khó lắp ráp, giáo viên cần hướng
dẫn cụ thể từng bước hoặc có thể làm mẫu để học sinh làm theo.
d/ Tiến hành thí nghiệm.

9


Cho học sinh làm thí nghiệm theo các bước đã có trong qui trình của bài.
Với những thao tác kĩ năng mới, giáo viên có thể làm mẫu cho học sinh quan
sát. Trong quá trình làm mẫu cần chú ý:
+ Nói cho học sinh biết chính xác thao tác làm mẫu.
+ Liên hệ thao tác đó với những công việc trước đây.

+ Làm mẫu chuẩn xác để học sinh làm theo.
+ Dừng lại ở chỗ chủ chốt, nên hỏi học sinh đã nắm vững thao tác hay
chưa?
Sau khi học sinh đã nắm vững qui trình, giáo viên cho học sinh nêu được
mục đích thí nghiệm và cho nhóm học sinh làm thực hành. Trong khi thực hành,
giáo viên thường xuyên uốn nắn những sai sót. Nếu phát hiện học sinh có nhiều
sai sót mà nhiều học sinh mắc phải, giáo viên cần ngừng công việc cả lớp và
hướng dẫn lại.
Trong khi làm thí nghiệm, nhắc nhở nhóm học sinh phải quan sát, ghi
chép kết quả liên tục đảm bảo tính chính xác, trung thực vào phiếu học tập hoặc
bảng phụ của nhóm.
e/ Phân tích kết quả thí nghiệm:
Sau khi có kết quả thí nghiệm, giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích,
xử lí kết quả thí nghiệm, rút ra kết luận.
Kết quả giữa các nhóm có thể có sự chênh lệch ở mức độ cho phép nhưng
giáo viên phải hướng dẫn học sinh tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sai số và có
kết luận chính xác.
 Ngoài ra trong chương trình Vật lí THCS có những thí nghiệm mà trong bộ
dụng cụ thí nghiệm không có. Có thí nghiệm học sinh khó tiến hành, ví dụ bộ
thí nghiệm bài "Lực điện từ" làm rất khó thành công. Hoặc có thí nghiệm
chất lượng không cao như: Thí nghiệm trộn các ánh sáng màu, bộ các tấm lọc
màu không đủ tiêu chuẩn nên màu trộn được không như mong muốn. Nhất là
trộn ba ánh sáng màu với nhau để được ánh sáng trắng thì không được màu
trắng mà gần như vàng. Thí nghiệm dùng nam châm điện để tạo ra dòng điện
không có như trong SGK...

10


Để tạo được niềm tin khoa học, sức thuyết phục và hứng thú học tập với

học sinh, có thể sử dụng ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy. Ví dụ
phần mềm thí nghiệm Vật lí Crocodile Physics, violet, PowerPoint. Tôi đã sử
dụng một số thí nghiệm ảo bằng PowerPoint. Ví dụ:
Thí nghiệm sự phân tích ánh sáng trắng:

Thí nghiệm về điều kiện xuất hiện dòng điện cảm ứng:

11


PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN.
1. Hiệu quả sử dụng đề tài:
Thiết bị dạy học thực sự đóng vai trò rất quan trọng, quyết định đến hiệu quả
của bài học, môn học. Thiết bị không chỉ dùng cho giáo viên mà còn phải cung
cấp tới học sinh để các em rèn luyện kĩ năng. Như vậy giáo viên phải tăng
cường và sử dụng tốt các thiết bị dạy học để học sinh tăng cường thực hành và
từ đó nắm vững lí thuyết, rèn kĩ năng công nghệ. Thông qua kết quả đạt được
giáo dục học sinh sự yêu thích môn học, hình thành tác phong làm việc khoa
học đồng thời cũng giáo dục học sinh đức tính cẩn thận , tỉ mỉ, kiên trì, chính
xác trong công việc.
Khi áp dụng đề tài vào giảng dạy, thực tế thấy chất lượng được tăng lên
đáng kể.
Kết quả qua áp dụng đề tài vào giảng dạy:
Tổng số học
sinh
Khối TSHS
8

138


Kết quả xếp loại
Giỏi

Khá

Trung bình

SL

%

SL

%

SL

19

13,8%

37

26,8%

70

12

%


Yếu
SL

%

50,7% 12 8,7%


9

110

19

17,3%

30

27,2%

53

48,2%

8

7,3%

Học sinh bước đầu được làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học.

So với khi chưa áp dụng chuyên đề thì tỉ lệ học sinh tiếp thu và hiểu bài ngay tại
lớp tăng lên rõ rệt, tỉ lệ khá giỏi tăng, giảm tỉ lệ học sinh trung bình, yếu. Điều
đáng kể hơn là tính năng động và khả năng tự lập của học sinh thể hiện khá rõ
rệt. Quan hệ thầy trò trở nên gần gũi, xoá bỏ được rào cản giữa giáo viên và học
sinh, bài học gây được hứng thú nên học sinh yêu thích môn học, tự lực giải
quyết được vấn đề, tự khám phá và lĩnh hội kiến thức mới. Khi giảng dạy thấy
học sinh nhớ bài nhanh, nhớ lâu, nắm chắc kiến thức nên chất lượng giảng dạy
cao.
Giáo viên nâng cao được trình độ chuyên môn nghiệp vụ hình thành dần
kinh nghiệm giảng dạy sau mỗi bài.
2. Bài học kinh nghiệm:
Qua việc áp dụng đề tài vào giảng dạy tại trường THCS Tích Sơn, bản
thân tôi đã rút ra được bài học sau:
Việc đổi mới phương pháp giảng dạy là vấn đề cấp bách góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục. Tuy nhiên cũng giống như các hoạt động khác trong
nhà trường nhân tố quyết định vẫn là đội ngũ giáo viên. Theo tôi người thầy
phải có nhận thức đúng, yêu nghề, phải chuẩn bị tốt nội dung bài dạy, chuẩn bị
mọi điều kiện cần thiết cho thí nghiệm. Xây dựng được phương án tiến hành thí
nghiệm, chuẩn bị tốt hệ thống câu hỏi từ dễ đến khó cho phù hợp với từng đối
tượng học sinh.
Học sinh phải chuẩn bị tốt kiến thức có liên quan (kiến thức xuất phát) và
nắm chắc tiến trình thí nghiệm.
3. Lời kết:
Trong dạy và học vật lí có nhiều phương pháp khác nhau được áp dụng
cụ thể cho từng bài dạy. Tuy nhiên việc sử dụng thiết bị thí nghiệm trong giờ
học là không thể thiếu, nhất là theo chương trình hiện nay.
Trên đây là một trong những cách tổ chức tiến trình sử dụng đồ dùng thí
nghiệm trong giảng dạy Vật lí THCS. Tôi đã và đang thực hiện theo SKKN này.
13



Thực tế cho thấy học sinh hứng thú học tập hơn, hiệu quả giờ học tăng nhiều.
Tuy nhiên không tránh khỏi những khó khăn trong khi thực hiện tổ chức mỗi
giờ dạy. Vì vậy trong phạm vi chuyên đề này, tôi mạnh dạn đưa ra ý kiến trao
đổi với các đồng nghiệp, kinh nghiệm còn ít, hơn nữa việc sử dụng thiết bị lại
khó. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp để việc áp dụng
chuyên đề vào thực tiễn được hiệu quả hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy SGK Vật lí 9.
2. Phương pháp dạy Vật lí phổ thông - Khoa sư phạm ĐHQG Hà Nội.
3. SGK, SGV Vật lí 6,7,8,9.
4. Những bài tập hay về thí nghiệm Vật lí - V.Langue.
5. Đổi mới phương pháp dạy học - Trần Kiều.
6. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho GV THCS chu kì III môn Vật lí Nhà xuất bản giáo dục.

14


Xét duyệt của hội đồng SKKN nhà trường

15


P DNG TI VO BI DY:

Tiết 16 - Bài 14:


định luật về công


I/ Mục tiêu:
1/ KT: - Phát biểu đợc định luật về công dới dạng: Lợi bao nhiêu lần về lực thì
thiệt bấy nhiêu lần về đờng đi và ngợc lại.
- Vận dụng định luật để giải các bài tập về mặt phẳng nghiêng, ròng rọc
động.
2/ KN: - Làm TN nghiên cứu để đi đến định luật về công.
- Chính xác trong thao tác TN.
3/ TĐ: - Nghiêm túc, trung thực, hợp tác trong TN và học tập bộ môn.
II/ Chuẩn bị:

* Mỗi nhóm HS:
+ 1 lực kế 5N,1 ròng rọc động, 1 quả nặng 200g.
+ 1 sợi dây mảnh không giãn, 1 thớc thẳng, giá TN
* GV: Phiếu học tập của nhóm (Bảng 14.1/SGK)
+ Máy tính, máy chiếu.

III/ Tổ chức hoạt động học tập của học sinh:
1/ Tổ chức: Sĩ số:
trợ giúp của GV

hoạt động của hs
16


2. Kiểm tra bài cũ: 1 HS:



Công cơ học phụ thuộc vào những
yếu tố nào? Nêu công thức tính công - Cá nhân hS trả lời.
và đơn vị của các đại lợng có mặt
- Lớp nhận xét. GV nhận xét, ghi điểm.
trong công thức?
3. Bài mới:
TCTH:

- HS trả lời cá nhân:

ở lớp 6 ta đã đợc học những máy cơ + Đòn bẩy, mặt phẳng nghiêng, ròng
rọc.
đơn giản nào?
Dùng máy cơ đơn giản có thuận lợi
gì?
+ Dùng máy cơ đơn giản một cách
Vậy dùng máy cơ đơn giản đợc lợi thích hợp có thể đợc lợi về lực.
về lực nhng liệu có đợc lời về công - HS dự đoán.
không?
I/ thí nghiệm.
HĐ1: Làm TN nghiên cứu để đi đến
-HS thảo luận nhóm, đa ra phơng án.
định luật về công. (15 phút)
Cho HS đa ra phơng án TN để kiểm - HS nêu dụng cụ TN cần sử dụng:
tra dự đoán.
+ 1 lực kế, 1 ròng rọc động, 1 quả
nặng
200g, 1 sợi dây mảnh không giãn,
TN cần những dụng cụ gì?
1 thớc thẳng, giá TN

- HS nêu các bớc tiến hành TN:



Nêu các bớc tiến hành TN?

+TH1: Dùng lực kế kéo quả nặng G
theo phơng thẳng đứng lên một đoạn
S1. Đọc số chỉ của lực kế F 1 và độ dài
S1 ghi vào bảng KQTN.

+ TH2: Dùng ròng rọc động kéo quả
nặng G lên cũng một đoạn S1. Đọc số
17




chỉ F2 của lực kế và quãng đờng đi đợc
của lực kế S2 ghi vào bảngKQTN.

GV giao dụng cụ cho các nhóm.
Nêu mục đích TN?




Cho nhóm HS làm TN, ghi KQ vào
phiếu.
Lu ý:

+ Hiệu chỉnh lực kế để kim chỉ thị chỉ
số 0, đọc số chỉ lực kế phải đặt mắt
đúng.
+ Bố trí thớc thẳng đứng. Đo quãng đờng S1, S2 phải dùng thớc
+ B3: Tính KQTN vào bảng.
+ Khi dùng ròng rọc động thì hai phần
của sợi dây phải luôn song song nhau
và nằm trong cùng mặt phẳng thẳng
đứng.

- Nhóm HS làm TN, ghi KQ.

1
F1
2
S2 = 2 S1.

C1: F2 =

+ Kéo quả nặng lên phải kéo từ từ sao
cho số chỉ của lực kế không đổi
C2:

C3: A1 = A2.
C4: Kết luận: Dùng ròng rọc động đ Yêu cầu HS thảo luận, trả lời câu ợc lợi hai lần về lực thì lại thiệt hai lần
hỏi SGK.
về đờng đi nghĩa là không đợc lợi gì về
công.
II/ định luật về công.
- Cho cá nhân HS trả lời C4/SGK.

- Nội dung : SGK.
- 2 HS đọc.
Cho HS đọc nội dung định luật.
GV chốt:

III/ Vận dụng:

+ Không máy cơ đơn giản nào lợi về
C5: - HS thảo luận nhóm, trả lời:
công.
a/ Trờng hợp 1 lực kéo nhỏ hơn hai
+ Lợi bao nhiêu lần về lực thì thiệt bấy
lần.
nhiêu lần về đờng đi và ngợc lại.
b/ Không có trờng hợp nào tốn công
HĐ2: Vận dụng định luật về công.
nhiều hơn. Công thực hiện trong hai tr18




ờng hợp nh nhau.

Cho nhóm HS thảo luận C5.

c/ Công của lực kéo thùng hàng theo
mặt phẳng nghêng lên ôtô cũng đúng
bằng công của lực kéo trực tiếp thùng
hàng theo phơng thẳng đứng lên ôtô.
A = P. h = 500 . 1 = 500 J.



Cho lớp thảo luận chung, thống C6:
nhất.

- Cá nhân HS làm, thảo luận:
Tóm tắt:
P = 420N; l = 8m;

a/ F = ?


Cho HS đọc và tóm tắt C6.



Cho 1 HS làm trên bảng lớp.



b/ A = ?
Giải:

a/ Lực kéo vật lên bằng ròng rọc động:

P 420
= 210 N .
Cho lớp thảo luận chung, thống F = =
2
2

nhất.
Khi dây kéo dịch chuyển l = 8m, vật
lên cao đợc h = 8 : 2 = 4m.
b/ Công nâng vật lên:
A = p. h = 420. 4 = 1680 (J)

- Cá nhân HS trả lời:
D.
4. Củng cố
Câu1: Câu nào sau đây nói về tính chất của
máy cơ đơn giản là đúng ?
A. Đợc lợi bao lần về lực thì lợi
bấy nhiêu lần về đờng đi.
B. Đợc lợi bao nhiêu lần về lực thì đợc
lợi bấy nhiêu lần về công.
C. Đợc lợi bao nhiêu lần về lực thì
thiệt bấy nhiêu lần về công.
D. Đợc lợi bao nhiêu lần về lực thì
thiệt bấy nhiêu lần về đờng đi.

Cho HS nhắc lại định luật về
công.
19


5. HDVN:
+ Häc bµi.
+ Lµm bµi tËp vÒ nhµ: SBT.
+ ChuÈn bÞ bµi sau: ¤n tËp.


20



×