Tải bản đầy đủ (.pdf) (391 trang)

Đề tài Kiện toàn mô hình tổ chức và đội ngũ cán bộ thi hành án để thực hiện có hiệu quả luật thi hành án dân sự năm 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.36 MB, 391 trang )


BỘ TƯ PHÁP
TỔNG CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
*******




ĐỀ ÁN KHOA HỌC NĂM 2009




ĐỀ ÁN KIỆN TOÀN MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ THI HÀNH ÁN ĐỂ THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ
LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ NĂM 2008




Chủ nhiệm Đề án: PGS.TS. Nguyễn Văn Luyện
Thư ký Đề án : T.S Nguyễn Quan
g
Thái












8219


Hà Nội, Tháng 11/2010



2
Danh sách Nhóm nghiên cứu Đề án

Đề án kiện toàn mô hình tổ chức và đội ngũ cán bộ thi hành án để
thực hiện có hiệu quả Luật THADS năm 2008



CHỦ NHIỆM:

PGS.TS. Nguyễn Văn Luyện
Tổng cục trưởng Tổng cục THADS - Bộ Tư
pháp
THƯ KÝ:
1. TS. Nguyễn Quang Thái - Vụ trưởng Vụ Tổ
chức cán bộ - Tổng cục THADS - Bộ Tư pháp.
CỘNG TÁC VIÊN:

1. T.S Trần Văn Quảng - Vụ trưởng Vụ Tổ chức

cán bộ, Bộ Tư pháp.
2. Th.s Nguyễn Quốc Long - Phó vụ trưởng Vụ
Công chức, viên chức - Bộ Nội vụ.
3. Th.s Nguyễn Văn Lượng - Phó vụ trưởng Vụ Tổ
chức biên chế - Bộ Nội vụ.
4. T.S Nguyễn Thanh Thủy - Phó tổng cục trưởng
Tổng cục THADS, Bộ Tư pháp.
5. CN. Trần Minh Phượng - Phó vụ trưởng V
ụ Tổ
chức cán bộ, Tổng cục THADS, Bộ Tư pháp.
6. Th.s Đào Thị Hoài Thu - Chuyên viên chính, Vụ
Tổ chức cán bộ, Tổng cục THADS, Bộ Tư pháp.
7. CN. Lê Dương Hưng - Chuyên viên chính, Vụ
Tổ chức cán bộ, Tổng cục THADS, Bộ Tư pháp.
8. CN. Trần Phương Hồng - Chuyên viên Vụ Tổ
chức cán bộ, Tổng cục THADS, Bộ Tư pháp.
9. CN. Mai Phương Hoa - Chuyên viên Vụ Tổ chức
cán bộ, Tổng cục THADS, B
ộ Tư pháp.
10. Th.s Nguyễn Văn Nghĩa - Chuyên viên Vụ Tổ
chức cán bộ, Tổng cục THADS, Bộ Tư pháp.




3
MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

6
Phần I. BÁO CÁO PHÚC TRÌNH 13
Chương I:
THỰC TRẠNG MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC TRIỂN KHAI
LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ NĂM 2008

14
I. SƠ LƯỢC VỀ TỔ CHỨC CÁN BỘ NGÀNH THI HÀNH ÁN DÂN
SỰ TRƯỚC KHI BAN HÀNH LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
14
1. Về tổ chức bộ máy, cơ chế quản lý THADS
14
2. Về cán bộ, công chức THADS
20
II. NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN VÀ THÁCH THỨC ĐẶT RA
VỀ TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ KHI TRIỂN KHAI LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

22
1. Những thuận lợi
22
2. Khó khăn, thách thức
34
Chương II:
PHƯƠNG HƯỚNG TRIỂN KHAI THỰC HIỆN
40
I. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM KIỆN TOÀN TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỂ THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ LUẬT THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ

40
1. Mục tiêu
40
2. Quan điểm
40
II. PHƯƠNG HƯỚNG KIỆN TOÀN TỔ CHỨC, CÁN BỘ NGÀNH
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỂ THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ LUẬT THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ
46
1. Kiện toàn mô hình tổ chức ngành THADS
46

4
2. Về kiện toàn đội ngũ cán bộ ngành THADS
71
Chương III:
GIẢI PHÁP THỰC HIỆN

95
I. HOÀN THIỆN THỂ CHẾ TỔ CHỨC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

95
1. Giai đoạn 2009 - 2011:
95
2. Giai đoạn 2011- 2015
103
II. GIẢI PHÁP VỀ KIỆN TOÀN ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC, CÔNG
CHỨC LÃNH ĐẠO CỦA HỆ THỐNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
NHẰM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU, NHIỆM VỤ ĐƯỢC GIAO
105

1. Giai đoạn 2009 - 2010
105
2. Giai đoạn 2011 - 2015
107
KẾT LUẬN
115


Phần II
HỆ CHUYÊN ĐỀ CỦA ĐỀ ÁN

118
Phần III
DANH MỤC CÁC SẢN PHẨM TRUNG GIAN MÀ ĐỀ ÁN ĐÃ
XÂY DỰNG, THAM GIA GÓP Ý ĐỂ BAN HÀNH

279


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
388

5

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

1. THA Thi hành án
2. THADS THADS
3. TA Tòa án
4. XHCN Xã hội chủ nghĩa

5. CQTHA Cơ quan thi hành án
6. CQTHADS Cơ quan THADS
7. CHV CHV
8. BA, QĐ Bản án, quyết định
9. TAND Tòa án nhân dân
10. PL Pháp luật
11. CQQLNN Cơ quan quản lý nhà nước
12. VKSND Viện kiểm sát nhân dân
13. CBCC Cán bộ công chức
14. CCHC Cải cách hành chính


6
MỞ ĐẦU


I. Tính cấp thiết
Luật THADS được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 11 năm 2008, có
hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2009 là cơ sở pháp lý quan trọng để
tạo chuyển biến cơ bản trong công tác THADS, khắc phục tình trạng tồn đọng
án kéo dài, nâng cao hiệu quả hoạt động THADS, góp phần giữ vững kỷ
cương phép nước và tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ tốt hơn quyền và
lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và cá nhân. Một trong nhữ
ng vấn đề
quan trọng được Luật THADS đề cập đến đó là vấn đề tổ chức bộ máy và
công chức THADS. Tuy nhiên, do xác định mô hình tổ chức cơ quan THADS
liên quan chặt chẽ đến trách nhiệm quản lý nhà nước của Chính phủ, hơn nữa,
để đảm bảo tính linh hoạt trong công tác quản lý nhằm nâng cao hiệu lực,
hiệu quả trong tổ chức, chỉ đạo công tác THADS thì mô hình tổ chức, nhiệm
vụ, quyề

n hạn của cơ quan quản lý; tên gọi, cơ cấu, tổ chức cụ thể của cơ
quan THADS do Chính phủ quy định. Qua nghiên cứu cho thấy, Luật
THADS có 09 điều liên quan đến cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS
và công chức làm công tác THADS giao cho Chính phủ quy định chi tiết, bao
gồm: nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý THADS; tên gọi, cơ cấu, tổ
chức cụ thể của cơ quan THADS (khoản 3 Đi
ều 13 Luật THADS); trình tự,
thủ tục thi tuyển, bổ nhiệm CHV (Điều 17); các trường hợp đặc biệt áp dụng
cho người có thời gian làm công tác pháp luật từ 10 năm trở lên có thể được
bổ nhiệm CHV trung cấp hoặc có thời gian làm công tác pháp luật từ 15 năm
trở lên có thể được bổ nhiệm CHV cao cấp (Điều 18); trình tự, thủ tục miễn
nhiệm CHV (Điều 19); sử dụng công c
ụ hỗ trợ trong khi thi hành công vụ
(khoản 9 Điều 20); tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm Thủ
trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS và cơ quan thi hành án trong quân
đội (Điều 22); cấp trang phục, phù hiệu, tiền lương, chế độ phụ cấp nghề
nghiệp và chế độ ưu đãi khác đối với CHV, Thẩm tra viên và công chức khác
làm công tác THADS (Điều 26); quản lý nhà nước về công tác THADS và

7
thực hiện quản lý chuyên ngành về THADS của Cơ quan quản lý THADS
thuộc Bộ Tư pháp (khoản 2 Điều 167); việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của Cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng (Khoản 3 Điều 168).
Ngoài ra, Điều 183 Luật THADS còn giao cho Chính phủ, trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình hướng dẫn thi hành những nội dung cần thiết
khác của Luậ
t để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước.
Bên cạnh đó, để phù hợp với điều kiện cụ thể về nguồn công chức làm
công tác thi hành án tại các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa trong giai
đoạn hiện nay, điểm 3 Nghị quyết số 24/2008/QH12 của Quốc hội về thi hành

Luật THADS giao Chính phủ quy định những cơ quan THADS cụ thể ở các
địa bàn nêu trên được tuyển chọn người có trình độ c
ử nhân luật làm CHV
không qua thi tuyển trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày Luật THADS có hiệu
lực thi hành.
Để các quy định của Luật THADS phát huy hiệu quả, đòi hỏi phải thực
hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó giải pháp quan trọng là hoàn thiện thể
chế để tiếp tục kiện toàn bộ máy tổ chức, cán bộ của cơ quan quản lý
THADS, cơ quan THADS. Đây là vấn đề
đã được đặt ra từ năm 1993, khi
chuyển giao công tác THADS từ Toà án nhân dân tối cao sang cho Chính phủ
và qua 16 năm thực hiện, đến nay đã có đủ điều kiện để xác định rõ mô hình
tổ chức cơ quan THADS. Kết quả tổng kết thi hành Pháp lệnh THADS năm
2004 đã chỉ ra rằng, một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho công tác
THADS còn nhiều hạn chế, bất cập là do mô hình tổ chức cơ quan thi hành án
chưa ngang tầm với chứ
c năng, nhiệm vụ, tính chất công việc được giao. Vị
trí, mối quan hệ của hệ thống cơ quan THADS chưa rõ ràng, nhất là cơ quan
THADS cấp tỉnh và cơ quan THADS cấp huyện.
Tất cả những vấn đề nêu trên là những vấn đề quan trọng, phức tạp,
một số vấn đề còn mới ở Việt Nam, nhiều nội dung được giao cho Chính phủ
và các cơ quan có liên quan ban hành các văn bản hướng d
ẫn thực hiện. Vì

8
vậy, có nhiều vấn đề phải chờ văn bản hướng dẫn mới có cơ sở để triển khai
thực hiện.
Trong khi đó, theo Kế hoạch triển khai thực hiện Luật THADS và Nghị
quyết của Quốc hội về việc thi hành Luật này, ban hành kèm theo Quyết định
số 2425/QĐ-BTP ngày 29/12/2008 của Bộ Tư pháp thì trong năm 2009 phải

xây dựng 03 Nghị định, 01 Quyết định củ
a Thủ tướng Chính phủ và 07 Thông
tư liên tịch để thực hiện Luật THADS. Đây là những yêu cầu cấp bách về thể
chế THADS đặt ra trong năm 2009, đòi hỏi phải có sự nỗ lực cao của các cấp,
bộ ngành ở Trung ương và địa phương đặc biệt vai trò tham mưu, chủ trì, phối
hợp của Tổng cục THADS.
Từ tất cả những vấn đề nêu trên cho thấy, sự
cần thiết phải khẩn trương
thực hiện Đề án kiện toàn mô hình tổ chức và đội ngũ cán bộ thi hành án
để thực hiện có hiệu quả Luật THADS năm 2008.
II. Mục tiêu Đề án
1. Xây dựng được những luận cứ khoa học, tạo tiền đề cần thiết cho
việc kiện toàn hệ thống tổ chức THADS để thực thi có hiệu quả Luật
THADS.
2. Xây dựng đượ
c những luận cứ khoa học, tạo tiền đề cần thiết cho
việc kiện toàn đội ngũ cán bộ THADS để thực thi có hiệu quả Luật THADS
năm 2008.
3. Tổ chức triển khai kịp thời các quy định của Luật THADS.
III. Quan điểm chỉ đạo
Đề án được xây dựng theo những quan điểm chỉ đạo sau đây:
1. Quán triệt và triển khai đầy đủ các nghị quyết củ
a Đảng, như:
- Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về quản lý cán bộ,
công chức, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân;

9
- Chỉ thị số 53/CT-TW ngày 21/3/2000 của Bộ Chính trị về một số

công việc cấp bách của các cơ quan Tư pháp cần thực hiện trong năm 2000 và
Nghị quyết quốc hội khoá X kỳ họp thứ 8 về nhiệm vụ năm 2001 đã chỉ ra 2
nhóm biện pháp chủ yếu: tăng cường đội ngũ cán bộ công chức làm việc
trong các cơ quan tư pháp; bảo đảm kinh phí và cơ sở v
ật chất để các cơ quan
bảo vệ pháp luật hoàn thành nhiệm vụ.
- Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020: "Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế
định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều
kiện, phương tiện làm việc; trong đó, xác định Toà án có vị
trí trung tâm và
xét xử là hoạt động trọng tâm; “từng bước thực hiện việc xã hội hoá và quy
định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà
nước thực hiện một số công việc thi hành án”; "nghiên cứu chế định thừa phát
lại (thừa hành viên); trước mắt, có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương,
sau vài năm, trên cơ sở tổng k
ết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo”;
"Có chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp với lao động của cán
bộ tư pháp ";
2. Tiếp tục thực hiện chủ trương cải cách hành chính, cải cách tư pháp,
từng bước xã hội hoá hoạt động thi hành án, phù hợp với tình hình kinh tế - xã
hội của đất nước, đồng thời bảo đảm sự quản lý tập trung, thống nh
ất của Nhà
nước đối với hoạt động THADS. Phù hợp với các điều ước quốc tế mà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
IV. Nội dung chủ yếu của Đề án
1. Nội dung nghiên cứu:
Để thực hiện được các mục tiêu đề ra, Đề án sẽ tập trung nghiên cứu
một số nội dung cơ bản sau đây:
a) Về mô hình tổ chức và quản lý THADS


10
- Luận giải các cơ sở khoa học để quy định về mô hình tổ chức, tên gọi,
cơ cấu tổ chức bên trong của cơ quan quản lý THADS và cơ quan THADS.
- Luận giải các cơ sở khoa học để quy định quản lý Nhà nước về công
tác THADS tại địa phương.
- Làm rõ các cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn cho việc quy định phân
cấp quản lý cán bộ các cơ quan THADS trong tình hình mới.
b) V
ề cán bộ công chức làm công tác THADS
- Nội dung, hình thức và một số vấn đề đặt ra đối với việc thi tuyển vào
ngạch CHV theo tinh thần của Luật THADS.
- Luận giải cơ sở để xác định cơ cấu, số lượng, điều kiện chuyển đổi từ
ngạch CHV cấp huyện, cấp tỉnh sang ngạch CHV sơ cấp, trung cấp, cao cấp;
- Nghiên cứu, đề xuất các tiêu chí để xác
định các đơn vị thực hiện
tuyển chọn CHV không qua thi tuyển theo tinh thần Nghị quyết của Quốc hội
về thi hành Luật THADS.
2. Các chuyên đề nghiên cứu:
Để thực hiện được các mục tiêu, nội dung nghiên cứu, Đề án tập trung
nghiên cứu một số chuyên đề cơ bản sau đây:
- Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý
THADS, cơ quan THADS theo quy định mới củ
a Luật THADS năm 2008.
- Thuận lợi và thách thức đặt ra đối với việc hoàn thiện mô hình tổ
chức, cán bộ của hệ thống cơ quan THADS theo tinh thần Luật THADS.
- Cơ sở lý luận và thực tiễn để xác định mô hình tổ chức của cơ quan
quản lý THADS, cơ quan THADS theo quy định mới của Luật THADS 2008.
- Thực trạng và giải pháp để thực hiện có hiệu quả công tác quản lý
THADS tạ

i địa phương theo tinh thần Luật THADS.
- Cơ sở lý luận và thực tiễn để xác định cơ cấu, tổ chức các đơn vị
chuyên môn thuộc cơ quan THADS cấp tỉnh trong tình hình mới.

11
- Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc quy định phân cấp quản lý cán bộ
các cơ quan THADS trong tình hình mới.
- Nội dung, hình thức và một số vấn đề đặt ra đối với việc thi tuyển vào
ngạch CHV theo tinh thần của Luật THADS.
- Cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến cơ cấu, số lượng, điều kiện
chuyển đổi từ ngạch CHV cấp huy
ện, cấp tỉnh sang ngạch CHV sơ cấp, trung
cấp, cao cấp.
- Những cơ sở khoa học để xác định các đơn vị thực hiện tuyển chọn
CHV không qua thi tuyển theo tinh thần Nghị quyết của Quốc hội về thi hành
Luật THADS.
- Kinh nghiệm liên quan đến việc tổ chức thi tuyển, thi nâng ngạch
công chức ở trong nước và quốc tế có thể vận dụng vào việc thi tuyển vào
ng
ạch CHV theo quy định của Luật THADS.
V. Quá trình thực hiện Đề án
Quá trình thực hiện Đề án gắn với tiến độ xây dựng, sửa đổi, bổ sung
các văn bản có liên quan hướng dẫn thực hiện Luật THADS, Nghị định số
74/2009/NĐ-CP; quá trình kiện toàn hệ thống tổ chức THADS và quá trình
kiện toàn đội ngũ cán bộ THADS, cụ thể:
1. Thời gian thực hiện:
- Tháng 5-8/2009: Xây dựng đề cương tổng quát, thu th
ập tư liệu, ký
hợp đồng viết chuyên đề nghiên cứu với cộng tác viên.
- Tháng 9/2009: Tổ chức nghiên cứu tại chỗ và tổ chức các buổi tọa

đàm khoa học giữa Ban Chủ nhiệm đề án với cộng tác viên.
- Tháng 8/2009-01/2010: Hoàn thiện các chuyên đề nghiên cứu.
- Tháng 01-02/2010: Viết báo cáo phúc trình.
- Tháng 3/2010: Tổ chức các buổi tọa đàm góp ý hoàn thiện báo cáo
phúc trình.

12
- Tháng 3-9/2010: Hoàn thiện báo cáo phúc trình, sản phẩm nghiên cứu
đầy đủ.
- Tháng 11/2010: Nộp sản phẩm nghiên cứu và tổ chức nghiệm thu.
2. Địa điểm tổ chức thực hiện Đề án: phần tổ chức toạ đàm, hội thảo
khoa học được thực hiện ở Hà Nội; khảo sát tình hình tổ chức bộ máy, biên
chế, đội ngũ cán bộ, cơ cấu chức danh công chức THADS trướ
c yêu cầu thực
hiện Luật THADS năm 2008 được thực hiện chủ yếu ở một số cơ quan
THADS đại diện cho các đơn vị ở thành phố, đồng bằng, miền núi, vùng sâu,
vùng xa.
VI. Sản phẩm của Đề án

- Báo cáo thuyết minh đưa ra những cơ sở khoa học về lý luận và thực
tiễn cho việc kiện toàn tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ THADS để thực
hiện có hiệu quả Luật THADS năm 2008 (bao gồm báo cáo phúc trình và hệ
các chuyên đề có liên quan).
- Danh mục các sản phẩm trung gian có sự tham gia, đóng góp ý kiến
của Ban Chủ nhiệm Đề án.
- Các tài liệu, tư liệu trong nước và nước ngoài phục vụ cho quá trình
nghiên cứu, hoàn thiệ
n Đề án.





13


Phần I

BÁO CÁO PHÚC TRÌNH

14
Chương I
THỰC TRẠNG MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC TRIỂN KHAI
LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ NĂM 2008

I. SƠ LƯỢC VỀ TỔ CHỨC CÁN BỘ NGÀNH THI HÀNH ÁN DÂN
SỰ TRƯỚC KHI BAN HÀNH LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1. Về tổ chức bộ máy, cơ chế quản lý THADS
Từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 cho đến khi có Pháp lệnh
THADS năm 1989 là giai đoạn mà tổ chức hoạt động THADS chưa được dựa
trên một văn bản pháp luật chính thức có hiệu lực pháp lý cao do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành. Công tác THADS đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp
của Toà án. Giai đoạn từ 1945 đến 1950 ở miền Bắ
c, trên cơ sở Sắc lệnh
ngày 10 tháng 10 năm 1945 về việc tạm thời giữ các luật lệ hiện hành
của chế độ cũ với điều kiện những điều khoản trong các luật này “không
trái với nền độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hoà”,

hoạt động THADS chủ yếu vẫn do Thừa phát lại thực hiện. Thừa phát lại do
Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm và quản lý, hành nghề trên cơ sở quy định

của pháp luật, được hưởng thù lao từ khách hàng theo biểu giá quy định. Tổ
chức Thừa phát lại chủ yếu tồn tại, hoạt động ở các thành phố lớn, còn ở các
vùng nông thôn việc thi hành án do chính quyền cơ sở đả
m nhiệm mà chủ yếu
là Ban Tư pháp xã. Giai đoạn 1950 - 1959, việc THADS do một Thẩm phán
Toà án cấp huyện thực hiện dưới sự chỉ đạo của chánh án, còn ở miền Nam
việc THADS vẫn do Thừa phát lại thực hiện cho đến năm 1975. Từ năm
1960-1980, việc thi hành án do nhân viên chấp hành án và sau đó là CHV đặt
tại các toà án nhân dân địa phương thực hiện. Nhà nước không tổ chức cơ
quan THADS riêng mà chỉ đặt CHV tại các toà án nhân dân địa ph
ương để
thực hiện chuyên trách việc THADS. Ngoài ra, pháp luật cũng quy định trách
nhiệm của Uỷ ban hành chính xã, phường cùng các cơ quan có liên quan

15
trong việc hỗ trợ thi hành án. Từ năm 1981 đến năm 1989 ở địa phương, tại
các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có Phòng thi hành
án nằm trong cơ cấu bộ máy và biên chế của Toà án để giúp chánh án quản lý
chỉ đạo công tác thi hành án, ở các Toà án cấp huyện có các CHV và cán bộ
làm công tác thi hành án. Trong việc quản lý và chỉ đạo công tác thi hành án,
chánh án Toà án nhân dân huyện, quận báo cáo kết quả công tác thi hành án
với Sở Tư pháp và Toà án nhân dân tỉnh, thành phố báo cáo công tác THADS
địa phương mình với B
ộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao.
Có thể thấy rằng trong thời kỳ này tổ chức bộ máy cũng như nguyên tắc
hoạt động của cơ quan thi hành án chưa được chú trọng. Cơ chế quản lý và tổ
chức thi hành án chưa tạo được vị trí của CHV tương xứng với yêu cầu của
nhiệm vụ đặt ra. Tổ chức và hoạt động thi hành án là một giai đoạn khép kín
trong Toà án và tuỳ thuộc vào s
ự chỉ đạo của chánh án Toà án nhân dân địa

phương. Do đó, tình trạng án xét xử xong không được thi hành chiếm tỉ lệ
ngày càng cao trong lượng án phải thi hành hàng năm.
Giai đoạn từ năm 1990 đến trước khi có Pháp lệnh THADS năm 1993,
cơ quan THADS, CHV vẫn thuộc Toà án, do Chánh án Toà án trực tiếp chỉ
đạo về nghiệp vụ và chịu trách nhiệm báo cáo cấp trên về kết quả của hoạt
động thi hành án. Do Tòa án vừa là cơ quan xét xử duy nhất, vừa là c
ơ quan
làm nhiệm vụ thi hành án, dễ dẫn đến việc chưa thực sự bảo đảm tính khách
quan và quá tải trong hoạt động THADS. Giai đoạn từ năm 1993 đến năm
2003, việc Hiến pháp 1992 và các Luật về tổ chức bộ máy được ban hành đã
đặt ra những nguyên tắc, nền tảng cho quá trình cải cách tư pháp, trong đó
công tác THADS được đổi mới một cách cơ bản thông qua việc Quốc hội
thông qua Nghị quy
ết về việc bàn giao công tác thi hành án từ Toà án nhân
dân các cấp sang các cơ quan thuộc Chính phủ. Từ đó, hệ thống các cơ quan
quản lý THADS, cơ quan THADS được hình thành từ Trung ương đến địa
phương trong phạm vi cả nước, hoạt động độc lập, tách khỏi Toà án nhân dân,
tạo điều kiện thuận lợi để toà án tập trung thực hiện chức năng xét xử. Hệ
thống cơ quan quản lý THADS đã được hình thành
ở ba cấp gồm Cục quản lý

16
THADS thuộc Bộ Tư pháp; Phòng quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng;
Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; phòng tư pháp quận,
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Các cơ quan thi hành án cũng được hình
thành ở hai cấp là Phòng thi hành án thuộc Sở Tư pháp, Đội thi hành án thuộc
Phòng Tư pháp. So với giai đoạn trước đó thì trong giai đoạn này công tác
THADS đã đạt được những kết quả bước đầ
u quan trọng, tạo ra sự chuyển
biến rõ rệt sau nhiều năm trì trệ. Theo kết quả thống kê chưa đầy đủ, từ năm

1995 đến năm 2003, số lượng vụ việc mà các cơ quan THADS thụ lý và giải
quyết ngày càng tăng
1
. Tuy nhiên, sau 10 năm thi hành, Pháp lệnh THADS
năm 1993 bộc lộ nhiều bất cập trước những đòi hỏi khách quan của quá trình
đổi mới, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, đặc biệt là những vướng mắc
về cơ chế quản lý, mô hình tổ chức thi hành án chưa phù hợp và ngang tầm
với yêu cầu nhiệm vụ.
Giai đoạn từ năm 2004 đến trước khi có Luật THADS năm 2008. Theo
quy định của Pháp lệnh THADS nă
m 2004 thì mô hình tổ chức THADS gồm
có cơ quan quản lý THADS và cơ quan THADS. Cơ quan quản lý THADS
gồm Chính phủ thống nhất quản lý công tác THADS; các cơ quan giúp Chính
phủ quản lý nhà nước về THADS bao gồm: Bộ Tư pháp, Uỷ ban nhân dân các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh. Để cụ thể hoá thẩm quyền quản lý nhà nước về công tác THADS, tổ
chức các cơ quan THADS, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 50/2005/NĐ-
CP ngày 11/4/2005 quy định về cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS và
cán bộ, công chức làm công tác THADS. Theo đó, cơ quan quản lý nhà nước
về công tác THADS bao gồm Cục THADS thuộc Bộ Tư pháp (cơ quan giúp
Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác
THADS trong phạm vi cả nước), Sở Tư pháp (cơ quan chuyên môn giúp Uỷ
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý nhà nước về
công tác thi hành án trên
địa bàn cấp tỉnh, thực hiện một số nhiệm vụ, quyền
hạn quản lý đối với cơ quan THADS ở địa phương theo uỷ quyền của Bộ


1

Xem Báo cáo tổng kết 10 năm công tác thi hành án dân sự (1993-2002) của Bộ Tư pháp.

17
trưởng Bộ Tư pháp); Phòng Tư pháp (cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân
dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quản lý về công tác THADS
trên địa bàn cấp huyện). So với Pháp lệnh THADS năm 1993 thì Pháp lệnh
THADS năm 2004 đã có bước tiến bộ rõ rệt trong việc phân cấp quản lý nhà
nước về THADS, xác định rõ hơn về nội dung quản lý nhà nước về THADS
của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Uỷ ban nhân dân cấp huyện, tạ
o cơ sở pháp
lý để hệ thống các cơ quan này hoạt động có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, qua
thực tiễn thực hiện Pháp lệnh THADS năm 2004 cũng cho thấy có những hạn
chế, vướng mắc trong chế định về các cơ quan quản lý THADS. Ở một số nơi,
các cấp chính quyền do chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa, vai trò của công tác
thi hành án nên chưa làm tròn trách nhiệm chỉ đạo thực hiệ
n việc tổ chức phối
hợp các cơ quan hữu quan trong việc thi hành án ở địa phương. Việc giao cho
cơ quan tư pháp giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện quản lý nhà nước
về thi hành án ở địa phương cũng chưa hợp lý vì đây không phải là những cơ
quan trực tiếp tổ chức việc thi hành án nên không nắm chắc được các vụ việc
cụ thể, không thể tham mưu kịp thờ
i, đầy đủ cho Uỷ ban nhân dân về những
quy định cần thiết liên quan đến công tác thi hành án.
Cơ quan trực tiếp tổ chức thi hành bản án, quyết định của Toà án theo
Pháp lệnh THADS năm 2004 bao gồm THADS cấp tỉnh và THADS cấp
huyện. THADS cấp tỉnh có các phòng chuyên môn trực thuộc. Như vậy, so
với Pháp lệnh THADS năm 1993 thì Pháp lệnh THADS năm 2004 đã tạo ra
một bước tiến rõ rệt trong việc nâng cao vị trí, trách nhiệm của cơ quan
THADS. Theo đó, vị thế của cơ quan THADS đựơc nâng cao một bước, độc
lập hơn trong tác nghiệp của mình. Cơ quan THADS không còn là một

phòng, đội thuộc Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp như trước đây mà có tư cách
độc lập nhất định. Việc quy định thành lập các đơn vị trực thuộc trong cơ
quan THADS cấp tỉnh cũng như quy định chức danh thẩm tra viên tại các cơ
quan THADS đã góp phần hoàn thiện t
ổ chức bộ máy các cơ quan THADS.
Tuy nhiên, so với yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp thì hệ thống
cơ quan THADS hiện nay vẫn còn những vướng mắc, chưa thực sự độc lập

18
trong tổ chức và hoạt động, trong chừng mực nhất định còn lệ thuộc vào Sở
Tư pháp nhất là trong khâu tổ chức cán bộ.
Về cơ chế quản lý THADS theo quy định của Pháp lệnh THADS năm
2004 cho thấy pháp luật hiện hành đã xây dựng được cơ chế quản lý theo
ngành kết hợp quản lý theo lãnh thổ, tạo ra cơ chế quản lý tương đối phù hợp
được thể hiện trên các m
ặt sau:
Một là, cơ chế quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo lãnh thổ đã
tạo ra cơ chế tương đối thích hợp, giúp cho hoạt động THADS được thống
nhất trong toàn quốc, hiệu quả được nâng cao, góp phần thực hiện nhiệm vụ
chính trị ở địa phương.
Hai là, việc giao cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện thực hiện
một số nhiệm vụ
quản lý nhà nước về công tác THADS ở địa phương đã tạo
điều kiện cho sự phối hợp giữa các ban ngành trong việc tổ chức thi hành án,
đặc biệt là các vụ việc phức tạp, ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, trật tự an
toàn xã hội ở địa phương.
Ba là, việc giao cho Bộ Tư pháp quản lý thống nhất về mặt tổ chức và
nghiệp vụ thi hành án đã giúp cho việc h
ướng dẫn, chỉ đạo được thống nhất
trong phạm vi cả nước, đồng thời việc quản lý đội ngũ CHV, cán bộ, công

chức cơ quan THADS được chặt chẽ từ khâu tuyển dụng cán bộ, bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức chức danh CHV, thông qua đó đánh giá đúng năng lực
chuyên môn, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ thi hành án, xây dựng
quy hoạch, đào t
ạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng hợp lý cán bộ, thực hiện các
chế độ khen thưởng, kỷ luật đối với công chức thi hành án được chính xác,
phát huy hiệu quả.
So với Pháp lệnh THADS năm 1993 thì Pháp lệnh THADS năm 2004
về cơ bản vẫn giữ nguyên mô hình tổ chức THADS nhưng quy định rõ hơn
nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện trong quản lý
nhà nướ
c về công tác THADS ở địa phương.

19
Tuy nhiên, cơ chế quản lý THADS theo quy định của Pháp lệnh
THADS năm 2004 cũng còn nhiều hạn chế và còn nhiều quan điểm khác
nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng cần tổ chức các cơ quan THADS theo hệ
thống dọc, độc lập với uỷ ban nhân dân và cơ quan tư pháp địa phương;
Quan điểm thứ hai cho rằng cần phân cấp hẳn công tác thi hành án cho
Uỷ ban nhân dân địa phương đảm nhi
ệm, Bộ Tư pháp chỉ làm chức năng quản
lý nhà nước thuần tuý mà không trực tiếp chỉ đạo cụ thể đối với hoạt động
này;
Quan điểm thứ ba thì đề nghị cơ bản giữ mô hình tổ chức thi hành án
như hiện nay, vừa quản lý theo hệ thống dọc, vừa kết hợp phân cấp hợp lý cho
địa phương.
Ngoài ra, việc quy định cơ chế tham gia củ
a nhiều ngành, nhiều cơ
quan, tổ chức trong công tác thi hành án như hiện nay đã làm cho công tác thi

hành án ở trong tình trạng bị phân tán, nhiều đầu mối thiếu tập trung thống
nhất cả về quản lý nhà nước và tổ chức thực hiện. Sự phân tán, cắt khúc này
ảnh hưởng không nhỏ đến các quan hệ giám sát, chỉ đạo, phối hợp, hỗ trợ,
tham gia của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong công tác thi hành án,
nhất là sự phối hợp giữ
a các cơ quan thi hành án và chính quyền địa phương.
Đặc biệt do chưa có sự gắn kết giữa THADS và thi hành án hình sự nên công
tác THADS gặp phải những vướng mắc khi mà trong nhiều trường hợp cùng
một bản án có hai cơ quan chịu trách nhiệm ra quyết định và tổ chức thi hành
(cơ quan thi hành án hình sự chịu trách nhiệm thi hành hình phạt tù, còn cơ
quan THADS chịu trách nhiệm thi hành phần án phí, tiền phạt và phần dân sự
trong các bản án hình sự). Sự chưa gắn kế
t đó cũng tạo không ít khó khăn cho
cơ quan THADS trong việc xác minh điều kiện thi hành án của những bị can,
bị cáo bị tạm giam, người bị kết án, khó khăn trong việc tống đạt các loại giấy
tờ về thi hành án có liên quan đến quá trình thi hành phần nghĩa vụ dân sự.

20
Nhìn một cách tổng quát có thể nói công tác tổ chức bộ máy và quản lý
thi hành án hiện nay đang có những khó khăn, vướng mắc, hạn chế nhất định
như hoạt động thi hành án hiện đang do nhiều cơ quan chức năng khác nhau
quản lý, tổ chức thực hiện; thiếu sự gắn kết, phối hợp chặt chẽ giữa THADS
và thi hành án hình sự, nhất là những vụ án hình sự có bồi thường thi
ệt haị,
tịch thu, phạt tiền. Đề cập đến mô hình tổ chức và quản lý thi hành án, trong
bài phát biểu tại Hội nghị triển khai công tác năm 2009 của ngành tư pháp
ngày 29-30/12/2008, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã nêu rõ: “Từ
thể chế chính trị của chúng ta cho thấy “dọc” hoàn toàn cũng không được,
chẳng hạn như các ngành công an, quân đội, ngân hàng là những ngành rất
dọc nhưng nếu không có cấp uỷ, chính quyền đị

a phương hỗ trợ thì cũng
không "ổn", Đối với tổ chức cơ quan THADS trên Trung ương có thể là
Tổng cục song dưới đó là mô hình ra sao cho phù hợp, nhưng không thể tách
rời sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương".
Việc nghiên cứu lịch sử mô hình tổ chức và quản lý THADS ở Việt
Nam với những ưu điểm, hạn chế của từ
ng mô hình thông qua hiệu quả công
tác thi hành án được phản ánh ở tỉ lệ thi hành về việc, về tiền và mức độ hài
lòng của dư luận quần chúng nhân dân đối với công tác THADS có ý nghĩa
quan trọng để từ đó từng bước khắc phục hạn chế, kế thừa và phát triển những
ưu điểm nhằm xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy và cơ chế
quản lý THADS, đáp ứng yêu c
ầu của công cuộc đổi mới xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Về cán bộ, công chức THADS
Vào thời điểm tháng 6/1993, các Toà án địa phương đã tiến hành bàn
giao công tác thi hành án sang các cơ quan thuộc Chính phủ với số lượng biên
chế 1.126 người trong đó có 700 CHV và 426 cán bộ, phần lớn số cán bộ ở
thời điểm bàn giao chưa bảo đảm đủ tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn,
nghi
ệp vụ theo quy định, có nơi không có cán bộ thi hành án để bàn giao.

21
Đến hết năm 2002, qua tổng kết 10 năm công tác THADS cho thấy, cả
nước đã có 61 Phòng thi hành án cấp tỉnh và 631 Đội thi hành án cấp huyện
với tổng biên chế đã thực hiện là 4.357/5183 (trong tổng số 5.183 biên chế
được Chính phủ giao có 682 biên chế mới được bổ sung đầu năm 2003). Đội
ngũ cán bộ thi hành án hiện có 1.920 CHV, trong đó có 306 CHV cấp tỉnh,
1.614 chấp viên cấp huyện và 2.437 cán bộ nghiệp vụ. Đến năm 2008 (nă
m

trước khi Luật THADS được ban hành), toàn ngành có 7.651 người (trong đó
có 2.843 CHV).
Trong số đội ngũ cán bộ, công chức của các cơ quan THADS thì CHV
giữ vai trò quan trọng trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan này. Theo quy
định tại Pháp lệnh THADS năm 1993, sau đó là Pháp lệnh THADS năm 2004
và các văn bản hướng dẫn có liên quan thì CHV có hai ngạch: CHV cấp
huyện và CHV cấp tỉnh; tiêu chuẩn bổ nhiệm CHV phải có trình độ Cử nhân
luật.
Với việc quy định v
ề đội ngũ CHV như trên đã góp phần quan trọng
vào việc thực hiện nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, so với yêu cầu thì việc
quy định CHV có hai ngạch đã ít nhiều ảnh hưởng đến việc phân công và bố
trí công việc của cơ quan THADS, phù hợp với tính chất và mức độ khác
nhau của công việc. Thực tế cho thấy, quá trình THADS có những vụ việc thi
hành án đơn giản, rõ ràng, lượng tiền, tài sản phải thi hành có giá trị nh
ỏ,
nhưng cũng có những vụ việc tương đối phức tạp, thậm chí một số vụ việc
đặc biệt phức tạp Trong khi đó, CHV chỉ có ở hai cấp đó là cấp tỉnh, cấp
huyện dẫn đến khó khăn trong việc bố trí, phân công công tác. Chưa kể còn
ảnh hưởng đến việc điều động, luân chuyển CHV.
Ngoài CHV là lực lượng chính của ngành THADS thì kể từ khi Chính
phủ
ban hành Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 4 năm 2010, các
cơ quan quản lý và cơ quan THADS có Thẩm tra viên thi hành án. Tuy nhiên,
kể từ khi có chức danh này thì việc bố trí công tác vẫn còn nhiều khó khăn do

22
chưa xác định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Điều này ít nhiều
ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của cơ quan THADS.
II. NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN VÀ THÁCH THỨC ĐẶT RA

VỀ TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN
SỰ KHI TRIỂN KHAI LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1. Những thuận lợi
1.1. Đường lối, thể chế về THADS ngày càng hoàn thiện và được
quan tâm đúng mức
Xác định rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác THADS, trong
những năm qua Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Ban ngành
có liên quan tham mưu trình Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị ban
hành nhiều chủ trương, chính sách về tư pháp (trong đó có công tác THADS),
như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá
VII (1995), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá VIII (1997), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính
trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị
quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX (2004)
và nhất là trong Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị
về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Về thể chế THADS: Từ năm 1993 đến nay Bộ Tư pháp đã phối hợp với
các Bộ, ngành có liên quan tham mưu giúp Chính phủ trình Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội và Quốc hội ban hành 03 văn bản pháp lý quan trọng về
công tác
THADS như: Pháp lệnh THADS năm 1993; Pháp lệnh THADS năm 2004.
Đặc biệt đã trình và Quốc hội đã ban hành Luật THADS. Đây là văn bản pháp
lý quan trọng được ban hành nhằm hoàn thiện các quy định về trình tự, thủ
tục thi hành án, xác định rõ địa vị pháp lý của cơ quan thi hành án, quy định
nguyên tắc về hệ thống tổ chức cơ quan THADS, phân định rõ cơ quan quản


23
lý THADS và cơ quan THADS, tạo cơ sở pháp lý cho quá trình đổi mới, phát
triển và không ngừng nâng cao hiệu quả của hoạt động THADS ở nước ta. Bộ
cũng đã phối hợp với các bộ ngành có liên quan trình Chính phủ ban hành gần
10 Nghị định về THADS. Đồng thời ban hành hoặc phối hợp với các ngành
ban hành nhiều Thông tư, Thông tư liên tịch về THADS.
1.2. Công tác THADS giai đoạn 2004 đến 2009 tiếp tục có sự chuyển
biến theo chi
ều hướng tích cực
Mặc dù công tác THADS giai đoạn 1993 - 2003 đã thu được những kết
quả nhất định, song công tác thi hành án đứng trước những khó khăn, thử
thách rất lớn và còn nhiều tồn tại cần được giải quyết kịp thời. Hoạt động thi
hành án chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng
chống tội phạm, bảo vệ trật tự xã h
ội, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế xã
hội đang có sự chuyển đổi mạnh. Kết quả hoạt động THADS nói riêng và
công tác thi hành án nói chung giai đoạn này chưa thực sự đáp ứng được
mong mỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Tình trạng án “tồn đọng” kéo
dài, số lượng ngày càng tăng, chưa có biện pháp giải quyết hiệu quả (năm
2003, tổng số án tồn đọng chưa được gi
ải quyết là 356.804 vụ việc). Trước
tình hình đó, ngày 14/01/2004, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp
lệnh THADS năm 2004 với nhiều đổi mới quan trọng về trình tự thủ tục, hoạt
động THADS, trong đó có cả đổi mới về tổ chức, cán bộ các cơ quan
THADS. Trên cơ sở của Pháp lệnh này, ngày 11 tháng 4 năm 2005, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 50/2005/NĐ-CP. Theo quy định của Nghị định
này, H
ệ thống tổ chức THADS đã có những thay đổi căn bản về tên gọi và vị
thế. Cục THADS trực thuộc Bộ Tư pháp được giao thêm nhiều nhiệm vụ

quan trọng như tổ chức áp dụng thống nhất pháp luật về THADS trong toàn
quốc, hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo về thi hành
án ; giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý theo ngành dọ
c đối với cơ quan
THADS cấp tỉnh, cấp huyện. Bên cạnh đó, tính chất của các tranh chấp về dân
sự, kinh tế cũng ngày càng phức tạp, số lượng tiền, tài sản phải thi hành án
ngày càng lớn. Vì vậy, cùng với việc xác định rõ hơn vị trí, vai trò của các cơ

24
quan THADS địa phương, Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22 tháng 8
năm 2008 của Chính phủ, Quyết định số 32/2009/QĐ-TTg ngày 02 tháng 3
năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ đã quy định rõ chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và tổ chức của Cục THADS trực thuộc Bộ Tư pháp. Nhờ đó, từ
năm 2004 đến năm 2009, công tác tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp
quản lý tổ
chức, hoạt động THADS của Cục THADS ngày càng đi vào chiều
sâu, chất lượng được nâng lên rõ rệt. Về thể chế, đã tham mưu để Bộ trưởng
Bộ Tư pháp trình cấp có thẩm quyền ban hành Pháp lệnh THADS năm 2004,
Nghị định 164/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 9 năm 2004 của Chính phủ về kê
biên, đấu giá quyền sử dụng đất để đảm bảo thi hành án; Nghị định số
173/2004/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2004 về thủ
tục, cưỡng chế và xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực THADS; Nghị định 50/2005/NĐ-CP ngày 11
tháng 4 năm 2005 về cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS và cán bộ,
công chức làm công tác THADS và một số văn bản hướng dẫn thi hành khác.
Đây là các văn bản quan trọng, bước đầu giải quyết được nhiều vấn đề có liên
quan đến cải cách hành chính trong THADS. Công tác quản lý ngành tiếp tục
được quan tâm chú trọng, góp phần đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng
đối với công tác THADS ở nước ta.
Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp tiếp tục thực hiện nhiệm vụ giúp Ủy ban

nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện quản lý nhà nước về công tác THADS trên địa
bàn. Giám đốc Sở Tư pháp thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn quản lý đối
với cơ quan thi hành án ở địa phương theo ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Tư
pháp.
Đối v
ới cơ quan THADS cấp tỉnh, cấp huyện, từ chỗ là Phòng Thi hành
án thuộc Sở Tư pháp, Đội Thi hành án thuộc Phòng Tư pháp, trở thành Hệ
thống cơ quan tương đối độc lập. THADS cấp tỉnh là cơ quan chịu sự quản lý,
chỉ đạo của Bộ Tư pháp về tổ chức, cán bộ, công chức, kinh phí và nghiệp vụ;
chịu sự quản lý, chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cấp tỉ
nh về mặt nhà nước theo
quy định của pháp luật. THADS cấp huyện trực thuộc và chịu sự quản lý, chỉ
đạo của THADS cấp tỉnh về kinh phí và nghiệp vụ; chịu sự quản lý, chỉ đạo

25
của Ủy ban nhân dân cấp huyện về mặt nhà nước theo quy định của pháp luật.
Đội ngũ cán bộ THADS tiếp tục được củng cố, kiện toàn cả về số lượng và
chất lượng; cơ sở vật chất, trụ sở làm việc, kinh phí hoạt động của các cơ
quan Thi hành án được tăng cường. Bộ Tư pháp đã xây dựng đề án tăng
cường cơ sở
vật chất, xây dựng trụ sở và kho vật chứng của cơ quan THADS
trình Chính phủ phê duyệt. Nhờ đó, công tác THADS ngày càng có sự chuyển
biến tích cực, kết quả thi hành án về việc và tiền năm sau cao hơn năm trước
(theo số liệu thống kê của Tổng cục THADS thì, năm 2005: toàn ngành thi
hành xong 177.991 việc, đạt 61,77 %; thu được gần 1.700 tỷ đồng, đạt 39,89
% (tăng hơn 505 tỷ đồng so với năm 2004) thì đến n
ăm 2008, toàn ngành thi
hành xong 334.448 việc, đạt 78,71%; tăng 32.075 việc so với năm 2007; thu
được hơn 4.000 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 55,46% số có điều kiện thu; tăng so với năm
2007 gần 800 tỷ đồng ), nhiều vụ việc thi hành án phức tạp đã được giải

quyết dứt điểm. Hoạt động THADS góp phần bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân, giữ vữ
ng trật tự an toàn xã hội; tạo điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước.
Kết quả nêu trên là quan trọng, nhưng so với đòi hỏi của thực tiễn và
yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới thì công tác THADS ở nước ta vẫn còn
nhiều hạn chế, yếu kém, trong đó phải kể đến một vấ
n đề rất lớn đó là chưa
xác định rõ vị thế của các cơ quan thi hành án trong hệ thống các cơ quan
hành chính, tư pháp ở địa phương; đội ngũ lãnh đạo của cơ quan thi hành án,
cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động của cơ quan thi hành án chưa ngang
tầm và chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp, các ngành, đ
oàn thể đã có sự quan
tâm đúng mức về công tác THADS: Hoạt động THADS đã được coi là một
trong các nhiệm vụ chính trị quan trọng, được cấp uỷ Đảng, chính quyền địa
phương quan tâm. Vai trò chỉ đạo tổ chức thi hành án của các cấp chính
quyền địa phương ngày càng được tăng cường, bước đầu hình thành cơ chế
phối hợp giữa các cơ quan hữu quan ở địa phương trong công tác thi hành án.

×