Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Xây dựng khả năng chống đỡ của cộng đồng với thảm hoạ bão lụt của tổ chức phi chính phủ tại xã hộ độ lộc hà hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.97 KB, 103 trang )

PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Việt Nam, theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới năm 2007, là nước
đứng thứ 5 về khả năng dễ tổn thương do tác động của biến đổi khí hậu. Với
hơn 3300 km bờ biển trải dài theo chiều dọc đất nước, Việt Nam phải thường
xuyên hứng chịu các thiên tai như nạn nước biển dâng, bão tố, lũ lụt,...Những
người dân nông thôn ven biển đang là đối tượng đầu tiên và trực tiếp gánh
chịu hậu quả của quá trình biến đổi khí hậu đó.
Hiện nay, các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước đang hoạt
động tại Việt Nam đang có những hoạt động viện trợ thiết thực, kịp thời và
hiệu quả nhằm giảm nhẹ tác động của thiên tai đối với những người dân nằm
trong vùng bị ảnh hưởng. Các hoạt động của họ không chỉ dừng lại ở cứu trợ
khẩn cấp trong thời điểm có thảm họa mà còn mở rộng ra các khía cạnh khác
như xây dựng năng lực vật chất và tinh thần cho các đối tượng, các cộng đồng
dễ bị tổn thương.
Trung tâm Phát triển cộng đồng Hà Tĩnh (viết tắt tiếng Anh là HCCD)
là một tổ chức phi chính phủ với tiêu chí tìm kiếm các nguồn tài trợ của nước
ngoài sau đó tiến hành các hoạt động phát triển cộng đồng cho các địa phương
trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
Xã Hộ Độ, huyện Lộc Hà nằm trong vùng ảnh hưởng nặng nề của bão
LEKIMA xảy ra vào đầu tháng 10/2007 và là một trong sáu xã thuộc dự án hỗ
trợ cộng đồng dân cư sau thảm họa bão LEKIMA của HCCD với các hoạt
động hợp phần như cải tạo đồng muối, xây bể chứa nước,... Sau khi kết thúc
dự án, việc đánh giá kết quả và các tác động của dự án tới các đối tượng
hưởng lợi và tới địa phương là việc làm cần thiết để có biện pháp nhằm nâng
cao hiệu quả và tạo điều kiện để phát triển dự án này và mở rộng dự án ra các
địa phương khác. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có nhiều nghiên cứu cụ thể tập

1



trung vào việc đánh giá tác động của các dự án phi chính phủ tới cộng đồng.
Nhận thức sâu sắc ý nghĩa của vấn đề này, cùng với nhiệm vụ thực tập tốt
nghiệp và sự phân công của Ban chủ nhiệm khoa Kinh tế và Phát triển nông
thôn, trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, tôi đã chọn chuyên giá tác động
dự án “Xây dựng khả năng chống đỡ của cộng đồng với thảm hoạ bão lụt”
của tổ chức phi chính phủ tại xã Hộ Độ - Lộc Hà - Hà Tĩnh làm đề tài khoá
luận tốt nghiệp.
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU đề: Đánh
1.2.1 Mục tiêu chung
Đánh giá tác động và tính bền vững của dự án xây dựng khả năng
chống đỡ của cộng đồng với thảm họa bão lụt, từ đó đưa ra giải pháp nhằm
phát triển kết quả, tăng tính bền vững của dự án.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn liên quan đến
đánh giá tác động dự án xây dựng khả năng chống đỡ của cộng đồng với thảm
họa bão lụt của tổ chức phi chính phủ;
- Đánh giá kết quả thực hiện, tác động và tính bền vững của các hợp
phần dự án;
- Kết luận một số yếu tố ảnh hưởng tới kết quả và tác động của dự án; và
rút ra một số bài học kinh nghiệm từ quá trình triển khai và thực hiện dự án;
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả, và tính bền vững của dự án.
1.3 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu kết quả thực hiện và tác động của dự án xây dựng
khả năng chống đỡ của cộng đồng với thảm hoạ lũ lụt của tổ chức phi chính
phủ tại xã Hộ Độ - Lộc Hà - Hà Tĩnh (ECHO). Dự án thực hiện tại xã Hộ Độ
có các hợp phần chính như: cung cấp lương thực, cải tạo đồng muối, xây
dựng bể chứa nước sạch, tập huấn chăm sóc tâm lý xã hội, cải tạo hệ thống
thủy lợi và các hoạt động truyền thông.
2



Chủ thể nghiên cứu là cơ quan điều phối dự án, ban quản lý dự án và
các đối tượng hưởng lợi của dự án.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1 Phạm vi nội dung
Nội dung của đề tài tập trung nghiên cứu kết quả thực hiện dự án so với
kế hoạch đề ra và đánh giá tác động của dự án, đồng thời xem xét tính bền
vững và khả năng mở rộng của dự án. Ngoài ra, từ dự án này rút ra một số bài
học kinh nghiệm để áp dụng cho những dự án tương tự đang thực hiện hoặc
đang chuẩn bị được thực hiện. Các phân tích dựa trên:
• So sánh kết quả đạt được của dự án với kế hoạch của dự án
• Đánh giá tác động của dự án tới các đối tượng hưởng lợi, tới địa
phương và đánh giá tính bền vững của dự án
• Một số yếu tố ảnh hưởng tới dự án
• Những bài học kinh nghiệm rút ra từ dự án
1.3.2.2 Phạm vi không gian
Số liệu sơ cấp và một số số liệu thứ cấp được thu thập tại xã Hộ Độ huyện Lộc Hà - tỉnh Hà Tĩnh và Trung tâm Phát triển cộng đồng Hà Tĩnh
(HCCD).
1.3.2.3 Phạm vi thời gian
- Các số liệu thu thập trong khoảng thời gian từ năm 2007 - 2009, đặc
biệt là thời gian trong và sau khi hoàn thành dự án.
- Thời gian thực hiện đề tài từ 23/01/2010 đến 23/05/2010.

3


PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 THẢM HỌA BÃO LỤT ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG CỘNG ĐỒNG
2.1.1 Khái niệm thảm họa bão lụt

Hiểm họa là bất kỳ sự kiện, hiện tượng không bình thường nào có khả
năng gây tổn thương cho đời sống con người, gây thiệt hại về tài sản và môi
trường. Hiểm họa có thể xảy ra đột ngột như lũ quét, sóng thần, sạt lở đất
hoặc từ từ như sa mạc hóa, hạn hán.
Hiểm họa sẽ trở thành thảm họa khi chúng xảy ra ở những nơi có nhiều
người sinh sống, hoạt động, gây thiệt hại về tính mạng, tài sản và cuộc sống
của con người.
Bão là một cơn gió xoáy có phạm vi rộng, có thể ảnh hưởng tới một
vùng có đường kính từ 200 - 500 km. Chúng thường gây ra gió lớn và mưa rất
to. Khi bão đổ bộ lên đất liền, gió lớn, đặc biệt là mưa to và nước dâng có thể
gây thiệt hại và kéo theo các hiểm họa khác như lũ lụt và sạt lở đất.
Lũ là mực nước và tốc độ dòng chảy trên sông, suối vượt quá mức bình
thường.
Lụt xảy ra khi nước lũ dâng cao tràn qua sông, suối, hồ, đập và đê vào
các vùng trũng, làm ngập nhà cửa, cây cối, ruộng đồng.
2.1.2 Ảnh hưởng của bão lụt tới đời sống cộng đồng
Khắp lãnh thổ Việt Nam trong vòng 100 năm trở từ 1891 – 1990 đã
thống kê được 496 cơn bão nhưng chỉ có 144 cơn bão đổ bộ vào Bắc bộ còn
325 cơn thì đổ bộ vào duyên hải miến Trung. Như vậy các tỉnh duyên hải
miền Trung phải gánh chịu hơn 69% tổng số các cơn bão đổ bộ vào cả nước,
trong đó từ 60 – 65% số cơn bão có sức gió mạnh từ cấp 8 đến cấp 12. Nếu
tính từ 1891 đến năm 2000, mỗi năm bình quân các tỉnh duyên hải miền
Trung phải gánh chịu 4 cơn bão tàn phá. Bão thường xuất hiện ở miền Trung
là bão kép, trận bão sau cách trận bão trước 4 – 5 ngày, vì vậy nước mưa trận

4


bão trước dội xuống chưa kịp rút thì cơn bão sau lại ập đến làm cho tình hình
lũ lụt càng trở nên nghiêm trọng.

Lũ lụt đã gây tổn thất không nhỏ tới tình hình sản xuất của các ngành
kinh tế, ảnh hưởng tới đời sống, sức khỏe của những người dân nằm trong
khu vực thiên tai.
Về kinh tế, hầu hết các ngành đều bị ảnh hưởng. Trong đó, ngành bị
ảnh hưởng lớn nhất chính là nông nghiệp. Trong trồng trọt, lũ lụt làm cho
nhiều vùng trồng lúa, hoa màu bị mất trắng hoặc giảm năng suất. Chăn nuôi
cũng bị ảnh hưởng không nhỏ khi gia súc, vật nuôi và hệ thống chuồng trại bị
lũ cuốn đi, bên cạnh đó, do thiếu thức ăn, nước uống, gặp thời tiết lạnh và có
quá nhiều mầm dịch bệnh trong nước lũ, môi trường sống ô nhiễm khiến cho
không ít gia súc, vật nuôi bị chết. Nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại lớn do các
đầm, hồ, ao nuôi trồng thủy sản bị tàn phá, thủy sản bị lũ cuốn, nhiều nơi mất
trắng. Việc kinh phí bỏ ra sửa chữa, phục hồi quá lớn, vượt quá khả năng của
người nông dân khiến nhiều nơi sau lũ lụt, nuôi trồng thủy sản không thể phục
hồi được. Bên cạnh đó nhiều ngành khác cũng bị ảnh hưởng nặng nề do hậu
quả của bão. Các công trình thủy lợi bị tàn phá, mất nhiều kinh phí để cải tạo
nhưng nhiều nơi vẫn không thể khắc phục kịp thời để phục vụ sản xuất nông
nghiệp. Ngành diêm nghiệp là một ngành quan trọng và quen thuộc với những
người dân ven biển miền Trung, nhưng khi lũ lụt tràn qua thì các đồng muối,
nơi sản xuất chính của họ, bị phá hủy hoặc hư hại nghiêm trọng, lượng muối
đang sản xuất hoặc dự trữ cũng bị mất sạch, diêm dân đa phần còn nghèo nên
họ không có đủ điều kiện để đầu tư cải tạo lại đồng muối và lũ lụt thường xảy
ra vào thời gian mà các hộ diêm dân vào mùa sản xuất chính trong năm khiến
cho ngành muối càng trở nên bấp bênh bên cạnh việc giá cả thấp, thường
xuyên biến động. Ngành du lịch gặp khó khăn khi các bãi biển đẹp, các công
trình di tích lịch sử, văn hóa thu hút khách du lịch bị tàn phá, cơ sở hạ tầng để
phục vụ khách du lịch bị hư hại nghiêm trọng. Các ngành sản xuất khác cũng

5



bị đình trệ khi hệ thống cơ sở hạ tầng cơ bản như điện, đường cũng bị tàn phá,
thông tin tắc nghẽn, không liên lạc được với bên ngoài. Do đó, kinh tế của các
địa phương bị ảnh hưởng trầm trọng vừa do nguồn thu của các ngành sụt giảm
vừa do phải chi ngân sách để sửa chữa, duy tu và cải thiện hậu quả bão lụt.
Về xã hội, lũ lụt thường kéo theo rất nhiều người tử vong hoặc bị
thương, làm ảnh hưởng không nhỏ tới tâm lý xã hội của cộng đồng, đặc biệt
là các đối tượng nhạy cảm như người già, trẻ em, các gia đình neo đơn, những
người không nơi nương tựa… Nhiều gia đình rơi vào cảnh mất nhà cửa, phải
chịu đói, khát, bệnh tật do lũ lụt. Không thức ăn, nước uống, mất điện, đường
đi bị cắt đứt, trường học, trạm xá bị phá hoại, cuốn trôi, không thuốc men,
nhiều nơi ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Những điều này dẫn đến suy
giảm điều kiện sống và sức khỏe của người dân. Bên cạnh đó, lũ lụt cũng
khiến nhiều người rơi vào hoàn cảnh tái nghèo hoặc trở thành người nghèo do
mất công việc, không có thu nhập, mất mùa..., làm gia tăng khoảng cách giàu
nghèo khi lũ lụt ảnh hưởng trực tiếp và chủ yếu tới những người dân khu vực
nông thôn, khu vực khó khăn, vùng ven biển nghèo,… Bên cạnh những thiệt
hại về mặt vật chất những người dân còn phải gánh chịu những mất mát về
mặt tinh thần: do thường bị động trước bão, lũ lụt mà các người dân không có
sự chuẩn bị đầy đủ về mặt tâm lý, không chủ động chuẩn bị trước các phương
pháp đối phó, ứng biến với các tình huống khó khăn, nguy hiểm có thể xảy ra,
đặc biệt là các kĩ năng để duy trì cuộc sống sau bão lụt và chăm sóc các nạn
nhân của thiên tai.
Về môi trường, các môi trường sống bị phá vỡ làm giảm đa dạng sinh
học (các loại cây trồng, vật nuôi bị mất đi hoặc không thể tồn tại được khi
môi trường thay đổi), các nguồn nước bị nhiễm mặn, đất bị nhiễm mặn hoặc
bị xói mòn, diện tích đất giảm do các vùng đất bị sạt lở khi có lũ, nhất là ở các
bờ sông. Công tác vệ sinh môi trường không thể duy trì khiến cho môi trường
bị ô nhiễm trầm trọng, các vi sinh vật, côn trùng gây hại có khả năng phát

6



triển khiến bệnh dịch tràn lan ảnh hưởng tới không chỉ con người mà cả cây
trồng, vật nuôi.
2.3 KHẢ NĂNG CHỐNG ĐỠ CỦA CỘNG ĐỒNG ĐỐI VỚI THẢM HỌA
2.2.1 Định nghĩa cộng đồng
Cộng đồng là một nhóm người sống trong cùng một khu vực địa lý,
cùng chia sẻ các nguồn lực, có cùng những mối quan tâm. Cộng đồng tạo nên
một phần của tổng thể cơ cấu hành chính quốc gia.
Ngoài ra, trong phát triên cộng đồng, cộng đồng còn được định nghĩa:
Cộng đồng là một thực thể xã hội có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, là một nhóm
người cùng chia sẻ và chịu sự ràng buộc bởi các đặc điểm và lợi ích chung,
được thiết lập thông qua tương tác và trao đổi giữa các thành viên.(Tô Duy
Hợp, 2000).
2.2.2 Cấp độ tham gia của cộng đồng vào các hoạt động dự án giảm nhẹ
tác động của thảm họa
Sự tham gia của cộng đồng trong phòng chống thiên tai, quản lý thảm
họa cho phép:
- Thu được thông tin đầy đủ, xác thực hơn (không ai hiểu rõ địa
phương như chính người dân tại chỗ).
- Nâng cao năng lực của cộng đồng (sự tự tin, kiến thức, các kĩ năng
như làm việc tập thể, lập kế hoạch,...).
- Xác định được những khó khăn, nhu cầu thực tế của địa phương, từ
đó đưa ra các giải pháp thiết thực, khả thi nhằm thỏa mãn những nhu cầu ấy.
- Làm cho cuộc sống ổn định và bền vững hơn.
- Nâng cao nhận thức của các chuyên gia ngoài cộng đồng đối với
những vấn đề của địa phương.
Vì vậy, cần thiết phải huy động công đồng vào các công tác phòng
chống thiên tai. Tuy nhiên trên thực tế sự tham gia của cộng đồng vẫn có
nhiều mức độ khác nhau.


7


(1) Tham gia thụ động: Người dân chỉ nhận thông tin đơn phương một
chiều từ bên ngoài. Phản hồi của người dân hầu như không được ghi nhận.
(2) Tham gia bằng cách cung cấp thông tin: Người dân cung cấp thông
tin thông qua việc trả lời những câu hỏi trong bộ câu hỏi của cán bộ dự án mà
không có cơ hội để ảnh hưởng đến kết quả vì các thông tin đó không được
chia sẻ và họ cũng không có cơ hội giám sát các hoạt động của dự án.
(3) Tham gia bằng cách được hỏi ý kiến (được tham vấn): Người dân
được tham khảo ý kiến về các vấn đề cộng đồng gặp phải nhưng vẫn chưa
được góp ý hay quyết định về giải pháp.
(4) Tham gia bằng động cơ (thúc đẩy) vật chất hay theo hợp đồng:
Người dân tham gia như những người được hợp đồng để cung cấp đất, lao
động,...và họ sẽ không tiếp tục tham gia nếu không còn các động cơ vật chất.
(5) Tham gia chức năng (hoạt động): Người dân tham gia thông qua
các nhóm. Nhưng sự tham gia này không xuất hiện trong các giai đoạn đầu
cũng như khi xây dựng kế hoạch dự án. Hình thức tham gia này phụ thuộc
nhiều vào sự thúc đẩy từ bên ngoài và có thể trở thành tự lập.
(6) Tham gia theo kiểu tương tác: Người dân tham gia bằng cách hợp
tác chặt chẽ với người ngoài để cùng phân tích kết quả nghiên cứu và dẫn đến
kế hoạch hành động cũng như triển khai các hoạt động.
(7) Tự huy động: người dân tự mình xác định các vấn đề, tự tìm giải
pháp, tự huy động đóng góp nguồn lực, người ngoài chỉ đóng vai trò xúc tác
và tăng cường khả năng của người dân.
Mức độ tham gia của người dân càng sâu thì kết quả thực hiện các hoạt
động giảm nhẹ thiên tai càng bền vững và các khó khăn, vướng mắc của cộng
đồng sẽ được giải quyết triệt để và có hiệu quả cao.
2.2.3 Khả năng chống đỡ của cộng đồng đối với thảm họa

Khả năng chống đỡ là các nguồn lực, kĩ năng, kiến thức, phương tiện và
sức mạnh tồn tại trong các hộ gia đình và các cộng đồng giúp họ có thể đối phó,
chịu đựng, phòng ngừa, giảm nhẹ hoặc nhanh chóng khắc phục một thảm họa.

8


Phân loại khả năng có thể chia thành các loại sau:
(1) Khả năng về vật chất: là những nguồn lực sẵn có trong cộng đồng
mà cộng đồng bị thiệt hại trong thảm họa có thể tận dụng được để khôi phục
lại cuộc sống. Họ có thể dự trữ sẵn lương thực, các nhu yếu phẩm như thuốc
men, chăn màn, chất đốt,... để giúp vượt qua khó khăn trước khi nhận được sự
trợ giúp từ bên ngoài.
(2) Khả năng về tổ chức/xã hội: là những kiến thức, kĩ năng sẵn có của
cộng đồng để ứng phó với mọi rủi ro trong thảm họa trong điều kiện khi thảm
họa xảy ra và mọi thứ đều bị phá hủy. Họ có gia đình, có tổ chức cộng đồng, có
lãnh đạo và các cơ chế đưa ra quyết định để ứng phó mọi rủi ro trong thảm họa.
(3) Khả năng về thái độ/động cơ: thái độ, động cơ tích cực, mạnh mẽ
(như quan tâm, yêu thương, sẵn lòng giúp đỡ nhau...) là những khả năng để
hình thành sự phát triển. Thái độ, động cơ cũng quan trọng như những nguồn
lực về vật chất hay tổ chức.
Khả năng chống đỡ của cộng đồng có thể huy động vào tất cả các giai
đoạn của chu trình quản lý thiên tai, bao gồm:
- Cứu trợ: các hoạt động thực hiên trong và sau khi xảy ra nhằm trợ
giúp những người bị ảnh hưởng. Ví dụ: tìm kiếm, cứu hộ, cung cấp lương
thực, nhu yếu phẩm, chăm sóc sức khỏe, sửa chữa phương tiện cần thiết,...
- Phục hồi: các hoạt động nhằm khôi phục những dịch vụ cơ bản giúp
những người bị ảnh hưởng phục hồi nhanh chóng. Ví dụ: hỗ trợ sửa chữa nhà
ở, thiết lập các dịch vụ thiết yếu,...
- Tái thiết và phát triển: là các biện pháp tiến hành nhằm sửa chữa hoặc

thay thế cơ sở hạ tầng đã bị thiệt hại để phục hồi các hoạt động kinh tế - xã
hội. Các hoạt động này gồm tái thiết cơ sở hạ tầng và khôi phục tất cả các
dịch vụ.
- Giảm nhẹ: gồm tất cả các biện pháp có thể thực hiện nhằm giảm đến
mức thấp nhất những tác động của hiểm họa nhờ đó giảm nhẹ mức độ nghiêm

9


trọng của thảm họa. Các biện pháp giảm nhẹ có thể là các biện pháp vật
chất/công trình (xây dựng đê điều, nhà ở an toàn...); hoặc các biện pháp mang
tình pháp lý (nghiêm cấm xây nhà ở phía ngoài đê...); hay các biện pháp phi
công trình (nâng cao nhận thức cộng đồng, vận động các vấn đề về phát
triển...).
- Phòng ngừa: gồm các biện pháp cần tiến hành khi có dự báo thảm họa
sẽ xảy ra để kịp thời ứng phó một cách phù hợp và hiệu quả. Các hoạt động
phòng ngừa có thể làm giảm đến mức thấp nhất tác động của thảm họa như
xây dựng năng lực của các tổ chức trong cộng đồng nhằm thực hiện tốt các
hoạt động cảnh báo, tìm kiếm và cứu hộ, sơ tán và cứu trợ, xây dựng và thực
hiện các kế hoạch phòng ngừa thảm họa, dự trữ thiết bị, hàng hóa để huy
động kịp thời, chuẩn bị hệ thống thông tin liên lạc trong tình huống khẩn cấp,
tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng...
Các biện pháp tăng cường năng lực đối phó với thảm họa của cộng
đồng thường được áp dụng bao gồm:
- Các biện pháp quy hoạch công trình: những nơi tập trung các yếu tố
chịu rủi ro cao, nếu xảy ra thảm họa thì thiệt hại rất lớn (mật độ dân cư cao,
các công trình xây dựng tập trung ở những nơi không an toàn,...). Nhóm biện
pháp này chỉ ra việc lựa chọn vị trí an toàn và bảo dưỡng, kiên cố công trình
như cầu, đường, trường, trạm, khu dân cư,...
- Các biện pháp kinh tế: nền kinh tế địa phương có thể dễ bị thảm họa

tác động nhiều hơn là hệ thống cơ sở vật chất, việc phát triển kinh tế hoặc đa
dạng hóa nền kinh tế là những cách làm quan trọng để giảm nhẹ rủi ro (có thể
thông qua các chương trình phát triển cộng đồng nhằm hỗ trợ về tài chính như
cấp không hoặc cho vay làm phương tiện sản xuất).
- Các biện pháp kỹ thuật: bao gồm các công tác kỹ thuật (xây nhà ở
vững chắc hơn) cho đến các dự án quy mô nhỏ dựa vào cộng đồng.

10


2.3 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ
2.3.1 Định nghĩa tổ chức phi chính phủ
“Tổ chức phi chính phủ” được Liên Hiệp Quốc định nghĩa là bất kỳ tổ
chức quốc tế nào được lập ra không phải do một thỏa thuận liên chính phủ
quốc tế, nhưng NGOs đó có thể bao gồm các tổ chức có thành viên do chính
phủ cử ra, với điều kiện thành viên đó không được can thiệp vào quyền tự do
bày tỏ ý kiến của tổ chức đó.
Thuật ngữ “Tổ chức phi chính phủ” xuất hiện ở Việt Nam, đầu tiên
dung trong Luật Tổ chức Chính phủ năm 1992. Sau đó là Luật Hợp tác xã
năm 1996 và một số văn bản pháp quy gần đây: Tổ chức phi chính phủ là một
tổ chức được hình thành mang tính độc lập tương đối với Chính phủ, được cơ
quan có thẩm quyền cho phép thành lập hoặc công nhận, có sự quản lý Nhà
nước, được lập ra do sự tự nguyện của nhân dân, và hoạt động một cách
thường xuyên để thực hiện mục tiêu chung là phi lợi nhuận trong khuôn khổ
pháp luật.
2.3.2 Phân loại tổ chức phi chính phủ
Hiện nay có 3 loại NGOs hiện đang hoạt động trên thế giới.
(1) Tổ chức phi chính phủ mang tính chất quốc gia (NNGOs) là tổ chức
mà các thành viên đều mang một quốc tịch. Các tổ chức này xuất hiện trên thế
giới rất sớm. Phạm vi hoạt động chủ yếu phục vụ cho từng cộng đồng, hoạt

động trong pham vi một nước. Về số lượng, NNGOs chiếm đa số tuyệt đối.
(2) Tổ chức phi chính phủ mang tính chất quốc tế (INGOs) là tổ chức
mà các thành viên của nó mang nhiều quốc tịch khác nhau sang lập ra. Về số
lượng, INGOs ít hơn nhiều so với NNGOs. Phạm vi hoạt động của INGOs
rộng khắp trên thế giới, nhưng INGOs phải tuân theo luật pháp của nước nhận
sự hợp tác.

11


(3) Tổ chức phi chính phủ mang tính chất chính phủ (GONGOs) là các
tổ chức do chính phủ lập ra hoặc NGO nào đó hoàn toàn phụ thuộc vào ngân
sách của chính phủ.
2.3.3 Hoạt động của các tổ chức phi chính phủ
Viện trợ của NGOs được thể hiện dưới các hình thức chủ yếu là thông
qua các chương trình, dự án (viện trợ để thực hiện các chương trình/dự án),
viện trợ phi dự án (viện trợ bằng tiền hay hiện vật) và viện trợ khẩn cấp trong
trường hợp có thiên tai hoặc tai hoạ khác.
Đặc điểm của viện trợ NGOs: Viện trợ NGOs là loại viện trợ không
hoàn lại mang tính nhân đạo và phát triển, có thủ tục nhanh gọn và đơn giản.
Quy mô dự án thường không lớn (từ vài nghìn đến vài trăm nghìn đô la Mỹ),
thời gian thực hiện không dài (từ vài tháng đến 1-2 năm) nhưng thường đáp
ứng kịp thời, sát với nhu cầu và phù hợp với khả năng quản lý, sử dụng của
nơi nhận viện trợ.
Hoạt động của NGOs đã chuyển theo hướng giảm viện trợ nhân đạo và
tăng viện trợ phát triển bền vững. Các NGOs ngày càng đóng vai trò đáng kể
trong đời sống kinh tế - xã hội, giáo dục, y tế, môi trường, nhân đạo… tại
nhiều nước trên thế giới. Các NGOs đang tham gia sâu vào nhiều lĩnh vực
như xóa đói giảm nghèo, giúp đỡ phụ nữ, cứu trợ trẻ em, kế hoạch hóa gia
đình, chữ thập đỏ, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, giảm nhẹ tác

động của thảm họa…
Ngoài ra, NGOs còn đóng góp tiếng nói của mình vào các vấn đề thuộc
mối quan tâm chung của cộng đồng quốc tế bao gồm các nước, các tổ chức
quốc tế lớn như Liên Hiệp Quốc, Chương trình phát triển của Liên Hiệp
Quốc, và đặc biệt các tổ chức ngân hàng, tài chính thế giới như World Bank
và Quỹ tiền tệ quốc tế. Sự tham gia của các NGOs trên các diễn đàn về kinh
tế, xã hội và phát triển ngày một tăng, đồng thời NGOs cũng tổ chức những
diễn đàn riêng của mình song song với những Hội nghị quốc tế.

12


2.3.4 Vai trò của NGOs trong lĩnh vực phòng chống giảm nhẹ tác động
thiên tai
Hiện nay, vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu đang là một vấn đề được cả
thế giới quan tâm. Các quốc gia, các Chính phủ đang cùng nhau nỗ lực để làm
giảm nhẹ ảnh hưởng của tình hình nóng lên của Trái đất. Trong bối cảnh đó,
các NGOs đã có nhiều hoạt động tích cực nhằm tham gia và ủng hộ nỗ lực
chung của toàn thế giới. Các hoạt động của NGOs ngoài tham gia đóng góp ý
kiến, sáng kiến tại các hội nghị về biến đổi khí hậu trên toàn cầu thì còn thực
hiện các hoạt động trực tiếp nhằm giảm nhẹ tác động của thiên tai hay tăng
khả năng chống đỡ với thảm họa tại các nước có ảnh hưởng trực tiếp và
nghiêm trọng của thiên tai.
Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đang là khu vực chịu ảnh hưởng
nặng nề của biến đổi khí hậu. Tình hình khí hậu ở khu vực này ngày càng có
chiều hướng bất lợi, khó dự đoán. Chỉ trong một thời gian ngắn mà hàng loạt
hiện tượng thiên tai hiếm khi xảy ra thì giờ đây đang xảy ra trên diện rộng
như động đất, sóng thần,... đặc biệt là tình hình bão lũ. Bão lũ đã dần ảnh
hưởng đến cả những khu vực mà trước đây không có tiền sử bị bão lũ. Các
khu vực bị ảnh hưởng chủ yếu tập trung ở các nước đang hoặc chậm phát

triển, nơi tỷ lệ người nghèo cao, tính dễ bị tổn thương cao. Điều này đã gây ra
hậu quả rất nghiêm trọng vì hầu hết người dân ở các khu vực này không được
chuẩn bị đầy đủ để chống đỡ với thảm họa. Các NGOs có điều kiện nhỏ gọn,
năng động dễ dàng tiếp cận và đang tiếp cận tích cực các khu vực này.
Trong khi các Chính phủ chỉ mới tiếp cận giải quyết vấn đề ở tầm vĩ
mô thì các NGOs đã đi cụ thể vào các địa bàn bị ảnh hưởng trầm trọng, hoặc
các địa bàn có khả năng áp dụng các biện pháp giảm nhẹ thiên tai, nơi mà
Chính phủ chưa thể can thiệp tới. Các hoạt động của NGOs không dừng lại ở
cứu trợ khẩn cấp mà phát triển thành xây dựng khả năng chống đỡ với thiên
tai, thảm họa cho cộng đồng thông qua cải thiện sinh kế, xây dựng các công

13


trình giảm nhẹ tác động thiên tai,...kết hợp xóa đói giảm nghèo với chống ảnh
hưởng cửa biến đổi khí hậu.
2.4 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỰ ÁN VÀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG DỰ ÁN
2.4.1 Khái niệm Dự án
Theo định nghĩa của từ điển Bách khoa toàn thư, từ “dự án - project” có
nghĩa là “điều người ta có ý định làm”, hay “đặt kế hoạch cho một ý đồ, một
quá trình hành động”. Vậy “dự án” chính là sự kết hợp của cả hai mặt “ý
tưởng” và “hành động”.
Theo nghĩa chung nhất, dự án là tập hợp các hoạt động qua đó để bố trí
sử dụng các nguồn lực khan hiếm, nhằm tạo ra sản phẩm hay dịch vụ, trong
thời gian xác định, nhằm thoả mãn mục tiêu nhất định và đầu tư một lần có
tác dụng lâu dài. Dự án bao gồm đầu vào (kinh phí, thời gian, nhân lực, vật
lực...), các hoạt động của dự án được thực hiện trong môi trường (tự nhiên, xã
hội, chính trị, kinh tế), các đầu ra (sản phẩm và dịch vụ) để thoả mãn nhu cầu
mong muốn. Tuỳ theo mục đích, dự án có thể được chia thành ba loại: Dự án
đầu tư kinh doanh, Dự án nghiên cứu và Dự án phát triển (GS.TS Đỗ Kim

Chung, 2003).
Các dự án chính thức hay phi chính thức, sử dụng nguồn ngân sách nhà
nước hay tư nhân thì vẫn phải đáp ứng tốt định hướng phát triển của đất nước
nơi được đầu tư. Và hoạch định của các nước cũng cần có sự đồng bộ với các
nguồn lực để có thể tận dụng tối đa ưu thế của các nguồn lực đó vào phát triển
các mục tiêu của đất nước. Do đó, các dự án phải phù hợp với sự hoạch định
của chính phủ theo mối quan hệ như sau :
Chính sách: là những chủ trương, đường lối vĩ mô được áp dụng trên
toàn quốc, do chính quyền cấp cao quyết định, thường là Chính phủ.
Kế hoạch: là những chiến lược phát triển của đất nước, ngành, liên
ngành nhằm hiện thực hóa các chính sách của nhà nước và là cơ sở để xây
dựng các chương trình, dự án theo kế hoạch hàng năm.

14


Chương trình: là sự cụ thể hóa, là định hướng các công việc chính
nhằm đạt được một số mục đích chung hoặc mục tiêu đã đặt ra trước đó của
kế hoạch. Chương trình là tổ hợp các dự án, các hoạt động được quản lý, phối
hợp trong một thời gian nhất định. Mỗi chương trình thường đề ra mục tiêu,
tiêu chuẩn chung.
Dự án: mỗi chương trình có thể có nhiều dự án liên quan, lồng ghép
với nhau trong một tổng thể nhằm đạt được các mục tiêu, tiêu chuẩn của
chương trình. Các dự án được thực hiện ở nhiều nơi khác nhau, trong một
phạm vi không gian và trong một khoảng thời gian cụ thể.
Mối quan hệ được thể hiện qua sơ đồ dưới đây (Hoàng Mạnh Quân,
2007)
Chính sách, cương lĩnh
chính trị
(Policy)


Kế hoạch
3,5hay 10năm
(Planning)

Chương trình
(Programs)

Dự án
(Projects)

Sơ đồ 2.1 Quan hệ giữa chính sách, kế hoạch, chương trình và dự án
2.4.2 Một số nội dung của công tác đánh giá dự án
2.4.2.1 Khái niệm đánh giá dự án
Đánh giá dự án là quá trình xác định, phân tích một cách hệ thống và
khách quan các kết quả, mức độ hiệu quả và các tác động, mối liên hệ của dự
án trên cơ sở các mục tiêu của chúng (Từ Quang Phương, 2005).
Đánh giá là công việc quan trọng trong công tác dự án nhằm:
- Biết được tính khả thi của dự án;
- Biết được tiến độ thực hiện dự án;
- Biết được kết quả, tác động của dự án tới đời sống kinh tế, xã hội và
môi trường;
- Biết được tính bền vững của dự án;
- Rút ra được những bài học kinh nghiệm từ thực hiện một dự án;
- Tìm ra những cơ hội để thực hiện một dự án tiếp theo.

15


2.4.2.2 Các loại đánh giá dự án

(1) Đánh giá khả thi dự án: là sự đánh giá tiến hành trước khi dự án
được phê chuẩn và xét duyệt, nhằm trả lời câu hỏi: Liệu có nên làm, có nên
đầu tư không? và thường nằm ở khâu thẩm định dự án. Tính khả thi của một
dự án phát triển nông thôn được xem xét trên ba phương diện: khả thi về kinh
tế, khả thi về xã hội và khả thi về môi trường. Mặt khác cũng cần xem xét
mức độ khả thi về chính trị, pháp lý, văn hoá và kỹ thuật.
(2) Đánh giá tiến độ thực hiện dự án: Đánh giá khi dự án đang trong
quá trình thực hiện nhằm trả lời câu hỏi: Dự án đang diễn ra là đúng với mục
tiêu và tiến độ tốt? Có gì cần phải điều chỉnh? Quá trình đánh giá dự án này
được thực hiện trong khâu giám sát dự án. Đánh giá tiến độ thực hiện dự án
là: xem xét quá trình thực hịên các hoạt động dự án so với mục tiêu đề ra;
phân tích hiệu suất công tác của các đơn vị công tác của các đơn vị thực hiện
dự án: thuận lợi, khó khăn về tổ chức, tài chính, nhân lực, sự tham gia của
cộng đồng vào thực hiện dự án; xác định và đánh giá những yếu tố làm tăng
hay hạn chế tiến độ thực hiện dự án.
(3) Đánh giá khi kết thúc dự án: Đây là quá trình đánh giá khi dự án kết
thúc. Việc đánh giá này nhằm trả lời câu hỏi: liệu dự án đã đạt mục tiêu đề ra?
Liệu dự án đã có tác động tốt? Dự án có tính bền vững không? Những bài học
kinh nghiệm nào cần rút ra khi làm các dự án tương tự như dự án này? Có nên
phát triển dự án khác tiếp theo? Đánh giá khi kết thúc dự án gồm những nội
dung: Đánh giá mức độ và các kết quả đã làm được so với mục tiêu dự án;
xác định những yếu tố đóng góp cũng như hạn chế tới hiệu quả của dự án;
đánh giá ảnh hưởng của dự án về các phương diện kinh tế, đời sống, văn hoá,
giáo dục, xã hội và môi trường; đánh giá sự chấp nhận dự án của người dân
để xác định tính bền vững.
2.4.2.3 Nội dung đánh giá dự án
Tuỳ theo mục đích mà có thể xác định các nội dung đánh giá khác
nhau, một dự án không đòi hỏi phải đánh giá ở tất cả các giai đoạn, các bước

16



mà có thể tập trung vào một hay một số giai đoạn quan trọng nhất định. Tuy
nhiên 5 nội dung thường gặp trong đánh giá dự án phát triển nông thôn:
- Đánh giá tính thích hợp của dự án
- Đánh giá kết quả của dự án
- Đánh giá hiệu quả của dự án
- Đánh giá tác động dự án
- Đánh giá tính bền vững của dự án
(1) Đánh giá tính thích hợp của dự án: dự án được coi là thích hợp nếu
mục tiêu và hoạt động của dự án đáp ứng được nhu cầu của người hưởng lợi;
phù hợp với mục tiêu của nhà đầu tư; phù hợp với chủ trương, chiến lược phát
triển của địa phương, của vùng và cao hơn là của Nhà nước; phù hợp với đièu
kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội và nguồn lực của địa phương.
(2) Đánh giá kết quả của dự án: Đánh giá kết quả chú trọng xem xét
mức độ đạt được mục tiêu trước mắt và các đầu ra của dự án.
(3) Đánh giá hiệu quả dự án: xem xét các đầu vào, hoạt động và đầu ra
so với kết quả của dự án. Hiệu quả cần được xem xét trên cả các khía cạnh về
kinh tế, xã hội, môi trường. Trong đó, các dự án phát triển nông thôn rất chú
trọng đến khía cạnh xã hội và môi trường.
(4) Đánh giá tác động của dự án: cần xem xét trên 3 khía cạnh chính là
đối tượng tác động, khía cạnh tác động, mức độ tác động. Các tác động bao
gồm tác động trực tiếp, tác động gián tiếp, tác động trước mắt, tác động lâu
dài tới các đối tượng hưởng lợi của dự án trên các phương diện khác nhau như
kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường,...Để đánh giá tác động cần căn cứ vào
các mục tiêu (tổng thể và cụ thể) của dự án.
(5) Đánh giá tính bền vững của dự án: xem xét các kết quả của dự án có
bền vững sau khi dự án kết thúc và xác định những yếu tố ảnh hưởng đến tính
bền vững của dự án. Căn cứ xem xét tính bền vững là các mục tiêu (tổng quát và
cụ thể) của dự án và tính bền vững trên tất cả các thành phần khác của dự án.


17


2.4.3 Phương pháp và tổ chức đánh giá tác động dự án
2.4.3.1 Phương pháp đánh giá tác động dự án
(1) So sánh giữa thực tế đạt được của dự án với kế hoạch dự án:
Phương pháp này chủ yếu được dùng để đánh giá kết quả của dự án. Kế hoạch
dùng để so sánh trong đánh giá dự án là kế hoạch ban đầu và các kế hoạch đã
điều chỉnh qua từng giai đoạn thực hiện dự án. Cần nắm vững mục tiêu
chung, mục tiêu cụ thể, kết quả các hoạt động của dự án và những giả sử quan
trọng cho sự thành công của dự án đã ghi ở trong kế hoạch. Thực tế đạt được
của dự án là những kết quả, bằng chứng thực tế có ở vùng dự án. Những kết
quả này bao gồm những kết quả đạt được ở cấp dự án, ở phạm vi cá nhân,
nhóm hưởng lợi, cấp cộng đồng và cấp vùng dự án hay cả xã hội. Khi so sánh
cần xem xét trong bối cảnh cụ thể (thời điểm, vấn đề liên quan đến việc thực
hiện dự án). Các chỉ tiêu dùng so sánh phải đồng nhất giữa thực tế và kế
hoạch dự án và phải định lượng hoặc định tính. Phương pháp này đòi hỏi phải
làm tốt công tác kế hoạch trong tổ chức chỉ đạo thực hiện dự án và phải đánh
gia khách quan, khoa học kết quả đạt được của dự án.
(2) So sánh lợi ích và chi phí: Phương pháp này dùng để đánh giá tác
động của dự án. Nó không đơn thuần là so sánh giữa thu và chi như những
đánh giá thông thường trong khoa học kinh tế mà là sự so sánh giữa lợi ích và
chi phí. Lợi ích của dự án bao gồm lợi ích trực tiếp và lợi ích gián tiếp, lợi ích
trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích trực diện và lợi ích ẩn, lợi ích đồng bộ và
lợi ích cục bộ, lợi ích của cá nhận cũng như lợi ích cảu cộng đồng và xã hội.
Chi phí của dự án cũng được xem xét ở các khía cạnh như xem xét lợi ích của
dự án (trực tiếp - gián tiếp; trước mắt - lâu dài; trực diện - ẩn; cục bộ - đồng
bộ; cá nhân - cộng đồng và xã hội). Lợi ích và chi phí của dự án đôi khi được
phân loại thành ba nhóm, đó là: lợi ích và chi phí về kinh tế, xã hội và môi

trường. Phương pháp này đòi hỏi phải có chuyên môn, biết phương pháp xác
định và lượng hoá các chi phí và lợi ích dự án và có cách nhìn hệ thống.

18


(3) So sánh trước và sau khi có dự án: đây thực chất là so sánh lợi ích
mà chúng ta thu được ở vùng dự án sau khi có dự án với tình hình trước khi
có dự án. Khi áp dụng phương pháp này cần lưu ý: nắm được tình hình trước
khi làm dự án phát triển nông thôn (tình hình khó khăn, kết quả sản xuất, hiệu
quả; tình hình kinh tế, thu nhập, mức đáp ứng nhu cầu về lương thực, thực
phẩm, tình trạng việc làm; tình hình xã hội, nhất là sự nghèo đói và tình hình
môi trường); xác định tình hình sau khi có dự án tương ứng với nội dung thể
hiện trong tình hình trước khi có dự án. Phương pháp này được áp dụng khi
vùng dự án phải có số liệu cơ bản ban đầu trước khi làm công trình dự án ở
cấp hộ, cấp cộng đồng và cấp vùng.
(4) Phương pháp so sánh vùng có dự án và vùng không có dự án: ở
phương pháp này, yếu tố thời gian là cố định, nhưng biến đổi về không gian.
Nghĩa là số liệu so sánh phải cùng thời điểm nhưng khác nhau về địa điểm
giữa vùng có dự án và vùng chưa có dự án. Vùng chưa có dự án là vùng phải
có điều kiện về kinh tế tương tự như vùng có dự án nhưng chỉ khác là chưa có
công trình dự án. Điều kiện tương tự bao gồm điều kiện tự nhiên (đất đai), sản
xuất (cơ cấu cây trồng, vật nuôi...), điều kiện xã hội (tập quán sản xuất...).
Vùng chưa có dự án được chọn mang tính linh hoạt tuỳ theo phạm vi so sánh
của “vùng dự án” (có thể là vùng kinh tế lãnh thổ, một tỉnh, một huyện, một xã,
một thôn, xóm, một cánh đồng hay một nhóm nông dân tham gia vào dự án).
2.4.3.2 Tổ chức đánh giá tác động dự án
(1) Xác định mục đích đánh giá dự án: tuỳ mục đích đánh giá mà có
các loại đánh giá dự án khác nhau.
(2) Xác định nội dung và phương pháp đánh giá: từ nội dung đánh giá,

mới xác định được phương pháp đánh giá phù hợp. Trong công tác đánh giá
đặc biệt là đánh giá tác động, phần phương pháp cần thực hiện: chọn điểm
đánh giá; thu thập số liệu đã công bố và có liên quan đến dự án và vùng dự
án; thu thập số liệu mới (chọn mẫu điều tra, PRA, RRA). Đặc biệt lưu ý sử

19


dụng phương pháp PRA trong đánh giá dự án vì các dự án phát triển nông
thôn luôn luôn đòi hỏi sự tham gia của người dân ở tất cả các giai đoạn trong
một chu trình dự án.
(3) Hình thành nhóm đánh giá: nhóm đánh giá phải gồm các cán bộ có
các chuyên môn khác nhau, liên ngành (như kỹ thuật nông nghiệp, kinh tế, xã
hội học, văn hoá, y tế...). Các cán bộ đánh giá dự án phải nắm vững mục đích,
phương pháp đánh giá, am hiểu dự án. Mặt khác phải có đại diện nhóm hưởng
lợi, nhóm bị ảnh hưởng và các cơ quan phối hợp tham gia trong đánh giá dự
án. Có vậy, các ý kiến đánh giá mới khách quan và đầy đủ. Nên chia nhóm
đánh giá thành các nhóm nhỏ dựa trên nội dung đánh giá. Các nhóm nhỏ này
sẽ thực hiện đánh giá từng mục tiêu hay từng hoạt động cụ thể,
(4) Lập kế hoạch đánh giá dự án: cần lập kế hoạch dự án. Kế hoạch
này cần được phổ biến tới từng thành viên của nhóm đánh giá và các bên
tham gia đánh giá.
(5) Tiến hành đánh giá dự án: khi đánh giá, nhóm đánh giá đóng vai
trò tư vấn, phát huy cao độ sự tham gia của dân để họ tự đánh giá, khẳng định
những lợi ích và những bất lợi mà họ nhận thấy được khi tham gia vào dự án.
(6) Tổng hợp số liệu và báo cáo đánh giá dự án: sau khi đánh giá ở
hiện trường về cần chỉnh lý lại số liệu, có thể phải xây dựng cơ sở dữ liệu
nhất là cho các hoạt động đánh giá bằng phiếu điều tra, phỏng vấn. Thực hiện
phân tích số liệu theo mục tiêu đánh giá, hình thành báo cáo đánh giá. Một
báo cáo cần có các phần: đặt vấn đề; mục tiêu của báo cáo; nội dung dự án

được đánh giá; kết quả đạt được của dự án; lợi ích và chi phí của dự án; tác
động của dự án; bài học kinh nghiệm, kết luận và đề nghị.

20


2.5 CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ CÁC DỰ ÁN XÂY DỰNG KHẢ NĂNG
CHỐNG ĐỠ CỦA CỘNG ĐỒNG VỚI THẢM HỌA CỦA CÁC TỔ CHỨC
PHI CHÍNH PHỦ TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
2.5.1 Dự án xây dựng khả năng chống đỡ của cộng đồng với thảm họa
của các tổ chức phi chính phủ trên thế giới
2.5.1.1 Một số dự án trên thế giới
(1) Dự án xây dựng khả năng phòng chống lũ lụt thông qua trồng rừng
ở Barmer Rajasthan, Ấn Độ.
Năm 2002, các trận lũ xảy ra đã làm mất nhà cửa của hơn 30 triệu
người ở Ấn Độ. Ở khu vực Barmer Rajasthan là khu vực thượng nguồn, rừng
ở đây đã bị khai thác với diện tích lớn nên mật độ lũ ngày càng tăng.
Mục tiêu của dự án là xây dựng khả năng phòng chống thiên tai cho
cộng đồng, trên cơ sở hạn chế ảnh hưởng của lũ ở khu vực thượng nguồn.
Theo gợi ý của cộng đồng dân cư ở đây thì người dân sống chủ yếu phụ
thuộc vào rừng nên EC đã tài trợ để hỗ trợ người dân về giống, kĩ thuật trồng
rừng, các vật liệu cần thiết và hỗ trợ họ một nguồn vốn vay không lãi suất để
phát triển mô hình vườn-ao-chuồng-rừng hoặc các hình thức nông lâm nghiệp
kết hợp khác. Tập huấn cho người dân về tác động tích cực của rừng đối với
kiểm soát tác động xấu của lũ lụt, thành lập các quỹ phòng chống lũ lụt thông
qua trồng rừng ở các nhóm xã hội để hỗ trợ người dân về lâu dài.
(2) Dự án thiết lập hợp tác phòng chống thiên tai trước rủi ro lũ lụt và
động đất ở Bănglađét
Năm 2000, lũ lụt xảy ra ở Bănglađét đã làm mất chỗ ở của hơn 5 triệu
người mà đa phần là người nghèo ở các vùng nông thôn. Khu vực kè

Brahmaputrah dẫn nước lũ của sông, tránh cho sông khỏi bị chảy tràn, bên bờ
trái có những khu vực chưa được kè đã gây ra hậu quả nghiêm trọng khi lũ
đến như nước tràn vào và gây ngập trên diện rộng, làm tăng đột ngột mức xói
mòn bên bờ trái của sông.

21


Mục tiêu của dự án là nâng cao khả năng chống đỡ của cộng đồng
thông qua kiên cố hóa cơ sở hạ tầng giảm nhẹ tác động của thiên tai.
Năm 2001, tổ chức ActionAid đã viện trợ để bê tông hóa kè
Brahmaputrah, bên cạnh đó tiến hành hướng dẫn cho người dân tầm quan
trọng của việc kiên cố hóa và bảo vệ kè, huy động đóng góp của cộng đồng
vào việc kiên cố hóa kè, cũng như tập huấn kinh nghiệm ứng phó nhanh với
các rủi ro có thể xảy ra khi các tác động của lũ không thể kiểm soát được.
Đồng thời dự án này còn tạo ra mạng lưới phòng chống thiên tai rộng lớn dựa
trên các tổ chức cộng đồng nhằm đánh giá kịp thời các thiệt hại do thiên tai
gây ra, tình trạng dễ bị tổn thương và khả năng của cộng đồng, tiến hành tập
huấn các hoạt động khẩn cấp như dự đoán và cảnh báo lũ, gia cố cơ sở hạ tầng
để ứng phó với lũ, cứu trợ, sơ tán, chăm sóc y tế, vệ sinh môi trường,...
(3) Dự án tái thiết khẩn cấp cho các vùng lũ lụt ở Jakata - Inđônêxia:
Tháng 2 năm 2002, lũ lụt đã quét qua Jakata với mức nước kỉ lục, mực
nước dâng làm ngập hầu hết mái nhà của các cộng đồng dân cư khu vực ngoại
ô. Ngay trong thời điểm đó, EC đã tài trợ khẩn cấp cho các đội tình nguyện
viên ở đây xuồng máy, áo phao cứu sinh để tiến hành hoạt động cứu hộ, bên
cạnh đó cung cấp lương thực, thực phẩm, các nhu yếu phẩm cần thiết như
chăn, màn, thuốc men,...tổ chức chăm sóc y tế khẩn cấp và tiến hành làm sạch
môi trường sau lũ để giúp người dân ổn định cuộc sống.
2.5.1.2 Kinh nghiệm rút ra từ các dự án trên
(1) Huy động tối đa sự tham gia của người dân: người dân tại cộng

đồng được khuyến khích, hướng dẫn tham gia vào các hoạt động liên quan
đến đánh giá hiểm họa, tình trạng dễ bị tổn thương và khả năng, xây dựng kế
hoạch phòng ngừa thảm họa tại địa phương bao gồm cả lựa chọn biện pháp
giảm nhẹ rủi ro phù hợp. Bên cạnh việc tham gia đóng góp ý kiến, kinh
nghiệm thì người dân cần được huy động vào các hoạt động của dự án từ

22


tham gia đóng góp công lao động, đóng góp vật chất, kiểm tra, giám sát, đánh
giá hay quản lý dự án.
(2) Ưu tiên cho những người dễ bị tổn thương nhất: những người dễ bị
tổn thương thường là những người nghèo, những người nằm trong khu vực bị
ảnh hưởng nghiêm trọng như những người dân vùng thượng nguồn Ấn Độ
hay cư dân nghèo ngoại ô Jakata - Inđônêxia. Các dự án cần hướng tới các đối
tượng dễ bị tổn thương trên. Những người dễ bị tổn thương nhất có cơ hội
tham gia vào các hoạt động quản lý thảm họa tại địa phương, họ được hỗ trợ
trong các hoạt động nhằm giảm bớt tình trạng dễ bị tổn thương đồng thời
nâng cao khả năng ứng phó thảm họa của chính họ.
(3) Cộng đồng tự xác định các biện pháp giảm nhẹ rủi ro: các biện
pháp giảm nhẹ rủi ro cần được chính người dân trong địa phương mình tìm ra,
lựa chọn cho phù hợp và cụ thể đối với yêu cầu cảu địa phương. Tại các khu
vực có dự án trên, cộng đồng xây dựng phương án phòng chống thiên tai, có
thể kết hợp xây dựng sinh kế với phòng chống thiên tai như các mô hình nông
lâm nghiệp kết hợp ở Ấn Độ.
(4) Lồng ghép các hoạt động giảm nhẹ rủi ro với các hoạt động phát
triển khác: trong kế hoạch phát triển kinh tế tại địa phương, phát triển cộng
đồng cần được gắn liền với các biện pháp giảm nhẹ rủi ro.
(5) Các tổ chức, cá nhân ngoài cộng đồng đóng vai trò hỗ trợ trong
quản lý thảm họa dựa vào cộng đồng: các tổ chức, cá nhân ngoài cộng đồng

đóng vai trò chủ chốt trong việc hỗ trợ và hướng dẫn người dân địa phương
trong các hoạt động quản lý thảm họa. Các cộng đồng dễ bị tổn thương là
những cộng đồng yếu thế, thiếu tính chủ động, nên cần thiết phải có sự hỗ trợ
can thiệp của các tổ chức, cá nhân ngoài cộng đồng để hướng dẫn, gợi mở,
thu hút sự tham gia của cộng đồng, tăng sự tự tin và năng lực, kĩ năng làm
việc cho cộng đồng.

23


2.5.2 Dự án xây dựng khả năng chống đỡ của cộng đồng với thảm họa tại
Việt Nam
Dự án DIPECHO / DWF - Ủy ban Châu ÂU tài trợ
Mục tiêu
Nhằm giảm nhẹ tình trạng dễ bị tổn thương về nhà cửa của các hộ gia
đình và các cộng đồng do thiên tai ở tỉnh Thừa Thiên Huế. Dự án hướng tới
hỗ trợ xây dựng và gia cố nhà cho những nạn nhân bị ảnh hưởng thiên tai.
Các hoạt động cụ thể (Chương trình triển khai từ năm 2006-2008)
Ở cấp tỉnh, huyện: Ban phòng chống bão lụt tỉnh tìm hiểu và cảnh báo,
trao đổi thông tin về phòng ngừa thảm họa với các huyện thông qua hoạt động
của hệ thống cổng giao tiếp điện tử. Phát triển các dụng cụ và kĩ năng thiết kế
bản đồ nguy cơ và đối ứng với thiên tai.
Ở cấp xã: Ban “mạng lưới phòng ngừa xã” bao gồm đại diện 5 xã đã có
kinh nghiệm trong công tác phòng ngừa thiên tai, Ban này điều hành các
chương trình Phòng ngừa thiên tai cho 14 xã ở tỉnh Thừa Thiên Huế. Mạng
lưới này tạo cơ hội cho các xã trao đổi, học hỏi kinh nghiệm. Các hoạt động
tuyên truyền cấp xã, thôn nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của hoạt
động phòng ngừa.
Các đặc điểm về gia cố phòng chống đã được áp dụng vào gia cố nhà ở
và các chương trình nhà tạm tiến hành cho các hộ gia đình được hưởng lợi

trong mỗi xã.
Đối tượng hưởng lợi
Phân chia đối tượng hưởng lợi theo từng nhóm tuổi:
Trẻ em 0 – 19
46%

Nữ 20 – 49
20%

Nam 20 – 49
20%

Người già trên 50
14%

Dự án hướng mục tiêu là các gia đình nghèo và dễ bị tổn thương. Phụ
nữ tham gia đáng kể vào các hoạt động của dự án, và 40% gia đình hưởng lợi
về gia cố nhà ở có chủ hộ là phụ nữ. Họ tham gia tích cực vào các hoạt động
thông tin tuyên truyền, chia sẻ kinh nghiệm của họ.

24


Nhóm gia đình là trung tâm của việc thực hiện quá trình giảm nguy cơ
dựa vào gia đình. Các gia đình trong cộng đồng và các gia đình hưởng lợi
tiềm năng trong một thôn/làng cùng nhau lựa chọn các gia đình sẽ được dự án
hỗ trợ trực tiếp. Mọi người tham gia vào các quyết định về những gia đình
nào cần được ưu tiên hỗ trợ và vay vốn tín dụng. Khi nhóm được thành lập,
các gia đình hỗ trợ trong việc quản lý nguồn vốn tín dụng hỗ trợ gia cố nhà ở,
và họ tham gia vào việc đánh giá cùng với DW những việc cần làm. Thông

qua kinh nghiệm có được từ dự án, các gia đình trở thành đầu mối cho việc
chia sẻ thông tin và kinh nghiệm. Một người trưởng nhóm được lựa chọn để
đại diện cho các ý kiến của nhóm gia đình ở cấp xã.
Dự án cùng với các gia đình cho thấy rằng các ngôi nhà hiện tại có thể
được gia cố một cách đơn giản và hiệu quả theo một phương pháp phù hợp
với các thị hiếu và sở thích thị giác địa phương. Các gia đình luôn luôn đóng
góp cả hiện vật và tài chính cho các chi phí gia cố nhà ở.
Lựa chọn đối tượng hưởng lợi
Quá trình chung: danh sách nhà tạm do xã lựa chọn với tiêu chí lựa
chọn dựa vào nhà và gia đình; danh sách các hộ gia đình tình nguyện cho
chương trình gia cố nhà ở; thảo luận ở cấp thôn các gia đình có ở trong danh
sách các gia đình ưu tiên; quyết định về các hạng mục cần thực hiện và sự hỗ
trợ cần có.
Các tiêu chí lựa chọn gia đình hưởng lợi trực tiếp: nhà có nhu cầu xây
mới (kết cấu nhà rất yếu và không thể nâng cấp); nhà có nhu cầu sửa chữa
(phần kết cấu, tường…vẫn còn có thể sử dụng nhưng yếu); khả năng đóng
góp trực tiếp hoặc gián tiếp (một phần từ gia đình) để thực hiện việc xây
dựng; khả năng chi trả một phần cho công việc; ưu tiên dành cho các gia đình
có chủ hộ là phụ nữ; các gia đình được lựa chọn trên cơ sở không có nguy cơ
dẫn đến mâu thuẫn trong xóm hoặc thôn; các gia đình hưởng lợi phải có tinh
thần đoàn kết và sẵn sang chia sẻ thông tin về dự án của DW.

25


×