Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Thực trạng giải quyết việc làm cho lao động nông thôn sau khi bị thu hồi đất để xây dựng khu liên hợp lọc hoá dầu nghi sơn trên địa bàn xã hải yến, huyện tĩnh gia, tỉnh thanh hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (525.68 KB, 107 trang )

Nguyễn Thị Hằng KTNNB-K51

PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm cho lao động nông thôn luôn là vấn đề bức xúc có tính toàn cầu,
là mối quan tâm lớn của nhân loại nói chung và của mỗi quốc gia nói riêng
trong đó có Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam đang có nhiều khởi sắc, thu
nhập quốc dân hàng năm tăng lên đáng kể, đời sống nhân dân không ngừng
được cải thiện, an ninh được đảm bảo, chính trị tương đối ổn định, cùng với
những mặt tốt đó thì tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm lại diễn ra trên
phạm vi rộng và có xu hướng ngày càng tăng.
Hiểu rõ tầm quan trọng của việc giải quyết việc làm đối với lao động nông
thôn. Nghị quyết Đại Hội Đảng lần IX đã khẳng định “ Giải quyết việc làm là
yếu tố quyết định để phát huy yếu tố con người, ổn định và phát triển kinh tế,
làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc
của nhân dân”. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách nhằm giải
quyết việc làm nhưng đến nay tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm ở khu vực
nông thôn nước ta đang diễn ra gay gắt. Bên cạnh đó, quá trình phát triển kinh
tế - xã hội tất yếu dẫn đến việc đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá, nhiều khu công
nghiệp, khu kinh tế ra đời dẫn đến đất đai bị chuyển đổi mục đích sử dụng,
hầu hết đất bị thu hồi là đất nông nghiệp của các hộ dân, từ đó là nảy sinh một
số vấn đề xã hội như: việc làm, an ninh trật tự, vệ sinh môi trường...
Hải Yến là xã ven biển nằm ở phía nam của huyện Tĩnh Gia, giáp với nhà
máy xi măng Nghi Sơn. Là một trong số xã hiện đang diễn ra quá trình
chuyển đổi mục đích sử dụng ruộng đất trên quy mô rộng lớn. Hầu hết diện
tích đất nông nghiệp của xã được thu hồi để xây dựng khu liên hiệp hoá lọc
dầu Nghi Sơn, thuộc kinh tế Nghi Sơn. Nhiều hộ nông dân sau khi đất bị thu
hồi đã chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang hoạt động kinh doanh dịch vụbuôn bán. Bên cạnh đó, việc xây dựng khu kinh tế cũng tạo ra những khó

1




Nguyễn Thị Hằng KTNNB-K51

khăn khi việc thu hồi đất đồng nghĩa với việc người dân mất đi tư liệu sản
xuất quan trọng của mình và không có khả năng chuyển đổi việc làm dẫn đến
tình trạng thất nghiệp, tệ nạn xã hội gia tăng.
Từ những thực tế trên, để biết được quá trình thu hồi đất phục vụ cho việc
xây dựng nhà máy lọc hoá dầu Nghi Sơn làm thay đổi như thế nào đến việc
làm, thu nhập của lao động trong xã? Chúng tôi đi vào nghiên cứu đề tài:
“Thực trạng giải quyết việc làm cho lao động nông thôn sau khi bị thu
hồi đất để xây dựng khu Liên hợp Lọc hoá dầu Nghi Sơn trên địa bàn xã
Hải Yến, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu thực trạng thu hồi đất xây dựng khu liên hiệp lọc hoá dầu
Nghi Sơn đến việc làm của lao động trong xã, trên cơ sở đó đề xuất một số
giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm tạo điều kiện nâng cao thu nhập,
ổn định đời sống người dân trong xã Hải Yến, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh
Hoá.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về việc làm và giải
quyết việc làm cho lao động nông thôn sau khi bị thu hồi đất.
- Tìm hiểu thực trạng lao động, việc làm và giải quyết việc làm cho lao
động nông thôn trong xã Hải Yến, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá trước và
sau khi bị thu hồi đất để xây dựng Khu Liên hợp Lọc hoá dầu (LHD) Nghi
Sơn .
- Tìm hiểu các chính sách hỗ trợ việc làm cho lao động nông thôn sau
thu hồi đất đã và đang được thực hiện tại xã.
- Đế xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm, nâng cao

thu nhập cho lao động nông thôn ở xã Hải Yến, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh
Hoá.

2


Nguyễn Thị Hằng KTNNB-K51

1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
-Tình hình mất đất sản xuất của các hộ nông dân xã Hải Yến.
- Việc làm của lao động nông thôn trong độ tuổi lao động sau khi bị thu
hồi đất xây dựng Khu liên hợp LHD Nghi Sơn ở xã Hải Yến huyện Tĩnh Gia
tỉnh Thanh Hoá.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
-Phạm vi không gian: Đề tài được tiến hành nghiên cứu tại xã Hải Yến
huyện Tĩnh Gia tỉnh Thanh Hoá.
-Phạm vi thời gian:
+ Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu số liệu trước và sau khi diễn ra
quá trình thu hồi đất (số liệu từ năm 2005 đến năm 2009)
+ Thời gian thực hiện đề tài: từ 23/01/2010 đến 23/05/2010.
- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu thực trạng lao động, việc làm của các
hộ nông dân bị thu hồi đất để xây dựng khu Liên hợp Lọc hoá dầu Nghi Sơn.
Phương hướng giải quyết việc làm để ổn định và nâng cao mức sống của
người dân bị thu hồi đất tại xã Hải Yến, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá.

3


Nguyễn Thị Hằng KTNNB-K51


PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận liên quan đến việc làm và lao động nông thôn
2.1.1 Khái niệm việc làm và người có việc làm:
2.1.1.1 Việc làm:
Để hiểu rõ khái niệm việc làm và người có việc làm, trước hết ta cần tìm
hiểu khái nhiệm về nguồn lao động.
Nguồn lao động bao gồm toàn bộ những người trong độ tuổi lao động có
khả năng lao động, không kể đến trạng thái có việc làm hay không có việc làm,
nhưng có nhu cầu làm việc. Nguồn lao động cũng bao gồm cả những người trên
hoặc dưới tuổi lao động có tham gia lao động.
Mỗi nước có quy định riêng về độ tuổi lao động. Hiện nay trong Bộ luật
lao động nước ta quy định là: nam từ 15 – 60 tuổi, còn nữ từ 15 – 55 tuổi. Về
người trên tuổi lao động quy đổi, thì cứ hai người bằng một người trong tuổi lao
động, còn người dưới tuổi lao động (chỉ tính từ 13 – 14 tuổi) cứ ba người từ 13 –
14 tuổi được tính bằng một người trong tuổi lao động.
Việc làm, thiếu việc làm, thất nghiệp là một trong những vấn đề có tính
chất toàn cầu, là mối quan tâm của hầu hết các quốc gia, bởi nó ảnh hưởng trực
tiếp đến sự phát triển của một đất nước. Tăng việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp là
một trong những biện pháp quan trọng để từng bước ổn định và nâng cao đời
sống nhân dân, đảm bảo phát triển bền vững. Đặc biệt là đối với Việt Nam, tốc
độ tăng dân số, nguồn lao động cao, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo mở
việc làm bị hạn chế do khả năng cung về vốn, tư liệu sản xuất còn thấp.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu đưa ra khái niệm việc làm theo các
khía cạnh khác nhau:
* Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì khái niệm việc làm chỉ đề cập
đến trong mối quan hệ với lực lượng lao động. Khi đó, việc làm được phân
thành hai loại: Có trả công (những người làm thuê, học việc...) và không được


4


Nguyễn Thị Hằng KTNNB-K51

trả công nhưng vẫn có thu nhập (giới chủ làm kinh tế gia đình…). Những người
đang làm việc trong lực lượng vũ trang cũng được coi là có việc làm. Vì vậy,
việc làm được coi là hoạt động có ích mà không bị pháp luật ngăn cấm có thu
nhập bằng tiền (hoặc bằng hiện vật). Những người có việc làm là những người
làm một việc gì đó có được trả công, lợi nhuận, được thanh toán bằng tiền hoặc
hiện vật, hoặc tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi
ích hay vì thu nhập của gia đình, không được nhận tiền công (hiện vật). Khái
niệm này đã được chính thức nêu tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 (ILO.1993) và
đã được áp dụng ở nhiều nước.
Ở nước ta trong thời kì bao cấp. Nhà nước đã đứng ra giải quyết việc làm,
trực tiếp quản lý nguồn lao động kể từ khâu đào tạo, phân bổ theo chỉ tiêu pháp
lệnh đến việc sử dụng và đãi ngộ đối với người lao động. Trong giai đoạn ấy,
những khái niệm thiếu việc làm, lao động dư thừa, việc làm không đầy đủ… hầu
như không được biết đến. Còn khái niệm thất nghiệp dưới bất kì hình thức nào
cũng bị coi là điều cấm kỵ. Trong nền kinh tế quốc dân, xu hướng quốc doanh
hoá được coi là một điều tất yếu. Hướng phấn đấu của mọi cơ sở sản xuất là
chuyển nhanh vào khu vực quốc doanh để mang nhãn hiệu là “ thành phần kinh
tế XHCN”. Còn đối với mỗi công dân là đứng vào đội ngũ viên chức của Nhà
nước. Do đó việc làm và người có việc làm được xã hội thừa nhận và trân trọng
là những người làm việc trong thành phần kinh tế quốc doanh, khu vực Nhà
nước và kinh tế tập thể.
Khi chuyển sang nền kinh tế hành hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thì những quan điểm đó không còn
phù hợp nữa. Quan điểm về việc làm cần được hiểu là “ Hoạt động lao động
không bị pháp luật ngăn cấm tạo ra thu nhập hoặc tạo điều kiện cho các thành

viên trong hộ gia đình có thêm thu nhập”. Điều này cũng phù hợp với quy định
trong điều 13 của Bộ luật lao động Việt Nam.

5


Nguyễn Thị Hằng KTNNB-K51

* Điều 13, chương II (việc làm) Bộ luật lao động của nước ta: “Mọi hoạt
động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật ngăn cấm đều được
thừa nhận là việc làm”.
Theo khái niệm trên, một hoạt động được coi là việc làm cần thoả mãn
hai điều kiện:
Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động và
cho các thành viên trong gia đình. Điều này chỉ rõ tính chất hữu ích và nhấn
mạnh tiêu thức tạo ra thu nhập của việc làm.
Thứ hai, hoạt động đó không bị phấp luật ngăn cấm. Điều này chỉ rõ tính
pháp lý của việc làm. Hoạt động có ích không giới hạn về phạm vi, ngành nghề
và hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của thị truờng lao động ở Việt Nam trong
quá trình phát triển kinh tế nhiều thành phần. Người lao động hợp pháp ngày nay
được đặt vào vị trí chủ thể, có quyền tự do hành nghề, tự do liên doanh liên kết,
tự do tìm kiếm việc làm, tự do thuê mướn lao động trong khuôn khổ của pháp
luật, không bị phân biệt đối xử dù làm việc trong hay ngoài khu vực Nhà nước.
Điều này khẳng định tính chất pháp lý trong hoạt động của người lao động thuộc
khu vực ngoài Nhà nước và các khu vực phi chính thức.
Hai tiêu thức đó có quan hệ chặt chẽ với nhau và là điều kiện cần và đủ để
một hoạt động lao động được thừa nhận là việc làm. Nếu một hoạt động tạo ra
thu nhập nhưng vi phạm pháp luật như buôn lậu, trộm cắp…thì không được thừa
nhận là việc làm.
* Theo giáo trình kinh tế lao động của Trường Đại học Kinh tế quốc dân

Hà Nội, khái niệm việc làm được hiểu là sự kết hợp giữa sức lao động với tư
liệu sản xuất nhằm biến đổi đối tượng lao động theo mục đích của con người.
Như vậy, khái niệm việc làm có thể hiểu là hoạt động lao động của con
người nhằm mục đích tạo ra thu nhập và hoạt động này không bị pháp luật
ngăn cấm.

6


Nguyễn Thị Hằng KTNNB-K51

2.1.1.2 Các hình thức việc làm:
Những hoạt động việc làm biểu hiện dưới các hình thức:
- Làm những công việc được trả công lao động dưới dạng bằng tiền hoặc
hiện vật hoặc đổi công.
- Các công việc tự làm (tự sản xuất, kinh doanh) để thu lợi nhuận.
- Làm các công việc sản xuất, kinh doanh cho gia đình mình không nhận
tiền công hay lợi nhuận.
Ngoài ra, các hình thức việc làm còn thường được xem xét theo các góc
độ sau đây:
- Tính chất địa lý của việc làm: Việc làm khu vực nông thôn, thành thị,
vùng kinh tế (vùng lãnh thổ, vùng kinh tế trọng điểm).
- Tính chất kỹ thuật của việc làm: Từ tính chất đặc thù về kỹ thuật và
công nghệ của việc làm có thể phân biệt việc làm theo ngành, nghề khác nhau
(việc làm ngành nghề cơ khí, dệt, may, chế biến thực phẩm…).
- Tính chất thành thạo của việc làm: việc làm giản đơn (phổ thông), việc
làm có chuyên môn, kỹ thuật (việc làm đòi hỏi có kiến thức, kỹ năng), việc làm
trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao.
- Tính chất kinh tế của việc làm: Vị trí của việc làm trong hệ thống quản
lý lao động như: việc làm quản lý, công nhân, nhân viên…

- Điều kiện lao động của việc làm: Việc làm đảm bảo an toàn - vệ sinh lao
động, việc làm không đảm bảo an toàn - vệ sinh lao động.
- Tính chất di động của việc làm: Việc làm có tính di động cao (mức độ
cao về thay đổi nghề nghiệp, khả năng kiêm nhiều nghề, khả năng thay đổi thứ
bậc trong công việc…).
- Tính chất đàng hoàng của việc làm: Việc làm đàng hoàng và việc làm
không đàng hoàng.
Việc làm đàng hoàng là việc làm trong đó người lao động được đảm bảo
các điều kiện:

7


Nguyễn Thị Hằng KTNNB-K51

+ Được tạo điều kiện để tiếp nhận những tiến bộ kỹ thuật công nghệ;
+ Thoả mãn với môi trường làm việc (đảm bảo được sức khoẻ, vệ sinh,an
toàn lao động);
+ Được nhận thù lao tương xứng với sức lao động bỏ ra;
+ Có tiếng nói tại nơi làm việc và cộng đồng;
+ Cân bằng được công việc với đời sống gia đình;
+ Có điều kiện đảm bảo học hành cho con cái;
+ Có điều kiện cạnh tranh lành mạnh trên thị trường lao động.
2.1.1.3 Phân loại việc làm:
Căn cứ vào thời gian thực hiện công việc, việc làm có thể được phân
chia thành các loại:
- Việc làm chính và việc làm tạm thời: căn cứ vào số thời gian có việc
làm thường xuyên trong một năm.
- Việc làm đủ thời gian và việc làm không đủ thời gian: căn cứ vào số
giờ làm việc trong một tuần.

- Việc làm chính và việc làm phụ: căn cứ vào khối lượng thời gian hoặc
mức độ thu nhập trong việc thực hiện một công việc nào đó .
Trong đề tài, việc làm chính của lao động trong hộ là việc làm có số
ngày công trung bình thực hiện trong một tháng là lớn nhất.
2.1.1.4 Thiếu việc làm:
Thiếu việc làm hay còn gọi là bán thất nghiệp hoặc thất nghiệp trá hình, là
những người làm việc ít hơn mức mà mình mong muốn.
Thiếu việc làm được biểu hiện dưới hai dạng là người lao động không có
đủ việc làm theo thời gian quy định trong tuần, trong tháng hoặc làm những
việc có thu nhập quá thấp không đảm bảo cuộc sống nên muốn làm việc thêm
để có thu nhập.

8


Nguyễn Thị Hằng KTNNB-K51

2.1.1.5 Thất nghiệp:
Về khái niệm thất nghiệp chúng tôi thống nhất với quan điểm của ILO:
"Thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một người trong lực lượng lao động
muốn tìm được việc làm ở mức tiền công đang thịnh hành"
Như vậy người thất nghiệp là người mang 3 đặc trưng cơ bản: có khả
năng lao động,có nhu cầu làm việc và chưa tìm được việc làm.
* Người không có nhu cầu làm việc:
Những người không thuộc lực lượng lao động bao gồm các đối tượng từ
đủ 15-60 tuổi đang đi học, làm nội trợ, không có nhu cầu làm việc, những
người mất khả năng lao động do ốm đau, bệnh tật.
2.1.1.6 Người có việc làm, người thiếu việc làm và người thất nghiệp:
* Người có việc làm:
- Ở nước ta trong thời kỳ quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá

tập trung trước đây, quan niệm người có việc làm là người nằm trong biên chế
nhà nước hoặc làm việc trong hợp tác xã . Tuy nhiên, hiện nay quan niệm này
đã thay đổi phù hợp với khái niệm về việc làm.
- Tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13, các nhà thống kê về lao động của ILO
đã đưa ra quan niệm người có việc làm là người làm việc gì đó, có được trả
tiền công, lợi nhuận bằng tiền hay hiện vật hoặc tham gia vào các hoạt động
mang tính tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không nhận tiền
công hay hiện vật.
Dựa trên khái niệm tổng quát về người có việc làm của Tổ chức lao
động quốc tế, khi thu thập thông tin về người có việc làm, các nước đều đưa
ra điều kiện cụ thể về giới hạn thời gian làm việc, giới hạn tuổi và những
nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn tới tình trạng không làm việc trong
tuần lễ điều tra, nhưng họ sẽ tiếp tục trở lại làm việc trong thời gian nghỉ. Về
giới hạn thời gian làm việc thường phức tạp và rất khác nhau tuỳ thuộc vào
trình độ phát triển, mức sống và khả năng tạo thu nhập ở mỗi nước. Cơ sở xác

9


Nguyễn Thị Hằng KTNNB-K51

định các mức chuẩn này là căn cứ vào số giờ (hoặc số ngày công) tối thiểu
cần phải làm việc để đảm bảo một mức sống tối thiểu. Điều này có thể xác
định cho lao động trong khu vực kết cấu, làm công ăn lượng theo mức tiền
lương tối thiểu hiện hành. Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của đề tài thuộc
khu vực nông thôn, chủ yếu làm việc trong khu vực phi kết cấu nên chúng tôi
không căn cứ vào tiêu chí này để xác định người có việc làm phải làm đủ
chính xác bao nhiêu giờ (ngày công). Về giới hạn tuổi, để phù hợp với khái
niệm lực lượng lao động khái niệm người có việc làm trong đề tài được hiểu
là lao động từ 15-60 tuổi đang làm việc để hưởng tiền lương, tiền công hay lợi

nhuận hoặc đang tham gia các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ cho gia
đình mình không nhận tiền công hay lợi nhuận.
Từ khái niệm về việc làm và người có việc làm đã thống nhất trên đây,
dựa vào hình thức biểu hiện của việc làm chúng tôi đưa ra khái niệm về các
loại lao động theo hình thức làm việc như sau:
- Lao động làm công ăn lương: Lao động làm công hưởng lương là lao
động làm các công việc cho người khác hoặc cho tổ chức, cơ quan, đoàn thể,
doanh nghiệp, v.v… để được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật.
- Lao động tự làm là việc lao động thực hiện các công việc tự tạo ra (có
thể tạo việc làm cho cả người khác), tự hạch toán để thu lợi cho bản thân và
gia đình.
- Lao động làm kinh tế hộ là lao động làm cho cơ sở sản xuất kinh
doanh của hộ gia đình mình nhưng không hưởng tiền lương, tiền công.
Trong đề tài chúng tôi quan niệm tất cả những người đang làm việc trong
lĩnh vực nông nghiệp trong hộ thuộc hình thức lao động làm kinh tế hộ.
* Người thiếu việc làm:
Theo giáo trình “Kinh tế nguồn nhân lực” của Trường Đại học Kinh tế
quốc dân Hà Nội: Người thiếu việc làm bao gồm những người trong khoảng
thời gian xác định của cuộc điều tra có tổng số giờ làm việc nhỏ hơn số giờ quy

10


Nguyễn Thị Hằng KTNNB-K51

định trong tuần, trong tháng, hoặc trong năm và có nhu cầu làm thêm giờ; hoặc
là những người có tổng số giờ làm việc bằng số giờ quy định trong tuần, trong
tháng, trong năm nhưng có thu nhập quá thấp nên muốn làm thêm để có thu
nhập.
Theo hướng dẫn điều tra lao động việc làm của Bộ Lao Động – Thương

Binh và Xã Hội thì người thiếu việc làm bao gồm những người trong tuần lễ
điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 40 giờ, hoặc có số giờ làm việc nhỏ hơn
giờ quy định và có nhu cầu làm thêm giờ (trừ những người có số giờ làm việc
dưới 8 giờ, có nhu cầu làm việc mà không có việc làm).
* Người thất nghiệp:
Theo giáo trình “Kinh tế nguồn nhân lực” của Trường Đại học Kinh tế
quốc dân Hà Nội thì “Người thất nghiệp gồm những người trong khoảng thời
gian xác định của cuộc điều tra không có việc làm nhưng đang tích cực tìm
việc làm và có nhu cầu được làm việc”.
Tiêu thức để xác định người thất nghiệp là: đang không có việc làm; tích
cực tìm việc làm; có khả năng lao động và có nhu cầu được làm việc.
Theo tài liệu hưóng dẫn điều tra lao động việc làm của Bộ Lao Động –
Thương Binh và Xã Hội hàng năm thì khái niệm người thất nghiệp được hiểu
như sau:
Người thất nghiệp là người từ đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt
động kinh tế, mà trong tuần lễ điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu
được làm việc, cụ thể là:
- Có hoạt động đi tìm việc làm trong 4 tuần qua; hoặc không có hoạt động
đi tìm việc làm trong 4 tuần qua vì các lý do không biết tìm việc ở đâu hoặc tìm
mãi mà không được.
- Hoặc trong tuần lễ tính đến thời điểm điều tra có tổng số giờ làm việc
dưới 8 giờ, muốn và sẵn sàng làm thêm nhưng không tìm được việc làm.

11


Nguyễn Thị Hằng KTNNB-K51

2.1.2 Đặc điểm và vai trò của lao động nông thôn
2.1.2.1 Khái niệm về lao động nông thôn

Lao động nông thôn là lao động sản xuất trong khu vực nông thôn
nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của xã hội.
2.1.2.2 Đặc điểm của lao động nông thôn
Lao động nông thôn mang tính thời vụ: Vì sản xuất nông nghiệp luôn
chịu tác động của tự nhiên, cho nên có thời kỳ cần nhiều lao động nhưng có
thời kỳ lại cần ít lao động. Do đó, khả năng thu hút lao động trong nông
nghiệp, nông thôn là không đều, khác nhau trong từng giai đoạn sản xuất.
Lao động nông thôn ít chuyên sâu, trình độ thấp hơn so với trong công
nhiệp, trong sản xuất nông nghiệp có nhiều loại công việc, mang tính chất
khác nhau, một lao động có thể làm nhiều việc và nhiều lao động cũng có thể
làm được một việc. Chính vì vậy mà lao động nông nghiệp ít chuyên sâu hơn
lao động công nghiệp. Hơn nữa phần lớn lao động nông nghiệp mang tính phổ
thông, ít được đào tạo, sản xuất chủ yếu bằng kinh nghiệm là chính, nguồn lao
động chất xám không nhiều và phân bố không đều.
Lao động nông thôn có việc làm không ổn định và đa dạng, hoạt động
sản xuất nông nghiệp diễn ra trên phạm vi không gian rộng lớn lại phần lớn
phụ thuộc vào yếu tố tự nhiên, bởi vậy mà tính rủi ro trong nông nghiệp rất
cao. Do vậy, công việc của lao động nông thôn thường không ổn định và rất
bấp bênh.
Thu nhập của lao động nông nghiệp thấp hơn so với lao động trong các
ngành công nghiệp và dịch vụ. Năng suất lao động của khu vực sản xuất nông
nghiệp thấp, tình trạng gia tăng dân số, tình trạng thu hẹp diện tích đất sản
xuất nông nghiệp....
2.1.2.3 Vai trò của lao động nông thôn
Lao động là yếu tố quyết định mọi quá trình sản xuất. Trong quá trình
lao động, con người tiếp xúc với tự nhiên, có công cụ sản xuất và nắm được

12



Nguyễn Thị Hằng KTNNB-K51

kỹ năng lao động, đã làm thay đổi ngoại giới và đối tượng lao động cho phù
hợp với nhu cầu của mình.
Sử dụng và nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp không
những thúc đẩy nông nghiệp phát triển tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của đời sống nhân dân, cung cấp càng nhiều
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông sản và hàng hoá xuất khẩu mà
còn tạo điều kiện phân bố lại lao động, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế
quốc dân, thúc đẩy quá trình CNH – HĐH đất nước.
2.1.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến lao động nói chung và lao động nông thôn
nói riêng
* Thị trường lao động:
Chuyển đổi việc làm cho lao động mất việc làm do mất đất chịu sự tác
động lớn của xu hướng phát triển thị trường lao động địa phương, vùng và
liên vùng. Tại các vùng thị trường lao động phát triển mang tính thống nhất
cao, ít bị phân mảng, có sự hoạt động mạnh của quan hệ cung - cầu lao động,
môi trường thị trường lao động được thiết lập thuận lợi (hệ thống tư vấn, giới
thiệu việc làm...) thì cơ hội việc làm của lao động mất việc làm do chuyển đổi
mục đích sử dụng đất lớn hơn. Các mối liên hệ giữa thị trường lao động với
khả năng chuyển đổi việc làm của lao động mất việc làm do mất đất biểu hiện
ở:
- Hoạt động của quy luật cung - cầu sức lao động là điều kiện cơ bản để
lao động mất việc làm do chuyển đổi mục đích sử dụng đất, lựa chọn, tìm
kiếm việc làm phù hợp với khả năng chuyên môn - kỹ thuật của mỗi người.
- Sự liên kết thị trường lao động các địa phương trong vùng thúc đẩy sự
di chuyển sức lao động của các địa phương chuyển đổi mục đích sử dụng đất
dưới tác động của giá cả sức lao động.
- Thị trường lao động phát triển sẽ mở rộng được quy mô lao động làm
công ăn lương, tạo sức thu hút lao động nông nghiệp của các vùng chuyển đổi


13


Nguyễn Thị Hằng KTNNB-K51

mục đích sử dụng đất vào làm việc trong các lĩnh vực phi nông nghiệp (công
nghiệp, xây dựng, dịch vụ, thương mại).
- Cạnh tranh trên thị trường lao động có tác động kích thích lao động
mất việc làm do chuyển đổi mục đích sử đất tích cực tham gia đào tạo,
nâng cao kỹ năng, chuyển đổi nghề để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao
động và nâng cao thu nhập.
Như vậy, vai trò của thị trường lao động có tác động lớn đối với việc
chuyển đổi nghề cho lao động mất việc làm tại các vùng chuyển đổi mục đích
sử dụng đất. Do đó, thực hiện các giải pháp thúc đẩy sự phát triển hoạt động
lành mạnh của thị trường lao động các địa phương, thị trường lao động vùng
là nhân tố quan trọng để hỗ trợ cho việc chuyển đổi việc làm cho lao động bị
mất việc làm trong quá trình đô thị hoá.
* Trình độ học vấn:
Trình độ học vấn của người lao động trong các hộ gia đình bị thu hồi
đất có mối liên hệ với khả năng đào tạo chuyển đổi nghề, tìm việc làm mới, tự
tạo việc làm mới và nâng cao thu nhập sau khi bị mất việc làm do chuyển đổi
mục đích sử dụng đất. Trình độ học vấn của người lao động càng cao thì khả
năng tham gia đào tạo CMKT, chuyển đổi nghề, tạo việc làm mới, tìm việc
làm mới và nâng cao thu nhập cũng càng cao.
Để thống kê được tỷ lệ người lao động đã tìm được việc làm hay chưa
tìm được việc làm sau khi đất nông nghiệp bị thu hồi, Bộ Lao động – Thương
binh và Xã hội đã thực hiện cuộc điều tra với 2.249 hộ thuộc diện bị thu hồi
đất tại 15 tỉnh thuộc ba miền Bắc, Trung, Nam và thu được kết quả như sau:


14


Nguyễn Thị Hằng KTNNB-K51

Bảng 2.1 Số lượng lao động tìm được việc làm sau khi đất nông nghiệp bị
thu hồi và trình độ học vấn của lao động
ĐVT: người
Học vấn
Không biết đọc, viết
Chưa TN tiểu học
TN tiểu học
TN PTCS
TN THPT

Chưa có việc
Đã có việc
Số lượng
Tỷ lệ
Số lượng
Tỷ lệ
78
49,1
81
50,9
252
30,4
577
69,6
469

25,7
1356
74,3
1170
26,2
3288
73,8
950
32,8
1944
67,2
Nguồn: Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, 2005

Nhìn chung, trên cả về phương diện lý thuyết và thực tiễn thì khả năng
tìm được việc làm tăng lên theo trình độ học vấn, một tỷ lệ 50% số lao động
chưa biết đọc, biết viết không tìm được việc làm khi không còn đất sản xuất,
trong khi ở các cấp trình độ học vấn khác tỷ lệ này thấp hơn rất nhiều (2532%).
Một số nghiên cứu gần đây cũng cho thấy, % tăng thêm thu nhập đối
với mỗi năm đi học đạt được cao hơn ở những người có trình độ học vấn cao,
cụ thể đối với cấp nghiệp tiểu học mỗi năm đi học có thể tăng thêm mức tiền
lương 0,77% ở lao động nam và 0,32% ở lao động nữ, trong khi con số này
đối với phổ thông trung học là 3,97% và 2,79%. Thu nhập là kết quả của việc
làm, do đó lao động có thu nhập cũng đồng nghĩa với có cơ hội việc làm cao
hơn, khả năng tìm được việc làm trên thị trường lao động lớn hơn so với lao
động trình độ học vấn thấp.
Như vậy, nhiệm vụ đặt ra đối với địa phương vùng chuyển đổi mục
đích sử dụng đất là thực hiện các biện pháp đảm bảo không ngừng nâng cao
trình độ văn hoá cho dân cư và người lao động, phải coi đây là hướng mở căn
bản, quan trọng để hỗ trợ cho việc chuyển đổi việc làm cho lao động mất việc
làm do Nhà nước thu hồi đất, chuyển đổi mục đích sử dụng.

2.1.3 Ảnh hưởng của việc thu hồi đất đến đời sống hộ nông dân

15


Nguyễn Thị Hằng KTNNB-K51

2.1.3.1 Ảnh hưởng tích cực
Quá trình CNH – HĐH đã làm cho một số lượng lớn lao động nông
thôn chuyển sang hoạt động phi nông nghiệp, qua đó số lao động công nghiệp
và lao động trong các ngành thương mại, dịch vụ tăng. Cải thiện được đời
sống nông thôn.
CNH – HĐH tạo điều kiện cho người lao động chuyển đổi việc làm,
chuyển từ lao động nông nghiệp thu nhập thấp, không ổn định sang lao động
trong những khu công nghiệp với mức lượng cao và ổn định
Khi tiến hành thu hồi đất, một số hộ gia dình được nhận khoản tiền đền
bù. Với những hộ biết sử dụng đúng đông tiền vào hoạt động sản xuất thì sẽ
mang lại lợi nhuận cao, và ngược lại.
Đối với khu vực nông thôn, việc tiến hành CHN – HĐH giúp cho bộ
mặt nông thôn thay đổi: cơ sở hạ tầng thay đổi, hệ thống điện - đường trường - trạm - chợ được tu bổ, xây dựng mới.
2.1.3.2 Ảnh hưởng tiêu cực
Những người dân trong diện được đền bù, nghề nghiệp chủ yếu của họ
là làm nghề nông quanh năm gắn bó với mảnh ruộng, nhưng khi có các dự án
phục vụ cho quá trình CNH – HĐH nông thôn làm đảo lộn mọi mặt đời sống
nông thôn.
Lao động ở khu vực nông thôn phần lớn là lao động không qua đào tạo,
chính vì vậy khi có các khu công nghiệp hiện ra số lao động này không nằm
trong chỉ tiêu tuyển lao động. Vì vậy, sẽ làm cho một số lượng lớn lao động
không có việc làm, dẫn đến thất nghiệp, tệ nạn xã hội...
Hệ thống đường giao thông phục vụ cho việc xây dựng khu công

nghiệp bị xuống cấp nghiêm trọng, tình trạng ô nhiễm môi trường đặc biệt là
môi trường nước và môi trường không khí diễn ra tại các khu công nghiệp
đang trong tình trạng báo động làm ảnh hưởng rất xấu đến sức khoẻ người
dân.

16


Nguyễn Thị Hằng KTNNB-K51

2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về giải quyết việc làm cho
lao động nông thôn sau khi bị thu hồi đất.
Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở các nước rất
phong phú. Tuỳ theo điều kiện và đặc thù của mỗi quốc gia mà đưa ra những
biện pháp, chính sách giải quyết việc làm khác nhau và đương nhiên những
kinh nghiệm bài học rút ra của mỗi nước tuy không thể máy móc áp dụng,
nhưng lại là những kinh nghiệm tham khảo rất bổ ích trong quá trình xây
dựng chính sách giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở nước ta. Dưới
đây tôi xin đề cập tới kinh nghiệm của một số nước và vùng lãnh thổ:
2.2.1.1 Trung Quốc
Trung Quốc là nước đông dân nhất thế giới, với trên 1.3 tỷ dân nhưng
gần 70% dân số vẫn còn ở khu vực nông thôn, hàng năm có tới trên 10 triệu
lao động đến tuổi tham gia vào lực lượng lao động xã hội nên yêu cầu giải
quyết việc làm trở nên rất gay gắt.
Mười mấy năm qua, ruộng đất Trung Quốc đã giảm gần 150 triệu mẫu
Trung Quốc (TQ). Mỗi mẫu TQ bằng 1/15 héc ta, tức khoảng 660 mét
vuông. Bộ Nông nghiệp Trung Quốc dự tính, cứ mất đi 2 mẫu TQ sẽ có nghĩa
là 1 nông dân TQ không có ruộng đất, vì ruộng đất canh tác tính trung bình
theo đầu người của TQ chỉ có khoảng 1,4 mẫu TQ. Do vậy, mất gần 150 triệu

mẫu TQ ruộng đất có nghĩa là khoảng 80 triệu nông dân Trung Quốc không
còn ruộng đất. Nông dân Trung Quốc một khi không còn ruộng đất thì họ sẽ
là loại người “ba không”: không đất để cày, không nghề để sống, không nơi
để đi. Do vậy, những nông dân này đã chống đối.
Để giải quyết thực trạng này, các chuyên gia khuyến nghị Chính phủ
cần có luật riêng về trưng dụng ruộng đất, luật bảo hộ lợi ích thiết thân của
nông dân. Chính phủ phải nâng cao thích đáng tiêu chuẩn đền bù, ngoài hoa

17


Nguyễn Thị Hằng KTNNB-K51

màu và cây cối ra, tiền bồi thường ruộng đất và chi phí tái định cư thấp nhất
cũng phải bằng 30 lần giá trị bình quân sản lượng/năm của 3 năm trước.
Thứ hai, Nhà nước phải tích cực bố trí tìm kiếm công ăn việc làm.
Huấn luyện và bồi dưỡng nghề nghiệp cho nông dân mất ruộng đất, nâng cao
kỹ năng lao động và tố chất nghề nghiệp cho họ, khuyến khích xí nghiệp thu
nhận nông dân mất ruộng đất vào làm việc và có chính sách ưu đãi cho xí
nghiệp về việc này. Ủng hộ, giúp đỡ nông dân mất ruộng đất làm nghề mới,
có ưu đãi về các mặt cho vay vốn, chính sách thuế…
Thứ ba, cần hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội cho nông dân mất ruộng
đất tùy theo điều kiện của từng địa phương. Những sức lao động nông nghiệp
không làm nông nghiệp nữa nên đưa vào hệ thống an sinh xã hội thành phố,
đơn vị trưng dụng đất tiếp nộp tiền bồi thường ruộng đất cho cơ cấu an sinh
xã hội…
Thành quả mà Trung Quốc đạt được là Trung Quốc bắt đầu cải cách ở
nông thôn trước bằng việc khoán sản lượng tới hộ. Do được làm chủ ruộng
đất, tự chủ làm ăn…, tính tích cực sản xuất của người nông dân được phát
huy, sản xuất lương thực nhanh chóng tăng lên, đời sống nông dân bước đầu

có sự cải thiện khá rõ.
Nhưng từ năm 1984, khi Trung Quốc tiến hành cải cách ở thành phố thì
hầu như trong suốt 14 năm sau đó (từ 1984-1998), “người ta” đã bỏ quên
nông dân (chữ dùng của một nhà nghiên cứu Trung Quốc). Phải tới đầu thế kỷ
này, khi những cuộc đấu tranh tự phát và có tổ chức của nông dân ngày một
tăng lên (do mất ruộng đất, do nghèo đói, do con em thất học, do không có
tiền chữa bệnh…), khi số nông dân vào thành phố làm thuê lên tới mức trên
150 triệu người (có số liệu nói 200 triệu người) cộng thêm sự đồng tình đấu
tranh của những người Trung Quốc có tấm lòng, vấn đề “tam nông” (nông
nghiệp, nông thôn, nông dân) mới dần dần được coi trọng. Một số chính sách
đã được triển khai và mang lại kết quả đáng kể.

18


Nguyễn Thị Hằng KTNNB-K51

Cụ thể là, Trung Quốc đã xoá bỏ thuế nông nghiệp, chấm dứt lịch sử
người nông dân làm ruộng mà phải nộp thuế. Sản lượng lương thực tăng liên
tục trong 4 năm liền, năm 2007 đạt trên 500 triệu tấn. Với việc xoá bỏ thuế
nông nghiệp (gồm cả thuế chăn nuôi, thuế đặc sản) mỗi năm đã giảm nhẹ
gánh nặng cho nông dân 133,5 tỷ NDT.
Trung Quốc cũng đã toàn diện thực hiện giáo dục nghĩa vụ (9 năm)
miễn phí (tức không phải nộp học phí và không phải mua sách giáo khoa.
Những gia đình khó khăn còn được trợ cấp sinh hoạt phí toàn phần hoặc một
phần (150 triệu học sinh). Cơ bản giải quyết được nạn tráng niên bị mù chữ
tại miền Tây.
Trung Quốc đã bước đầu thành lập được hệ thống y tế công và hệ thống
dịch vụ khám chữa bệnh cơ bản khắp nông thôn. Cải tạo và xây dựng mới
188.000 trạm y tế hương, trấn, trang bị thêm thiết bị y tế cho 117.000 trạm y

tế hương trấn. Điều kiện khám chữa bệnh ở nông thôn được cải thiện rõ rệt.
Hệ thống dịch vụ văn hoá công nông thôn bước đầu hoàn thiện. Trong
5 năm tài chính, TQ hỗ trợ cho việc học nghề 66,6 tỷ NDT, trung bình mỗi
năm giúp 8 triệu lao động nông thôn có việc làm. Năm 2007 đã thành lập
được chế độ bảo đảm mức sinh hoạt thấp nhất ở nông thôn, có hơn 35,5 triệu
nông dân được đưa vào phạm vi bảo hiểm này.
Trong 5 năm qua, đời sống nông dân cũng đã có sự cải thiện đáng kể,
được nâng từ mức trung bình đầu người/năm là 2.622 NDT, năm 2003 lên
4.140 NDT năm 2007 (so với mức thu nhập bình quân của cư dân thành thị là
8.472 và 13.786 NDT thì vẫn thấp hơn nhiều). Cần chú ý đây là mức bình
quân toàn quốc.
Theo thống kê chính thức vẫn còn 14,79 triệu nông dân Trung Quốc có
thu nhập ròng dưới 785 NDT/năm- tức chuẩn nghèo tuyệt đối, còn nếu tính
theo mức thu nhập thấp từ 786 NDT- 1067 NDT/năm thì Trung Quốc vẫn còn
28,41 triệu nông dân nằm ở diện đó. Theo báo cáo của Ngân hàng châu Á

19


Nguyễn Thị Hằng KTNNB-K51

mùa hè năm 2007 thì Trung Quốc vẫn còn khoảng 300 triệu người (mà đa số
là nông dân) có thu nhập dưới 1USD/ngày.
2.2.1.2 Đài Loan
Kinh nghiệm của Đài Loan cho thấy quá trình CNH không nhất thiết
phải được khởi đầu ở khu vực thành thị và một số ít trung tâm công nghiệp
lớn. Quá trình CNH của Đài Loan khởi đầu ở khu vực nông thôn, tính chất “
nông thôn” của công nghiệp là một nét đặc trưng của CNH. Từ năm 1953, Đài
Loan thực hiện phương châm “ nông nghiệp bồi dưỡng, hỗ trợ cho công
nghiệp phát triển”. Chính quyền Đài Loan đã giành ưu tiên hàng đầu của “

nhà nước” về vốn đầu tư, về cơ chế chính sách cho nông nghiệp và nông thôn.
Chính quyền không hề bỏ rơi nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá
mà luôn dành ưu đãi về tài chính: 2/3 viện trợ từ Mỹ được dành cho phát triển
cơ sở hạ tầng và nông nghiệp, chỉ 1/5 cho công nghiệp. Khi nông nghiệp phát
triển, lao động dư thừa trong khu vực nông thôn mới chuyển sang các ngành
công nghiệp nhẹ cần nhiều lao động và sau cùng mới là công nghiệp nặng. Đó
là quá trình giải quyết lao động ở nông thôn Đài Loan.
2.2.2 Thực trạng thu hồi đất phục vụ cho xây dựng khu công nghiệp, khu
kinh tế ở Việt Nam
Trong quá trình thực hiện CNH – HĐH, việc chuyển đổi mục đích sử
dụng đất để triển khai các dự án lớn của nền kinh tế diễn ra mang tính quy
luật. Việc chuyển đổi đất đai ở nước ta đã góp phần phát triển mạnh mẽ nền
kinh tế-xã hội và bảo đảm tiềm lực an ninh quốc phòng của đất nước.
Trong những năm qua, chúng ta đã thực hiện tốt công tác quy hoạch, sử
dụng đất đai. Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản về quản lý đất đai trong
nông, lâm, ngư nghiệp và doanh nghiệp ở nông thôn theo quy định của pháp
luật.
Tính đến thời điểm này cả nước đã xây dựng được 143 khu công nghiệp,
thu hút được hàng trăm dự án với quy mô vốn đầu tư rất cao. Một số thành

20


Nguyễn Thị Hằng KTNNB-K51

phố lớn được nâng cấp và mở rộng ra thành thành phố lớn, hình thành một hệ
thống các đô thị trung tâm, từng bước thực hiện tốt mục tiêu chiến lược phát
triển đô thị Việt Nam. Khi kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện cho việc giải
quyết việc làm, cũng như thu hút hàng triệu lao động trong và ngoài nước với
mức lương tương đối ổn định. Lượng lao động làm việc trong các khu công

nghiệp do Chính phủ cấp giấy phép không ngừng tăng: năm 2005 là 953
nghìn người, năm 2007 là 1.240 nghìn người, năm 2009 là hơn 1300 nghìn
người, đó là chưa kể đến một số lượng lớn lao động hoạt động trong lĩnh vực
dịch vụ tại các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Do tốc độ của quá trình tiến hành CNH-HĐH rất nhanh, thêm vào đó số
đất mất đi phục vụ cho xây dựng khu công nghiệp lại không có đất dự phòng,
số nhân khẩu liên tục tăng mà quá trình chuyển dịch lao động từ lao động
nông nghiệp sang lao động các ngành khác lại chậm dẫn đến xuất hiện một bộ
phận lao động thiếu đất để sản xuất, gây khó khăn cho đời sống, việc làm
cũng như quá trình chuyển đổi nghề... Trong giai đoạn 2001-2005 cả nước có
khoảng 275.605 nghìn lao động bị mất việc làm, bình quân mỗi hecta đất
nông nghiệp bị thu hồi có khoảng 15 lao động mất việc làm cần chuyển đổi
nghề.
Phần lớn việc thu hồi đất tập trung vào diện tích đất canh tác nông
nghiệp, các xã có đủ tiềm năng để xây dựng các nhà máy, khu công
nghiệp...do đó, gây khó khăn trong việc giải quyết việc làm của lao động nông
thôn. Khu vực nông thôn hiện nay có khoảng 25 triệu lao động và họ chỉ mới
sử dụng khoảng 75% thời gian làm việc, 25% thời gian còn lại tương đương
với 6,25 triệu lao động thiếu việc làm. Trong thời gian tới, và cụ thể là trong 5
năm tới số lao động tăng thêm 6 triệu lao động, lao động thiếu việc làm là
6,25 triệu lao động, cộng với 2,7 triệu lao động mất việc do quá trình thu hồi
đất nông nghiệp gây nên.

21


Nguyễn Thị Hằng KTNNB-K51

2.2.3 Thực trạng giải quyết việc làm cho người nông dân bị thu hồi đất ở
Việt Nam

Những năm qua, Chính phủ đã dành nhiều chính sách ưu tiên giải quyết
việc làm cho người dân có đất bị thu hồi, nhưng chưa đáp ứng nhu cầu. Trong
hai năm 2006 và 2007, Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm đã dành
22 tỷ đồng bổ sung vốn vay giải quyết việc làm cho gần 10 nghìn lao động bị
thu hồi đất. Bên cạnh đó, xuất khẩu lao động cũng là kênh quan trọng cho
người dân có đất bị thu hồi. Tuy nhiên, hiệu quả của những biện pháp nêu
trên vẫn còn thấp do việc thu hồi đất ở nhiều địa phương chưa gắn với quy
hoạch tái định cư, thiếu kế hoạch cụ thể về hỗ trợ dạy nghề và việc làm cho
người lao động. Hầu hết nông dân đều bị động khi phải chuyển đổi mục đích
đất sản xuất, trong khi đó khả năng thu hút lao động vào các khu công nghiệp
còn thấp, chưa đến 35% tổng số lao động bị thu hồi đất. Đó là chưa kể lượng
lớn lao động không đáp ứng yêu cầu về tay nghề, chỉ có 27,23% lao động bị
thu hồi đất tốt nghiệp trung học phổ thông và 14% lao động được đào tạo
chuyên môn kỹ thuật từ sơ cấp hoặc học nghề trở lên
Một số chính sách và biện pháp của Chính phủ về vấn đề đất đai, giải
pháp giải quyết việc làm đối với những hộ nông dân không còn đất nông
nghiệp:
1) Việc giao đất không chỉ ưu tiên cho người có hộ khẩu trong vùng,
khu vực và địa phương, mà còn cho các đối tượng nghèo không có ruộng
trong cả nước với những biện pháp quản lý chặt chẽ về mặt pháp lý. Đối với
vùng đất rừng, đồi núi, tiện đường giao thông, có kết cấu hạ tầng tương đối tốt
thì giao cho hộ nông dân chưa có ruộng đất. Hội nông dân các cấp tiếp cận và
vận động hội viên, nông dân nâng cao nhận thức và thi hành luật pháp nói
chung và luật đất đai nói riêng.
2) Đảng và Nhà nước đang quy hoạch để sử dụng đất có hiệu quả,
nâng cao độ phì của đất. Quy hoạch khu công nghiệp vào đất bồi, đất bãi đầm

22



Nguyễn Thị Hằng KTNNB-K51

lầy, nơi xa đô thị, xa trung tâm thì mở đường giao thông...Việc thu hồi đất
theo nguyên tắc: nhu cầu đất đến đâu thì thu hồi đến đó. Đền bù, giải phóng
mặt bằng theo giá của nhà nước quy định và tính đến yếu tố giá cả thị trường
trong từng thời điểm nhất định, theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho nông
dân, cho người có đất được thu hồi
3) Thực hiện tốt việc tái định cư cho hộ nông dân sau khi thu hồi đất,
tạo cơ hội cho họ có đất đồi trồng rừng hoặc một phần đất sản xuất của nông
dân khác nhường lại, giúp họ yên tâm sản xuất. Các khu tái định cư nên gần
làng quê, dòng họ của các hộ nông dân đã sống gắn bó nhiều đời.
4) Đối với hộ nông dân không còn đất sản xuất, hoặc còn ít đất không
đủ sản xuất ra các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của gia
đình thì cấp uỷ, chính quyền địa phương cần phải quan tâm, chăm lo, tạo điều
kiện cho họ có việc làm tại các nhà máy, xí nghiệp trên mảnh đất họ đã giao
cho Nhà nước hoặc lân cận trong vùng với phương châm “ ly nông bất ly
hương”. Nhà nước giao cho Hội nông dân:
- Phối hợp với các ngành đoàn thể tạo nghề mới miễn phí cho nông dân
để họ có thể chuyển sang lao động trong các lĩnh vực khác.
- Cải cách chính sách cho vay vốn ưu đãi để họ chuyển nghề, ưu tiên
con cái họ về học tập, công ăn, việc làm sau khi ra trường.
- Phối hợp với chính quyền, các doanh nghiệp đựoc giao đất vận động
hộ nông dân dùng tiền đền bù đất tham gia đóng góp cổ phần xí nghiệp, nhà
máy trên vùng đất của họ trước đây hoặc trợ giúp, hỗ trợ họ sử dụng vốn hiệu
quả, đầu tư sản xuất vào nghề mới.
- Có chính sách hỗ trợ các hộ nông dân có nhu cầu tới các vùng quê
khác trong việc di dân, định canh, định cư.
2.2.4 Những kết quả đạt được trong việc giải quyết việc làm cho nông dân
bị thu hồi đất ở một số địa phương


23


Nguyễn Thị Hằng KTNNB-K51

Hàng vạn hecta đất nông nghiệp đã được thu hồi để sử dụng vào mục
đích chuyên dùng như xây dựng các khu công nghiệp, kinh tế, đô thị, xây
dựng các công trình cơ sở hạ tầng công cộng…Thực tế cho thấy, bên cạnh
những mặt đã làm được thì vấn đề bố trí đời sống, việc làm ổn định cho các
hộ nông dân bị thu hồi đất đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Theo Bộ
Nông nghiệp và PTNT, trung bình mỗi hộ nông dân có 1,5 lao động và mỗi
hecta đất thu hồi ảnh hưởng tới việc làm của 10 lao động. Như vậy, việc thu
hồi đất nông nghiệp và đất ở trong 5 năm qua đã tác động tới đời sống của
khoảng 2,5 triệu nông dân. Trong đó, vùng Đồng Bằng sông Hồng có số hộ bị
ảnh hưởng đất lớn nhất, với khoảng 300.000 hộ; Đông Nam Bộ với khoảng
108.000 hộ. Tại một số vùng ven đô của Đồng bằng sông Hồng, trước khi thu
hồi đất chỉ có 10% lao động đi làm thuê thì sau khi thu hồi đất tỷ lệ này là
17%.
Sau đây là một số mô hình chuyển đổi việc làm cho lao động sau khi
thu hồi đất ở một số địa phương trong cả nước:
* Mô hình ở huyện Thạch Thất – Hà Tây:
Là huyện có nhiều dự án lớn của Trung ương, của tỉnh trên địa bàn nên
có diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi lớn. Những năm gần đây, việc chuyển
đổi cơ cấu kinh tế từ nông thôn sang phát triển công nghiệp-dịch vụ ở Thạch
Thất rất mạnh, làm cho số hộ bị thu hồi đất tăng lên. Tập trung giải quyết việc
làm cho người bị thu hồi đất để đẩy nhanh công tác GPMB, phát triển công
nghiệp là hướng đi của huyện trong thời gian qua với những mô hình hay và
hiệu quả. Từ năm 2005 đến nay, mỗi năm Bình Yên (xã có phần diện tích đất
nông nghiệp bị thu hồi lớn của huyện Thạch Thất) đều trích ngân sách từ 100200 triệu đồng, tổ chức từ 3-4 lớp dạy nghề và giới thiệu việc làm cho người
lao động. Đặc biệt, chuẩn bị nguồn lao động cho Nhà máy Bình Yên (đang

cần khoảng 2000-2500 lao động), ngoài 130 học viên đang được đào tạo, từ
nay đến cuối năm, xã sẽ phối hợp với chủ đầu tư tiếp tục mở từ 4-5 lớp cho

24


Nguyễn Thị Hằng KTNNB-K51

500-600 lao động để bà con có nghề mới. Các học viên đến học không phải
đóng góp kinh phí nên người dân rất phấn khởi, ủng hộ chính quyền trong
công tác GPMB. Phối hợp với các doanh nghiệp dạy nghề, tiếp nhận lao động
vào làm việc là một trong những mô hình giải quyết việc làm cho người bị thu
hồi đất đang thực hiện hiệu quả không chỉ ở Bình Yên mà còn ở nhiều xã trên
địa bàn huyện. Là huyện có diện tích đất bị thu hồi lớn, tới gần 2.882 ha,
trong đó đất nông nghiệp chiếm 1853,53ha với 15.618 hộ dân bị thu hồi đất,
trong đó có tới 9.062 hộ bị thu hồi toàn bộ diện tích đất nông nghiệp nên tác
động lớn đến đời sống và tâm tư của mỗi người dân.
Từ năm 2005, Thạch Thất đã chỉ đạo: Giải quyết việc làm cho người lao
động bị thu hồi đất là nhiệm vụ trọng tâm song hành cùng công tác GPMB, phát
triển CN và đưa ra 2 mô hình chính: Liên doanh liên kết với các trường dạy nghề
trong và ngoài tỉnh đào tạo và giới thiệu việc làm cho người dân; liên kết với các
DN, cơ sở sản xuất trên địa bàn dạy nghề và tuyển dụng lao động. Ngoài ra là
các giải pháp tạo điều kiện cho người dân đi lao động nước ngoài và mở lớp dạy
nghề cho người lao động trung tuổi ở các địa phương. Trong đó, mô hình liên
doanh liên kết với các DN, các chủ đầu tư trên địa bàn để đào tạo và tiếp nhận
lao động là mô hình hay và thực hiện khá hiệu quả. Để giúp các địa phương thực
hiện tốt mô hình này, huyện đã chỉ đạo các phòng chuyên môn và chính quyền
các xã, thị trấn tổ chức rà soát, đánh giá tình hình lao động, nhu cầu sử dụng lao
động tại các DN và các hộ sản xuất trên địa bàn để có cơ sở xây dựng kế hoạch
đào tạo nghề cho phù hợp. Mô hình này có cái hay là vừa cung cấp được nguồn

lao động cho DN, vừa giải quyết được việc làm cho người lao động bị thu hồi
đất, giúp họ ổn định cuộc sống. Tuy nhiên nó đòi hỏi phải có sự chỉ đạo đồng bộ
từ huyện đến cơ sở bởi các lớp dạy nghề cần phải có kinh phí thoả đáng mới
thành công. Xác định rõ điều đó, huyện Thạch Thất đã chỉ đạo ưu tiên hỗ trợ từ
nguồn kinh phí khuyến công của tỉnh và huyện cho các địa phương bị thu hồi
nhiều đất và làm tốt công tác này để tránh việc cào bằng, sử dụng kinh phí kém

25


×