Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ đỗ PHỦ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.84 KB, 37 trang )

Ket-noi.com din n cụng ngh, giỏo dc

Mục lục
Trang
A
1
2
3
B
Chơng 1
Chơng 2
2.1
2.1.1
2.1.2
2.1.3
2.1.4
2.2
2.2.1
2.2.2.
2.2.3
2.2.4
Chơng 3
C

Phần mở đầu
Lý do chọn đề tài
Lịch sử vấn đề
Mục đích, phạm vi và phơng pháp nghiên cứu
Phần nội dung
Giới thiệu về khái niệm thời gian nghệ thuật
Các hình thức biểu hiện của thời gian nghệ thuật trong thơ


Đỗ Phủ
Thời gian vũ trụ
Thời gian rộng mở trờng cửu
Thời gian thiên về quá khứ
Thời gian nhàn nhã khoan khoái
ý nghĩa của thời gian và trụ trong thơ Đỗ Phủ
Thời gian tiền đờng
Thời gian gắn với hiện thực cuộc sống
Thời gian hạn hẹp dồn nén
Thời gian vội vàng gấp gáp
ý ngiã thời gian đời thờng trong thơĐỗ Phủ
Những nguyên nhân xuất hiện dạng thức thời gian nghệ
thuật trong thơ Đỗ Phủ
Phần kết luận

Lời nói đầu
Quá trình nghiên cứu và đợc sự giúp đỡ của các thầy cô giáo chúng tôi đã
hoàn thành khoá luận tốt nghiệp đại học với đề tài thời gian nghệ thuật
trong thơ Đỗ Phủ.
Tìm hiểu thời gian nghệ thuật trong thơ Đỗ Phủ dới góc độ thị pháp
chúng tôi muốn góp thêm một tiếng nói mới vào việc lý giải sự trờng tồn của
thơ Đỗ Phủ cũng nh niềm đam mê của ngời đọc đối với thơ ông.
Qua đây chúng tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình đối với cô giáo
trực tiếp hớng dẫn Phan Thị Nga cùng tất cả các thầy cô trong khoa ngữ văn
đã giúp đơn chúng tôi hoàn thành khoá luận này.


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục



Ket-noi.com din n cụng ngh, giỏo dc

Phần mở đầu
1) Lý do chọn đề tài
Trên bầu trời thi ca đời đờng có rất nhiều vài sao sáng trong đó lý Bạch,
Đỗ Phủ, Bạch c là những vì sao sáng nhất.
Có thể nói đờng là thời đại hoàng kim của thơ ca cổ điển Trung Quốc,
Trần Trọng San đã tứng nói thơ đờng không chỉ xuất sắc về mặt nội dung mà
còn ở phơng diện nghệ thuật với những đặc trng và những giá trị cổ điển của
nó. khi nói đến thơ Đờng ta không thể không nói đến Đỗ Phủ bởi ông đợc
xem là nhà thơ hiện thực lớn nhất trong nền thi ca cổ điển Trung Quốc.
Vì vậy nghiên cứu thơ Đỗ Phủ là để góp phần nghên cứu giá trị đặc sắc
của thơ đờng. Thơ đỗ phủ không chỉ có giá trị về nội dung vì tính hiện thực
sâu sắc mà còn mẫu mực về phơng diện hình thức, cho đến thời điểm hiện tại
các công trình nghên cứu thơ Đỗ Phủ tơng đối nhiều. Các tác giả đều cho thấy
trong sáng tác của Đỗ Phủ đã sử dụng một cách thành công nhiều biện pháp
nghệ thuật nhằm đem đến cho thơ mình sức hấp dẫn đối với Đỗ Phủ cùng với
quan niệm về con ngời không gian nghệ thuật và các biện pháp nghệ thuật
khác thời gian nghệ thuật là một nét thi pháp đạo nên thế giới nghệ thuật thơ
Đỗ Phủ. Thời gian nghệ thuật đã tạo thành nỗi ám ảnh, một hiện tợng mang
tính quy luật, một quan niệm trong thơ Đỗ Phủ. Nó là phơng diện quan trọng
giúp ngời đọc cảm nhận sâu sắc thơ ông.
Khảo sát thời gian nghệ thuật trong thơ sản phẩm theo chúng tôi là hớng
tiếp cận để làm rõ thêm hệ thống nghệ thuật thơ Đỗ Phủ. Qua đó giúp bạn
đọc hiểu sâu sắc hơn sự đóng góp của thơ Đỗ Phủ trên cả phơng diện nội dung
lẫn hình thức nghệ thuật cho nền thi ca cổ điển Trung Quốc.
Đỗ Phủ có nhiều bài thơ đợc chọn dạy trong trờng Trung học cơ sở và
trung học phổ thông. Việc nghiên cứu về thơ Đỗ Phủ đặc biệt là nghiên công
cứu về thời gian nghệ thuật trong thơ ông là thực sự cần thiết bổ ích đối với
ngời giảng dạy thơ Đỗ Phủ.

2) lịch sử vấn đề
Thơ Đỗ Phủ đợc nhiều tác giả trong và ngoài nớc quan tâm nghiên cứu.
Nhng theo sự hiểu biết của chúng tôi cho thấy nay cha có công trình, đi sâu
nghiên cứu thời gian nghệ thuật trong thơ Đỗ Phủ .
Tác giả Trần Đình Sử Nguyễn Khắc Phi (về thi pháp thơ đờng NXB
Đà Nẵng 1997) đã đề cập đến nhiều dạng thức thời gian nghệ thuật trong thơ
Đờng nh: thời gian sinh mệnh cá thể, thời gian vũ trụ tự nhiên, thời gian lịch


Ket-noi.com din n cụng ngh, giỏo dc

sử, thời gian sinh hoạt, thời gian siêu nhiên. Nói chung các dạng thức thời gian
này đợc các tác giả nêu ra khá đầy đủ. Song do phạm vi nghiên cứu nên các
tác gỉa không đi sâu vào khai thác thời gian nghệ thuật trong thơ Đỗ Phủ.
ở thi pháp thơ Đờng (Nguyễn Thị Bích Hải NXB Thuận Hoá 1995) Tác
giả chia thời gian nghệ thuật trong thơ đờng ra 2 dạng thời gian vũ trụ và thời
gian đời đờng, theo tác giả vũ trụ chiếm u thế so với thời gian đồi thờng. Nhng
trong thơ Đỗ Phủ thời gian đời đờng lại chiếm u thế.
Thi pháp thơ Đờng là công trình nghiên cứu chung cho cả nền văn học
cho nên thơ Đỗ Phủ chỉ đợc nêu ra với t cách là một ví dụ cụ thể cha đợc xem
là đối tợng nghiên cứu chủ yếu.
Tóm lại do phạm vi, mục đích khác nhau nên các công trình nghiên cứu
về thời gian nghệ thuật trong thơ Đỗ Phủ cha đợc tiếp cận một cách có hệ
thống, nhng các công trình trên thực sự là những t liệu quý gợi cho chúng ta
tới hớng giải quyết vấn đề.
3) mục đích phạm vi và phơng pháp nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
ở đề tài này mục đích nghiên cứu của chúng tôi là
a, Khảo sát để chỉ ra hình thức biểu hiện của thời gian nghệ thuật trong
thơ Đỗ Phủ.

b, Từ sự khảo sát ấy tìm giá trị ý nghĩa của vấn đề thời gian nghệ thuật
trong thơ Đỗ Phủ
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đỗ Phủ đã để lại cho đời hơn 1400 bài thơ và đợc mệnh danh là nhà thơ
hiện thực lớn nhất đời Đờng. Vì thế thơ ông là nguồn bổ sung quan trọng làm
cho thơ Đờng đạt tới đỉnh cao nhất trong nền văn học Trung Quốc cổ đại.
Nguồn bổ sung này không những về số lợng mà còn về chất lợng nữa, do
trình độ ngoại ngữ có hạn nên không thể tiếp cận các văn bản thơ Đờng, bằng
chữ Hán, chúng tôi chủ yếu tham khảo thơ Đỗ Phủ đợc truyển dịch thơ trong
Đờng tập 1 & 2 (XSB văn hoá 1962) thơ Đỗ Phủ nhà xuất bản văn hoá 1962.
Thơ Đỗ Phủ (nhợng Tổng dịch NXB văn hoá 1996 và Đỗ Phủ nhà thơ thánh
với hơn một nghìn bài thơ (Phan Ngọc NXB văn hoá thông tin)
3.3. phơng pháp nghiên cứu


Ket-noi.com din n cụng ngh, giỏo dc

Tìm hiểu vấn đề thời gian nghệ thuật trong thơ Đỗ Phủ, chúng tôi bắt
đầu từ việc khảo sát đối tợng bằng phơng pháp thống kê sau đó phân loại
chúng, kiểm tra tần số xuất hiện các kiểu thời gian từ đó đi vào phân tích khái
quát.
Trong quá trình nghiên cứu để khái quát đợc những đặc sắc trong thơ Đỗ
Phủ, tránh nhận xét chung chung, chúng tôi tiến hành so sánh Đỗ Phủ với các
tác giả cùng thời với ông.

Nội dung
Chơng 1: giới thiệu về khái niệm
-----------Thời gian nghệ thuật ---------Thời gian là một phạm trù triết học, thời gian gắn với không gian rất mật
thiết. Sự vật hiện tợng tồn tại vận động và phát triển trong thế giới tự nhiên,
con ngời cũng tồn tại trong không thời gian vì vậy cuộc sống của con ngời gắn

với một thời gian nhất định.
Thời gian nghệ thuật là một khái niệm thuộc thi pháp học, trong tác
phẩm nghệ thuật đợc xây dựng bằng chất liệu đặc biệt là ngôn ngữ thông qua
cảm nhận chủ quan của nhà văn. Ngời ta có thể hình dung đợc một thời đại
qua tác phẩm văn học, vì thế để miêu tả cuộc sống của con ngời, văn học
không thể miêu tả những biểu hiện của thời gian.


Ket-noi.com din n cụng ngh, giỏo dc

Theo lý luận văn học tập 1 ( các tác giả phơng lựu Trần Đình Sử
Lê Ngọc Trà NXB giáo dục 1986) thời gian trong văn học không đồng nhất
với thời gian hiện thực, vật chất ngoài đời nhà gắn liền với thế giới tinh thần
của con ngời.
Theo từ điển nghệ thuật ngữ văn nghệ( các tác giả Lê Bá Hán Trần
Đình Sử Nguyễn Khắc Phi NXB đại học quốc gia Hà Nội 1997) thời gian
nghệ thuật đợc đo bằng nhiều thớc đo khác nhau bằng sự lặp lại đều đặn của
một hiện tợng đời sống đợc ý thức. Thời gian nghệ thuật phản ánh sự cảm thu
thời gian của con ngời trong từng thời kỳ lịch sử từng giai đoạn phát triển, nó
cũng thể hiện sự cảm thụ độc đáo của tác giả về phơng thức tồn tại của con
ngời trong thế giới nghệ thuật.
Bên cạnh những yếu tố mang tính hệ thống của tác phẩm nh không gian,
ngôn ngữ... thì thời gian cũng là một yếu tố thuộc hình thức nghệ thuật mà tác
giả có dụng ý đa vào tác phẩm, để nói lên t tơng quan điểm sáng tác hay cái
nhìn về cuộc đời.
Qua đó chúng ta có thể nhận thấy rằng thời gian nghệ thuật là hình thức
của cái nhìn nghệ thuật do nghệ thuật mang lại, một tác phẩm hay không chỉ
về nội dung mà còn phụ thuộc về hình thức, nội dung về hình thức cân xứng sẽ
tạo ra cho các tác phẩm có một giá trị đặc biệt, vì thế hình thức không thể là
cái vỏ của nội dung mà nó còn là yếu tố mang nghĩa.

Giáo s Trần Đình Sử ( thi pháp thơ Tố Hữu NXB giáo dục 1995) cho
rằng: thờ gian nghệ thuật trong văn học không phải đơn giản chỉ là quan điểm
của tác giả về thời gian mà là hình tợng thời gian sinh động gợi cảm, là sự cảm
thụ ý thức về thời gian đợc dùng làm hình thức nghệ thuật để phản ánh hiện
thực, tổ chức tác phẩm, theo tác giả thời gian nghệ thuật cũng có độ dài, có
quãng tính có nhịp độ, có tốc độ có ba chiều quá khứ, hiệnt tại tơng lai và có
hớng vận động không đảo ngợc theo một trật tự sau liên tục ( trang 90 sách
đã hớng dẫn).
Tác giả Nguyễn Thị Bích Hải Thi pháp thơ đờng. Cho rằng Đặc điểm
của thời gian nghệ thuật là nó luôn mang tính cảm xúc ( tâm lý) và tính quan
niệm. Do đó là hình tợng thời gian. Nó là thời gian của thế giới hình tợng vì
thế nó đầy đủ tính chủ quan, nó là thời gian cuat mthế giới hình tợng vì thế nó
là hình tợng thời gian (trang 123 sách đã dẫn).
ở đây ta thấy có sự thống nhất giữa Nguyễn Thị Bích Hải với Trần Đình
Sử khi xem thời gian nghệ thuật là hình tợng thời gian đợc sáng tạo nên trong
tác phẩm. Thời gian nghệ thuật là một phơng diện quan trọng của thi pháp
học, cùng với không gian nghệ thuật nó là phơng tiện để tác giả xây dựng thế


Ket-noi.com din n cụng ngh, giỏo dc

giới nghệ thuật của mình (tác phẩm) nó nh là một yếu tố để ngời đọc khám
phá nhằm hiểu rõ hình tợng và t tởng tình cảm của tác giả thể hiện trong tác
phẩm.
Từ sự khảo sát các công trình dẫn trên chúng tôi mạo muội xin đa ra kết
luận Thời gian nghệ thuật chính là yếu tố tạo nên chỉnh thể tác phẩn, nó
chính là thời gian trong thực tại nhng đã đợc khúc xạ qua cá tính sáng tạo
của nhà văn.
Thời gian nghệ thuật là một thành tố trong tác phẩm đợc hợp với các yếu
tố khác nh không gian, ngôn từ.. làm thành hệ thống thi pháp trong một tác

phẩm hay trong một thời kỳ văn học. Nó là yếu tố góp phần lí giải nội dung
của tác phẩm và cũng là nơi để tác giả thể hiện khả năng sáng tạo của mình.
Thạch Lam miêu tả cảnh sinh hoạt đơn điệu nhằm nhận của những con
ngời nơi phố huyện trong quãng thời gian từ chiều tối đến đêm trong Hai đứa
trẻ để làm nổi bật những kiếp ngời mòn mỏi tù túng, qua đó tác giảt cho ngời
đọc thấy đợc cuộc tù đọng trì trệ của ngời dân trớc cách mạng tháng tám.
Với tác phẩm Chí Phèo (Nam Cao) đã xây dựng hình tợng chí trọg thời
gian cả một đời ngời đợc miêu tả qua những trang trần thuật rất đậm nét, và
qua đó tác giả lên tiếng cái xã hội Việt Nam trớc cách mạng.
Thời gian nghệ thuật là một dạng thức thời gian luôn vận động nó không
bị đóng khung ở một giới hạn nhất định nào, nó có thể là thời gian nào cũng
gắn liền với một quan niệm, t tởng của tác giả về cuộc sống hiện thực.
Chúng tôi đồng ý với tác giả Nguyễn Thị Bích Hải khi cho rằng thời
gian nghệ thuật trong thơ đờng biểu hiện 2 dạng thức thời gian vũ trụ và thời
gian đời thờng.
Thế nào là thời gian vũ trụ
Vũ: không gian tứ phơng
Trụ: là khái niệm gọi chung thời gian ( cổ vàng kim lai vệ chi trụ xa
qua nay gọi là trụ)
Lâu nay ngời ta chấp nhận không gian vũ trụ bởi nói không gian vũ trụ là
khoảng không đó đợc bắt đầu từ thiên nhiên và theo thói qen quan niệm vũ trụ
ta khái niện vũ trụ ta khái niệm chỉ khộg gian mà không nghĩ nó bao hàm cả
thời gian. Nhng có cái gì đó không tồn tại trong không gian là và thời gian
đâu. Họ quan niệm nh vậy bởi vì khi nói đế không gian là cái hữu hình còn


Ket-noi.com din n cụng ngh, giỏo dc

thời gian là cái vô hình cái không gian nhìn thấy đợc. Hêrcat đã nói không ai
hai lần tắm trên một dòng sông quả là thời gian đang trôi đấy thôi.

Thời gian vũ trụ đợc xây dựng trên quy luật liên tởng của tâm lý hay theo
một hệ thống đợc thể hiện bằng quan hệ đặc biệt là quan hệ với con ngời, thời
gian đó luôn gắn lliền với ý thức về thời gian tồn tại cuả con ngời kiểu thời
gian mang tính đặc trng và chiếm u thế rõ rệt trong thơ đờng là thời gian vũ
trụ.
Nh vậy nói đến thời gian vũ trụ trong thơ đờng cũng là nói đến t thế của
con ngời vũ trụ, con ngời cảm thấy đời mình chỉ là một khoảng khắc tạm bợ,
cuộc đời bị đóng khungbởi thời gian ngắn ngủi trăn năm, vì thế họ luôn hớng
về quá khứ mà hoài cổ, hoài ức kỷ niệm đã trôi qua thời gian vũ trụ trong thơ
đờng, đợc rộng mở trờng cửu. Từ thời gian này con ngời có thể hội lộ những
tình cảm xúc của mình và vì thế thiên về tâm tởng cũnglà một dạng thức thời
gian vũ trụ nghệ thuật là sự giải thoát, là khát vọng tự do... triết học và thi ca
trung quốc tìm lối thoát trong thời gian vũ trụ vĩnh hằng (về thi pháp thơ đờng
Trần Đình Sử Nguyễn Khắc Phi nhà xuất bản Đà Nẵng 1997 trang 11)
Thời gian đời đờng
Khi nói đến thời gian trong một tác phẩm văn học nghĩa là ta đang nói
đến hoàn cảnh cụ thể gắn với cuộc sống của con ngời với thời đại nhất định
nào đó. Thời gian đã trở thành một yếu tố trong hệ thống các yếu tố của một
tác phẩm thì đều phải trải qua cảm nhận của tâm hồn tác giả. Ngoài thời gian
hoài cổ thiên về hoài cổ thể hiện t thế nhàn nhã đang hợp đồng đang sống,
mọi suy nghĩ trăn trở, mọi sự ngỡng vọng đều xuất phát từ đây. thời gian đó
chính là thời gian đời thờng.
Dạng thức này rất gắn bó gần gũi với con ngời. Thời gian đến trong cao
giao là thời gian diễn xớng, thời gian để con ngời nghỉ ngơi đốt đuốc chơi
đêm sau một ngày làm việc mệt nhọc.
Trong thơ đờng thời gian đời thờng không chiếm u thế nh thời gian vũ
trụ nhng lại đóng một vai trò quan trọng đặc biệt. Nó xuất hiện vào lúc sự
hoà điệu của thế giới nghệ thuật đờng thi bị phá vỡ khi con ngời xã hội với t
cách là một thần dân xuất hiện con ngời đợc phản ánh trong quan hệ đối lập
mâu thuẫn với những thế lực áp bức họ (thi pháp thơ Đờng Nguyễn Thị

Bích hỉa NXB Thuận Hoá 1995 trang 104).
Lúc này con ngời không còn điều kiện để trầm t mặc tởng hay hớng về
quá khứ mà hoài niệm những kỷ niệm đẹp đẽ và hớng tới tơng lai để thoả


Ket-noi.com din n cụng ngh, giỏo dc

thích bay bổng trong trời đất nữa. Bao quanh con ngời chínhlà cuộc sống đời
thờng, thời hiện đại với những sự kiện diễn ra gấp gáp tấp lập...
Khác với những nhà thơ thời sơ thịnh Đờng thời gian nghệ thuật trong
thơ Đỗ Phủ và một số nhà thơ thời Trung văn Đờng phải sống cảnh loạn li nớc mất nhà tan tần số thời gian đời thờng xuất hiện rất nhiều. Điều đó chứng
tỏ thời gian đời thờng không tách khỏi khuynh hớng thơ phản ánh hiện thực
chiến tranh.
Tóm lại thời gian đời thờng chính là thời gian mà ở đó con ngời đang
sống đang hợp đồng suy nghĩ, trăn trở, mọi cái nhìn về thời gian khác đều bắt
nguồn từ đây. Thời gian đời thờng trong tác phẩm văn học gắn chặt với con
ngời thời đại mà nó xuất hiện thông qua cảm nhận của nhà văn trớc cuộc đời
đầy biến động, nó cũng là phơng tiện để tác giả xây dựng thế giới nghệ thuật
của mình và thể hiện quan điểm t tởng của mình.

Chơng 2: các hình thức biểu hiện của thời gian nghệ
thuật trong thơ Đỗ Phủ.
Qua khảo sát các tác phẩm của ông chúng tôi thấy thời gian nghệ thuật
trong thơ Đỗ Phủ gồm có 2 kiểu đã nói trên, thời gian vũ trụ và thời gian đời
thờng.
2.1. thời gian vũ trụ
Khi nói đến thời gian vũ trụ có nghĩa là chúng ta đề cập đến con ngời vũ
trụ, con ngời đợc bao bọc bởi không gian nhất định và trong đó con ngời thể
hiện những cảm xúc của mình với một t thế mang tầm vũ trụ. Đi vào khám
phá thơ Đỗ Phủ chúng tôi thấy thời gian mang tầm vũ trụ xuất hiện trong các



Ket-noi.com din n cụng ngh, giỏo dc

bài thơ của ông oví tần số lớn. Theo sự khảo sát của chúng tôi qua 2 tập thơ
Đờng thơ Đỗ Phủ Nhợng Tống dịch và - Đỗ Phủ nhà thơ.
Thánh với hơn 1000 bài thơ NXB văn hoá thông tin 2001 có.....................
bài chứa yếu tố thời gian vũ trụ chiếm tỷ lệ .......% trong thơ Đỗ Phủ. Vì điều
kiện và phạm vi nghiên cứu cho nên việc phân chia thời gian vũ trụ và thời
gian đời thờng trong thơ Đỗ Phủ chỉ đạt đến mức tơng đối. Nhng qua khảo sát
về các dạng thức thời gian thì những con số trên cũng phản ánh một hiện tợng
lặp lại có tính quy luật một cán ảnh nghệ thuật thời gian vũ trụ trong thơ Đỗ
Phủ đợc biểu hiện dới ba dạng thức. Thời gian rộng mở trờng cửu, thời gian
thiên về quá khứ và thời gian nhàn nhã khoan khoái.
*********************
Không cùng ấy và khát vọng chiến lĩnh thời gian trong con ngời là vô
cùng, vô tận.
Thời gian hiện về quá khứ
2.1.2. Sự thiên về thời gian quá khứ trong thơ Đỗ Phủ đợc thể hiện ửo
niềm hoài cổ hồi ức, ( hồi tởng kỷ niệm) không phải ngẫu nhiên mà tác giả đa
vào tác phẩm nghệ thuật của mình loại thời gian này, mà qua những biểu
hienẹ của nó ta thể hiện trong đó một cách nhìn về cuộc sống của nhà văn.
Tiêu biểu cho dạng thức thời gian về quá khứ trong thơ Đỗ Phủ có các
bài ức tích, thủ tớng, kính tặng quan tủ thừ họ vi 20 vần, ăn tiệc trị nhà nơng
xứ quân Bạch, nhớ ngôi nhà cũ bên sông gắm, thu hứng... thể hiện nỗi lòng
thi nhân. Đỗ Phủ cũng nh nhiều nhà thơ đời đờng khác với quá khứ luôn tôn
trọng ngỡng vọng. ông làm những bài thơ hoài cổ.
Quay về với thời cổ xa để mà ngỡng vọng nó để mà thẩm định, định giá
hiện tại, ông lấy cổ xa làm thớc đo cho nó.
Phải trớc lúc tuổi trẻ

Sớm sự khoa thi xuân
Sách đọc vỡ muôn quyển
Hạ bút nh có thần
Đỗ Phủ đã từng tự hào về về mình nh thế trong xã hội có mấy ai học
rộng hiểu nhiều nh Đỗ Phủ mà ông chỉ so đọ với ngời sa
Thơ sánh sức tào thực
Phú ngang tài tử vân
(tặng quan tả thừa họ vi 20 vần)
Tào thực, Dơng Hùng đã đợc ca ngợi nhiều thế kỷ nay, đợc muôn ngời
biết tới, còn mình tài năng. sánh đọc vỡ môn quyển, Hạ bút nh có thần đang
đợc nhiều ngời ngợi ca khen và biết tới nhng chỉ là những tháng năm này thôi,
còn mai đây biết có còn đợc nh họ?


Ket-noi.com din n cụng ngh, giỏo dc

ở chỗ khác Đỗ Phủ lại ví mình với các bậc hiền thần xa
Đất Đỗ lăng có chàng áo vải
Tuổi càng già càng dại càng khờ
Ví mình với Tắc Tiết xa
Bạc đầu chịu kiếp sống thừa chua cay.
Tác giả hoài cổ, so đọ mình với ngời xa là muốn lu giữ mình trong đó,
muốn lu giữ hình bóng mình vào trong hậu thế. Khi nhắ đến những bậc cổ
nahan chính là Đỗ Phủ muốn ngời sau nhớ đến mình nh mình đã nêu gơng
những bậc cổ nhân.
Khi Lý Bạch nói:
Khuất bình từ phú huyền nhật nguyệt
Sở nơng đài tạ không sơn khâu
Từ phú của khuất nguyện vẫn treo cao cùng mặt trời
Lâu đài ma sở đã thành núi gò trơ trọi

Thì hậu thế đã viết:
Lý Đỗ văn chơng tại
Quang diễn vạn trợng trờng
(văn chơng lý Đỗ còn ánh sáng chiếu muôn trợng)
Hậu thếa đã nhắc đến họ, đã nhắc đến tài năng của họ, khi Đỗ Phủ viết
về Lý Bạch.
Thiên thu vạn trế danh
Tịch mịch thân hậu sự
(mộng Lý Bạch)
Danh tiếng để lại nghìn vạn văn
Thì cũng chỉ là việc âm thầm sau khi đã qua đời.
Qua hai câu thơ trên chúng ta thấy vị thánh thơ đã tiên tri về sự bất tử của
vị tiên thơ Lý Bạch.
Nếu nói hoài cổ là quay về quá khứ vè những con ngời lu danh hậu thế
thì đại thi hào Nguyễn Du cũng đã từng viết.
Bất tri tam bách s niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp tế nh
Và đó cũng là một nỗi băn khoăn mong mỏi hậu thế nhớ đến lúc này đây
sau 200 năm, nàng Tiểu Thanh mất thì Nguyễn Du đã nhớ tới nàng. Nguyễn
Du băn khoăn 300 năm sua liệu có ai nhớ đến mình không. Đó là khát vọng
là mong muốn của những con ngời ý thức đợc sự hiện diện của mình trong


Ket-noi.com din n cụng ngh, giỏo dc

cuộc sống này mà nh bà lão Igiecghin một nhân vật trong tác phẩm của Gonki
đã từng nói.
Khi con ngời khao khát lập chiến công thì bao giờ ngời đó cũng biết và
tìm đợc chỗ làm nên những chuyện đó... cuộc sống bao giờ cũng có chỗ để lập
nên chiến công...nếu hiểu cuộc sống bao giời cũng muốn lu lại bóng dáng

mình sau khi mình không còn trên cuộc đời này nữa và Đỗ Phủ của cúng ta
cũng vậy. ông cũng là con ngời ý thức đợc cuộc sống nàu. Khi con ngời vũ trụ
ý thức đợc mình cảm thấy mình là trung tâm vũ trụ cho dù là nhỏ bé cô độc,
thì họ ý thức đợc mình đang sống giữa quá khứ và tơng lai, hiện tại là nhịp cầu
nối giữa quá khứ và tơng lai nhng chỉ có quá khứ là đã biết còn tơng lai thì
mù mịt mơ hồ họ hoài vọng mãi về quá khứ chính là để khoa khát một tơng
lai tốt đẹp, Đỗ Phủ cũng nh tất cả các thi nhân đời đờng đều sùng bái quá khứ,
tôn trọng tin yêu quá khứ đối với họ không phải là phủ nhận hện tại và tơng
lai của mình.
Xã hội đời Đờng du là cực thịnh đi chăng lữa thì cũng vẫn có bất công
mà hiện tại chiến tranh sảy ra liên miên dân chúng đói nghèo và chết đói, theo
thống kê sau loạn dân số chỉ còn lại 2/10 ý thức đợc điều đó Đỗ Phủ đã viết
những bài thơ hoài vọng quá khứ nhắc đến tên các vị anh hùng nh thục tớng,
Hàn Tín Tạ an, những ngời lập lên nhiều chiến công, giúp vua trị quốc bình
thiên hạ.
Đền thờ thừa tớng dạo chơi
Thành gấm trông sang trắc rợp trời
Cái lá oanh hùng hoài tiếng đẹp
Rọi thiền cổ biếc đỏ màu tơi
Đón mời ba sạp ghi ơn chúa
Giúp rạp hai triều hết dạ tôi
Giặc đánh cha tan thân vội chết
Anh hùng đầm áo lệ muôn đời
(Nhợng Tống Lịch)
Đỗ Phủ đã ca ngợi tài năng của khổng Minh, vị anh hùng đã giúp cha con
lu Bị giữ vững (tiên chủvà hậu củ) lơng truyền gia cát lợng là ngời thông minh
ông ở ẩn và sau khi đợc Lu Bị mời ra giúp đỡ.
ông hết lòng phò tá chủ và đợc đời sau ca ngợi trong một bài khác Đỗ
Phủ lại di ngợc về quá khứ nhớ đến những con ngời tài giỏi.
Hán vơng xa đuổi theo hàng tín

Thơng sinh lo nhắc đến tạ an
Bọn ta phiêu bạt lầm than
Gian nan thế sự giờ bàn với ai?


Ket-noi.com din n cụng ngh, giỏo dc

Kẻ lữ khách đợc mời dự tiệc
Lòng tha lơng nhớ tiếc tạm vơi
Bất tài mục lữa đành thôi
Nằm với bùn đất mặc đời vùi chôn.
(Ăn tiệc tại nhà vơng sứ quân)
Những con ngời tài giỏi ngày sa đáng lý ra thì danh đa bị mai một, nhng
nhờ có vua sáng biết dùng tài mà lập nên công lao hiểm hách. Hàn tín xa khi
Hán vơng thua trận, các tớng đều bỏ trốn hết. Tiêu hà nghe tin Hàn tín bỏ trốn
đuổi theo tìn hán vơng nghe lời tiêu Hà dùng Hàn tín kết quả lấy đợc thiên hạ.
Tạ An ở Đông Sơn đơng thời nói Tạ An không ra, thơng sinh ra sau? nhà
vua dùng Tạ An, kết quả nhà tấn đánh bại Bồ Kiên. Đó là những cái tích swa
về những ngời anh hùng đợ vua sáng trọng dụng, còn Đỗ Phủ bây giờ thì sao?
Cái kho lợc theo của họ Đỗ tài kinh bang của Tạ An đánh vùi trong bùn lầy.
Qua lại vùng cổ đến thế khổng tử cho rằng bản thân ông chẳng làm gì thêm
cho truyền thốngtôi chỉ thuật chứ không sáng tạo, tôi vọng những vẻ đẹp đã
q ua của những ngời anh hùng trong lịch sử bởi vì ở thời đại ông không có chỗ
đứng cho những con ngời tài năng có trí nh ông.
Bên cạnh sự hoài cổ vè những anh hùng Đỗ Phủ còn hoài cổ về sắc đẹp
của mĩ nhân, Nguyễn Thị Bích Hải viết: con ngời vẫn thích cái mới, thi nhân
có đa tình mơ cách mấy cũng chỉ có thể yêu cô gái nhà bên, yêu những con
ngời cùng thời với mình chứ làm sao yêu đợc những mĩ nhân nh chiêu quân,
Tây Phi nhng với thơ đờng thì cái cũ nó đã đợc kiểm nghiệm băng thời
gian, giá trị của nó đã đợc thẩm định rõ ràng.

Ngàn khe muôn núi đổ kinh môn
Sinh trởng minh phi sớm hãy còn
Đề tía một xa liền bãi bắc
Mồ xanh riêng để gửi trờ hôm
Trong tranh thấy thoáng qua gơng mặt
Dới nguyệt về chăng có mảnh hồn
(Vịnh chiêu quân)
Nang chiêu quân sinh đẹp nhng về không đợc yêu mà bị gả cho Hung
Nô, nhà vua sau khi biết nàng đẹp thì chỉ thấy mặt nàng trong bức vẽ mà thôi.
Bây giờ nàng chiêu Xuân không còn nữa, chỉ còn lại nấm mồ xanh cỏ nhng vẻ
đẹp của nang hồn dới nguyệt vẫn còn đâu đây. Điều này chứng tỏ ngời Trung
Hoa trong đó có thi nhân Đỗ Phủ đều sùng bái cổ xa.
Cuộc đời này có nhiều tang thơng dâu bể, nhà thơ lồng bớc những biến
thiên, họ muốn níu giữ quá khứ để nguôi đi những nỗi đau hiện tại. Vì thế
hoài cổ xuất hiện nhiều trong thơ của Đỗ Phủ là nh vậy. Nhng thời gian quá


Ket-noi.com din n cụng ngh, giỏo dc

khứ trong thơ Đỗ Phủ không chỉ đợc thể hiện bằng thời gian hoài cổ mà còn
bằng thời gian ký ức kỉ niệm hoài cổ là thời gian quá khứ xa xăm còn hồi tởng
lý ức là quá khứ gần đây.
Một thao tác thờng thấy trong thơ đờng là biến thời gian thành ký ức,
một cuộc chia tay cũng nhanh chóng trở thành kỷ niệm.
Em ra đi đón vợ con
Cuối thu lo liệu hãy còn về quê
Giờ đây đom đóm tứ bề
Có theo chim nhạn cùng về hay không
Nhìn về đông, Tây Giang chảy miết
Em xuống nam, Cửa Bắc mở nhìn

Chọn nơi yên tĩnh an nhàn
Rợu đây nâng chén cố nhân xin mời
(Tiễn em là Quan về Làm đền đón vợ)
Bài thơ miêu tả sự chuẩn bị về quê đón vợ con của ngời en Đỗ. Bài thơ
tiễn em trong một không gian tĩnh mịch, hai ngời còn đối diện nhau đây nhng
Rợu đây nâng chén cố nhân xin mời Đỗ đã xem em nh cố nhân, ngời bạn
thân cũ, bằng cách xa buổi tiễn đa vào trong quá khứ, coi em mình nh cố
nhân để buổi tiễn đa trở thành một kỷ niệm một quá khứ xa đợc lu giữ trong
lòng tác giả lý bạch khi tiễn Mạnh Hạo Nhiên đã viết.
Mạnh Hạo Hiên là ngời bạn cũ rất thân, bạn nhng phải là cố nhân thì mới
quý. Đó là quan niệm của ngời Trung Ho cũng nh quan niệm của các thi nhân
đời Đờng.
Thời gian hồi tởng kỷ niệm thơ Đỗ Phủ còn biểu hiện ở những bài thơ
nhớ quê hơng,nhớ anh em, nhớ bạnh cũ... quê hơng mới xa đây thôi mà khi
con ngời ở xa nó con ngời coi quê hơng là cố hơng thì mới quý và yêu nó.
Vờn xa nhà cổ nơi mô?
Nam cầu muôn dặm bắc hồ trăm hoa
Từng hiên ông trớc quay ra
Quen xơng một dặm cây già chơi vơi
Trắng phau núi tuyết ngất trờ
Vàng soi thành gấm rọi soi bóng tà
Bao nhiêu phong cảnh mặn mà
Quay về lòng những sót xa bồi hồi
(nhớ ngôi nhà cũ bên sông gấm phan Ngọc dịch)


Ket-noi.com din n cụng ngh, giỏo dc

Tác giả là ngời yêu quê hơng tha thiết, khi xa quê đến một nơi mới ông
nhớ tới cảnh vật nơi quê mình đã sống và khi xa quê đến một nơi mới thấy xót

xa bồi hồi. Chúng ta thấy trong bài thơ không có một từ nào nói đến thời gian
nhng ta vẫn cảm nhận đợc thời gian hồi tởng kỷ niệm, thời gian này giứp cho
nhân vật trữ tình có thể biểu hiện đợc tâm trạng của mình trong đó và chính vì
thế nỗi nhớ quê hơng đợc biểu hiện rõ ràng hơ.
Nỗi nhớ quê hơng còn thể hiện rõ nét trong chùm thơ thu hứng trong
bài thu hứng số 1 tác giả viết
Ngọc lộ điêu thơng phong phụ lâm
Vu sơn vu giáp khí tiêu sâm
Gian gian ba lãng kiêm thiên dũng
Tái thợng phong vân tiếp địa âm
Tùng cúc lỡng khuê tha nhật lệ
Cô chu nhất hệ cố viên tâm
Hàn y xứ xứ thôi đao xích
Dạch đế thành cao cấp mộ châm
Hạt nơng ngọc, rừng phong xơ xác
Núi vu sơn giáp khí tiêu điều
Súng trên ông nhảy vọt lên trời cao.
Mây cửa ải ùn theo lan mặt đất
Nhìn khóm cúc hai lần rơi nớc mắt
Chiếc thuyền côi buộc chặt mối tình nhà
áo rét may giục giã trớc dao khua
Tiếng đập vải rộn vang chiều Bạch Đế
(Phan Ngọc dịch)
năm 765 Đỗ Phủ rời thành đô về Tân An va năm 766 ông tới Quỳ con
châu ông đã trải qua những cuộc viễn du thật dài, nhng rất tiếc đây không
phải cuộc chơ du ngoạn danh lam thắng cảnh mà là đi lãng mạn chạy loạn ở
vùng Quỳ châu, bài thơ ra đời trong hoàn cảnh này thể hiện nỗi lòng nhớ quê
rất sâu sắc của Đỗ Phủ thông qua bức tranh mùa thu, không gian mùa thu hui
hắt ở vùng quỳ châu nhng đồng thời với sự hiu hắt đó là không gian vũ trụ
hoành tráng dự dội, lòng sông hẹp, vách núi cao hiểm trở làm, cho sóng tung

lên tận trời, trên biên ải, xa sôi mây xa dần xuống mặt đất, sóng và mây đối
nhau cái lên cao cái lên xuống. Nỗi nhớ quê hơng ở 4 câu đầu còn ẩn kín thì 4
câu sau đợc phơi bày qua không gian cụ thể và nỗi nhớ quên cuộn dâng trong
lòng tác giả nó tuôn trào thành những dòng thơ.
Tùng cúc hởng khai tha nhật lệ


Ket-noi.com din n cụng ngh, giỏo dc

Cô chu nhất hệ cố niên tâm
Bên cạnh khôn gian vũ trụ bao la ấy là thời gian hồi tởng ký ức, nhìn
khóm trúc nở hoa tác giả năm ngoái ở vân An mình đã khóc nhớ quê nhà, nhớ
vờn cũ năm nay ở Qùy châu Đỗ lại một lần khóc khi nhìn thấy hoa nở vì nhớ
quê nhà. Sự kết hợp giữa không gian thời gian vũ trụ mang đầy đủ phong cách
tho Đỗ Phủ ở giai đoạn cuối trầm uất và bi tráng, bài thu hứng số 1 là cơng
lĩnh cho chùm thơ thu hứng.
Thể hiện nỗi lòng nhớ nhà của thi thần xa quê và trong hiện tại ở vùng
quỳ châu Đỗ nhớ về quê mình trong niềm trân trọng tin yêu nó coi nó là cố hơng trong lòng mình. Bài thơ đã từng làm lay động bao ngời hơn 1000 năm
nay, nhất là những ai đã từng xa quê hơng, cảm thấy sự cô đơn của mình trớc
không gian và thời gian vũ trụ này.
Trong thơ Đờng thời gian ký ức thờng gắn với trạng thái ức t hoài
niệm tức là gắn với tâm tởng của con ngời. Trong thơ Đỗ rất nhiều bài thơ biểu
hiện nỗi nhớ của thi nhân nhớ quê, nhớ em, nhớ vợ con, có lúc ông viết những
vâng thơ nhớ bạn.
Lâu lắm không gặp lý
Giã cuồng tội nghiệp thay
Ngời đời đều muốn giết
Ta ý vẫn thơng tài
Phiêu linh rợu một chén
Mẫn tiệc thơ nghìn baì

Núi khoảng trốn đọc sách
Đầu bạc hãy về thôi
(Bất kiển)
Đỗ đã làm nhiều bài thơ nhới lý Bạch ngày đông nhới lý bạch, ngày
xuân nhớ lý bạch nhng bài nào cũng xuất sắc. Bài thơ này là bài thơ cuối
cùng viết về nỗi nhớ Lý Bạch, cả bài thơ thể hiện một tình bạn chân thành sâu
sắc đối với vị tích tiên. Bằng thời gian hổi tởng kỷ niệm trong bài thơ ta thấy
chỉ có nhà thơ vĩ đại nh ông mới có khả năng hiểu và yêu mến một thiên tài
khác nh vậy.
Đỗ Phủ đã viết nhiều bài thơ thể hiện nỗi nhớ về ngời thân, bạn bè, bên
cạnh đó còn có những bài thơe nhớ về cả thời đại. Trong bài ức Tích Đỗ
muốn gửi gắm ngỡng vọng một thời đại đã qua của đất nớc thịnh đờng.
Nhớ ngày xa thời khai nguyên thịnh đức
ấp nhỏ còn đông đúc trên vạn nhà
Thóc chứa chan gạo trắng xoá tràn trề
Kho công với kho từ chật ních


Ket-noi.com din n cụng ngh, giỏo dc

Đờng chính châu không hùm heo ăn thịt
Ngời đi xa chẳng thiết chọn ngày làng
....
Bạn bè trong thiên hạ gắn keo sơn
Trên trăm năm cha tai biến một lần
Với tiêu đề bài thơ ức tích cũng đủ để chúng ta thấy một thời gian hồi
tởng kỷ niệm. Thời thịnh Đờng nay không còn nữa, cả đất nớc chìm trong
hoạn nạn. Tác giả đau lòng khi chứng kiến cảnh rộng vờng tới máu , cung
điện lạc Dơng cháy sạch thảm thay. Nhìn hiện tại mà đau sót vì thế tác giả đã
quay về quá khứ để hoài niệm những kỷ niệm huy hoàng mới vừa trôi qua

trong chốc lát thể hiện thái độ của thời gian hồi tởng này Đỗ Phủ khát khao
đất nớc đợc trở lại yên bình.Hay để miêu tả hậu quả của chiến tranh.
Huống nghe nhà Hán sơn Đông 200 châu
Ngàn thôn muôn xóm in gai cỏ
(Đinh xa hành)
Tác giả nói nhà Hán nhng đồng thời để nói nhà đờng từ đây chúng ta có
thể kết luận rằng khi con ngời không bằng lòng với hiện tại, còn tơng lai thì
mờ mịt nên con ngời đã quay về quá khứ ngỡng vọng quá khứ để an ủi cho
chính mình để thể hiện những ớc mong trong cuộc đời.
2.2. thời gian đời thờng
Trong thi pháp thơ đờng tác giả nguyễn Thị Bích Hải đã nhận xét rất
xác đáng rằng sự hoà điệu của thế giới nghệ thuật Đờng thi bị phá vỡ khi con
ngời xã hội với t cách là thần dân xuất hiện. Con ngời vũ trụ thoả thích bay lợn
trong không thời gian vũ trụ, để thể hiện khí phách, ý nguyện của mình. Còn
con ngời đời thờng đợc phản ánh trong quan hệ đối lập mâu thuẫn với thế lực
áp bức họ. Thời gian vũ trụ nhờng chỗ cho thời gian đời thờng,
Qua khảo sát chúng tôi thấy thời gian đời thờng trong thơ Đỗ Phủ có ....
bài chiếm......%. Con số thống kê này vừa chứng tỏ và đa dạng của thời gian
ghệ thuật trong thơ Đỗ Phủ.
2.2.1. thời gian của hiện thực
------cuộc sống-----Thời gian đời thờng trong thơ Đỗ Phủ luôn gắn với hiện thực cuộc sống,
nó gần gữi với những gì đang xảy ra trong đời sống thờng nhật điều đó làm
cho độc giả khi đọc thơ tử mỹ có cảm giác nh đang đợc xem một thớc phim
quay chậm hiện thực xã hội thời ông sống có lẽ vì thế mà thời gian gắn liền
với hiện thực cuộc sống tạo ra một sự ám ảnh đối với ngời đọc. Đỗ Phủ đã gửi
vào đó tâm sự gì, cách nhìn nh thế nào về cuộc đời và số phận của những dân
lao động, nh ông nh bao ngời khác đang sống à tồn tại trong xã hội? ông là


Ket-noi.com din n cụng ngh, giỏo dc


nhà thơ hiện thực lớn nhất đời đờng bởi lẽ ông đã đem cả giai đoạn lịch sử đời
đờng vào thơ của mình mà phản ánh. Phan Ngọc đã có một nhận xét rất đúng
về ông Đỗ thiếu năng có ý thức làm từ mã thiên đời đờng. Với cuộc đời ông
sự trải nghiệm về bản thân cũng nh cuộc sống xã hội, thời ông, qua những
vần thơ của mình Đỗ Phủ luôn bộc lộ những cảm xúc về nhân thế về cuộc đời
này. Những kỷ niệm thủa thiếu thời, cuộc sống của nhân dân lao động và gia
đình, bản thân ông, ở những nơi ông đã từng đi qua và dừng chân đã để lại dấu
vết khá rõ trong những trang thơ của Đỗ Phủ có thể kể ra đây một số bài thơ
tiêu biểu. Hai chùm thơ tam lại tam biệt, tiền xuất tái hậu xuất tái càn nguyên
trung ngự c Đồng cối huyện tá cao tất thủ, bắc chinh, Hựu trình Ngô lang tự
kinh phó phụng tiên vịnh hoài ngỹ bách tự... xã hội suy thoái loạn lạc đời
sống dân đen lầm than là nội dung chính trong thơ Đỗ Phủ.
Hiện thực biến động tang thơng của xã hội khiến cho nhà thơ không thể ở
mãi trong lập trờng giai cấp phụng nho thủ quan không còn thời gian hoài
cổ hay bay bổng với những giấc mơ xa vời, cung vàng điện ngọc, lầu son gác
lía nghe oanh kêu nh thời thịnh tại khai nguyên thiên Bảo nữa.
Ông phải quay về với thực tại đầy máu và nớc mắt ở mảnh đất đời thờng
trong đó ông và nhân dân đang chìm đắm trong loạn li tô thế. Vì thế thời gian
đời thờng rong những bài thơ của Đỗ Phủ gắn liền với những sự kiện nóng
bỏng lớn lao của cuộc sống nh nỗi đau về chiến tranh, loạn lạc, thuế khoá và
mất mùa...
Đất nớc thịnh trị nay không còn ngời dân nghèo khổ đói rét, bị đè nặng
bởi miếng cơm manh áo và bao nhiêu lo toan vụn vặt trong cuộc đời, cái đói
đã len lỏi khắp các ngõ ngách chật hẹp, ngay cả gia đình Đỗ làm quan mà
cũng không tha.
Nhập môn văn hào đào
â tử có dĩ tốt
(tự kinh phó phụng tiên...)
Vào cửa nghe kêu gào

Con thỏ đói vừa chết
Nỗi đau khổ dày vò lơng tâm ngời cha, Đỗ đau lòng vì việcđứa con của
mình bị chết đói. Cái chết đang còn đến với những nhà quan nh nhà Đỗ thì
huống gì dân đen. Năm 1975 Đỗ vừa đợc bổ làm qua ở Tờng An, tháng 11
năm ấy ông đợc phép về thăm nhà, trên đờng trở về phụng Tiên Đỗ phủ đi qua
Li sơn là nơi thuyên Tông đang nghỉ mát với Dơng Quý Phi. Đỗ thấy sự ăn
chơi xa hoa chốn cung đình trái hẳn với cảnh lầm than của nhân dân lao động.
Vóc lụa thần an chia
Do gái nghèo chiụ nhọc
Roi vọt nhà cùng đinh


Ket-noi.com din n cụng ngh, giỏo dc

** góp dâng bệ ngọc
Ngời dân nghèo phải lao động vất vả nhng sản phẩm họ làm ra đều có đợc quyền sử dụng, tất cả dâng lên bệ ngọc hết. Thật là bất công! Đỗ miêu tả
rất đúng hiện thực cuộc sống lúc bấy giờ. ông tự nhận trách nhiệm về hiện
thực đau sót của ngời dân.
Chu môn tửu nhục xú
Lộ hữu đống tử cốt
Vinh khô chỉ xích dị
Trù trớng nan tái thuật
(cửa son rợu thịt ôi
Ngoài đờng xơng chết buốt
Sớng khổ cách gang tấc
Nghẹn ngào khôn kể xiết)
Do tính chất tự sự mà có thời gian đồng hiện, cùng một thời gian mà diễn
ra hai sự việc ở hai nơ, cửa và ngoài đờng. Đây loà điểm rất mới của thời gian
nghệ thuật thơ đờng. Nhờ thế mà Đỗ Phủ đã vạch trần cuộc sống xa hoa của
bọ vua chua, qua lại phong kiến, ông lấy cảnh chu môn tửu nhục xú đối với

cảnh chết đói của nhân dân lộ hữu tống (rợu thít thối) cách dùng từ tay chủ
đích phê phán gay gắt sự xa hoa lãng phí của triều đình, lên án một cách triệt
để giai cấp thống trị vàđứng về phía dân bênh vực cho họ. Bởi ông hiểu chính
ông cũng là một trong nạn nhân của xã hội đó, cảnh đói rét nghèo khổ nh một
thảm cảnh đang diễn ra trên toàn hộ xã hội Trung Hoa. Đỗ Phủ không chỉ
dừng lại ở sự phê phán mà ông còn thể hiện cảnh đói nghèo rách rới khiến
cảnh đoàn viên của gia đình nhà thơ cũng thật thơng tâm.
Nhà tranh vắng đã cách năm
Vợ con về thấy áo trăm mụn chằng
Nào than nào khóc vang lừng
Suối khe nghẹn giọng thông rừng thua hơi
(Bắc chinh)
Tiếng khoá ở đây không phải khóc mừng ngày gặp lại mà ta khóc cho sự
nghèo đói, rách rới của chính gia đình mình, ở chỗ khác tác giả không còn tân
trí để mà chậm biến đả kích không thể cất tiếng khóc đợc nữa mà đành lặng lẽ
nuốt nớc mắt vào lòng dỉ máu.
Nằm đói cứ thế mời ngày rồi
áo rách và trăm mảnh chằng chịt
Há chẳng thấy tờng trơ nhiều trắng xoá
Không tiếng già này khơi soi huyết


Ket-noi.com din n cụng ngh, giỏo dc

(gửi đến các ngài ở hai huyện hàn Dơng và Hoa Nguyên)
Cũng vì nghèo khổ mà cả gia đình Đỗ phải nhịn đói, ốm đau, nông cụ chỉ
có một cái cuốc. Nó đợc tác giả xem là ngời bạn thân thiết đã giúp ích cho cả
gia đình mình. Các cây cối vào mùa tuyết phủ không nhìn thấy chồi nữa lấy gì
để nuôi gia đình đây. Điều kiện đó đã làm cho nhà Đỗ ngày một thê lơng.
áo ngắn phủ hoài không kín cẳng

Bấy giờ cùng ngời trở về tay không
Huyện tác ca tất phủ
Câu nguyên trung ngụ c đồng cốc
Trai khóc gái ***
Cái khổ của Đỗ Phủ cũng chính là cái khổ của nhân dân Đỗ Phủ không
chỉ cập đến số phận bi thảm của riêng mình mà ông còn đề cập đến số phận
quảng đại quần chúng đau khổ lầm than trong xã hội đơng thời. Sự gần gũi
nhau về cuộc sống chính là cầu nối nhà thơ và những ngời lao động.
Cảnh loạn li mà nhân dân phải gánh chịu trong loạn An Sử và sợ thổ
phần đợc thơ Đỗ Phủ thể hiện chân thành sâu sắc. Tấm bi kịch của nhân dân
trung hoa đời đờng đợc phản ánh trong một không gian nhỏ bé nh xóm thạch
hào, Tân An và trong khoảng thời gian ngắn ngủi hạn hẹp vùng thôn xóm yên
bình khong còn đợc yên bình nữa vì cảnh tang thơng của đất nớc đã len lỏi vào
từng gia đình. cả nớc đều giặc giã, khó lửa trùm lúi sông nên ông lão trong
thuỳ lão biệt đầu bạc răng long con cháu đã chết trận hết vẫn ném gậy để
đầu quân, khiến vợ già khóc thảm thiết lúc chia tay.
Vợ già khóc lăn bên đờng cái
Quần áo manh đầu dãi chiều đông
Nếu thuỳ lão biệt là cuộc chia tay với ngời vợ già và mái nhà tranh
nghèo nàn thì vô gia biệt là cuộc chia li đặc biệt, cuộc chia tay của kẻ không
nhà, còn tân hơn biệt là cụôc chia tay của cặp vợ chồng mới cới, vì chiến
tranh mà họ phải chia tay nhau vội vã để ngời chồng ra trận.
Chiều cới sớm ra nhau
Vội vàng chi thế trời
Đó là một cầu hỏi đầy day dứt của ngời ở lại mà cũng là của biết bao ngời dân đen lúc bấy giờ. Những cuộc chia ly trên đã trở thành hình tợng bất tử
trong thơ ca cổ điển trung Quốc.
Đỗ Phủ phản ánh hiện thực chiến tranh khi biên của nhà đờng qua việc
dựng liên hình ảnh ngời lính kể lại mời năm đi chiến trờng của mình.
Tòng quân mời năm lẻ
Há không chút công nào

Mọi ngời tranh đợc thởng


Ket-noi.com din n cụng ngh, giỏo dc

Muốn nói thẹn hùa nhau
Ngời lính chỉ đợc sử dụng nh một công cụ phục vụ cho ý đồ mục xây
đích riêng của giai cấp thống trị, họ phải chấp nhận việc ra chiến trờng và họ
trở thành nạn nhân của các cuộc chiến tranh, chiến tranh loạn lạc đến với tất
cả những ngời dân trong xã hội, gia đình Đỗ Phủ cũng chịu hậu quả của chiến
tranh, chịu sẻ đàn nh bao thảm cảnh khác.
Chín bận gửi th về Lạc Dơng
Mời năm ruột thịt không tin tức
Hay
Bên trời luống tuổi cha về đợc
Chiều chiều trông dòng dông lớn khóc
Bên cạnh việc miêu tả hiện thực chiến tranh Đỗ Phủ còn phê phán cảnh
áp bức bóc lột của nhà đờng đối với ngời dân. việc thu thuế bất hợp lý của lũ
quan đã khiến nhân dân lao động rơi vào thảm cảnh.
Ngờ đâu năm đựoc mùa
Lũ nghèo cứ chịu chết
Cùng với ý thơ này ở bài tuế án hành ông viết
Năm tâm gạo kém thiếu lơng ăn
Năn nay gạo sẽ tội nhà nông
Quan lớn trong triều ngấy rợu thịt
Bọn dân mảnh vải tấm tranh không
....................
Huống nghe chốn chốn bán con cái
Vì thế tỏ cắt khúc lòng
Bằng thủ pháp nghệ thuật đối lập Đỗ Phủ một lần nữa nhấn mạnh sự bất

công về đời sống hai tầng lớp trong xã hội tấng lớp thống trị và lự trị. Vì tô
thuế mà ngời dân chịu đói nghèo đau khổ đến nỗi tình mẫu tử cũng không còn
giữ đợc nữa. Cảnh tợng bán con không phải chỉ xảy ra nh một hiện tợng cá
biệt mà là phổ biến trong toàn xã hội. Nói đế cảnh thuế khoá làm cho con ng ời ta ghèo đi Đỗ Phủ đã kể một câu chuyện nhà Đỗ có 1 ông táo một bà già
đói đến tận xơng thờng sang hái táo trộm Đỗ Phủ không nói gì, sau này gia
đình Đỗ chuyển đi nơi khác, nhợng lại nhà cho Ngô Láng, sợ ngô lang không
thông cảm với bà già goá nên đỗ đã gửi lại bài thơ.
Thờng sang vặt trộm táo ngoài sân
Bà ấy không con chẳng có ăn
Chẳng bởi quá nghèo đâu đến thế
Để cho khỏi sợ phải làm thân


Ket-noi.com din n cụng ngh, giỏo dc

Dè chừng chủ mới lo xa quá
Rấp lại rào tha ngại hiểu lầm
Khốn đốn bởi tô thuế nên bà lão trong hựu trình ngô lang trở thành kẻ
trộm bất đắc dĩ. Đỗ Phủ đã chỉ ra nguyên nhân vì sao lại nh vậy
Từng bảo xúc xơ vì thuế khoá
Nghĩ cơn khói lửa lệ đầy khăn
Thuế khoá đã đồn đến ngời dân lao động đơng thời đếncùng quẫn. Bên
cạnh thuế khoá có một nguyên nhân khác dẫn đếnd ngời dân lao động bị đói
nghèo là thiên tai định hoạ. Mấy tháng liền tử châu không ma bỗng một trận
ma to trút xuống xoá đi nạn hạn hán dân chúng mừng rõ và Đỗ Phủ vui cùng
niềm vui của họ.
Hạn ngày xuât đất trời mù mịt
Mặt trời trông nh huyết đỏ ngầu
Việc nông đành bỏ biết sao
Huống gì gặp lại kinh đao dập dồn!

Ngời đất ba nuôi quân vất vả
Đất cháy khô khổ rở kêu la
Sông thơng nớc tới đêm qua
Tội trời trút sạch đúng là lâng lâng
Gốc lúa đã xem chừng sống lại
Khí độc còn dồn mãi cha tan
Bao giờ năm mới bình an
Mối lo toan kiến hoàn toàn đợc đây
(mừng ma Phan Ngọc dịch)
Bài thơ là sự quan tâm của nhà thơ dân đen với bao số phận của ngời dân
lao động, tác giả mong muốn chiến tranh sẽ không còn nữa, nạn thuế khoá sẽ
mất đi, tất cả con ngời chăm lo vào công việc đồng áng, đất hoang sẽ có trâu
cày.
Ước đem giúp đúc làm nông cụ
Tấc đất còn hoang trâu đợc cày
Đợc tay tráng sĩ kéo nông ngân
Rửa gíup từ nay thôi động dụng.
(nghe quan quân lấy lại Hà Nam Hà Bắc)
Đó là ớc muốn đến bạc tóc của nhà thơm về một đất nớc hòn bình thịnh
trị, Những vần thơ của Đỗ Phủ đợc đời sau truyền dụng vì ông đã mô tả hết


Ket-noi.com din n cụng ngh, giỏo dc

sức ninhđộng, hiện thực cuộc sống, đề cập đến những gì gần gũi thân thiết của
thời đại.
2.2.2. Thời gian thu hẹp dồn nén
Nếu nh thời gian vũ trụ tơng thông với con ngời vũ trụ mang tính chất
giãn nở là thiên niên cạn cổ và đi cùng sự khoan khoái nhàn nhã thì thời gian
đời thờng giắn với con ngời xã hội

Với những hợp đồng sinh hoạt của họ, thời gian đời thờng là thời gian bị
thu hẹp dồn nén. Trong thơ Đỗ Phủ thời gian đời thờng không xuất hiện với
những số đo lớn, nó đi liền với những địa d chật hẹp, những địa danh cụ thể,
có thể là trong phạm vi cị thể nh các mùa, ngày chín tháng chín, tháng tám,
năm thứ hai đời hoàng để túc tông... cũng có thể là thời gian diễn ra các biến
cố các sự kiện, một thời điểm nhất định đêm, chiều tối... thời gian thu hẹp
dồn nén thể hiện qua các bài thơ tiêu biểu, tam lại, tam biệt bành nha hành,
ngày 9 mộng ngày chiều hôm, mao ối vi thu phong sở phá ca... với thời gian
đợc nén lại làm cho sự việc trở nên cô đọng lại dễ nhận thấy hơn và qua đó tác
gỉa bộc lộ cái nhìn cuộc sống hiện thực đơng thời và hẹp hơn là trong chính
gia đình Đỗ Phủ.
Thời gian thu hẹp dồn nén đồng thời cũng là thời gian hiện thực cuộc
sống, Đỗ là ngời luôn lo trớc cái lo của thiên hạ và vui sau niềm vui của thiên
hạ, cho nên khi nhìn thấy nhân dân chìm trong đói rét, cảnh đất nớc loạn li
lòng ông. ông làm những bài thơ nói lên những cảm xúc của mình trớc hiện
thực cuộc sống ấy.
Nửa đêm sông núi lăng yên
Ngắm nhìn bắc đẩu ngồi trên lầu này
Khách đi vạn dặm lâu nay
Trăm năm những thẹn thân này long đong
Nhìn quê cũ mịt mù mây gío
Bịu chiến chinh đứng ngó lầu cao
Ôn ma hồ phụ bết bao
Thèm thái bình sống cách nào đợc đây
ở đây Đỗ Phủ ngồi một mình tâm lầu cao trong cô tịch của đêm dài mà
nghĩ về thân phận mình về một đời long đong lận đận chẳng thoả ớc nguyện
của bản thân lại phải chứng kiến cảnh đất nớc trong cơn loạn lạc; ông chẳng
có mong muốn nào cao hơn là thêm thái bình nhng sống cách nào đợc
đây lại là một câu hỏi lớn. Điều này cho thấy Đỗ Phủ ý thức đợc sự hiện diện
của mình trong cuộc sống vì chính ông đã từng nói nhân sinh thất nghiệp cổ

lai hi.
Lúc khác Đỗ Phủ lại lo lắng cho vua không có ngời can gián. ông mong
muốn nhân dân trong cả nớc chăm lo vào việc đồng áng, đất nớc không còn


Ket-noi.com din n cụng ngh, giỏo dc

chiến chinh và quan lại không còn quấy nhiễu nhân dân, không còn nạn áp
bức bóc lột.
Tháng hai một giấc ngủ say
Chẳng vì đêm ngắn ngủ ngày có sao
Quê hơng cũ đờng gai góc nổi
Mơ trung nguyên sói hổ bên vua
Lo cày bỏ chiến là vừa
Khắp trời quan lại ai chừa nhiễu dân
(Mộng ngày Đỗ Phủ)
Nhng tiếc thay giấc mông ban ngày của Đỗ Phủ chính là giấc mơ không
thể hiện đợc, vì thế có lúc ông đã thể hiện thái độ bất mãn.
Cùn đời ôm nỗi bất bình
Trợng phu ai lại nh thằng tôi đâu
Tác giả viết chơi đôi ba dòng kính trình quan trung thừa kể về số phận
của mình và qua đó thể hiện cảnh chạy loạn của bao ngời dân.
Bên hồ nghĩ tủi phận hèn
Nhìn cho thế loạn nổi lên mấy lần
Nửa đêm lộn với nhân dân
Chốn chui may thoát tấm thân bình bồng
Đỗ Phủ luôn luôn lo vì vận nớc còn gian na loạn li bao chùm nên có lúc
ta bắt gặp hình ảnh thi nhân ngồi uống rợu một mình trong ngày chín.
Đất lạ, chiều hôm khác vợn đen
Em gái em trai ngời mỗi ngả

Lo già lo loạn dạ trăm phiền
Cuộc đời Đỗ là một kho nỗi lo, lo cho dân, lo cho gia đình ông sống vì
cuộc đời này mà chẳng nghĩ đến thân phận mình, khi nhìn lại tuổi già đến làm
cho lòng tác giả đau buồn, cảnh gia đình Đỗ Phủ chạy loạn phải đi cả ngày cả
đêm thật thơng tâm.
Có lúc đi đứt hơi
Ngày vài dặm lê lết
Lơng ăn là quả dại
Nhà ở là cây rừng
Sớm khe đá lội nớc
Tối đất lạ nằm sơng
(Bành nha hành Hồng tạo dịch)


Ket-noi.com din n cụng ngh, giỏo dc

Có thể nói bài thơ Bành nha hành đã phản ánhk hết sức chân thực số
phận của mỗi ngời dân (trong đó có gia đình Đỗ Phủ) ở thời điểm xảy ra loại
An sử cuộc sống gia nan hết sớm lại tối dãi nắng dầm sơng đói mệt,
có lúc mệt mỏi đến độ không thể đi nổi.Cảnh ngộ của gia đình Đỗ Phủ là
cảnh ngộ chung cho cả dân tộc trung Hoa. Loạn li đã làm cho bao ngời dân
phải chạy chốn băng rừng vợt núi chẳng kể ngày đêm.
Trăng liềm đã lặn lâu rồi
Gỗ nghề lởm chởm đờng đời khó đi
Từ khi xảy ra loạn An Sử Đỗ Phủ đã trực tiếp chứng kiến nỗi khốn
khổ của bao nhiêu dân lành trong đó có cả gia đình ông và thơ Đỗ Phủ đợm
một mỗi buồn thơ Đỗ Phủ có buổi chiều ảm đạm. có cảnh sống thê lơng có
con nhạn lạc đàn có ngọn gió rầu rầu, có ánh trăng vàng úa với những ngời dắt
díu bồng bế nhau đi, có ngời chạy loạn qua núi cao gồ ghề kẽm dốc. Một ánh
trăng cũng không còn trong khói lửa. (diện mạo thơ đờng GS Lê Đức Niệm

NXB vaen hoá thông tin Hà Nội 1995 trang 135)
Tiêu biểu cho thời gian đời thờng trong tho Đỗ Phủ là Thạch Hào lại
bao sự kiện xảy ra dồn dập chỉ trong một thời gian ngắn từ mộ (chiều tối)
đến dạ (ban đêm) dạ cửu (đêm khuya) thiên minh (rạng sáng) cùng với
mộ là việc ngời khách đi đờng hốt hoảng kiếm chỗ nghỉ chân
Mộ đầu thạch Hào thôn
(chiều tối lao vào xóm Thạch Hào)
Cùng với dạ là cuộc bắt lính đầy tàn bạo trói. Tác giả sử dụng từ rất
chuẩn để lột tả tính chất vô nhân đạo trong việc bắt lính của bọn quan lại, bắt
vào ban đêm để dân chúng không kịp trở tay. Vì thế dạ vừa từ dạ đến dạ
cửu là thời gian diễn ra cuộc tra khảo xét, hỏi để bắt cho đợc ngời đi phu, đi
lính. Tác giả miêu tả cuộc bắt lính ấy mà bằng sự miêu tả gián tiếp thông qua
sự quan sát trực tiếp mà bằng sự miêu tả gián tiếp thông qua lời đối thoại của
tên lại và bà lão chẳng hạn:
Lai hô nhấ là nộ
Phu đề nhất là khổ
(viên lại quát đà dữ
Bà già van đà khổ)
Từ đầu chí cuối chỉ có tiếng quát nạt cuảt viên lại con lìa lão từ đầu chí
cuối chỉ có kêu van ấy là cái thần của cuộc thoại. Bà lão kể về gia đình mình
với bao nỗi oán hờn, buồn tủi, con trai chết trận, con dâu đang phụ thuộc cháu
nhỏ vì cháu còn bú mẹ, kết thúc vào lúc đêm khuya là việc nhà bà lão bị bắt
đi. Tình cảnh ấy đã tác động sâu sắc đến tác giả, kết tinh thành niềm cảm xúc.
Dạ
(Đêm khuya lời đã tắt


×