Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Phân tích luận điểm của HCM thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.25 KB, 21 trang )

Phân tích luận điểm của HCM "thắng đế quốc và phong kiến là
tương đối dễ; thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều"
Phần 1: MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người đã hiến dâng trọn cuộc đời cho sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Người đã để lại cho
chúng ta một di sản tinh thần vô giá là tư tưởng và tấm gương mẫu
mực, cao đẹp, kết tinh những giá trị truyền thống của dân tộc, của
nhân loại và thời đại. Ở Người luôn có sự thống nhất giữa tư tưởng và
hoạt động thực tiễn, giữa lời nói và việc làm, đồng thời Người nghiêm
khắc đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải thực hiện yêu cầu đó.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị
đặc sắc của Hồ Chí Minh. Người đã vượt qua giới hạn của những nhà
yêu nước đương thời và tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc.
Trong tư tưởng của Người, độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung dân
tộc dân chủ. Không phải bất kỳ độc lập dân tộc nào cũng tạo cơ sở,
tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo Người, để tạo cơ sở, tiền đề
cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân phải được thực hiện một cách triệt để, "đến nơi". Đó là một
nền độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn không lệ thuộc vào bất cứ lực
lượng nào cả về đối nội, lẫn đối ngoại. Hồ Chí Minh nhiều lần phê
phán sự lệ thuộc về mọi mặt của những chính quyền do thực dân cũ và
mới lập nên ở Việt Nam. Người gọi đó là độc lập giả hiệu, độc lập
kiểu Mỹ. Bởi "nếu nước được độc lập mà người dân không được
hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì".
Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ
giữa mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài. Theo lôgíc của sự phát
triển, hai mục tiêu ấy quan hệ chặt chẽ với nhau. Không thể đi đến
mục tiêu cuối cùng nếu không thực hiện được mục tiêu trước mắt. Chỉ
thực hiện được mục tiêu cuối cùng mới bảo vệ và phát triển được
1



những thành quả của mục tiêu trước mắt. Vì vậy, nếu độc lập dân tộc
tạo cơ sở, tiền đề để đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tốt nhất để
giữ vững và phát triển lên một tầm cao mới - thành quả của độc lập
dân tộc.
Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng, cả cách mạng giải phóng dân tộc
và cách mạng xã hội chủ nghĩa là việc khó, là cuộc đấu tranh gay go,
ác liệt, lâu dài. Giành độc lập dân tộc đã khó, xây dựng chủ nghĩa xã
hội còn khó khăn hơn. Trong “Bài nói tại Lễ kỷ niệm 30 năm ngày
thành lập Đảng” tháng 1 năm 1960 Người so sánh: “thắng đế quốc và
phong kiến là tương đối dễ; thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn
nhiều” Hồ Chí Minh. Sđd, t.10. Tr7 . Trong Luận điểm này Người
khẳng định cuộc đấu tranh chống bần cùng, lạc hậu còn khó khăn hơn
nhiều cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến. Với tiểu luận này,
tác giả sẽ làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam để thấy được tính đúng đắn của luận
điểm và sự vận dụng của Đảng trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Phần 2: NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng vô sản và chủ
nghĩa xã hội
Mác và Ăngghen đã tiên đoán khả năng cách mạng xã hội chủ
nghĩa nổ ra trước tiên đồng loạt ở các nước tư bản phát triển nhất, nơi
những tiền đề vật chất của chủ nghĩa xã hội đã đạt đến độ chín muồi.
Theo các ông, giữa xã hội tư bản và xã hội cộng sản là một thời kỳ cải
biến cách mạng gay go, quyết liệt từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích
ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị và Nhà nước của
thời kỳ ấy là nền chuyên chính vô sản.


2


Lênin cho rằng chủ nghĩa xã hội có thể thắng lợi thậm chí trong
một nước tư bản riêng lẻ, miễn ở đó là khâu yếu nhất của sợi dây
chuyền chủ nghĩa đế quốc. Lênin đồng thời đã nêu ra tư tưởng trong
những điều kiện lịch sử nhất định, những nước lạc hậu có thể phát
triển rút ngắn, bỏ qua, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa để đi lên chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, Các nhà kinh điển Mác – Lênin đã khẳng định tính tất
yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo các ông
có hai con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội: con đường quá độ trực
tiếp lên chủ nghĩa xã hội từ những nước tư bản chủ nghĩa phát triển
cao; con đường quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa ở những nước tiền tư bản.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân sinh
Tư tưởng của chủ nghĩa Mác về vấn đề dân sinh lấy quan niệm
duy vật lịch sử làm cơ sở lý luận, lấy học thuyết về bản chất con
người, về nhu cầu và phát triển con người làm căn cứ trực tiếp. Nội
dung cơ bản của nó bao gồm những điểm sau:
Thứ nhất, tính chủ thể lịch sử của con người
C.Mác cho rằng, bản chất người nằm ở tính xã hội của nó. Bản
chất người không phải là thứ trừu tượng cố hữu của con người cá nhân
mà trong tính hiện thực của mình, nó là sự tổng hòa của tất cả các
quan hệ xã hội. Quần chúng nhân dân, đặc biệt là quảng đại nhân dân
lao động là chủ thể của lịch sử xã hội, là người sáng tạo ra sự giàu có
vật chất và tinh thần của xã hội, là lực lượng quyết định thúc đẩy sự
phát triển và biến đổi xã hội.
Thứ hai, con người là con người hiện thực, hoạt động thực tiễn,
là con người nằm trong quan hệ sản xuất

C.Mác cho rằng, con người xuất phát từ nhu cầu sản xuất thực
tiễn xã hội của mình, đồng thời dựa vào nhu cầu mà tiến hành hoạt
động thực tiễn; để sáng tạo ra lịch sử, con người buộc phải sinh sống,
3


cho nên hoạt động sản xuất ra tư liệu sản xuất vật chất để thoả mãn
nhu cầu con người là hoạt động lịch sử đầu tiên của loài người. Trong
quá trình sản xuất, con người hình thành nên các quan hệ giữa người
và người, tức quan hệ sản xuất; trên nền tảng quan hệ sản xuất, hình
thành và phát triển các loại quan hệ xã hội và hiện tượng xã hội.
Thứ ba, nhu cầu con người và phát triển con người
Học thuyết Mác về nhu cầu con người cho rằng, nhu cầu là động lực
nội tại trực tiếp của hoạt động thực tiễn của loài người, chính trong quá
trình sản xuất, con người đã hình thành nên các nhu cầu, các nhu cầu đó
không ngừng gia tăng và biến đổi, khiến cho đời sống xã hội không
ngừng được điều chỉnh và tiến bộ. Cùng với những vận động mâu thuẫn
trong sản xuất, những nhu cầu đó thúc đẩy xã hội loài người phát triển từ
thấp tới cao. Mức độ phát triển và trình độ phong phú của nhu cầu con
người là tiêu chí quan trọng thể hiện mức độ phát triển người.
Quan niệm duy vật lịch sử cho rằng, xét đến cùng, việc thực hiện
sự giải phóng triệt để và phát triển toàn diện con người. Thực hiện dân
sinh chính là thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện con người. Đây là
sự khác biệt bản chất giữa quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác với quan điểm lịch sử dân sinh của chủ nghĩa duy tâm muôn hình
vẻ.
2.2. Cơ sở thực tiễn
Kinh nghiệm của Trung Quốc
Ngày 1 - 10 - 1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chính
thức thành lập sau khi hoàn thành các mạng dân tộc dân chủ. Thắng

lợi này đã chấm dứt hơn 100 năm nô dịch của đế quốc, xóa bỏ tàn dư
phong kiến, đưa nước Trung Hoa bước vào kỉ nguyên độc lập, tự do

tiến
lên
chủ
nghĩa

hội.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhân dân Trung
Quốc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là đưa đất nước thoát khỏi nghèo
nàn, lạc hậu, phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa và giáo dục.
4


Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đều khẳng định: công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc, tất cả những việc
chúng ta tiến hành vừa phải để mắt tới nhu cầu đời sống vật chất, văn
hoá hiện thực của nhân dân, vừa cần hướng tới sự đề cao việc thúc đẩy
tố chất dân chúng, cũng chính là cần nỗ lực xúc tiến sự phát triển toàn
diện con người. Thúc đẩy sự phát triển toàn diện con người, đồng thời
thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hoá và cải thiện đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân là tiền đề và cơ sở của nhau. Con người càng
phát triển toàn diện, sự giàu có vật chất và tinh thần của xã hội càng
được sáng tạo nhiều, đời sống nhân dân càng được cải thiện và điều
kiện vật chất tinh thần đầy đủ thì càng có thể thúc đẩy sự phát triển
toàn diện con người. Mức độ phát triển sức sản xuất xã hội và kinh tế,
văn hoá là quá trình lịch sử dần được nâng cao không ngừng, trình độ
phát triển toàn diện con người cũng là quá trình lịch sử dần được nâng
cao không ngừng. Hai quá trình lịch sử này kết hợp với nhau, thúc đẩy

lẫn nhau tiến về phía trước.
Thực tiễn đã chứng minh tốc độ phát triển mạnh mẽ của kinh tế
Trung Quốc. Hiện nay, Trung Quốc vươn lên là nền kinh tế đứng thứ 2
thế giới với Tổng GDP tính theo PPP năm 2011: 7.043 tỷ USD đứng
sau Mỹ 13.860 tỷ USD và đứng trên Nhật 4.305 tỷ USD.
Kinh nghiệm của Liên Xô
Từ 1950 đến nửa đầu những năm 70 Liên Xô tiếp tục xây dựng
cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và đạt nhiều thành tựu
to lớn: Giữa những năm 1970, là cường quốc công nghiệp thứ hai thế
giới, đi đầu trong công nghiệp vũ trụ, công nghiệp điện hạt nhân…);
sản lượng nông nghiệp tăng trung bình hàng năm 16%; năm 1957
phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên của trái đất; năm 1961, phóng tàu vũ
trụ đưa nhà du hành Gagarin bay vòng quanh Trái đất, mở đầu kỷ
nguyên chinh phục vũ trụ của loài ngoài.

5


Tuy nhiên từ giữa những năm 70 của thế kỷ XX, trước cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới, do chậm sửa đổi để thích ứng với tình
hình mới nên đến cuối những năm 70 đến đầu những năm 80, kinh tế
Liên Xô lâm vào tình trạng trì trệ, suy thoái.
Tháng 3/1985, M Gooc -ba - chop tiến hành cải tổ đất nước
theo đường lối “cải cách kinh tế triệt để”, tiếp theo là cải cách
hệ thống chính trị và đổi mới tư tưởng. Sau 6 năm, do sai lầm trong
quá trình cải tổ, đất nước Xô Viết khủng hoảng toàn diện:
Kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường vội vã , thiếu sự
điều tiết của nhà nước nên gây ra hỗn loạn, thu nhập giảm sút
nghiêm trọng.
Chính trị và xã hội: mất ổn định (xung đột sắc tộc, ly khai liên

bang..),thực hiện đa nguyên chính trị làm suy yếu vai trò lãnh đạo của
Đảng và nhà nước.
Ngày 21/12/1991, 11 nước cộng hòa tách ra khỏi liên bang
lập Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG ). Gooc ba chop từ chức
Tổng thống , Liên Xô tan rã sau 74 năm tồn tại .
Như vậy, từ kinh nghiệm thành công và thất bại của Trung Quốc
và Liên Xô cho thấy rằng: xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu
tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài.
2.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh
2.3.1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
2.3.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội
Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc trong thời đại
cách mạng vô sản được thể hiện trên những luận điểm cơ bản sau đây:
Một là, độc lập dân tộc phải là độc lập thực sự, độc lập hoàn
toàn với đầy đủ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, chính trị,
kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng. Quyền độc lập dân tộc là
quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
6


Đối với một người dân mất nước, cái quý nhất trên đời là độc lập
của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Như Hồ Chí Minh đã từng nói: Cái
mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được
độc lập…Hồ Chí Minh là người đã đưa ra chân lý bất hủ, có giá trị
cho mọi thời đại: “không có gì quý hơn độc lập tự do”. Đó không chỉ
là lý tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí
Minh, là lý do chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng,
nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Nước Việt Nam của người Việt Nam, mọi vấn đề thuộc chủ quyền

quốc gia Việt Nam phải do người Việt Nam tự giải quyết. Nhân dân
Việt Nam không chấp nhận sự can thiệp dưới bất cứ hình thức nào.
Theo Hồ Chí Minh quyền độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, là
trên hết, dù có phải hy sinh đến đâu cũng phải giành và giữ cho được
quyền độc lập ấy.
Hai là, Giá trị thực sự của độc lập dân tộc phải được thể hiện ở
các quyền tự do và hạnh phúc mà nhân dân được hưởng.
“Nếu nước được độc lập, mà dân không được hưởng hạnh phúc
tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Độc lập dân tộc phải
được đặt trong khối thống nhất bền vững, đoàn kết chặt chẽ của các
tộc người, các miền tổ quốc, giữa các tôn giáo và tất cả các giai cấp,
tầng lớp nhân dân yêu nước, đồng bào trong nước và kiều bào ở nước
ngoài.
Ba là, Độc lập dân tộc trong hòa bình chân chính.
Bốn là, kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân
tộc với CNXH, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế.
2.3.1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về CNXH
Quan niệm của Hồ Chí Minh về những đặc trưng bản chất của CNXH
Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội do nhân dân làm chủ. Nó
khác với các chế độ xã hội trước ở chỗ quyền làm chủ trong xã hội xã

7


hội chủ nghĩa thuộc về đa số nhân dân, còn quyền làm chủ trong các
xã hội trước thuộc về thiểu số giai cấp thống trị.
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản
xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.

Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hoá, đạo
đức, trong đó người với người là bạn bè, đồng chí, anh em, con người
được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh
thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết khả năng sẵn có
của mình.
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý, làm nhiều
hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng; các
dân tộc đều bình đẳng, miền núi được giúp đỡ để tiến kịp miền xuôi,
người già, trẻ em, người tàn tật được quan tâm, chăm sóc.
Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của quần chúng nhân dân,
do nhân dân tự xây dựng lấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Tóm lại, trong tư duy Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là một xã
hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, đạo đức và văn minh,
một chế độ xã hội ưu việt nhất trong lịch sử, một xã hội tự do và nhân
đạo phản ánh được khát vọng thiết tha của loài người.
2.3.1.3. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo quan
điểm HCM
Theo Hồ Chí Minh giành độc lập dân tộc để đi lên CNXH
Giành độc lập dân tộc để đi lên CNXH, điều này khác với các bậc
tiền bối yêu nước trước đó- họ mới chỉ đề cập đến việc giành độc lập
dân tộc mà chưa gắn bó giữa độc lập dân tộc với tiến bộ xã hội, với
CNXH.

8


Để có độc lập thật sự cho dân tộc, tự do, hạnh phúc hoàn toàn cho
nhân dân không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô
sản, con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô

sản, là một trong những “cái cánh” của cách mạng vô sản. Gắn cách
mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam với cách mạng thế giới, đưa
dân tộc ta vào quỹ đạo của thời đại, đưa cách mạng giải phóng dân tộc
tiến lên cách mạng XHCN. Đây là một phát hiện, một sáng tạo lớn về
con đường phát triển cách mạng ở các nước thuộc địa nửa phong
kiến.
Xây dựng CNXH là tạo những cơ sở giữ vững và phát triển độc lập
dân tộc
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc là mục tiêu, là tiền đề đi lên
CNXH, còn CNXH là phương hướng phát triển tất yếu của cách mạng
dân tộc dân chủ, là mục tiêu lâu dài của cách mạng Việt Nam.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là làm cho cách mạng dân tộc dân
chủ được tiến hành triệt để; đồng thời tạo ra những cơ sở đảm bảo cho
nền độc lập dân tộc được giữ vững và ngày càng củng cố, phát triển.
Với các thiết chế kinh tế, chính trị và nền tảng tinh thần riêng, chủ
nghĩa xã hội có khả năng vận động phát triển liên tục, bảo vệ vững
chắc các thành quả cách mạng của nhân dân và nền độc lập của dân
tộc.
2.3.2. Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.3.2.1. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
Quan niệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam được xây dựng trên cơ sở kế thừa quan niệm của các
nhà kinh điển Mác – Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
đồng thời có sự bổ sung, phát triển phù hợp với điều kiện Việt Nam.

9


Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, con đường đi lên chủ nghĩa

xã hội không hoàn toàn bằng phẳng, mà có vô vàn khó khăn, phức tạp
cần phải vượt qua. Người nhận định: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là
một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài '', “ai nói
dễ là chủ quan và sẽ thất bại” bởi “biến đổi một xã hội cũ thành một
xã hội mới, không phải là một chuyện dễ'', “thắng đế quốc và phong
kiến là tương đối dễ; thắng bần cùng, lạc hậu còn khó khăn hơn
nhiều”. Người lưu ý, tuy chủ nghĩa xã hội có mục tiêu, nguyên lý
chung, nhưng cần nhận thức rõ tính quy luật chung và đặc điểm lịch
sử cụ thể của mỗi nước khi bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. .
Người viết: “Tùy hoàn cảnh mà các dân tộc phát triển theo con đường
khác nhau. Có nước đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Có nước thì phải
kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội''. Theo
Người, thời kỳ quá độ ở Việt Nam sẽ phải trải qua nhiều bước, “bước
ngắn, bước dài, tùy theo hoàn cảnh'', nhưng: “chớ ham làm mau, ham
rầm rộ. Đi bước nào vững vàng, chắc chắn bước ấy, cứ tiến tới dần
dần'. Người căn dặn, phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo,
chống giáo điều, rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài
Với những hiểu biết sâu sắc về thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã nhiều lần điều chỉnh lại sự “tiến thẳng” lên CNXH ở Việt
Nam với tư cách “một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ
và lâu dài”. Người nhiều lần khẳng định: “Tiến lên chủ nghĩa xã hội,
không thể một sớm một chiều. Đó là cả một công tác tổ chức và giáo
dục”. Rằng, Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, “công cuộc
đổi mới xã hội cũ thành xã hội mới gian nan, phức tạp hơn việc đánh
giặc” và “không thể làm mau được mà phải làm dần dần”, bởi “chúng
ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới chưa từng có trong lịch sử
dân tộc”, “phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và
thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm”, “phải thay đổi quan hệ
sản xuất cũ, xoá bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới…,
10



biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công
nghiệp”, “biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hoá cao
và đời sống tươi vui hạnh phúc”. Hồ Chí Minh. Sđd., t.8, tr.228, 493,
494.
Như vậy, quan niệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam là quan niệm về một hình thái quá độ gián tiếp cụ
thể - quá độ từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, nông nghiệp lạc
hậu đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh chỉ ra đặc điểm và mâu thuẫn của thời kỳ quá độ
lên CNXH ở Việt Nam: “Đặc điểm to lớn nhất của nước ta trong thời
kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa
xã hội không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Đây là
vấn đề mới cần nhận thức và tìm giải pháp đúng đắn để có hình thức,
bước đi phù hợp với Việt Nam.
“Mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ là mâu thuẫn giữa một
bên là yêu cầu phải tiến lên xây dựng một chế độ xã hội mới có “công,
nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến” với một bên là tình
trạng lạc hậu phải đối phó với bao thế lực cản trở, phá hoại mục tiêu
của chúng ta”.
2.3.2.2. Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
Người nêu: phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của
CNXH..., vừa cải tạo kinh tế cũ vừa xây dựng kinh tế mới, mà xây
dựng là chủ yếu và lâu dài. Hồ Chí Minh chỉ ra nhiệm vụ cụ thể về
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm chống lại các thế lực cản trở đi
lên chủ nghĩa xã hội. Hai nội dung lớn:
Xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội,
xây dựng tiền đề về kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng cho chủ nghĩa

xã hội.

11


Cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây
dựng, trong đó xây dựng là trọng tâm, là nội dung cốt lõi, lâu dài. Tính
chất phức tạp và lâu dài, khó khăn được Hồ Chí Minh lý giải:
Là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt của đời sống xã
hội cả lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng.
Là công việc mới mẻ đối với Đảng ta, vừa làm, vừa học, vừa rút kinh
nghiệm.
Sự nghiệp của chúng ta bị các thế lực phản động trong và ngoài
nước tìm cách chống phá. Vì vậy, xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa đòi
hỏi khoa học, hiểu biết qui luật khách quan, vừa phải có nghệ thuật
quản lý khôn khéo.
2.3.2.3. Nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời
kỳ quá độ
Trong lĩnh vực chính trị
Khẳng định thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là một thời kỳ lịch sử lâu dài,
đầy khó khăn với những nhiệm vụ lịch sử trọng đại như vậy, Hồ Chí
Minh cũng đã chỉ ra nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi sự nghiệp
lớn lao này đó là giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, củng cố và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, nòng cốt
là liên minh công nhân, nông dân, trí thức do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Người yêu cầu
phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
Người khẳng định: thắng đế quốc và phong kiến đã khó, thắng bần
cùng lạc hậu còn khó hơn. Người coi việc chống lại những gì cũ kỹ,

hư hỏng, tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi là một cuộc chiến đấu
khổng lồ. Hư hỏng, cũ kỹ cần được hiểu theo tinh thần Hồ Chí Minh,
không chỉ là làng mạc, thành phố bị hư hại mà gồm con người, tổ
chức, tư duy cũ, giặc nội xâm, giặc dốt nát và thói quen truyền thống
lạc hậu. Loại giặc này khá nguy hiểm, vì nó không mang gươm, mang
12


súng, nhưng lại phá từ trong phá ra, làm hỏng tổ chức của ta. Nó là
bạn đồng minh của thực dân, phong kiến và đáng sợ hơn giặc bên
ngoài. Phân tích các loại giặc, Hồ Chí Minh chỉ rõ kẻ địch ít nhưng rất
nguy hiểm: Ví dụ xây dựng một căn nhà cần nhiều người, nhưng chỉ
cần một người có thể phá nhà.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi cán bộ là gốc của mọi công việc; đạo
đức của cán bộ là gốc, là nền tảng cần được hiểu đầy đủ, sâu sắc trên
hai phương diện. Một là, nếu cán bộ giữ được đạo đức cách mạng thì
cách mạng thắng lợi. Hai là, nếu suy thoái về đạo đức là một trong
những nguy cơ lớn nhất trên đường phát triển của cách mạng. Với ý
nghĩa đó, nếu nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân được ở phần lớn trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là
đảng viên, cán bộ có chức, có quyền thì sẽ thúc đẩy có hiệu quả to lớn
Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Chống suy thoái về đạo đức, đặc biệt phải tập trung chống chủ
nghĩa cá nhân. Bởi vì chủ nghĩa cá nhân là một loại giặc, đồng minh
với các loại giặc khác. Muốn chống các loại giặc khác, trước hết phải
chống giặc trong lòng, tức chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là một
thứ vi trùng rất độc, đẻ ra hàng trăm thứ bệnh khác nhau. Nó không chỉ
ảnh hưởng tới từng cá nhân, đối với dân tộc, mà còn làm mất niềm tin
của nhân dân đối với Đảng. Nói ngắn gọn, theo quan điểm Hồ Chí
Minh, chủ nghĩa cá nhân là một vật cản trên con đường xây dựng chủ

nghĩa xã hội, là đối lập với chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, thắng lợi của chủ
nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ
nghĩa cá nhân. Chống chủ nghĩa cá nhân không có nghĩa là giày xéo lên
lợi ích cá nhân. Đây là một quan điểm hết sức khoa học của Hồ Chí
Minh trong tình hình hiện nay.
Trong lĩnh vực kinh tế
Người nhấn mạnh việc tăng năng suất lao động trên cơ sở tiến
hành công nghiệp hoá XHCN; xây dựng cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu
13


các thành phần kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế và lãnh thổ; chủ trương đa
dạng hoá các loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất, đồng thời coi trọng
quan hệ phân phối và quản lý kinh tế; sử dụng hình thức và phương
tiện của chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kẻ thù muốn
đè bẹp ta về kinh tế thay bằng quân sự, vì vậy ta phải phát triển kinh
tế.
Trong lĩnh vực văn hóa
Xây dựng con người mới
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội
phải có con người xã hội chủ nghĩa". Con người là yếu tố quyết định.
Do đó, Bác đặc biệt quan tâm tới việc tuyên truyền, vận động, giáo
dục, đào tạo, bồi dưỡng con người, đặc biệt là thế hệ trẻ. Bác đòi hỏi
phải giáo dục, đào tạo con người một cách toàn diện: đức, trí, thể, mỹ;
đặc biệt là giáo dục, rèn luyện về đạo đức, vì “sức có mạnh mới gánh
được nặng, đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng
làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang'', “có
đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng
không sợ sệt, rụt rè, lùi bước...khi gặp thuận lợi và thành công vẫn
khiêm tốn, lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt

hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không hủ hóa”. Theo
Bác, đạo đức cách mạng, nói một cách tóm tắt, “là tuyệt đối trung
thành với đảng,với nhân dân. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân
lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng
hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình,
gương mẫu trong mọi việc”, là "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư”.
Xây dựng đời sống mới
Ngay sau khi tiến hành tổng khởi nghĩa thành công, giành chính
quyền về tay giai cấp công – nông, và trong bối cảnh phải đương đầu
với thù trong giặc ngoài , phải giải quyết những vấn đề cấp bách
14


chống lại giặc đói, giặc dốt với một nền tài chính rỗng tuếch. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã phát động phong chào toàn dân “thực hiện đời sống
mới” với mục đích xuyên suốt: bảo vệ nền độc lập non trẻ và bắt tay
vào xây dựng một xã hội mới. Tư tưởng dổi mới của Hồ Chí Minh
xuất phát từ quyền lợi của dân tộc và của nhân dân.
Ngày 3 tháng 9 năm 1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội
Đồng Chính Phủ, Chủ Tịch Hồ Chí minh nêu lên sáu nhiệm vụ cấp
bách cùng những biện pháp thực hiện rất cụ thể. Về “ vấn đề thứ tư”,
người nói: “ chế độ thực dân đã đầu độc dân ta với rượu và thuốc
phiện. Nó đã dùng mọi thủ đoạn hòng hủ hóa dân tộc chúng ta bằng
những thói xấu, lười biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác.
Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại tinh thần nhân
dân. Chúng ta phải làm cho nhân dân chúng ta trở nên một dân tộc
dũng cảm, yêu nước, yêu lao động. Một dân tộc xứng đáng với nước
Việt Nam độc lập. Tôi đề nghị mở lại một chiến dịch giáo dục lại tinh
thần nhân dân bằng cách thực hiện: cần, kiệm, liêm, chính”. Tinh thần

ấy phải được “giáo dục lại” vì chế độ thực dân đã làm tổn hại và làm
thoái hóa, biến chất trong những con người phải chịu cuộc đời của
kiếp nô lệ. Việc “giáo dục lại” tinh thần ấy cũng có nghĩa là làm cuộc
giải phóng nhân dân, trước hết là giải phóng tư tưởng để họ nhận thức
đúng đắn về nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi của nước Việt Nam
hoàn toàn độc lập và tự do; cho nên người cũng kêu gọi “ phải có giáo
dục đạo đức công dân”.
Thời gian và thực tiễn cuộc sống, ngày càng chứng minh sự cảm
nhận của Hồ Chí Minh là đúng khi người nói: “thắng đế quốc và
phong kiến là tương đối dễ; thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn
nhiều”. cảm nhận đó xuất phát từ lịch sử và chính từ sự từng trải của
Người. Do vậy, tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh là tư tưởng khoa
học, tư tưởng cách mạng triệt để, được Người cụ thể hóa bằng các
cuộc vận động, các phong trào thi đua nhằm tuyên truyền, giáo dục
15


nhân dân chuyển biến nhận thức phù hợp với những đổi thay của xã
hội cách mạng đem lại. Bởi, không có sự chuyển biến đó, từ mỗi
người dân cho đến toàn xã hội, thì khó có thể tiến hành sự nghiệp bảo
vệ nền độc lập dân tộc và tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội đến thắng
lợi hoàn toàn. Chủ nghĩa cá nhân – con đẻ của các chế độ phong kiến
và thực dân, với nhiều thói hư tật xấu trong lối sống, nếp sống, tạo nên
sức ì trong tâm lý mỗi người, lan truyền ra khắp cộng đồng , lâu ngày
trở nên “thâm căn cố đế”, là vật cản nguy hiểm đối với cuộc cách
mạng. Thực hiện đời sống mới là nhằm phá cái thâm căn cố đế đó đi.
Song, điều đó không dễ, không phải ngày một ngày hai đã làm được.
Người phân tích:”Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ”,” cái gì cũ mà
không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý”, “cái gì
cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm”,”cái gì mới mà hay, thì ta phải

làm”. Nội dung tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh nằm trong những
câu – chữ hết sức bình dị, ai cũng có thể hiểu và đều thực hiện được,
bởi đổi mới chính là sự kế thừa có chọn lọc truyền thống dân tộc và
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Cách tư duy này tránh được sự
không tưởng; tránh được sự lãng phí sức lực, tiền của, thời gian không
cần thiết; tránh được sự vòng vo, lặp lại vô ích. Điều căn bản là lam
thế nào để phân biệt, xác định được cái xấu, cái không xấu, cái tốt hay
và cái hay; để làm gì ? – Để “làm thế nào cho đời sống của dân ta, vật
chất được đầy đủ hơn, tinh thần được vui mạnh hơn. Đó là mục đích
đời sống mới”.
Mục đích đời sống mới, theo cách nói của Hồ Chí Minh, cũng là
mục đích của cách mạng – cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã
hội chủ nghĩa – mà Đảng ta lãnh đạo nhân dân ta thực hiện suốt chiều
dài
hơn
bảy mươi
năm
qua.
2.4. Tính đúng đắn của Luận điểm và sự vận dụng của Đảng trong
thực tiễn cách mạng Việt Nam
2.4.1. Tính đúng đắn của Luận điểm
16


Luận điểm "thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ; thắng
bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều" của Chủ tịch Hồ Chí Minh là
đúng đắn trong mọi thời kỳ, giai đoạn của cách mạng Việt Nam.
Trong luận điểm, Người nêu rõ: thắng đế quốc, phong kiến đã
khó; thắng bần cùng, lạc hậu còn khó hơn nhiều. Từ những quan điểm
của Người về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; con đường quá độ

lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam càng khẳng định thêm tính đúng đắn
của luận điểm. Bởi xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử
lâu dài, một công việc “rất to lớn, nặng nề, và phức tạp”, cũng là “một
cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những
cái mới mẻ, tốt tươi” và do vậy, “để giành lấy thắng lợi trong cuộc
chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo
dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”. Hồ Chí
Minh. Sđd. t.12, tr.505.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng: 45
năm từ năm 1930 đến năm 1975 chúng ta đã chiến đấu, hy sinh; đã
vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để thắng đế quốc, phong kiến nhưng
ngay cả trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến và cho đến
tận bây giờ nhân dân ta vẫn đã, đang và sẽ phải tiếp tục cuộc đấu tranh
chống bần cùng, lạc hậu. Bởi đấu tranh chống giặc đói và giặc dốt còn
nguy hiểm hơn, khó khăn hơn, gian khổ hơn và lâu dài hơn rất nhiều
so với giặc ngoại xâm.
2.4.2. Sự vận dụng của Đảng trong thực tiễn cách mạng Việt Nam
Giai đoạn 1945 – 1975
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã mở ra cho dân
tộc ta một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã
hội. Thế nhưng, ngay trong những ngày đầu độc lập ấy, Nhà nước Dân
chủ Nhân dân đầu tiên ở Ðông-Nam Á vừa được thành lập đã phải
tiến hành cuộc đấu tranh quyết liệt cho sự tồn tại của mình. Những
17


khó khăn to lớn, chồng chất lại một lần nữa thử thách nhân dân ta.
Nền tài chính đất nước kiệt quệ, ngân khố quốc gia trống rỗng, chỉ còn
hơn một triệu đồng, phần nhiều là tiền lẻ, cũ nát. Ngập lụt xảy ra ở
nhiều nơi, nạn đói khủng khiếp vẫn còn đang là mối đe dọa. Trình độ

văn hóa rất thấp kém, đại đa số nhân dân không biết chữ. Lực lượng
vũ trang mới được xây dựng, còn rất nhỏ bé. Bộ máy quản lý nhà
nước đang thiếu đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm. Nước ta giành được
độc lập nhưng chưa có quốc gia nào trên thế giới thừa nhận. Ðất nước
trong tình thế nghìn cân treo sợi tóc...
Giữa bộn bề những công việc cấp bách ấy, Người đã sáng suốt lựa
chọn những vấn đề cấp bách nhất mà Chính phủ phải tập trung giải
quyết đưa đất nước từng bước vượt qua tình thế khó khăn. Ngay trong
phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 3-9-1945, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nêu: Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa lúc này và đưa ra những giải pháp cụ thể
nhằm giải quyết kịp thời, có hiệu quả những nhiệm vụ cấp bách ấy.
1. Giải quyết nạn đói bằng việc “phát động một chiến dịch tăng
gia sản xuất” và đề nghị “Mười ngày một lần, tất cả đồng bào ta nhịn
ăn một bữa. Gạo tiết kiệm được sẽ góp lại và phát cho người nghèo”.
2. “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vây tôi đề nghị mở một
chiến dịch để chống nạn mù chữ”.
3. “Chúng ta phải có hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ
chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông
đầu phiếu”.
4. “Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở thành một dân tộc
dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước
Việt Nam độc lập”. “Tôi đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh
thần nhân dân bằng cách: Cần, Kiệm, Liêm, Chính”.
5. Để nghị bỏ các thuế thân, thuế chợ, thuế đò “tuyệt đối cấm hút
thuốc
phiện”.
18



6. “Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: tín ngưỡng tự do và Lương Giáo
đoàn kết”.
Là con người "của những bước ngoặt lịch sử", "của những quyết
định lịch sử", luôn nhạy bén với mọi tình huống dù phức tạp đến mấy,
luôn nhìn xa thấy rộng giữa những rối ren, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Ðảng ta đã khéo léo vận dụng và sáng tạo thời - thế, thực hiện những
đối sách phù hợp, tránh những xung đột bất lợi cho ta, để đưa công
cuộc vừa kháng chiến vừa kiến quốc tiếp tục vững bước tiến lên.
Chính điều đó đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm
1954.
Với chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc được hoàn toàn giải
phóng và bước vào công cuộc cải tạo, xây dựng CNXH. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng nhân dân ta tiếp tục thực hiện 2 cuộc cách mạng ở 2
miền khác nhau: cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam. Đây là một sáng tạo trong lý luận cách
mạng của Hồ Chí Minh.
Giai đoạn 1975 đến nay
Thời kỳ trước đổi mới, do chưa nhận thức đúng đắn các quy luật
khách quan nên trong đường lối lãnh đạo của Đảng đã vấp phải những
sai lầm, khuyết điểm.
Nhận thức được những sai lầm đó, từ Đại hội VI của Đảng, tháng
12 năm 1986, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới gắn mục tiêu phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội với việc đảm bảo và nâng cao đời sống cho
nhân dân.
Qua 25 năm đổi mới đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã
hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá
nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được
cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc
được củng cố và tăng cường. Chính trị- xã hội ổn định. Quốc phòng

19


và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không
ngừng được nâng cao…
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là
đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về CNXH
và con đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan
điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội XHCN và con đường đi
lên CNXH ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.
Đặc biệt, trong thời đại ngày nay, cuộc đấu tranh giai cấp không
còn trực diện như thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc mà nó ẩn giấu
đằng sau qua các cuộc đấu tranh về kinh tế, văn hoá, tư tưởng. Cuộc
đấu tranh giai cấp hiện nay không chỉ là đấu tranh bảo vệ chính quyền
mà còn định hướng đi lên CNXH. Vì vậy, nội dung chủ yếu của cuộc
đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo đinh hướng xã
hội chủ nghĩa, thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công đấu
tranh ngăn chặn, khắc phục những tư tưởng hành động tiêu cực, sai
trái; làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch; bảo
vệ độc lập dân tộc và xây dựng Việt Nam trở thành một nước: Dân
giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
CuPhần 3: KẾT LUẬN
Luận điểm "thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ; thắng
bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều" của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
được Người nói cách đây hơn nửa thế kỷ nhưng cho đến nay nó vẫn
còn nguyên giá trị. Bởi trong giai đoạn hiện nay, nhân dân ta đang tiếp
tục thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện thắng
lợi các mục tiêu kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà Đảng và nhân
dân ta đã đề ra.

Đồng thời, trước vô vàn những thuận lợi và khó khăn trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay, Đảng vẫn tiếp tục tìm
20


tòi, ngày càng làm sáng tỏ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho
nhân dân.
Bản thân tôi là một sinh viên trường Đại học Kinh tế quốc dân,
tôi luôn tự nhủ phải cố gắng học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức theo
gương Bác để góp một phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc; thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam:
dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.

21



×