Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Vấn đề dân tộc giai cấp trong tư tưởng hồ chí minh và chủ nghĩa mác lê nin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.74 KB, 28 trang )

MỤC LỤC

Tiêu đê

Trang

Lời mở đầu
1
Vấn đê dân tộc và giai cấp trong chủ nghĩa Mác – Lênin
3
Vấn đê giai cấp - dân tộc trong Tư tưởng Hồ Chí Minh
7
Tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn Việt Nam hiện nay
11
Kết luận
Tài liệu tham khảo
18

1

17


LỜI MỞ ĐẦU

“Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.”
- Hồ Chí Minh Bác Hồ – người cha già kính yêu của dân tộc, suốt cuộc đời hy
sinh vì dân vì nước – là niêm tự hào của dân tộc Việt Nam. Bác là vị
lãnh tụ của nhân dân, tượng trưng cho những tinh hoa tốt đẹp của dân


tộc. Nhớ vê Người, ta càng thêm kính phục và biết ơn Bác biết bao.
Chính Bác là người đã khai sáng và mở đường cho cách mạng Việt
Nam đi đến thành công như ngày hôm nay, mà một trong những đóng
2


góp lớn của Bác chính là việc vận dụng triết học Mác – Lênin vào
thực trạng cách mạng Việt Nam để tìm ra con đường đi đúng đắn cho
nước nhà. Đặc biệt, tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh vê mối
quan hệ giữa vấn đê dân tộc với vấn đê giai cấp là một trong những
nhân tố đảm bảo thành công của cách mạng Việt Nam, một trong
những đóng góp xuất sắc của Người vào kho tàng lý luận cách mạng
của chủ nghĩa Mác - Lênin.

A. Vấn đê dân tộc và giai cấp trong chủ nghĩa Mác – Lênin:
I. Vấn đê dân tộc:
Dân tộc là một cộng đồng dân cư hình thành từ một bộ tộc hoặc
từ sự liên kết của tất cả các bộ tộc sống trên cùng một cùng lãnh thổ.
Cũng như bộ tộc, dân tộc là hình thức cộng đồng người gắn liên
với xã hội có giai cấp, có các thể chế chính trị và nhà nước. Thêm vào
3


đó, dân tộc là một cộng đồng dân cư có tính thống nhất cao, ổn định
và tương đối bên vững dựa trên những nguyên tắc pháp lý cao.
Dân tộc là một cộng đồng dân cư gồm có những đặc điểm chung
thống nhất rất chặt chẽ như sau:
Thứ nhất, cộng đồng vê lãnh thổ. Trong một quốc gia nhiêu dân
tộc thì lãnh thổ quốc gia gồm lãnh thổ của tất cả các dân tộc thuộc
quốc gia ấy hợp thành. Chủ quyên quốc gia dân tộc vê lãnh thổ là kết

quả lao động kiến tạo của cả một dân tộc trong suốt quá trình hình
thành dân tộc. Nó được thể chế bằng pháp luật quốc gia và quốc tế.
Lãnh thổ là chủ quyên không thể chia cắt, là nơi sinh tồn phát triển và
là nên tảng hình thành nên tổ quốc của mỗi quốc gia dân tộc.
Thứ hai, cộng đồng vê kinh tế. Cộng đồng chung vê kinh tế là
nhân tố đảm bảo cho sự tồn tại và thống nhất của mỗi quốc gia dân
tộc. Một quốc gia thống nhất, một dân tộc thống nhất phải được bảo
đảm và phải dựa trên cơ sở cộng đồng chung vê kinh tế. Tính thống
nhất, tính tương đồng và ổn định chung vê kinh tế luôn luôn là nhân tố
bảo đảm cho sự thống nhất của mỗi quốc gia dân tộc.
Thứ ba, cộng đồng vê ngôn ngữ. Ngôn ngữ là công cụ quan
trọng nhất trong giao tiếp của các dân tộc. Mỗi dân tộc đêu có ngôn
ngữ riêng của dân tộc mình, nhưng trong một quốc gia nhiêu dân tộc
bao giờ cũng có một ngôn ngữ chung thống nhất. Ngôn ngữ được
chọn làm ngôn ngữ thống nhất thường là sản phẩm và là kết quả tất
yếu của một quá trình phát triển lâu dài vê kinh tế – xã hội của các dân
tộc trong một quốc gia. Ngôn ngữ là nên tảng văn hóa, đồng thời là di
sản tinh thần của mỗi dân tộc.
Thứ tư, cộng đồng vê văn hóa, vê tâm lý. Văn hóa là yếu tố đặc
biệt trong sự gắn kết cộng đồng dân tộc thành một khối thống nhất.
Đặc trưng chung của văn hóa dân tộc là thống nhất trong tính đa dạng.
Nó được chắt lọc trải dài trong suốt lịch sử đấu tranh để sinh tồn của
mỗi dân tộc. Hơn thế nữa, văn hóa còn là động lực của sự phát triển, là
công cụ bảo vệ độc lập và chủ quyên của mỗi quốc gia. Đấu tranh bảo
4


vệ chủ quyên dân tộc phải được thể hiện thông qua cuộc đấu tranh
chống lại nguy cơ đồng hóa vê văn hóa. Ngoài ra, mỗi dân tộc còn có
tâm lý lối sống và những nét tính cách riêng. Tâm lý và nét tính cách

riêng của mỗi dân tộc trước hết là sự phản ánh những điêu kiện kinh
tế, điêu kiện địa lý, dân cư và nét đặc thù văn hóa riêng của dân tộc
ấy.
Chính vì vậy, cộng đồng vê lãnh thổ, cộng đồng vê kinh tế, cộng
đồng vê ngôn ngữ, vê văn hóa, tâm lý và tính cách là bốn đặc trưng
không thể thiếu của mỗi dân tộc. Đó chính là những yếu tố có mối
quan hệ nội lực nội lực mạnh mẽ. Nó vừa kết dính dân tộc thành một
khối vừa tạo ra động lực để liên kết và phát triển cho mỗi quốc gia dân
tộc. Với những đặc trưng trên, dân tộc hình thành thường gắn liên với
quá trình hình thành và phát triển của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư
bản, song cũng có những dân tộc hình thành không gắn với sự ra đời
của chủ nghĩa tư bản như Việt Nam và Triêu Tiên.
II. Vấn đê giai cấp:
1. Giai cấp:
Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, Lênin định nghĩa: “Người ta
gọi giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau vê
địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch
sử, khác nhau vê quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ
này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản
xuất, vê vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là
khác nhau vê cách thức hưởng thụ và vê phần của cải xã hội ít hoặc
nhiêu mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập
đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các
tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất
định”
2. Nguồn gốc hình thành giai cấp:
5


Trong xã hội có nhiêu nhóm xã hội khác nhau. Sự khác nhau ấy

được phan biệt bởi những đặc trưng khác nhau như giới tính, nghê
nghiệp, chủng tộc, dân tộc ... Những khác biệt ấy tự nó không tạo ra
sự đối lập vê mặt xã hội. Chỉ có những giai cấp xuất phát từ sự khác
biệt căn bản vê lợi ích mới tạo ra những xung đột xã hội mang tính
chất đối kháng. Mác chỉ ra rằng: “Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn
liên với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất”. Sự
phân chia một xã hội thành giai cấp trước hết la do nguyên nhân kinh
tế.
Trong xã hội nguyên thủy, lực lượng sản xuất chưa phát triển,
năng suất lao động rất thấp, sản phẩm làm ra chưa đủ nuôi sống người
nguyên thủy. Để tồn tại họ phải sống nương tựa vào nhau theo bầy
đàn lệ thuộc vào tự nhiên, giai cấp chưa xuất hiện.
Sản xuất ngày càng phát triển với sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Công cụ sản xuất bằng kim loại ra đời thay thế công cụ bằng đá,
năng suất lao động nhờ đó tăng lên đáng kể, phân công lao động xã
hội từng bước hình thành, của cải dư thừa xuất hiện, những người có
chức quyên trong các thị tộc, bộ lạc đã chiếm đoạt của cải dư thừa làm
của riêng; chế độ tư hữu ra đời, bất bình đẳng vê kinh tế nảy sinh
trong nội bộ công xã, đó chính là cơ sở của sự xuất hiện giai cấp.
Do có của cải dư thừa, tù binh bắt được trong các cuộc chiến
tranh không bị giết như trước. Họ được sử dụng làm nô lệ phục vụ
những người giàu và có địa vị xã hội, chế độ có giai cấp chính thức
hình thành kể từ đó. Như vậy, sự xuất hiện chế độ tư hữu là nguyên
nhân quyết định trực tiếp sự ra đời giai cấp. Sự tồn tại các giai cấp đối
kháng gắn với chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến và chế độ tư
bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản phát triển cao lại tạo tiên đê khiến
cho sự thủ tiêu chế độ tư hữu, cái cơ sở kinh tế của sự đối kháng giai
cấp trở thành xu thế khách quan trong sự phát triển xã hội. Đó là lôgic
khách quan của tiến trình phát triển lịch sử.
6



III. Quan hệ giai cấp – dân tộc và giai cấp – nhân loại:
1. Quan hệ giai cấp – dân tộc:
Trong một cộng đồng dân tộc bao giờ cũng có nhiêu giai cấp và
các tầng lớp xã hội khác nhau cùng chung sống. Lợi ích dân tộc là lợi
ích chung của tất cả các giai cấp, các lực lượng xã hội sống trong cộng
đồng ấy. Mỗi một giai đoạn phát triển cụ thể của lịch sử, giai cấp nào
có lợi ích gắn liên với phương thức sản xuất thống trị, sẽ trở thành lực
lượng tiêu biểu và lãnh đạo dân tộc.
Tuy nhiên, trong các xã hội và những phương thức sản xuất tồn
tại dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân vê tư liệu sản xuất, lợi ích của
giai cấp thống trị và lợi ích của dân tộc không phải khi nào cũng thống
nhất, thậm trí nhiêu lúc trái ngược và đối lập với lợi ích dân tộc. Trong
xã hội xã hội chủ nghĩa phương thức sản xuất dựa trên chế độ công
hữu vê tư liệu sản xuất, lực lượng sản xuất thuộc vê quyên sở hữu
chung của cả xã hội, khi ấy lợi ích giai cấp vê cơ bản phù hợp với lợi
ích của cả cộng đồng dân tộc. Đương nhiên, sự phù hợp được thể hiện
trong quá trình giải quyết đúng đắn các mâu thuẫn. Ngày nay, chừng
nào trong xã hội còn giai cấp đối kháng, và đấu tranh giai cấp, vấn đê
quan hệ giai cấp và dân tộc được giải quyết trên lập trường giai cấp
nhất định.
2. Quan hệ giai cấp - nhân loại:
Vấn đê lợi ích nhân loại là những vấn đê có liên quan đến sự
sống còn của cả loài người, chẳng hạn những vấn đê chống chiến
tranh hạt nhân, bảo vệ môi trường, vấn đê dân số, chống các loại dịch
bệnh đe dọa sự sống còn của cả nhân loại. Lợi ích nhân loại là những
nhân tố đáp ứng yêu cầu phát triển của loài người mọi quốc gia, không
phân biệt sự khác nhau vê giai cấp, dân tộc, tôn giáo.
7



Tuy nhiên trong xã hội có giai cấp, lợi ích nhân loại là không
tách rời với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và do đó nó bị chi phối bởi
lợi ích giai cấp.
Lợi ích của giai cấp tiến bộ phù hợp với lợi ích của nhân loại.
Các giai cấp phản động đối với lịch sủ thì lợi ích của giai cấp vê căn
bản mâu thuẫn với lợi ích chung của dân tộc và lợi ích toàn nhân loại.
Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra rằng, muốn giải phóng mình, giai
cấp vô sản phải giải phóng toán nhân loại khỏi áp bức và nô dịch của
chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, lợi ích giai cấp của giai cấp vô sản vê căn
bản phù hợp với lợi ích của nhân loại.

8


Ban lãnh đạo Quốc tế cộng sản một thời gian dài đã nhấn mạnh vấn đê
giai cấp, coi nhẹ vấn đê dân tộc, vì vậy không mấy quan tâm đến chủ
nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc của các nước thuộc địa, thậm chí
còn coi đó là biểu hiện của chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi, trái với chủ
nghĩa quốc tế vô sản. Hơn thế nữa, nếu các nhà Nho yêu nước đê cao
vấn đê dân tộc nhưng không dựa trên vấn đê giai cấp. Tuy nhiên, chủ
tịch Hồ Chí Minh lại nhấn mạnh vấn đê dân tộc đi kèm với vấn đê giai
cấp.

9


B. Vấn đê giai cấp - dân tộc trong Tư tưởng Hồ Chí Minh:
I. Cơ sở thực tiễn của các nước phương Đông:

Vấn đê dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đê thuộc địa
– một vấn đê không chỉ đáng quan tâm ở các nước châu Á mà còn tồn
tại ở rất nhiêu quốc gia trên thế giới.
1)Thực chất của vấn đê dân tộc thuộc địa:
- Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc:
Nếu như C.Mác bàn nhiêu vê cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư
bản, V.I.Lênin bàn nhiêu vê cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc,
thì Hồ Chí Minh tập trung bàn vê cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
thực dân. C.Mác và Lênin bàn nhiêu vê đấu tranh giai cấp ở các nước
tư bản chủ nghĩa, thì Hồ Chí Minh bàn vê đấu tranh giải phóng dân
tộc ở thuộc địa.
Thực chất của vấn đê này chính là vấn đê đấu tranh chống chủ
nghĩa thực dân, xóa bỏ ách thống trị, áp bức, bóc lột của người nước
ngoài, giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc, thực hiện quyên dân
tộc tự quyết, thành lập Nhà nước dân tộc độc lập.
Tất cả những điêu trên được Bác đặc biệt đê cập đến trong
những bài Bác viết có tiêu đê Đông Dương và nhiêu bài khác. Bác lên
án mạnh mẽ chế độ cai trị hà khắc, sự bóc lột tàn bạo của thực dân
Pháp ở Đông Dương trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo
dục. Bác chỉ rõ sự đối kháng giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa
đế quốc thực dân là mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa, đó là mâu thuẫn
không thể điêu hòa được.
- Lựa chọn con đường phát triển của dân tộc
Từ thực tiễn phong trào cứu nước của ông cha và lịch sử nhân
loại, Hồ Chí Minh khẳng định phương hướng phát triển của dân tộc
trong bối cảnh thời đại mới là chủ nghĩa xã hội.
10


Hoạch định con đường phát triển của dân tộc thuộc địa là một

vấn đê hết sức mới mẻ. Từ một nước thuộc địa đi lên chủ nghĩa xã hội
phải trải qua nhiêu giai đoạn khác nhau. Con đường đó kết hợp cả nội
dung dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; xét vê thực chất chính là
con đường độc lập dân tộc gắn liên với chủ nghĩa xã hội.
“Đi tới xã hội cộng sản” là hướng phát triển lâu dài. Nó quy định
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, đoàn kết mọi lực lượng dân tộc,
tiến hành các cuộc cách mạng chống đế quốc và chống phong kiến
cho triệt để.
Con đường đó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở các nước
thuộc địa. Đó cũng là nét độc đáo, khác biệt với con đường phát triển
của các dân tộc đã phát triển lên chủ nghĩa tư bản ở phương Tây.
2)Độc lập dân tộc – nội dung cốt lõi của vấn đê dân tộc thuộc địa
và chủ nghĩa yêu nước chân chính – một động lực lớn của đất nước:
Trên cơ sở giải thích những vấn đê vê thuộc địa, Hồ Chí Minh
đã nhấn mạnh vấn đê độc lập dân tộc và chủ nghĩa yêu nước chân
chính.
Bác hết sức trân trọng quyên con người. Người đã tìm hiểu và
tiếp nhận những nhân tố vê quyên con người được nêu trong Tuyên
ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyên và dân
quyên 1791 của Cách Mạng Pháp, như quyên bình đẳng, quyên được
sống, quyên tự do và quyên mưu cầu hạnh phúc. Từ quyên con người,
Hồ Chí minh đã khái quát và nâng cao thành quyên dân tộc: “Tất cả
các dân tộc trên thế giới đêu sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có
quyên sống, quyên sung sướng và quyên tự do”.Trong quan niệm của
Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là một nên độc lập thật sự, hoàn
toàn, gắn với hòa bình, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Độc lập tự do là độc lập tự do thực sự gắn liên với chủ quyên, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ; là đảm bảo quyên tự quyết dân tộc; là đảm
bảo cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc cho dân.
11



Xuất phát từ những giá trị văn hóa truyên thống của dân tộc, từ
thực tiễn rằng ở phương Đông lực lượng sản xuất phát triển chậm,
phân hóa kinh tế không rõ nên phân hóa cơ cấu xã hội – giai cấp
không điển hình, đấu tranh giai cấp không phải là vấn đê nổi bật trong
xã hội phong kiến phương Đông và mặc dù có sự khác biệt vê lợi ích
giai cấp nhưng người dân vẫn chung một cảnh ngộ: mất nước, vì thế
họ có chung lí tưởng: giành độc lập tự do và đoàn kết để xây dựng chủ
nghĩa cộng sản; Bác đã nêu lên nội dung của chủ nghĩa dân tộc chân
chính. Trước hết là nó dựa trên ý chí độc lập, khát vọng tự do và tinh
thần đoàn kết dân tộc. Tiếp đó Bác khẳng định chủ nghĩa dân tộc
thống nhất với chủ nghĩa quốc tế. Cuối cùng Bác nhấn mạnh chủ
nghĩa dân tộc là căn nguyên, cội nguồn sức mạnh dân tộc, là yếu tố
quyết định cho sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam:
“Người ta không thể giúp gì cho người dân An Nam nếu như
không dựa trên động lực vĩ đại, duy nhất trong đời sống xã hội của
họ.”
- Hồ Chí Minh II. Mối quan hệ giữa vấn đê dân tộc và vấn đê giai cấp:
1. Vấn đê dân tộc và vấn đê giai cấp có quan hệ chặt chẽ với
nhau:
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đê dân tộc, đê cao sức mạnh của
chủ nghĩa yêu nước, nhưng Người luôn đứng trên quan điểm giai cấp
để nhận thức và giải quyết vấn đê dân tộc. Sự kết hợp nhuần nhuyễn
vấn đê giai cấp và vấn đê dân tộc của Hồ Chí Minh thể hiện: khẳng
định vai trò của giai cấp công nhân và quyên lãnh đạo duy nhất của
Đảng Cộng Sản trong quá trình Cách Mạng Việt Nam; chủ trương đại
đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nên tảng liên minh công nhân, nông dân
và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng; sử dụng bạo lực cách
mạng của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ

12


thù; thiết lập chính quyên nhà nước của dân, do dân và vì dân; gắn kết
mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
2. Giải phóng dân tộc là vấn đê trên hết, trước hết; độc lập dân
tộc gắn liên với chủ nghĩa xã hội.
Năm 1920, ngay khi quyết định phương hướng giải phóng và
phát triển dân tộc theo con đường của cách mạng vô sản, ở Hồ Chí
Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và
quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của
sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa
phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với
mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Chỉ có xóa bỏ
tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột; thiết lập một nhà nước thực sự của
dân, do dân, vì dân mới bảo đảm cho người lao động có quyên làm
chủ, mới thực hiện được sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội,
giữa độc lập dân tộc với tự do và hạnh phúc của con người.
3. Giải phóng dân tộc tạo tiên đê để giải phóng giai cấp:
Hồ Chí Minh giải quyết vấn đê dân tộc theo quan điểm giai cấp,
nhưng đồng thời đặt vấn đê giai cấp trong vấn đê dân tộc. Giải phóng
dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân là điêu kiện để giải
phóng giai cấp. Vì vậy, lợi ích của giai cấp phải phục tùng lợi ích của
dân tộc.
Tháng 5-1941, Người cùng với Trung ương Đảng khẳng định:
“Trong lúc này quyên lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự
sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không
giải quyết được vấn đê dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự
do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn

chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyên lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn
năm cũng không đòi lại được.”
13


4. Giữ vững độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc
lập của các dân tộc khác:
Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu
tranh cho độc lập của dân tộc Việt Nam, mà còn đấu tranh cho độc lập
của tất cả các dân tộc bị áp bức.
Nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, thực hiện nguyên tắc vê quyên
dân tộc tự quyết, nhưng Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ quốc tế
trong việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới.
Người nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân
Trung Quốc, các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế
quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Lào và Campuchia, đê ra khẩu hiệu:
“giúp bạn là tự giúp mình” và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách
mạng mỗi nước mà đóng góp vào cách mạng chung của thế giới.

14


Tư tưởng Hồ Chí Minh vê vấn đê dân tộc mang tính khoa học và
cách mạng sâu sắc, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và
giai cấp, chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng. Trong thực tiễn công cuộc xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội và bảo
vệ Tổ quốc Xã Hội Chủ Nghĩa hiện nay, việc vận dụng và phát triển
sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh vê mối quan hệ biện chứng giữa vấn
đê dân tộc và vấn đê giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng hết
sức cấp thiết.


15


C. Tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn Việt Nam hiện nay:
1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa:
Ngay từ khi Đảng ra đời (1930) để lãnh đạo cách mạng; trong
cương lĩnh chính trị đầu tiên đã nhất quán chủ trương, đường lối trong
giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc phải xây dựng và phát triển
chế độ dân chủ nhân dân mà mục tiêu cốt lõi của nó là “Độc lập dân
tộc, người cày có ruộng” và thực hiện quyên phổ thông đầu phiếu
trong lĩnh vực chính trị. Khi chuyển sang giai đoạn cách mạng XHCN
dựa trên cơ sở kế thừa nên dân chủ nhân dân đã có, phải tiến hành
ngay việc xây dựng, phát triển nên dân chủ XHCN mà mục tiêu xuyên
suốt là:”Độc lập dân tộc gắn liên với chủ nghĩa xã hội. Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
So với các nước đi theo con đường dân chủ đầy sóng gió, sự
phát triển dân chủ XHCN ở nước ta rất ổn định, có hiệu quả. Nguyên
nhân chính là do Đảng và Nhà nước ta luôn tuân thủ những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm
16


kim chỉ nam cho mọi hành động. Điêu đó được thể hiện ở những mặt
sau đây:
Một là, tư tưởng chiến lược chỉ đạo phát triển nên dân chủ
XHCN là dựa trên lý luận dân chủ của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam làm
nguyên tắc cơ bản.
Hai là, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò độc tôn lãnh đạo

công cuộc phát triển nên dân chủ XHCN ở nước ta.
Ba là, cơ sở kinh tế cho việc xây dựng, phát triển nên dân chủ
XHCN ở nước ta là nên kinh tế hàng hóa nhiêu thành phần phát triển
theo định hướng XHCN và từng bước hoàn thiện tiến lên kinh tế thị
trường XHCN, trong đó kinh tế nhà nước với chế độ công hữu vê tư
liệu sản xuất chủ yếu giữ vai trò chủ đạo.
Bốn là, phương thức thúc đẩy công cuộc phát triển dân chủ
XHCN ở nước ta là lấy dân làm gốc.
Năm là, trọng điểm công cuộc phát triển dân chủ XHCN là
thường xuyên củng cố, phát triển dân chủ trong Đảng, coi dân chủ
trong đảng là “hạt nhân” của dân chủ XHCN và lấy dân chủ trong
Đảng thúc đẩy dân chủ trong toàn xã hội. Từ đó, tạo điêu kiện thuận
lợi cho sự phát triển ngày càng cao dân chủ XHCN ở nước ta, quán
triệt sâu sắc quan điểm dân biết, dân bàn, dân thực hiện, dân kiểm tra.
Dân chủ XHCN ở nước ta vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự phát triển đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy đòi hỏi tất cả
quyên lực nhà nước phải thuộc vê nhân dân. Trong công cuộc đổi mới
đất nước, Đảng ta đã chỉ rõ một trong những nguyên tắc cơ bản để chỉ
đạo đổi mới là xây dựng nên dân chủ XHCN, phát huy quyên làm chủ
tập thể của nhân dân, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
VN xã hội chủ nghĩa. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước ở thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội do đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII
thông qua năm 1991 đã ghi: Dân chủ XHCN là bảo đảm mọi quyên
lực thuộc vê nhân dân. Hiến pháp năm 1992 cũng khẳng định tất cả
17


quyên lực nhà nước thuộc vê nhân dân và phải được thể chế hóa
quyên lực đó bằng pháp luật, được pháp luật bảo hộ. Dân chủ gắn liên
với kỷ luật, kỷ cương và công bằng xã hội đòi hỏi phải được thực hiện

trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trải qua 25 năm đổi mới và 20 năm thực hiện cương lĩnh 1991 nên
dân chủ XHCN ở Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng và
được thế giới thừa nhận.
Để tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở rộng hội nhập quốc tế, phát
triển bên vững, thực hiện thành công mục tiêu “tối thượng” của cách
mạng: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” của
Đảng đê ra, chúng ta phải coi trọng phát triển nên dân chủ XHCN vì
nó là mục tiêu cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đến
lượt nó, nên dân chủ XHCN được phát triển và hoàn thiện lại trở
thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy xã hội không ngừng phát triển. Chủ
nghĩa xã hội ở nước ta từ chỗ chưa chín muồi đến chín muồi, từ chỗ
chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, từ chỗ chưa phát triển đến phát triển.
Quá trình này cần có thời gian và môi trường ổn định, đặc biệt là ổn
định chính trị, xã hội. Muốn duy trì ổn định chính trị, xã hội để tiến
lên phải phát triển nên dân chủ XHCN và lấy đó làm động lực thúc
đẩy sự phát triển toàn diện xã hội từ thấp đến cao.
Bản chất chính trị của giai cấp công nhân đòi hỏi phải dùng
phương pháp dân chủ để quản lý nhà nước, cải tạo xã hội. Nhà nước
XHCN là nhà nước kiểu mới trong tiến trình lịch sử, dân chủ XHCN
là thực hiện quyên nhân dân làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đây là
bản chất tốt đẹp của nhà nước XHCN đã và đang tồn tại, phát triển ở
một số nước trên thế giới, trong đó có nước ta. Vì vậy, đòi hỏi chúng
ta cần tự giác tuân thủ quy tắc dân chủ, xây dựng và kiện toàn thể chế
dân làm chủ, hình thành trật tự dân chủ ổn định, bên vững.
2. Xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân:
18



Với tư cách là đội tiên phong của giai cấp công nhân, là đại biểu
trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động
và của dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ thể lãnh đạo toàn bộ
quá trình cách mạng Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là bộ máy quyên lực của nhân dân, có chức năng định ra
luật pháp và tổ chức quản lý mọi lĩnh vực của đời sống đất nước bằng
luật pháp. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tập hợp các tổ chức chính trị
của nhân dân, đại diện cho lợi ích và vị trí của từng cộng đồng xã hội
khác nhau, tham gia vào công việc bảo vệ lợi ích thiết thực của người
lao động và động viên cộng đồng nỗ lực trong cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lấy liên minh công nông với
đội ngũ trí thức làm nên tảng và là cơ sở chính trị của chính quyên nhà
nước. Giữa các bộ phận của hệ thống chính trị có mối quan hệ gắn bó
chặt chẽ với nhau, và mỗi bộ phận có vai trò riêng của mình. Vai trò
đó thể hiện ở chức năng của từng bộ phận: Đảng lãnh đạo – Nhà nước
quản lý – Nhân dân làm chủ. Nhân dân là người chủ của đất nước.
Nhân dân lập ra bộ máy nhà nước thay mặt mình xây dựng pháp luật
và quản lý đất nước thực hiện quyên làm chủ và bảo vệ lợi ích của
nhân dân. Vì vậy, Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Nhà nước ta được xây dựng trên nguyên tắc tập trung dân chủ.
Vì vậy, để xây dựng bộ máy nhà nước và quản lý có hiệu quả công
cuộc xây dựng xã hội mới cần nhận rõ mối quan hệ giữa dân chủ xã
hội chủ nghĩa với kỷ cương, luật pháp xã hội chủ nghĩa. Những yếu tố
này chẳng những không loại trừ nhau mà còn làm tiên đê cho nhau
hợp thành một chỉnh thể thống nhất và là một tất yếu khách quan của
đời sống xã hội. Quyên làm chủ đó được thực hiện thông qua bộ máy
nhà nước do dân cử ra. Vì vậy, bộ máy này phải lấy dân làm gốc, phải
biết dựa vào dân, trung thành với lợi ích của nhân dân, biết phát huy
trí tuệ của nhân dân, biết tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân
và chịu sự giám sát của nhân dân. Dân chủ là bản chất của các mối

19


quan hệ trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Nên dân chủ xã hội chủ nghĩa
phải đi đôi với luật pháp xã hội chủ nghĩa. Xã hội xã hội chủ nghĩa là
một xã hội được tổ chức trên cơ sở luật pháp. Pháp luật là cái thể hiện
và là cái bảo đảm cho quyên làm chủ của nhân dân lao động và là
công cụ để quản lý xã hội. Thiếu pháp luật sẽ không có dân chủ và
một xã hội càng dân chủ bao nhiêu thì lại càng phải có luật pháp, kỷ
cương và trật tự bấy nhiêu.
Bộ máy của Nhà nước ta gồm có: Quốc hội, Chính phủ, Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp, Tòa án nhân dân các cấp
và Viện kiểm sát nhân dân các cấp. Quốc hội là cơ quan quyên lực nhà
nước cao nhất và là cơ quan duy nhất có quyên lập pháp, cử ra cơ
quan hành pháp, tư pháp và thực hiện việc giám sát theo đúng pháp
luật.
Trong những năm đổi mới vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng
và qua rèn luyện trong thực tiễn quản lý sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, Nhà nước ta đã trưởng thành vê nhiêu mặt, đã thể hiện rõ
bản chất của một Nhà nước pháp quyên của dân, do dân và vì dân. Nổi
bật nhất là những thành tựu vê xây dựng hệ thống pháp luật để quản lý
đất nước, vê xây dựng nên dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhất là dân chủ ở
cơ sở. Hoạt động của Nhà nước thể hiện được tư tưởng lấy dân làm
gốc, biết dựa vào dân, thực hiện việc dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra. Nhà nước cũng đã tích cực đấu tranh chống các tệ nạn xã
hội, xử lý nghiêm minh những vụ việc tiêu cực, tham nhũng.
Những thành tựu, những tiến bộ trên đây đã tạo nên tảng cho
công tác quản lý đất nước. Nhờ vậy, đất nước được ổn định và vê
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội có bước phát triển tốt, đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt, định hướng xã hội

chủ nghĩa được giữ vững. Tuy vậy, vẫn còn hai vấn đê cơ bản sau đây
cần được tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng lên một trình độ
20


mới để đáp ứng kịp thời yêu cầu của sự phát triển của cách mạng
trong tình hình mới: tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao
chất lượng giáo dục và quản lý việc thực hiện pháp luật; chăm lo bồi
dưỡng phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, viên chức nhà nước.
3. Xây dựng nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế – xã hội, trong đó
quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đêu được thực hiện
thông qua thị trường. Vì thế kinh tế thị trường không chỉ là "công
nghệ", là "phương tiện" để phát triển kinh tế – xã hội, mà còn là
những quan hệ kinh tế – xã hội, nó không chỉ bao gồm các yếu tố của
lực lượng sản xuất, mà còn cả một hệ thống quan hệ sản xuất.
Với những định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thì
mục tiêu hàng đầu phát triển kinh tế thị trường ở nước ta được xác
định là giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nên kinh
tế, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để xây dựng cơ
sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội tạo ra sự phát triển năng
động, hiệu quả cao của nên kinh tế, trên cơ sở đó, cải thiện từng bước
đời sống của nhân dân, từng bước thực hiện sự công bằng, bình đẳng
và lành mạnh các quan hệ xã hội. Từ đó sẽ khắc phục được tình trạng
tự túc tự cấp của nên kinh tế, thúc đẩy phân công lao động xã hội phát
triển, mở rộng ngành nghê, tạo việc làm cho người lao động. Áp dụng
khoa học, công nghệ, kỹ thuật mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất
lao động xã hội, tăng số lượng, chủng loại và chất lượng hàng hóa,
dịch vụ. Thúc đẩy tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế
giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ, với các nước trên thế giới.

Động viên mọi nguồn lực trong nước và tranh thủ các nguồn lực bên
ngoài. Phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của mỗi người lao động,
mỗi đơn vị kinh tế, tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của
nên kinh tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bên vững. Đưa
21


nước ta thoát khỏi tình trạng một nước nghèo và kém phát triển, thực
hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
Nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có
ba điểm rất cơ bản là:
Thứ nhất, chế độ đa sở hữu và đa thành phần kinh tế.Nên kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên nhiêu hình thức sở
hữu, như: sở hữu toàn dân mà nhà nước là đại diện chủ sở hữu, sở hữu
tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp, song chế độ sở hữu công
cộng (công hữu, toàn dân) vê tư liệu sản xuất chủ yếu đóng vai trò nên
tảng của nên kinh tế quốc dân. Từ các hình thức sở hữu cơ bản hình
thành nhiêu thành phần kinh tế với các hình thức tổ chức sản xuất,
kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp.Việc thực hiện nhất quán, lâu
dài chính sách phát triển nên kinh tế nhiêu thành phần dựa trên cơ sở
giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa nguồn lực bên trong và bên
ngoài để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả
kinh tế – xã hội, cải thiện đời sống nhân dân.Bên cạnh đó phải chủ
động đổi mới, củng cố và phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể
để chúng trở thành nên tảng của nên kinh tế, có khả năng hướng dẫn
các thành phần kinh tế khác phát triển theo đúng định hướng xã hội
chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước phải được củng cố và phát triển ở các vị
trí then chốt của nên kinh tế, các lĩnh vực dịch vụ xã hội cần thiết cũng
như an ninh – quốc phòng, mà các thành phần kinh tế khác không có

lợi thế hoặc đầu tư không có hiệu quả. Xác lập, củng cố và nâng cao
địa vị làm chủ của người lao động trong nên sản xuất xã hội, thực hiện
công bằng xã hội ngày càng tốt hơn.
Thứ hai, kết hợp nhiều hình thức phân phối, trong đó phân phối
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chính; thực hiện tốt các
chính sách xã hội. Muốn cho nên kinh tế thị trường không ngừng nâng
cao đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các vấn đê xã hội và thực hiện
22


công bằng xã hội, thì Nhà nước phải chủ động thực hiện và điêu tiết
các quan hệ phân phối, cụ thể như:
- Kết hợp vấn đê lợi nhuận với vấn đê xã hội. Mục đích của sự kết hợp
này là vừa bảo đảm cho các chủ thể tham gia kinh tế thị trường có
điêu kiện đua tranh phát huy tài năng và có lợi nhuận cao, vừa tạo
được điêu kiện chính trị – xã hội bình thường cho sự phát triển kinh tế.
- Kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội
và nguyên tắc của kinh tế thị trường, như: phân phối theo lao động,
theo vốn, theo tài năng, phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội… trong đó,
phải làm sao để quan hệ phân phối theo lao động đóng vai trò chủ đạo.
Thừa nhận sự tồn tại của các hình thức thuê mướn lao động, các quan
hệ thị trường sức lao động, nhưng không để chúng biến thành quan hệ
thống trị, dẫn đến tình trạng không kiểm soát được sự phân hóa xã hội
thành hai cực đối lập.
- Nhà nước chủ động điêu tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. Một
mặt, Nhà nước phải có chính sách để giảm bớt khoảng cách chênh
lệch giữa lớp người giàu và lớp người nghèo, không để diễn ra sự
chênh lệch quá mức giữa các vùng, miên, các dân tộc và các tầng lớp
dân cư, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội. Mặt khác, phải có
chính sách, biện pháp bảo vệ thu nhập chính đáng, hợp pháp cho

người giàu, khuyến khích người có tài năng.Trong điêu kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc thực hiện công bằng xã
hội không thể chỉ dựa vào chính sách điêu tiết và phân phối lại thu
nhập của các tầng lớp dân cư, mà còn phải thực hiện tốt các chính
sách phát triển xã hội, nhằm giải quyết hài hòa các mối quan hệ xã
hội, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, phấn đấu vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.Đối
tượng của các chính sách xã hội là toàn thể nhân dân, bởi vậy các
chính sách ấy bao gồm:
23


Chính sách lao động và việc làm là chính sách xã hội cơ bản. Nó
có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nguồn lao động có kiến thức, kỹ năng
và lương tâm nghê nghiệp ngày càng cao, tạo ra nhiêu việc làm mới,
đồng thời sử dụng hiệu quả nguồn lực ấy, giảm dần tỷ lệ thất nghiệp
và thiếu việc làm, vươn tới toàn dụng lao động xã hội. Đó chính là
biện pháp quan trọng để vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa "phát
triển sự phong phú của bản chất con người" trong lao động sáng tạo ra
mọi của cải có giá trị cho bản thân, gia đình và xã hội.
Chính sách xóa đói, giảm nghèo không đơn thuần chỉ là một
chính sách từ thiện, mà là một hệ thống chính sách kinh tế, xã hội, văn
hóa, chính trị và môi trường nhằm tác động trực tiếp và gián tiếp đến
các nguyên nhân cơ bản dẫn đến đói nghèo, tạo cơ hội bình đẳng cho
mọi người. Đó là các chính sách giao quyên sử dụng đất, tạo vốn,
chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, hỗ trợ vê giáo dục và y tế, hỗ trợ xây
dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu, phát huy quyên làm chủ cho người
nghèo và cộng đồng nghèo để giúp họ tự vươn lên thoát nghèo, thu
hẹp dần khoảng cách vê trình độ phát triển, vê thu nhập và mức sống
giữa các tầng lớp dân cư, các thành phần dân tộc, các vùng miên trong

cả nước.
Chính sách an sinh xã hội phải từng bước tạo ra "mạng lưới"
gồm nhiêu tầng, nhiêu lớp, nhiêu hình thức phong phú vê bảo hiểm xã
hội, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội nhằm bảo đảm cuộc sống xứng đáng
cho những người vê hưu, người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn
tật, người gặp rủi ro bất hạnh và đặc biệt là những người có công với
nước.
Chính sách phòng chống các tệ nạn xã hội phải kết hợp sử dụng
nhiêu biện pháp giáo dục, hành chính và pháp luật để giữ vững sự ổn
định, an toàn của một xã hội có kỷ cương; xây dựng lối sống lành
mạnh theo quy phạm đạo đức và chuẩn mực xã hội tiến bộ, văn minh,
24


có tác dụng cảm hóa những người lầm lỗi, tạo điêu kiện cho họ tái hòa
nhập cộng đồng.
Thứ ba, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do
dân, vì dân thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế thị trường dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cơ chế quản lý và vận
hành nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Thực hiện cơ chế đó sẽ bảo đảm tính định hướng, điêu
khiển hướng tới đích xã hội chủ nghĩa của nên kinh tế theo phương
châm: nhà nước điêu tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp.
Cơ chế vận hành nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
thể hiện trên các mặt, như Nhà nước đóng vai trò là "nhân vật trung
tâm" và quản lý kinh tế vĩ mô, thông qua các chức năng:
- Tạo môi trường pháp lý, kinh tế – xã hội ổn định, thuận lợi cho các
chủ thể kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường.
- Định hướng và hướng dẫn sự phát triển kinh tế – xã hội bằng việc

soạn thảo, ban hành các kế hoạch, quy hoạch, các chương trình phát
triển kinh tế – xã hội và các chính sách (đặc biệt là các chính sách tài
chính, tiên tệ, tín dụng) để hướng các chủ thể kinh tế vào thực hiện
các kế hoạch, quy hoạch và các chương trình phát triển kinh tế – xã
hội đã đặt ra.
- Tổ chức là một chức năng quan trọng của quản lý nhà nước vê kinh
tế, nó bao gồm: Nhà nước sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị kinh tế, đặc
biệt là sắp xếp, củng cố các doanh nghiệp nhà nước; phân phối các
khu công nghiệp tập trung, các vùng kinh tế nhằm tạo ra cơ cấu kinh
tế hợp lý, phù hợp với nên kinh tế thị trường; tổ chức lại hệ thống
quản lý, sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước vê kinh tế. Đổi mới
thể chế và thủ tục hành chính. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ,
25


×