Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Chủ nghĩa hiện thực phê phán trong tiểu thuyết Tắt Đèn của Ngô Tất Tố

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.41 KB, 5 trang )

CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC PHÊ PHÁN TRONG
TIỂU THUYẾT “TẮT ĐÈN” CỦA NGÔ TẤT TỐ
I.TÁC GIẢ TÁC PHẨM
1. Tác giả
- Ngô Tất Tố sinh năm 1893 mất năm 1954 ở làng Lộc Hà, tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, Bắc
Ninh (nay là thôn Lộc Hà, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội). sinh ra và lớn lên trong một
gia đình đông anh chị em.
- Từ nhỏ được giáo dục bởi nền Nho học, sau khi lớn lên được tiếp cận thêm chữ Pháp nhưng
vẫn tham gia các kì thi truyền thống của triều đình.
- 1945, Cách Mạng Tháng Tám nổ ra, ông cũng thám gia cách mạng chống Pháp trên mặt trận
báo chí. Ông qua đời ngày 20 tháng 4 năm 1954 tại Yên Thế, Bắc Giang.
- Nhà phê bình Vương Trí Nhàn nhận xét:“Trong khi về mặt tính cách, người ta thấy Ngô Tất Tố
gắn liền với lớp người trưởng thành từ đầu thế kỷ 20 như Phan Kế Bính, Nguyễn Trọng
Thuật, Phạm Duy Tốn... thì tác phẩm của ông lại thường được xếp cạnh các tác phẩm
của Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng (nghĩa là thuộc về một giai đoạn chín đẹp
của thế kỷ này, những năm 30 huy hoàng)”.
2. Tác phẩm
- Ngô Tất Tố từng lên tiếng khi “Tắt đèn” bị 1 báo Pháp nói là sách “bại hoại luân lí”: “Tắt
đèn là một cuốn xã hội tiểu thuyết tả cảnh đau khổ của dân quê, của một người đàn bà nhà quê
An Nam suốt đời sống trong sự nghèo đói và sự ức hiếp của bọn cường hào và người có thế lực
mà lúc nào cũng vẫn hết lòng vì chồng con”.
- Tắt đèn là một trong những tác phẩm văn học tiêu biểu nhất của nhà văn Ngô Tất Tố (tiểu
thuyết, in trên báo Việt nữ năm 1937). Đây là một tác phẩm văn học hiện thực phê phán với nội
dung nói về cuộc sống khốn khổ của tầng lớp nông dân Việt Nam đầu thế kỉ 20 dưới ách đô hộ
của thực dân Pháp.
- Tắt đèn được ba đồng nghiệp nổi tiếng là Vũ Trọng Phụng (1939), Nguyên Hồng (1957),
Nguyễn Tuân (1962) viết lời giới thiệu khi xuất bản và tái bản trong các thời kỳ khác nhau.
II. VÀI NÉT VỀ CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC PHÊ PHÁN
- Có sự mở rộng về phạm vi phản ánh và sự thay đổi về chủ đề, đề tài trên cơ sở vốn sống phong
phú.



- Xây dựng được nhân vật điển hình, tính cách điển hình, hoàn cảnh điển hình ( cho những tầng
lớp khác nhau, xuất thân khác nhau,…)
- Thành công về mặt ngôn ngữ văn học (ngôn ngữ bình dân, mộc mạc, phản ánh đúng hiện thực
đời sống con người.
III. CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC PHÊ PHÁN TRONG TÁC PHẨM “TẮT ĐÈN”
1. “Tắt đèn” vẽ nên một bức tranh xã hội chân thực, điển hình của giai đoạn 1930-1945
- Tác phẩm tố cáo, vạch trần tội ác tàn bạo của chế độ thực dân nửa phong kiến:
+ Những chi tiết về giai cấp thống trị đối lập hoàn toàn với giai cấp bị trị đã được tác giả
miêu tả chi tiết ở đầu tác phẩm:“Dưới bóng tối của rặng tre um tùm, tiếng trâu thở phì phò, tiếng
bò đập đuôi đen đét, xen với tiếng người khạc khúng khắng” bên cạnh “Cảnh tượng điếm tuần
thình lình hiện ra trong ánh lửa lập lòe của chiếc mồi rơm bị thổi. Cạnh giẫy sào, giáo ngả
nghiêng dựng ở giáp tường, một lũ tuần phu lố nhố ngồi trên lớp chiếu quằn quèo. Có người phì
phò thổi mồi. Có người ve ve mồi thuốc và chìa tay chờ đón điếu đóm. Có người há miệng ngáp
dài. Có người đang hai tay dụi mắt. Cũng có người gối đầu trên cái miệng hiệu sừng trâu,
ngoảnh mặt vào vách mà ngáy. Cái điếu cày và cái đóm lửa bị năm, sáu người chuyền tay, chiếu
đi, chiếu lại độ vài ba vòng, ánh lửa lại tắt, trong điếm chỉ còn tiếng nói chuyện rầm rầm”.
Dường như không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại miêu tả một lúc hai hình ảnh của hai giai cấp.
Mọi thứ như đối lập nhau hoàn toàn, nếu như những người nông dân khốn cùng kia phải đứng
chờ một cách khổ sở ở cánh cổng làng thì bọn cường hào lại thảnh thơi thưởng thức những thú
vui sa đọa.
+ Bên cạnh những hình ảnh hưởng lạc của bọn cường hào một chi tiết mà tác giả đã đề
cập đến là “thuế thân”, chế độ chính trị hà khắc đã bóc lột người dân bằng thứ thuế quái gở đó,
khi chị Dậu phải bán chó bán con để chạy tiền nộp sưu cho anh Dậu, bọn quan quyền tàn nhẫn
lại đòi thêm suất sưu của người em anh Dậu đã chết, bọn chúng dùng những lời lẽ trắng trợn
mang danh là thực thi theo nhà nước nhưng thực ra chúng đang bóc lột dã man nhà anh Dậu mặc
dù anh được xếp vào hạng “cùng đinh”:“Chết cũng không trốn được sưu nhà nước! Là vì thằng
em chồng chị mới chết tháng giêng An nam, mà sổ "thông qui" của làng đã làm từ đầu năm tây,
tức là tháng một An nam năm ngoái. Sổ ấy có tên thằng Hợi, lúc ấy nó còn chưa chết, khi đệ lên
tỉnh, tòa Sứ cứ theo số đinh trong sổ mà làm bài chỉ đưa sang sở Kho Bạc, rồi đến kỳ thuế, sở

kho bạc lại cứ theo đúng số thuế ghi trong bài chỉ mà thu. Nó chết tháng giêng, chứ dẫu nó chết
tháng chạp cũng vậy, bài chỉ làm rồi, người ta không có chữa lại bao giờ, "khai tử" hay chẳng
"khai tử" mặc kệ! Bởi thế, bài chỉ làng ta năm nay vẫn không trừ được số sưu của thằng Hợi nhà


chị. Nó chết, vợ con chưa có ông Lý trưởng cứ lấy vào thân nhân, chồng chị không nộp cho nó
thì ai nộp?”
-“Tắt đèn” miêu tả một cách sinh động và chân thực về cuộc sống bị áp bức, bóc lột của người
nông dân giai đoạn này:
+ Bị bóc lột cả về thể xác lẫn tinh thần, vì không có tiền nộp sưu chị Dậu phải dứt ruột
bán cả chó, bán cả con, khi bán bị vợ chồng Nghị Quế ép giá, mặc cả, đối xử với người và vật
như nhau mặc dù gia đình Nghị Quế giàu nứt đố đổ vách nhưng vẫn cò kè vài hào với một gia
đình cùng đinh “Sáng ngày chồng mày nói rằng con bé ấy đã lên bẩy tuổi, xin lấy ba đồng. Cụ
ông tưởng nó nói thật, bằng lòng cho nó hai đồng. Nhưng giờ nghe nói con mày mới có sáu tuổi,
thì tao triết đi một nửa, chỉ cho một đồng thôi. Thuận bán thì về đưa nhau sang đây!”, vợ chồng
Nghị Quế kẻ đánh người xoa chỉ để lấy lời vài hào trong việc trao đổi mua bán mà món hàng ở
đây lại là một con người, rõ ràng, trong cái xã hội thối nát này những kẻ lắm tiền nhiều của lại là
những kẻ có lời nói mang tính quyết định.
+ Cái xã hội thối nát này còn mất hết tính người, khi mà mọi thứ đều bị đồng tiền chi
phối, chỉ vì sưu thuế, giữa con người với nhau có thể đánh đập nhau, hành hạ nhau. Anh Dậu bị
trói, bị cụp kẹp sống dở chết dở mới được tha về nhà, vừa tỉnh lại đã bị làng nước đến nhà đòi
bắt.
+ Bị áp bức đến bước đường cùng, một phản kháng vừa xuất hiện thì lại nhanh chóng bị
dập tắt, bị bắt lên quan trên, vì nghèo khổ, vì thật thà chất phác nên chị Dậu bị các quan dùng
quyền lực của mình hà hiếp, dụ dỗ và đe dọa:“Chị Dậu khúm núm sẽ đi đến chỗ quan Phủ đã
chỉ. quan phủ ghé ngồi vào giường đối mặt với mặt chị Dậu. Sau khi đã thưởng thức cái dung
nhan óng ả của chị gái quê, ngài đứng dậy, đi đến cạnh chị. Cúi xuống, ngài định hôn vào đôi gò
má đỏ bừng. Chị Dậu vội nghiêng mình tránh và chạy ra gần cánh cửa. quan phủ theo sau, ngài
nắm tay chị, lôi lại và ngọt ngào”. Mang danh đi hầu kiện, nhưng chị Dậu bị đối xử chẳng khác
gì một gái bán hoa.

2. Tắt đèn xây dựng nên hình tượng đẹp của người phụ nữ lao động
- Chị Dậu trong tác phẩm là một người mẹ với nỗi lòng đau khổ, xã hội thối nát đẩy con người ta
vào đường cùng cực, ở đây là gia đình chị Dậu, chồng bị bắt tra tấn dã man vì sưu cao thuế nặng,
nguy hiểm đến tính mạng, trước tình cảnh đó chị dậu buộc phải bán đi đứa con gái ruột ngoan
ngoãn, hiền lành, giỏi giang của mình. Nhìn các con khổ cực nhưng hiểu chuyện, lòng chị thêm
thắt lại:“Những sự hiếu thảo, ngoan ngoãn của hai đứa trẻ ngây thơ vô tình lộ ra từ nãy đến giờ,
hình như đều là những lưỡi dao găm cắt từng khúc ruột chị Dậu. Càng nhìn chúng nó, chị càng


nước mắt ngắn dài”, chị Dậu đau đớn trước sự trưởng thành khi còn quá sớm của con khi nghe
cái Tí nói chuyện với em nó:“Tiền bán khoai còn phải để dành đóng sưu cho ông Lý chứ? Dễ
được đem mà mua gạo đấy hẳn?”. Nhìn cảnh con vì đói phải ăn khoai sống để qua cơn đói chị
nghẹn ngào:“Chị Dậu tuy vẫn ngồi im không nói, nhưng ở khóe mắt nước mắt vẫn cứ chan chứa
chảy ra, chừng như không muốn để con thấy sự đau lòng của mình, chị vờ ngoảnh mặt nhìn vào
trong vách”. Giằng xé trong tâm can giữa những câu hỏi ngây thơ đút từng đoạn ruột của con và
hình ảnh chồng đang bị đánh trói, chị đành gạt nước mắt dứt ruột với con:“Thôi, phải tội với
trời, mẹ chịu! Cảnh nhà đã thế, mẹ đành dứt tình với con!”; nghe những lời năn nỉ của cái
tí:“Con van u, con lạy u, con còn bé bỏng, u đừng đem bán con đi, tội nghiệp. U để cho con ở
nhà chơi với em con” chị Dậu lã chã hai hàng nước mắt nói lên nỗi lòng mình với con mong con
sẽ hiểu:“U van con, lạy con, con có thương thầy thương u, thì con cứ đi với u, đừng khóc lóc
nữa, đau ruột u lắm. Công u nuôi con sáu, bẩy năm trời, tốn kém bao nhiêu tiền của! Bây giờ
phải đem con đi bán, u đã chết từng khúc ruột rồi đây con ạ. Nhưng mà tiền sưu không có, thầy
con đau ốm là thế, vẫn bị người ta đánh trói, sưng cả hai tay lên kia... Nếu không bán con, thì
lấy tiền đâu nộp sưu? Ðể cho thầy con khổ sở đến nước nào nữa? Thôi u van con, u lạy con, con
có thương thầy thương u, thì con cứ đi với u!” dù bán con nhưng trong lòng chị luôn nghĩ đến
một điều “còn có ngày nào đem được nó về nữa không?”.
- Tắt đèn gợi lên một hình ảnh người phụ nữ lao động của gia đình với sự đảm đang, tháo vát. Vì
nhà nghèo không nộp đủ tiền sưu nên anh Dậu bị bắt, một mình chị Dậu vừa phải lo cho bầy con
thơ:“Vừa cho con bé này bú, chị vừa lật đật trở vào đón thằng bé kia”;“Một tay bế con bé con,
một tay chị vừa giội nước và vừa kỳ cọ cho thằng bé lớn. Rồi hai tay hai đứa chị ẵm chúng nó

vào trong cái phản cập kênh”, tất tả ngược xuôi để chạy đủ tiền sưu cứu chồng. Chị phải bán
gánh khoai, bán ổ chó, đứt ruột bán cái Tí để có thể đóng sưu cho chồng, vì thấp cổ bé họng bị
cường hào hà hiếp bắt chị phải đóng cả suất sưu của người em chồng đã chết, chị phải vay mượn
rồi đi ở vú cho một lão già để trang trải cuộc sống. Là một người phụ nữ của gia đình, đối với
chồng con chị cũng hết mực thương yêu, chồng bị ốm nặng, bị trói ở giữa trời oi bức, lần nào
đến chị cũng đon đả thăm chồng, hỏi han, khi chồng bị ném về nhà như xác chết chị cũng tận
tình chăm sóc, một tiếng “thầy em..”, hai tiếng “thầy em..” dường như những khó khăn của cuộc
sống càng làm mặn nồng thêm tình cảm của chị dành cho chồng mình.
- Chị Dậu là một người phụ nữ có ý thức sâu sắc về nhân phẩm, một phụ nữ đầy tự trọng, dù phải
điêu đứng vì không có tiền nộp sưu nhưng khi tên tri phủ Tư Ân dùng tiền cám dỗ chị chị đã
thẳng tay ném trả tiền vào mặt ông ta và khi đi làm vú cho cụ Tào, bị sàm sỡ chị vẫn cố gắng
vùng vẫy thoát ra. Chị, một phụ nữ nghèo khổ không vì sức mạnh của đồng tiền mà tha hóa bản


thân, dù sống trong xã hội tối tăm mù mịt nhưng nhân phẩm của chị đủ để soi sáng cho những kẻ
bị đồng tiền và thế lực làm mờ mắt.
- Chị Dậu là một người nông dân nghèo thật thà chất phác nhưng không có nghĩa là một người
cam tâm chịu sự áp bức của cường quyền, mà ngược lại, chị là một phụ nữ lao động với ý chí
kiên cường và sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Trước thái độ của bọn cường hào, sự việc đã đi quá
giới hạn của sự chịu đựng nên để bảo vệ chồng, một phụ nữ như chị đã dám lên tiếng:“chồng tôi
đau ốm, các ông không được phép hành hạ”, “mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem”. Và ý chí
phản kháng chống lại cái ác của chị còn thể hiện ở câu nói mà chị trả lời anh Dậu:“Thà ngồi tù.
Chứ để chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được…”.
IV. NGHỆ THUẬT
- Ngô Tất Tố đã xây dựng nên một nhân vật điển hình trải qua những hoàn cảnh điển hình từ đó
tạo nên tính cách điển hình cho nhân vật nói riêng và người nông dân thời bấy giờ nói chung.
- Tác giả đã thay đổi để đề tài trở nên mới mẻ và khai thác một cách triệt để.
- Tác phẩm có cốt truyện rõ ràng, kết cấu chặt chẽ, lời văn ngắn gọn, ngôn ngữ mộc mạc, bình dị,
gần gũi với đời sống.
V. KẾT LUẬN

- Tắt đèn đã dựng lên một bức tranh xã hội hiện thực sâu sắc điển hình lúc bấy giờ, mâu thuẫn
giai cấp, nông dân bị áp bức bóc lột, chế độ cai trị hà khắc, tàn bạo của giai cấp thống trị.
- Bên cạnh đó, tác phẩm cũng là tấm lòng đồng cảm, xót thương của nhà văn trước những con
người thấp cổ bé họng.



×