Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Chủ nghĩa lãng mạng trong tác phẩm Nửa chừng xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.88 KB, 10 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC......................................................................................................................1
A. TÁC GIẢ, TÁC PHẨM...........................................................................................2
1./ Tác giả:....................................................................................................................2
2./ Tác phẩm:................................................................................................................3
B. BIỂU HIỆN CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN TRONG TÁC PHẨM.........................4
1./ Chống lễ giáo phong kiến.......................................................................................4
2./ Đề cao hạnh phúc cá nhân.......................................................................................7
C. NGHỆ THUẬT.........................................................................................................9
D. KẾT LUẬN...............................................................................................................9

1




A. TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
1./ Tác giả:
*Tiểu sử: Khái Hưng tên thật là Trần Khánh Giư, bút hiệu khác Nhị Linh, sinh năm 1896 tại làng Cổ
Am, phủ Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương. Con trai Tuần phủ Trần Thế Mỹ, và là anh ruột Trần Tiêu. Thuở nhỏ học
chữ nho, rồi theo Tây học (lycée Albert Sarraut, có nơi ghi Paul Bert). Sau khi đậu tú tài Pháp, ban triết, Khái
Hưng dậy ở tư thục Thăng Long, ở đây ông gặp Nhất Linh. Khái Hưng kết hôn với bà Lê Thị Hoà (con tổng đốc
Lê Văn Đính) bút hiệu Nhã Khanh. Gia đình Khái Hưng không có con, Nhất Linh cho con trai là Nguyễn Tường
Triệu làm con nuôi từ nhỏ: Trần Khánh Triệu.
*Sự nghiệp sáng tác:
Khái Hưng viết cho Phong hoá, từ khi tờ báo còn do Phạm Hữu Ninh hiệu trưởng Thăng Long chủ

trương. Năm 1932, Nhất Linh mua lại Phong hoá. 1933, thành lập Tự Lực văn đoàn. 1933, xuất bản Hồn
bướm mơ tiên. 1936, Phong Hoá bị đóng cửa. Ngày Nay, đã ra từ trước, tiếp tục.
1939, Tự lực văn đoàn nghiêng sang đấu tranh chính trị. Nhất Linh lập đảng Hưng Việt, sau đổi thành
Đại Việt dân chính. 1940, Khái Hưng và Hoàng Đạo sang Tàu liên lạc với các đảng cách mệnh khác, cuối năm
trở về nước. 1941, Khái Hưng, Hoàng Đạo và Nguyễn Gia Trí bị Pháp bắt tại Hà Nội, bị đưa lên trại giam Vụ
Bản, Châu Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Thạch Lam và Nguyễn Tường Bách tiếp tục quản trị tờ Ngày Nay. Cuối năm
1941, Ngày Nay bị đóng cửa.
1942 Nhất Linh chạy sang Quảng Châu. Tháng 7/1942, Thạch Lam mất. 1943, Khái Hưng, Hoàng Đạo,
Nguyễn Gia Trí được đưa về quản thúc tại Hà Nội. Nhất Linh ra lệnh sát nhập Đại Việt dân chính vào Việt
Nam quốc dân đảng. Ngày 5/3/45 Ngày Nay tục bản khổ nhỏ: Ngày nay kỷ nguyên mới do Khái Hưng cùng
Nguyễn Tường Bách phụ trách.
19/8/1945 Việt minh lên nắm chính quyền. 2/9/45 thành lập chính phủ lâm thời. Ngày nay kỷ

nguyên mới bị đóng cửa. Tháng 9/1945, Nguyễn Tường Bách và Khái Hưng chủ trương nhật báo Việt Nam
thời báo, đường lối trung lập. Quốc gia và cộng sản tạm thời cộng tác. Tháng 11/45 Nhất Linh về nước.
Tham gia chính phủ liên hiệp, giữ ghế bộ trưởng ngoại giao, cầm đầu phái đoàn dự hội nghị Đà Lạt. Nhưng
ông từ chối chức trưởng phái đoàn đi hội nghị Fontainebleau. Tháng 6/1946, Nhất Linh sang Tàu.
Việt Nam thời báo đổi thành Việt Nam «cơ quan ngôn luận của Việt Nam quốc dân đảng», đối lập với
chính quyền, Khái Hưng, Hoàng Đạo và Nguyễn Tường Bách viết bài đả kích chính sách của Việt Minh. Từ
tháng 2/46, một mình Khái Hưng trách nhiệm cơ quan tuyên truyền của đảng. Hoàng Đạo và Nguyễn Tường
Bách sang Trung Hoa. Khái Hưng tiếp tục viết trên Chính Nghĩa, một cơ quan ngôn luận khác của Việt Nam
quốc dân đảng do Lê Ngọc Chấn chủ trương.
2



Ngày 19/12/1946, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ. Khái Hưng cùng gia đình tản cư về Nam Định. Ông
bị Việt Minh bắt và bị thủ tiêu năm 1947.

2./ Tác phẩm:
Nửa chừng xuân được sáng tác năm 1934, tiểu thuyết của Khái Hưng đăng trên
Phong hóa từ số 36 (3/3/1993) đến số 63 (8/9/1993) của Tự lực văn đoàn và được xuất
bản năm 1934.
*Đề tài: Là tiểu thuyết luận đề tuyên chiến với lễ giáo phong kiến, đòi quyền tự do yêu
đương và hạnh phúc cá nhân.
*Chủ đề: Phê phán lễ giáo phong kiến cổ hủ, lạc hậu và khẳng định quyền tự do hôn nhân
của lớp thanh niên trí thức đang được phát triển về quyền sống và ý thức cá nhân.
*Tóm tắt tác phẩm:

“Nửa chừng xuân” là tiểu thuyết viết về tình yêu của Lộc và Mai. Lộc là con nhà
quan Án giàu có, lại được tiếp xúc với văn hóa phương Tây. Mai là cô gái xuất thân trong
gia đình nho giáo, từ nhỏ được sự dạy dỗ của ông tú Lãm nên rất hiểu biết, Mai có một
người em trai tên Huy đang học trường Bưởi. Mọi việc bắt đầu khi Mai đến thăm em và
luôn mang nặng lời trăn trối của cha trước khi mất là phải dạy cho Huy học hành đàng
hoàng, cô vì muốn chu toàn việc học cho Huy mà nung nấu ý định bán đất, bán nhà. Trên
đường về Mai gặp Lộc và đã chịu ơn anh ta hai mươi đồng, cũng từ đó Lộc đem lòng cảm
mến Mai, anh còn tìm xuống tận nhà Mai ngăn cản cô bán nhà và làm lẽ cho ông Hàn
Thanh. Họ trốn khỏi làng và lên Hà Nôi sống cùng nhau, lúc này Lộc ngõ ý muốn lấy Mai
làm vợ nhưng vấp phải sự chống đối quyết liệt từ mẹ Lộc là bà Án. Bà muốn Lộc lấy một
cô vợ “môn đăng hộ đối” và có thể giúp cho tương lai con bà phát triển. Bà Án đã tìm đủ
mọi cách, thậm chí là dùng cả thủ đoạn để phá vỡ hạnh phúc lứa đôi như cố ý khiến Lộc

nghi ngờ Mai ngoại tình, đứa con trong bụng Mai không phải của anh, đến gặp Mai và nói
Lộc chỉ yêu đương qua đường và sắp làm đám cưới.
Mai quyết tâm ra đi, hy sinh tuổiđang nửa chừng xuân để sinh ra đứa bé, làm tất cả
mọi việc lao động cực nhọc như bán hàng, làm mẫu vẽ, sống cùng với những người lao
động nghèo. Trong sáu năm qua, không lúc nào Mai không nhớ Lộc, cô từ chối tình cảm
của bác sĩ Minh, của họa sĩ Bạch Hải để giữ vẹn tấm lòng. Trong khi đó, vợ Lộc lại chịu
nỗi đau mất đứa con, đồng thời lúc đó mọi hiểu lầm của Lộc về Mai đã được gỡ nút, bà
Án cũng phần nào hối hận, nhưng phần lớn là do bà muốn nhận lại đứa cháu mà bà từng
3


ruồng rẫy sáu năm trước, nên đã bảo Lộc tìm đến Mai có ý nhận lại lại đứa bé. Tuy nhiên,

Lộc vô cùng xấu hổ chỉ xin được tha thứ. Với tính cách mạnh mẽ và bản năng một người
mẹ Mai không đồng ý. Hai con người ấy ngồi cạnh nhau bên lò sưởi và dành cho nhau
những lời khuyên. Mai đã không chấp nhận nối lại tình xưa với anh mà nguyện giữ bóng
hình trong tâm tưởng, vẫn yêu anh dù sống trong sự xa cách khi người con gái chỉ mới
nửa chừng xuân…

B. BIỂU HIỆN CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN TRONG TÁC PHẨM
1./ Chống lễ giáo phong kiến
Mâu thuẫn giữa bà Án và Mai là mâu thuẫn giữa tư tưởng cũ – mới. Đó chính là
xung đột giữa chế độ đại gia đình phong kiến với ái tình tự do.

*Nhân vật Mai:

Mai được tác giả khắc họa hình ảnh một người con gái với ngoại hình “Nước da
trắng xanh, quằng mắt đen sâu hoắm càng làm tăng và rực rỡ long lanh của hai con
ngươi sáng dịu, trong cái mặt trái xoan, má hơi hớp, môi khô khan,chỉ có hai con mắt là
có vẻ hoạt động khác nào như hai ngôi sao lấp lánh sau làn mây mỏng. Thoáng trông cô
có điều tư lự”
Mai xuất thân trong một gia đình Nho học, hiểu biết những giáo điều của Nho giáo,
nên trong hoàn cảnh như thế nào Mai vẫn luôn giữ được những điều đó. Thể hiện qua
những lần hội kiến với bà Án “Bẩm bà lớn, con không dám”…,“thuở nhỏ con có được
học chữ nho và khi thầy con ngồi dạy học ở nhà quan huyện Đông Anh, con cũng có theo
học với các cô quan huyện”. Dù bị bà Án dùng những lời lẽ cay độc và thiếu tôn trọng
vơi mình nhưng Mai luôn giữ được thái độ tôn kín: “bẩm bà lớn bà xét lại cho con được
nhờ, con có phải là người bậy bạ đâu, cha con cũng đổ dạt, nhà con cũng là một nhà đời

đời theo nho giáo”. Tuy nhiên, không phải vì thế mà cô bị rập khuôn những điều cổ hủ,
trong con người Mai xuất hiện những điều mới mẻ chống lại những quan niệm cổ hủ của
người xưa như: “trai năm thê bảy thiếp”, không đi “lấy lẽ”…
Quan niệm tình yêu, hôn nhân của Mai cũng rất tiến bộ, cô là người biết xây dựng,
gìn giữ và bảo vệ hạnh phúc của mình. Với cô, hạnh phúc gia đình xuất phát từ tình yêu
chân chính, từ sự thấu hiểu của hai bên. Còn với “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” thì sẽ làm
đau khổ cả một đời. Điều này thể hiện qua đoạn hội kiến “Không phải con sợ mất, sợ
thiệt gì cho con, nhưng xa anh Lộc thì con không thể sống được. Mà con chắc anh con
4


yêu con như con yêu anh con. Vả lại, bà lớn biết đâu người vợ chưa cưới của anh con yêu

anh con, nhất là anh con thì thực không yêu người ta một chút nào, vì nếu anh con yêu
người ta thì đã chả yêu con. Vậy nếu bà lớn cho phép chúng con lấy nhau, bà lớn sẽ gây
hạnh phúc cho cả ba người, cho anh con, cho con và cho cả con quan Tuần nào đó”.
Mai là một người con gái đầy bản lĩnh, trọng chữ nhân và tín, không chịu lùi bước
trước sự tấn công của bất kỳ thế lực phong kiến nào. Mai là một cô gái mạnh mẽ khôn
ngoan, mạnh mẽ cho nên hai lần đối mặt với bà Án đều làm cho bà bẽ mặt, dồn bà đến
phần đuối lý:
- Lần gặp đầu tiên Mai không chịu nỗi sự hạ thấp của bà Án nên đã ra đi cho dù mình
đang mang thai và cuộc sống khó khăn, nhưng Mai vẫn vượt qua và có được cuộc sống
vui vẻ và ổn định hơn trước.
- Lần gặp thứ hai Mai cho thấy sự kiên quyết hơn trước có lẻ vì trong lòng cô có sự
căm phẩn, sự tủi nhục chồng chất từ nhiều năm trước và với lòng tự cao Mai vượt qua

được chỗ yếu của mình là tình yêu của Lộc và cô. Và cô đã làm cho bà Án phải hạ mình
trước Mai. Khi được nghe những lời muốn nhận cháu và muốn Mai về làm vợ lẽ cho Lộc
thì Mai kiên quyết không đồng ý, cho dù cô và Lộc yêu nhau tha thiết “Bẩm bà lớn nhà con
không có mả mà đi lấy lẽ”, “Thưa cụ, sáu năm trước hình như tôi đã trình cụ biết rằng nhà tôi không có mả đi
lấy lẽ”. Cô đã dùng chữ nghĩa để thoát khỏi sự sỉ nhục của bà Án: “Các bà vợ lẽ bao giờ cũng chỉ có hai đường.
Một là bị áp chế, lúc đó họ như bọn nô lệ hầu hạ. Hai là họ áp chế lấn áp tất cả quyền vợ cả, lúc đó thì họ trở

Cô đề cao lòng thương người và lòng hy sinh hơn luân lý cổ xưa
quy định về phụ nữ phải “tam tòng, tứ đức”.
nên hạng Đắc Kỷ, Bao Tự”.

Một mực không chịu làm lẽ dù cho đó là người mà cô yêu thương vừa biết ơn.

Điều này thể hiện qua câu nói: “thà con chết còn hơn đi lấy lẽ, lương tâm con không cho
con làm những điều vô nhân đạo như thế”. Mai sẵn sàng đánh đổi cuộc đời nửa chừng
xuân cho nó.
Mai hy sinh hạnh phúc của mình mà giúp cho tương lai sau này của người mình
yêu qua việc cô chấp nhận ra đi rời khỏi Lộc sau khi bà Án dùng mưu kế của mình ép
buộc Mai từ bỏ Lộc. Đó chính là sự hy sinh cao cả của Mai.
Tuy trực diện đấu tranh không khoan nhượng chống lễ giáo phong kiến, đòi giải
phóng cá nhân nhưng Mai không bao giờ sống buông thả. Mai là một người phụ nữ giữ
được nét đẹp đạo đức truyền thống với tình yêu thủy chung sắt son.
5



Mai là hiện thân của những tư tưởng mới mạnh mẽ chống lại những định kiến lễ
giáo của xã hội. Với quan niệm của mình, cô đơn thân chống chội với những bất công của
lễ giáo phong kiến. Và cuối cùng, những định kiến đang dồn cô vào ngõ cụt cũng phải
cuối mình khâm phục cho sự hi sinh và ý thức hiện đại khá rõ ràng.
 Sau những lần xung đột, mâu thuẫn, song Mai vẫn giữ cho mình một tâm hồn
trong sáng, thanh cao nhưng cũng không kém phần mạnh mẽ dám chống lại những quan
niệm xưa cũ. Chính điều này là điểm mới trong việc xây dựng hình tượng người phụ nữ
vừa mang những phẩm chất truyền thống của người phụ nữ Việt Nam vừa mang một làn
gió mới của cô gái tân thời trong nền văn học lãng mạn, quyết tâm bảo vệ cái tôi, không
sống theo sụ sắp đặt của người khác.

*Nhân vật bà Án:

Bà Án là một hiện tượng nghệ thuật khá chân thật. Bà trước hết là người có ý thức
đầy đủ sức mạnh của kẻ giàu sang có quyền thế. Đồng thời, bà cũng có ý thức xác lập vai
trò tuyệt đối của mình trong việc lấy vợ cho con. Đối với bà, hôn nhân không thể “là kết
quả của ái tình” mà là phương tiện để “thăng quan tiến chức”, phải là “môn đăng hộ
đối”. Bà Án luôn lên tiếng đề cao nghi lễ cổ, nào là “ngũ luân ngũ thường”, “tam tòng tứ
đức”,… nhưng thực chất bà đã không từ bỏ một thủ đoạn xảo quyệt tàn ác nào để có thể
đạt được mục đích.
Bà Án lừa dối Lộc bằng việc gieo sự ngờ vực vào lòng đa nghi của con mình, bà
nói: “Mẹ còn biết còn biết nhiều chuyện bí mật thế kia nữa. Chẳng hạn trong khi con đi
làm thì ở nhà con, ở cái nhà mà con cho là một tổ uyên ương đã xảy ra chuyện gì ”.
Không chỉ kích thích tính đa nghi của Lộc mà bà còn cho người viết lá thư nặc danh, xây
dựng hiện trường giả để Lộc tin tuyệt đối vào việc Mai ngoại tình.

Mặt khác, bà Án cũng tìm đến nơi ở của hai vợ chồng Mai và Lộc. Lúc thì bà dùng
những lời lẽ ngọt ngào với Mai: “Vậy cô nghe tôi, tôi sẽ cấp vốn cho cô đi tìm một nơi
khác mà tạm ở ít lâu, rồi khi nào nó cưới vợ cả về đã, tôi sẽ cho phép nó cưới cô về làm
lẽ”, bởi vì bà nghĩ rằng: “Làm trai lấy năm lấy bảy” là lẽ thường.  Quan niệm có lẽ đã
không còn phù hợp nữa.
Lúc thì bà tỏ ra thái độ ân hận, hối lỗi về hành động trước đây của mình, bà nói
thẳng: “Tôi lên đây vì là hối hận bắt buộc tôi phải xin lỗi mợ!”, lúc thì bà tỏ ra phỉnh
nịnh: “bà khen ngợi Mai, lấy làm khâm phục lòng hy sinh của Mai, lòng nhẫn nại của
6


Mai, lòng trinh tiết của Mai… Bao lâu sống trong cảnh lầm than mà vẫn giữ được trong

như ngọc trắng như ngà. Bà ví Mai với cây sen mọc trong bùn mà không nhiễm mùi bùn ”,
lúc thì bà tỏ ra cầu xin: “Cô Mai ơi, cô nên thương tôi già yếu… cho tôi được cùng cháu
tôi xum họp”.  Bà Án đánh vào tình cảm của Mai nhưng không có kết quả. Bà Án
chẳng ngại ngần đưa mồi danh lợi ra với Mai, nếu đồng ý trở về với Lộc thì Mai sẽ thành
“bà huyện”. Thế rồi từ tình chuyển sang lý, bà dẫn đến “luân thường đạo lý” nhưng tất cả
đều không mang lại hiệu quả, bà đành dùng đến hạ sách thô bạo trắng trợn đó là tiền bạc:
“Nếu tôi đền ơn cô một nghìn bạc thì cô nghĩ sao”, Mai lại không đồng ý, bà nghĩ có thể
là ít và đành trả hai nghìn. Cuối cùng, mọi việc mà bà Án làm đều không thành.  Bà Án
đã bộc lộ bản chất khinh người hách dịch, không ngoan xảo quyệt.  Thể hiện quan niệm
phong kiến cổ hủ về hôn nhân gia đình.
 Bà Án chính là một nhân vật ích kỷ, độc ác tiêu biểu cho những quan niệm luân lý
cổ hủ vô nhân đạo, chà đạp lên nhân phẩm của con người và quyền sống, quyền hạnh

phúc của lứa đôi yêu nhau.
 Bà Án là người tuy đáng trách, nhưng suy cho cùng bà cũng chỉ vì lo co tương lai
đứa con trai duy nhất. Hơn nữa, bà là người đại diện cho những tư tưởng quá đỗi lạc
hậu, điều đó dường như ăn sâu vào tâm tưởng.
*Kết luận: Qua hai nhân vật bà Án và Mai, thể hiện sự đối lập gay gắt giữa hai
quan niệm sống cũ và mới. Bà Án là biểu tượng của lễ giáo phong kiến và chế độ đại gia
đình. Bà là hiện thân của giai cấp trên trong xã hội phong kiến với những mưu mô, thủ
đoạn, ích kỷ, xảo quyệt, tàn nhẫn cản trở tình yêu, cuộc sống tự do của giới trẻ. Mai chính
là nhân vật có hệ tư tưởng mới, đối lập với nền luân lý cũ. Mai là biểu tượng cho tầng lớp
trí thức mới khao khát về quyền sống cá nhân với lối sống Âu hóa tiến bộ: có quan niệm
về hôn nhân mới mẻ, tự do yêu đương, tự do kết hôn, hạnh phúc gia đình một vợ một
chồng, kiên quyết phản đối và không chấp nhận chế độ đa thê. Mai chính là nhân vật lý

tưởng hóa mà Khái Hưng muốn xây dựng.

2./ Đề cao hạnh phúc cá nhân
*Tình yêu giữa Mai và Lộc: Tình yêu của Mai dành cho Lộc xuất phát từ nhiều tình
cảm khác nhau:
Sự quen biết: lúc nhỏ hai người từng gặp nhau
Lòng biết ơn: Lộc đã cứu giúp Mai không phải làm lẽ ông Hàn Thanh, khỏi bán
7


căn nhà, giúp Huy học hành.
Sự hòa hợp của hai quan niệm sống: hôn nhân hạnh phúc đều xuất phát từ tình yêu

chân chính. Cả hai cùng đấu tranh chống lại các quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi
đó”, “môn đăng hộ đối”,…
Hai tâm hồn tâm đầu ý hợp cùng lãng mạn nhưng không kém phần thực tế. Biết
nghĩ cho những người xung quanh mình. Một lòng thủy chung, son sắt.
 Mai được Khái Hưng lý tưởng hóa đến cuối tác phẩm bằng một đức hạnh cao đẹp.
Chỉ thực sự hạnh phúc khi chung sống với người mình yêu thương. Mai nghĩ đến một
tình yêu không ràng buộc: “sao hai ta lẩn thẩn cứ quanh quẩn mãi trong vòng ái ân,
trong sự sum hợp nhỉ. Ta không yêu nhau ngoài sự sum hợp được ư”.
Về phần Lộc: anh không xứng đáng với sự hy sinh Mai dành cho anh, không tin
tưởng mà vội vàng nghi ngờ tình yêu của Mai. Cuối tác phẩm, Lộc được tác giả lý tưởng
với những viễn vông, xa vời và ảo huyền.
*Tình yêu của Mai với những nhân vật khác:

Với Huy: Mai là một người chị tuyệt vời, giàu đức hy sinh và lòng trắc ẩn. Cô vì em
và tương lai của Huy mà hy sinh tất cả.
Cô Diên: Mai mang lòng biết ơn và thương cảm cho phận đời của cô ta, cô ta như
người bạn tri âm mỗi khi Mai gặp bế tắc.
Với bác sĩ Minh: vừa là ân nhân vừa là người thầm thương cô. Tuy nhiên, cô đã khéo
léo từ chối tình cảm để một lòng với Lộc.
Với họa sĩ Bạch Hải: mong muốn hai người “làm đôi bạn trăm năm” của họa sĩ Bạch
Hải đã bị Mai khước từ tình cảm đó.
 Hạnh phúc cá nhân được tác giả đề cao một cách triệt để. Ở xã hội ngày ấy, có một người phụ nữ
nào không chồng mà có con lại được đón nhận, lại có quyền mưu cầu hạnh phúc cá nhân. Thế nhưng, Khái
Hưng đã làm điều đó, dẹp bỏ cái gọi là phong kiến đi, người phụ nữ mang hệ tư tưởng tiến bộ họ vẫn có thể
hạnh phúc với sự lựa chọn của bản thân mình và có cả quyền lựa chọn người mang đến cho họ hạnh phúc.

Nếu như bản thân họ đủ mạnh mẽ để tạo nên hạnh phúc cho riêng mình, họ có quyền không chọn bất cứ ai
như nhân vật Mai trong tác phẩm.

8


C. NGHỆ THUẬT
Lối kết cấu trong tác phẩm: tác giả đã đi thẳng vào vấn đề thay vì theo quy tắc của những tác phẩm trước.
Mở ra nhiều tuyến nhân vật đan xen nhau, chồng chéo lên nhau tạo ra sự xung đột giữa hai thế lực cũ – mới.
 Kết cấu tâm lý, miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật nhiều hơn chứ không theo trình tự thời gian các sự kiện.

Xây dựng nhân vật đã được Khái Hưng biểu hiện một cách đa

dạng về tính cách, nội tâm,… Những nhân vật ấy thể hiện rõ được hai thế hệ,những cái cũ
– mới. Khái Hưng cho nhân vật bộc lộ bản chất qua hành động và suy nghĩ riêng tư nhất.
Cách biểu hiện nội tâm với những suy nghĩ và triết lí về thân phận đã hiểu rõ hơn về các
nhân vật trong tác phẩm.  Thấy rõ được nhân vật được tác giả lý tưởng hóa.
Kỹ thuật xây dựng nhân vật:

Tình huống và cốt truyện Có sự cách tân và sáng tạo trong việc xây dựng tình huống và
cốt truyện. Tác phẩm là sự kết tinh tổng hợp giữa nghệ thuật tiểu thuyết truyền thống
phương Đông kết hợp nghệ thuật hiện đại phương Tây. Đây còn là cốt truyện đa tuyến. Ở
đây không chỉ kể về tình yêu và đau khổ của Mai và Lộc mà còn là nơi để miêu tả cuộc
sống, số phận của những nhân vật phụ khác.
Nghệ thuật ngôn từ giản dị nhưng thanh tao, bóng bẩy, trong sáng, nhịp nhàng mà

không mất đi vẻ tự nhiên. Đặc biệt là sắc sảo, linh hoạt trong tâm lý đối thoại nhân vật,
nhằm bộc lộ mâu thuẫn giữa tính cách của các nhân vật.
Tư tưởng: Nửa chừng xuân là một cuộc tiến công vào lễ giáo phong kiến, đã khẳng định quyền tự do
hôn nhân của lớp thanh niên tri thức đang được phát triển và quyền sống và ý thức cá nhân.
Nghệ thuật miêu tả: việc miêu tả nội tâm nhân vật, tính cách nhân vật, vẻ đẹp thể chất nhân vật, nhân vật
mang vẻ đẹp thực vừa mang vẻ đẹp lãng mạn,... được Khái Hưng lột tả hết sức tài tình, sâu sắc, tạo ấn
tượng. Đặc biệt việc miêu tả thiên nhiên giàu chất lãng mạn.

D. KẾT LUẬN
Tình yêu chân thành nhưng dưới quan niệm lạc hậu của xã hội (Mẹ Lộc) trở nên cay
đắng như chuyện tình giữa Mai và Lộc, nếu con người ta không chiến thắng được tư
tưởng của bản thân. Tác phẩm như muốn hướng con người đến những lý tưởng mới,

những quan niệm mới.
Người phụ nữ đứng lên chống lại lễ giáo lạc hậu, bảo vệ cái tôi cá nhân, quyết bảo vệ
và đi theo những gì họ cảm thấy hạnh phúc, tình yêu phải kiên định, thấu hiểu và tin
tưởng lẫn nhau. Khái Hưng đã xây dựng một hình mẫu là người phụ nữ hoàn hảo, hội tụ
những đức tính cao đẹp.
9


Qua đó, Khái Hưng thể hiện tư tưởng của mình với những lễ giáo phong kiến đã lạc
hậu, muốn đổi thay, ủng hộ cái mới nhưng chưa đủ mạnh mẽ. Văn chương của ông đậm
chất trữ tình và mềm mại. Tình yêu được nhìn nhận dưới góc độ mới mẻ, hiện đại. Hình
ảnh người phụ nữ được tác giả lý tưởng hóa hoàn toàn.

Khái Hưng đã khá thành công về việc tạo nên hình ảnh người phụ nữ nội tâm sâu sắc,
đan xen giữa cái cũ và mới đương thời. Đó là con người có một khát vọng về cuộc sống
tự do và quyền cá nhân đi tìm hạnh phúc thực sự. Chủ nghĩa lãng mạn xuyên suốt tác
phẩm cho thấy quan niệm về tình yêu và hôn nhân tự do, mong muốn cải tiến xã hội.

10



×